



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61464806
Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo
Đại Học Sư Phạm Hà Nội ***
Đề Cương Ôn Tập
Môn : Triết Học Sinh viên Lớp Mã Sinh Viên lOMoAR cPSD| 61464806
Câu1 : Hãy phân tích các vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của triết học : Là những vấn đề xung quanh mối quan hệ giữ tư duy và tồn tại,
giữa vật chất và ý thức .Ph.Angghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại” -
Bao gồm có hai mặt :
+ Mặt thứ nhất ( Bàn thể luận ) : Trả lời cho câu hỏi giữa ý thức và vật chất , cái nào có trước
, cái nào có sau ? Và cái nào quyết định cái nào ?
+ Mặt thứ hai ( Nhận thức luận ) : Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Giải quyết mặt thứ nhất : Vấn đề cơ bản của triết học đã phân chia thành hai trường phái lớn:
- Chủ nghĩa duy tâm :
+ Cho rằng ý thức , tinh thần là cái có trước , vật chất là cái có sau , thừa nhận sự sáng tạo thế
giới của một lực lượng siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới
+ Liên hệ mật thiết với thế giới quan tôn giáo
+ Chống lại chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên
+ Là thế giới quan giai cấp thống trị và các lực lượng xã hội phản động
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan : Thừa nhận khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : Thừa nhận tính thứ nhất của ý thức từng cá nhân . Khẳng
định mọi sự vật , hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác
• Nhất nguyên luận : Thừa nhận một trong hai thực thể ( vật chất hoặc tinh thần ) là bản
nguyên của thế giới , quyết định sự vận động của thế giới
• Đa nguyên luận : Nhiều nguyên nhân , nhiều nguồn gốc
• Nhị nguyên luận : Giải thích thế giới bằng cả hai bản nguyên vật chất và tinh thần ,
xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể cùng quyết định nguồn gốc và sựu
vận động của thế giới
- Chủ nghĩa duy vật : Được thể hiện dưới ba hình thức
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác : Thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất
vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra tính trực quan , ngây thơ , chất
phác nhưng đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới , không viện đến thần linh ,
thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên
+ Chủ nghĩa suy vật siêu hình : Quan niệm thế giới như một cỗ máy khổng lồ, các bộ phận
biệt lập tĩnh tại. Tuy còn hạn chế về phương pháp luận siêu hình, máy móc nhưng đã chống
lại quan điểm duy tâm và tôn giáo giải thích về thế giới. lOMoAR cPSD| 61464806
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng : Do C. Mác và PH. Ăngghen xây dựng vào những năm 40
của thế kỉ XIX . Được V.I.Lênin phát triển . Khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất
phác thời cổ đại . Đạt tới trình độ duy vật triệt để trong cả tự nhiên và xã hội ; biện chứng
trong nhận thức; là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
Giải quyết mặt thứ hai : Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không ?
- Khả tri luận : Khẳng định con người về nguyên tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật:
những cái mà con người biết về nguyên tắc là phù hợp với chính sự vật. + Ví dụ :
- Bất khả tri luận : Con người không thể hiểu được bản chất thực sự của đối tượng. Các hiểu
biết của con người về tính chất, đặc điểm… của đối tượng mà dù có tính xác thực, cũng
không cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng vì nó không tin cậy + Ví dụ :
- Hoài nghi luận : Nghi ngờ trong việc đánh giá tri thức đã đạt được và cho rằng con người
không thể đạt đến chân lý khách quan.Thừa nhận sự hoài nghi đối với cả kinh thánh và các tín điều tôn giáo. + Ví dụ :
Câu 2 : Định nghĩa vật chất Lênin và ý nghĩa
Khái quát quan niệm :
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại : Các nhà duy vật cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng
cụ thể và xem chúng là khởi nguyên của thế giới , tức là quy vật chất về những vật thể hữu
hình , cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài : Chẳng hạn như nước , lửa , gió , kim ,
mộc , thổ ,hỏa . Một số trường hợp đặc biệt quy vật chất ( không chỉ vật chất mà thế giới )
về những cái trừu tượng như Không , Đạo . Anaximen coi là không khí; Hêraclít coi là lửa
Anaximanđơrơ coi là Apâyrôn. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy thời cổ đại trong
học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơxíp và học trò cuả ông là Đêmôcrít.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII – XVIII : Kế thừa nguyên tử luận cổ đại,
các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất
không phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động không gian và
thời gian. Họ chưa thấy được vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học
của thời kỳ này còn đồng nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng
nhất vật chất với khối lượng, năng lượng.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ( Cuộc khủng hoảng ) : Các phát minh của vật lý học đã
bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính lOMoAR cPSD| 61464806
của vật chất của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Năm 1895, Rơnghen phát hiện
ra tia X là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng
sau khi bức xạ ra hạt Anpha, nguyên tố Urani chuyển thành nguyên tố khác. Năm 1897,
Tôm xơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là một trong những thành
phần tạo nên nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã phát hiện khối lượng của điện tử biến động
và kết quả các thực nghiệm khoa học cho thấy khối lượng của các điện tử tăng lên khi vận
tốc của điện tử tăng.
Phê phán tính siêu hình của chủ nghĩa duy vật, chống lại chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm
về vật chất và để làm rõ quan điểm của triết học của chủ nghĩa Mác về vật chất, trong tác
phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909), V.I.Lênin, nêu định
nghĩa “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Phân tích định nghĩa :
- Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan. Điều này có nghĩa là,
phạm trù vật chất là phạm trù rất rộng, không thể đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể
của nó. Thuộc tính quan trọng của vật chất là thực tại khách quan, tức là tồn tại thực không
phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người → Vật chất tồn tại khách quan và có trước ý thức.
- Được đem lại cho con người trong cảm giác, tức là, vật chất tồn tại thông qua các dạng cụ
thể, tác động lên các giác quan của con người và con người cảm nhận được, nhận biết được
vật chất. Điều này nói lên rằng con người có khả năng nhận thức. Chỉ có những sự vật,
hiện tượng của thực tại khách quan chưa được con người nhận biết biết chứ không có cái không thể biết.
- Được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại độc lập không lệ thuộc
vào cảm giác. Điều này nói lên rằng, cảm giác, ý thức là cái có sau, là tính thứ hai. Vật chất
là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh.
Ý nghĩa của định nghĩa :
- Giải quyết 1 cách đầy đủ và khoa học vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật.
- Bác bỏ thuyết “không thể biết” và khắc phục những thiếu sót của các quan điểm duy vật trước Mác về vật chất.
- Định hướng cho khoa học trong việc tìm kiếm những dạng vật chất mới. lOMoAR cPSD| 61464806
- Cho phép xác định vật chất trong đời sống xã hội – đó là tồn tại xã hội, qua đó tạo lập cơ sở lí
luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử , khắc phục được những hạn chế trong
quan niệm duy tâm về xã hội.
Câu 3 : Hãy phân tích phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Định nghĩa vận động : Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi
sự biến đổi nói chung.Ph.Ăngghen viết “ Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất , - tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất , là một thuộc tính cố hữu của vật chất , - thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ , kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy
- Ví dụ : Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế,
sự giảm sút trong học tập, giảm cân,… Phương thức tồn tại của vật chất :
- Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà nó biểu hiện sự
tồn tại của mình. Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có vận động.
- Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không
thể bị tiêu diệt, mà vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động cũng không
do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Nếu một hình thức vận động nào đó của một sự
vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế, nghĩa là
các hình thức vận động của vật chất chỉ chuyển hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của
vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Vận động đứng im :
- Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không
có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân
bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng
thái đặc biệt của vận động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ
không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận
động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
- Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một
thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng
im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. lOMoAR cPSD| 61464806
- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
Ví dụ : Thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im.
Nhưng chỉ là đứng im trong hình thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền
kinh tế tư nhân hay tiền tệ, chứng khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ
diễn ra trong một thời kì nhất định (1976 - 1986) tuy nhiên trong thời kì này, nội
bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến đổi: nông nghiệp giảm nhẹ, công nghiệp và
thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên của mặt này bù khuyết vào sự giảm đi của
mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều
Hình thức vận động của vật chất :
- Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản:vận động cơ học, vận động lý học, vận động hóa học, vận động
sinh học và vận động xã hội.
+ Vận động cơ học : sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể.
• Ví dụ: Di chuyển trên đường phố khi tham gia giao thông.
+ Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt,điện,...
• Ví dụ : thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.
+ Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp
• Ví dụ : quá trình tạo ra nước
+ Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, ..
• Ví dụ : sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
+ Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… của đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 61464806
• Ví dụ : xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa có giai cấp, sau
đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình thành nhà nước
- Mỗi hình thức vận động nói trên, có trình độ cao thấp khác nhau. Do đó, chúng ta sẽ phạm
sai lầm nếu quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
- Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên hệ, tác động
chuyển hóa qua lại. Thông qua sự liên hệ, chuyển hóa phổ biến của mọi hình thức vận động
trong vũ trụ mà vận động vật chất được bảo toàn. Những dạng vật chất phức tạp như cơ thể
sống, xã hội loài người bao hàm nhiều hình thức vận động trong sự liên hệ tác động qua
lại, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định.
• Ví dụ, trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động cơ học, lý học, hóa học, sinh
học, song hình thức vận động sinh học là hình thức đặc trưng cơ bản quy định sự khác
nhau giữa cơ thể sống với những dạng vật chất khác.
Hình thức tồn tại của vật chất
- Hình thức tồn tại của vật chất là không gian và thời gian
+ Không gian : Là hình thức tồn tại của vật chất về mặt quảng tính ( chiều cao , chiều rộng ,
chiều dài ) tồn tại trong các mối tương quan nhất định ( trước hay sau , trên hay dưới , trái hay
phải …) với những dạng vật chất khác nhau
+ Thời gian : Là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện quá trình biến đổi nhanh hay chậm , kế
tiếp trước và sau của các giai đoạn vận động của một khách thể vật chất nào đó
- Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không ở đâu khác. “Ngoài
không gian và thời gian”. Không gian và thời gian là một thuộc tính khách quan của vật chất,
gắn liền với sự vận động của vật chất.
- Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất
- Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau của vật
chất vận động. Vì vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau đây:
• Tính khách quan : không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất, tồn tại
gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và
thời gian cùng tồn tại khách quan. lOMoAR cPSD| 61464806
• Tính vĩnh cữu : của thời gian và tính vô tận của không gian, những thành
tựu của vật lý học hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càngxác
nhận những tính chất này.
• Tính ba chiều : của không gian và tính một chiều của thời gian, tính ba
chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của
thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai .
Câu 4 : Hãy phân tích vấn đề nguồn gốc của ý thức
Quan điểm về nguồn gốc của ý thức :
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm : Ý thức là nguyên thể đầu tiên , tồn tại vĩnh viễn , là
nguyên nhân sinh thành , chi phối sự tồn tại , biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật suy vật siêu hình : Đối lập với chủ nghĩa duy tâm , chủ
nghĩa duy vật phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức , tinh thần . Mà lại xuất phát từ
thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc của ý thức . Đã đồng nhất ý thức với vật chất , coi ý
thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt , do vật chất sinh ra .
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng : Ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất nhưng
không phải của mọi dạng vật chất mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao nhất là bộ óc người . Nguồn gốc :
- Nguồn gốc tự nhiên :
+ Não người : là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu
cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. Hoạt động ý thức
của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện
hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Tuy
nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôI mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ
óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
+ Phản án: là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Sự phản ánh của vật
chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Phản ánh của vật chất có quá trình
phát triển lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao- tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
+ Các hình thức phản ánh :
• Phản ánh vật lí, hóa học: là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất
vô sinh. Phản ánh vật lí, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lí, hóa, tức lOMoAR cPSD| 61464806
là, thay đổi về kết cấu, vị trí, tính chất lí hóa qua quá trình kết hợp, phân giải các
chất khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức
phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng, chưa có lựa chọn của vật nhận tác động
Ví dụ phản ánh hóa học : 2H2 + O2 -> 2H2O
Ví dụ phản ánh vật lí : Khi đứng trước gương sẽ thấy gương phản chiếu lại hình ảnh của mình
• Phản ánh sinh học: là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên
hữu sinh, tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh. Phản ánh
sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ.
Ví dụ : Hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời mọc
• Phản ánh tâm lí: là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ
là có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều
kiện đối với những tác động của môi trường sống.
Ví dụ : Ta bắt gặp một hành động tốt của một người bạn nhưng lần sau lại
bắt gặp hành động không tốt . Vì vậy mà ta không tin tưởng họ nữa
• Phản ánh ý thức: là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo, chỉ có ở con người.
Đây là sự phản ánh có tính định hướng, chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông
tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của những thông tin đó.
Ví dụ về sự phản ánh sáng tạo của ý thức dựa trên thực tiễn như tác phẩm
Tây Du Kí - 1 tác phẩm hư cấu với những nhân vật hư cấu, tình tiết hư cấu
nhưng được viết dựa trên một câu chuyện có thật về một vị sự đã trải qua
quãng đường cực kỳ dài, gian truân, vất vả để lấy cuốn kinh về truyền dạy
cho người trong quốc gia. Năm thầy trò là sự sáng tạo từ 5 tính cách có thật trong con người.
Như vậy , nguồn gốc tự nhiên là một điều kiện cần -
Nguồn gốc xã hội
+ Lao động : là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên
, tạo ra sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình . + Vai trò : lOMoAR cPSD| 61464806
• Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con
người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
• Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải
bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành
những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người.
• Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới, nhờ lao động mà con người
khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý
thức của mình về thế giới.
Ví dụ :Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về
thiên nhiên: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã
sáng/Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
+ Ngôn ngữ : là phương tiện để giao tiếp , vừa là công cụ để tư duy
• Ngôn ngữ ra đời trở thành “cái vỏ vật chất của tư duy”, thành phương tiện để trao đổi thông tin
• Nhờ ngôn ngữ, con người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng hoá, mới có
thể suy nghĩ,tách khỏi sự vật cảm tính.
• Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được truyền cho người
kia, thế hệ này cho thế hệ khác.
• Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển.
Ví dụ : Ghi lại các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện lịch sử,…
Như vậy , nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động, là thực tiễn xã hội.
Câu 5 : Bản chất và kết câu của ý thức
Quan điểm về bản chất : Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là quá trình phản ánh tích cực , sáng tạo hiện thực khách quan của óc người Chủ
nghĩa Mác Leenin quan niệm :
- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người
- Ý thức là sự phản ánh khách quan một cách chủ động và tích cực
- Ý thức mang bản chất xã hội Phân tích định nghĩa : lOMoAR cPSD| 61464806
- Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan : Bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên
như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, nhu cầu … Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt
hiện thực và nóilên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của
vật chất- là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý
thức không thể hình thành và tồn tại được.
+ Ví dụ : Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo : sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể
tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất
năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện, ở quá trình con người tạo ra
những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát
bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
+ Ví dụ : Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong việc
đáp ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội : Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học, mà
chủ yếu còn của các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng
một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau- theo
các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
+ Ví dụ : Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau đổi mới: tự do buôn bán -
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
+ Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc
các thông tin cần thiết.
+ Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách thể
phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất. lOMoAR cPSD| 61464806
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng. Con người
lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan để thực hiện mục đích.
Ví dụ : Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy nghĩ
cách làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả
Kết cấu của ý thức o Lát cắt ngang :
- Tri thức : là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là
sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Mọi hoạt
động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức
đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện
để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái
gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia
thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào
trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức
khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,… + Ví dụ :
• Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…
• Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
• Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm : là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm
là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những
cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và
phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh,
một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình
cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì
không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và
nông dân nghèo đi theo cách mạng. Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của
con người về đối tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác
nhau, như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
+ Ví dụ : Lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và quân đội
Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. lOMoAR cPSD| 61464806
- Ý chí : Là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một
biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt
động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý
chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người
hướng đến mục đích một cách tự giác; cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân
và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của
ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố tạo nên
sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm
giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
+Ví dụ : Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến
nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi
- Niềm tin : Sự hòa quyện giữ tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn đã tạo nên tính
bền vững của niềm tin thôi thúc con người hoạt động vươn len trong mọi hoàn cảnh . + Ví
dụ : Bệnh nhân bị mắc bệnh ung thư , bệnh nan y ,… Họ đều có niềm tin vào cuộc sống ,
luôn đấu tranh với bệnh tật , đứng lên vượt qua với hoàn cảnh khó khăn … o Lát cắt dọc : - Tự ý thức :
+ Là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình
trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản
thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có
vị trí trong xã hội.Những cảm giác của con người về bản thân mình trên mọi phương diện
giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức được bản
thân mình trong quan hệ với những người khác, trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới.
Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa
vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận
rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
+Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một
giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ sản lOMoAR cPSD| 61464806
xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình
• Ví dụ : Mỗi tối các bạn sinh viên thường sẽ tranh đối nội tâm rằng nên ngồi vào bàn
học vào buổi tối hay đi ra ngoài chơi .
- Tiềm thức : Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của
chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng
đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý
thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và
nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò
quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học.
Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các
hoạt động tư duy thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự
quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một
cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
• Ví dụ : Khi mới tập đi xe đạp ta sẽ thường bị ngã nhưng sau khi quen và thành thạo
ta có thể đi một cách rất tự nhiên .
- Vô thức : là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ
ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên
trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí. Vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong
đời sống và hoạt động của con người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng
căng thẳng không cần thiết khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người
đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức
trong cuộc sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.
• Ví dụ : Đôi khi chúng ta căng thẳng hay sợ hãi thì tay ta sẽ bị run
Câu 6 : Phân tích mối quan hệ phát triển giữa vật chất và ý thức
. Từ đó vận dụng vào trong quá trình biện chứng , học tập và lao
động của chúng ta Lịch sử : lOMoAR cPSD| 61464806
- Chủ nghĩa duy tâm : Tuyệt đối hóa vai trò của ý thức , cho rằng ý thức hoàn toàn quyết định
vật chất , không thấy được vai trò của vật chất đối với ý thức
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình : Tuyệt đối hóa vai trò của vật chất , cho rằng : vật chất quyết
định hoàn toàn ý thức , họ không thấy được tính năng động , sáng tạo và sự tác động trở lại
của ý thức đối với vật chất .
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm : Giữa vật chất và ý thức vừa đối lập với nhau
vừa thống nhất với nhau. Hay nói cách khác sự đối lập giữa vật chất và ý thức vừa có ý nghĩa
tuyệt đối, vừa có ý nghĩa tương đối.
Vật chất quyết định ý thức :
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
• Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ
nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý
thức là cái có sau, là tính thứ hai.
• Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan)
và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
• Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của
ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
• Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
• Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới
vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật
chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
• Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất
thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
• Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể
chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có
sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp lOMoAR cPSD| 61464806
ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất :
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ
thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật
chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có
thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức
không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện
tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động
của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
• Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
• Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại
ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. –
- Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng
lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta chuyển
nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm
nay. Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng
để tác động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.
• Mọi nhận thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất
phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. lOMoAR cPSD| 61464806
• Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều này
đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập,
nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cánhân
với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.
Ví dụ : Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng mọi
chủ trương luôn xuất phát từ thực tế , tôn trọng quy luật khách quan .
Áp dụng vào cuộc sống :
- Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của em phải xuất phát từ
thực tế khách quan. Bản thân em phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến
học tập, cuộc sống của em để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Trong học
tập, em cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu, những yếu tố
thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các
nhiệm vụ giảng viên đề ra.
- Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động,
sáng tạo của ý thức .Em phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi
dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải
tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.Trước mỗi giờ học, em phải chủ động xem trước
giáo trình của ngày hôm đó để đánh dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu.
Trong giờ học em thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn bài học.
Sau giờ học em sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức.
Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các
phong trào của các tổ chức xã hội.
- Thứ ba, em phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ, không
chủ quan trước mọi tình huống. Khi tham gia thảo luận nhóm, em sẽ lắng nghe và tiếp thu
những điều hay mà các thành viên góp ý cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. lOMoAR cPSD| 61464806
Hay khi đăng ký học phần, em không chủ quan vào năng lực của mình mà đăng ký quá nhiều
môn tránh cho bản thân không kham nổi.
- Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, phải tiếp xúc với người đó và lắng
nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó, không thể chủ quan “trông
mặt mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.
Câu 7 : Hãy phân tích nguyên lí mối liên hệ phổ biến ? Rút ra bài
học phương pháp luận ? Vận dụng vào trong cuộc sống và trong học tập ? Khái niệm :
- Mối liên hệ : là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
• Ví dụ: Mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người hay con người với xã hội.
- Mối liên hệ phổ biến : là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều
sự vật và hiện tượng của thế giới.
• Ví dụ: Trong tư duy con người có những mối liên hệ kiến thức cũ và kiến thức mới;
cây tơ hồng; cây tầm gửi sống nhờ; muốn chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
Các quan niệm :
- Quan điểm siêu hình: Các sự vật hiện tượng tồn tại tách rời cô lập nhau, cái này bên cạnh cái
kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc liên hệ lẫn nhau. Nếu có liên hệ thì chỉ là sự hời hợt bề ngoài.
- Quan điểm biện chứng : Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa
liên hệ, qui định và chuyển hóa lẫn nhau.
Tính chất của mối liên hệ phổ biến : lOMoAR cPSD| 61464806 -
Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh mối
liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Liên
hệ là tất yếu, khách quan, vốn có của sự vật hiện tượng.
Ví dụ : Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người
- Tính phổ biến: Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra
ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với
các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ : Không gian và thời gian; sự
vật, hiện tượng; tự nhiên, xã hội, tư duy đều c
• Ví dụ : Gói hút ẩm trong gói bánh có mối liên hệ với môi trường bên ngoài
- Tính đa dạng, phong phú: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh
thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn
của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể
giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
• Ví dụ : Các loại cá,chim,thú đều có quan hệ với nước nhưng cá quan hệ với nước
khác với chim và thú. Cá không thể sống thiếu nước, không có nước thường
xuyên cá không sống được, nhưng các loài chim thú thì lại không sống trong
nước thường xuyên được.
Ý nghĩa phương pháp luận :
- Thứ nhất, từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, ta rút ra được
nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này
yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các
bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng , nhận thức sự vật trong lOMoAR cPSD| 61464806
các mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt của chính sự vật và trong sự tác động giữa các vật
đó với các sự vật khác.
- Thứ hai, phải xem xét sự vật hiện tượng trong mối liên hệ giữa sự vật hiện tượng này với
sự vật hiện tượng khác và môi trường xung quanh, kể cả các mặt, các mối liên hệ trung
gian, gián tiếp.Nguyên tắc này yêu cầu phải biết phân loại từng mối liên hệ, xem xét trọng
tâm, trọng điểm làm nổi bật cái quan trong nhất , cơ bản nhất của sự vật hiên tượng.
- Thứ ba: nguyên tắc lịch sử - cụ thể - phải xem xét sự vật hiện tượng trong không gian, thời
gian nhất định, có nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật hiện tượng trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể , trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
- Thứ tư, nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, chỉ thấy mặt này mà không
thấy mặt khác hoặc chú ý đến rất nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không
thấy bản chất của sự vật hiện tượng, rơi vào thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung. Cần
tránh phiến diện siêu hình và chiết trung ngụy biện.
Áp dụng vào bản thân :
- Khi đã là một sinh viên em phải luôn cố gắng học tập để có thể vận dụng những kiến thức
đó vào cuộc sống của mình
- Không đánh giá một người khi chưa biết hết hay cũng như hiểu hết về họ
Câu 8 : Hãy phân tích nguyên lí về sự phát triển
Các quan niệm :
- Quan niệm siêu hình: phủ nhận sự phát triển,tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật , hiện
tượng.Phát triển là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất
của sự vật. Sự phát triển là quá trình liên tục không trải qua những bước quanh co, phức
tạp. và nguồn gốc của sự phát triển đó nằm ngoài sự vật.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng :
+ Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến
cao , từ đơn giản đến phức tạp , từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật . + Phát
triển là một hiện tượng phổ biến của thế giới vật chất , nó không chỉ là sự thay đổi về lượng
mà còn là sự thay đổi về chất của sự vật , dẫn đến sự hình thành ra cái mới .
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật . Khái niệm :