



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61463864
Câu 1: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến? Ý nghĩa PPL?
Đặt vấn đề: Đây là một trong hai nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó
khẳng định giữa các SVHT trong thế giới luôn tồn tại trong mối liên hệ phổ biến tác động
qua lại lẫn nhau tạo nên sự vận động phát triển không ngừng. Vì vậy việc nghiên cứu và nắm
vững hai nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật có một ý nghĩa rất lớn trong xem xét
cải tạo các SVHT trong hoạt động thực tiễn. a. Khái niệm
Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học, dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các
sự vật hiện tượng với nhau, tồn tại phổ biến trong thế giới.Thế giới thống nhất ở tính vật chất,
nên tất yếu mọi sự vật hiện tượng liên hệ với nhau, tồn tại trong tính quy định lẫn nhau. Tất cả liên hệ với nhau.
b. Nội dung của quy luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
có 3 tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. -
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới có tính khách quan, vì nó
tồntại tất yếu, độc lập với ý thức chủ quan của con người. Sở dĩ mối liên hệ có tính khách
quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Các dạng vật chất (bao gồm sự vật, hiện
tượng) dù có vô vàn, vô kể, nhưng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Có điểm chung ở tính
vật chất tức là chúng có mối liên hệ với nhau về mặt bản chất một cách khách quan.Có những
mối liên hệ rất gần gũi ta có thể nhận thấy ngay. Ví dụ như mối liên hệ giữa con gà và quả
trứng.Nhưng có những mối liên hệ phải suy đến cùng, qua rất nhiều khâu trung gian, ta mới
thấy được. Gần đây, chúng ta hay được nghe về lý thuyết “hiệu ứng cánh bướm”. Lý thuyết
này xuất phát từ quan điểm cho rằng những sự vật, hiện tượng ở rất xa nhau nhưng đều có liên quan đến nhau. -
Mối liên hệ có tính phổ biến, vì nó tồn tại trong tất cả các lĩnh vực, trong mọi sự
vậthiện tượng và trong tất cả các quá trình phát triển của mỗi sự vật hiện tượng. Bất kỳ một
sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên
hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một
thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác. -
Mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú vì nó tồn tại trong những hoàn cảnh,
điềukiện cụ thể nhất định, có tính chất, vai trò, vị trí khác nhau. Sự vật khác nhau, hiện tượng
khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác
nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên
ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.
Liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài. lOMoAR cPSD| 61463864
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, các bộ phận,
các thuộc tính, các mặt khác nhau… trong cùng một sự vật. Nó giữ vai trò quyết định đối với
sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Nhìn chung, nó
không có ý nghĩa quyết định. Mối quan hệ này thường phải thông qua mối liên hệ bên trong để phát huy tác dụng.
Liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên.
Cũng có những tính chất, đặc điểm nêu trên. Ngoài ra, chúng còn có tính đặc thù. Chẳng hạn,
cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong mối quan hệ này, lại là tất nhiên trong mối quan hệ khác.
Liên hệ chủ yếu và thứ yếu; liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
Cách phân loại này nói đến vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
Liên hệ bản chất và không bản chất; liên hệ cơ bản và không cơ bản.
Cách phân loại này nói lên thực chất của mối liên hệ là gì.
Liên hệ bao quát toàn bộ thế giới và liên hệ bao quát một số hoặc một lĩnh vực.
Cách phân loại này vạch ra quy mô của mối liên hệ.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Xuất phát nguyên lý mối quan hệ phổ biến, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần
quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận: -
Quán triệt nguyên tắc toàn diện: nhìn nhận sự việc hiện tượng luôn luôn trong
mốiquan hệ hệ thống của nó, nghĩa là vạch ra các mỗi liên hệ vốn có của sự vật, nhưng phải
có được vai trò, vị trí, tính chất của từng mỗi quan hệ cụ thể đặc biệt là mối quan hệ bản
chất bên trong của sự vật hiện tượng không được cào bằng vì sự vật hiện tượng được biểu
hiện thông qua các mỗi liên hệ và thực chất nhận thức sự vật là nhận thức mỗi liên hệ vốn có của chúng.
Ví dụ: nghiên cứu 1 nước thì đặt nó trong quan hệ với các nước trong khu vực. Xét kết nạp đảng
+ Xét các mặt cấu thành: các phòng ban trong 1 đơn vị….
+ Quá trình phát triển: xét quá trình hoạt động, công tác cá nhân để kết nạp.
+ Xét trong mối liên hệ: Quan hệ xã hội… -
Quán triệt nguyên tắc lịch sử cụ thể: mọi sự vật hiện tượng trong mối liên hệ
phảiđược đặt trong một điều kiện lịch sử cụ thể, trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Liên hệ và vận dụng ở Việt Nam.
1. Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và
quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan
hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội. lOMoAR cPSD| 61463864
Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất vật chất; điều kiện tự
nhiên-môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất
là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng
có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
2. Ý thức xã hội là gì?
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống,
quan điểm, tư tưởng, lý luận v.v nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh
thần giữa con người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội có cấu
trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác nhau (ý thức xã hội thông thường và ý
thức lý luận (khoa học); tâm lý xã hội và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý
thức chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học v.v).
Kết cấu của ý thức xã hội gồm: –
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán v.v
của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp cuộc sống hàng ngày và phản ánh đời sống đó. Quá trình phản ánh này
thường mang tính tự phát, chỉ ghi lại những biểu hiện bề mặt bên ngoài của xã hội. –
Hệ tư tưởng xã hội (hệ tư tưởng) là trình độ cao của ý thức xã hội được hình
thành khi con người đã có được nhận thức sâu sắc hơn các điều kiện sinh hoạt vật chất của
mình; là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính
trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo v.v) kết quả sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội.
Có hai loại hệ tư tưởng là: •
Hệ tư tưởng khoa học- phản ánh chính xác, khách quan tồn tại xã hội; •
Hệ tư tưởng không khoa học- phản ánh sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc tồn tại xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý
thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh
ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là: -
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn
gốc tưtưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn
tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội. -
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất đã thay
đổithì sớm hay muộn ý thức xã hôi cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã
hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biêt rõ trong
lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen. lOMoAR cPSD| 61463864
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên nhân sau đây: - Sự
biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt
động thực tiễn của con người; thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không
phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội
nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. -
Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ
củamột số hình thái xã hội. -
Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người, những giai
cấpnhất định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng
khoa học tiên tiến, có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai,
và có tác dụng tổ chứ chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào
hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật
kinh tế, phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh
hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ
thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội.
Vì vây, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hôi mới phải được tiến hành đồng thời trên
cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội.
Quán triêt nguyên tắc phương pháp luận này luôn trong sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực
của đời sống xã hội tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.
Kết luận: Tóm lại, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là mối quan hệ biện
chứng, ý thức xã hội do tồn tại xã hội, do điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội sinh ra nhưng
nó có tính độc lập tương đối nếu chỉ thấy tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội một cách
đơn giản, máy móc sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường; còn nếu tuyệt đối hóa vai trò
của ý thức xã hội, không thấy vai trò của quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Liên hệ: Vận dụng trong việc xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết. Xây dựng
ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây lOMoAR cPSD| 61463864
dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng ý thức
xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trên cả hai mặt đời sống tinh thần và đời sống
vật chất trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, kèm theo là chống những biểu hiện cản trở sự
nghiệp xây dựng đó (ví dụ của những biểu hiện cản trở như: dao động về lý tưởng, mục tiêu
và con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc...)
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động
tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc
xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được
đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh
hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất
mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tính kế thừa
của ý thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của
xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải phát
huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế
giới quan Mác -xít. Nắm vững nguyên lý về tính kế thừa của ý thức xã hội có một ý nghĩa
quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.
Trong kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn
hóa dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.” CÂU 3:
1.1. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC
1.1.1. Phạm trù thực tiễn của Triết học
Các quan điểm về thực tiễn
Một trong những khuyết điểm chủ yếu của lý luận nhận thức duy vật trước Mác là chưa
thấy hết vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Một số nhà triết học như Ph. Bêcơn, Đ. Diđơrô …đề cao vai trò của thực nghiệm khoa học,
chưa đề cập đến vai trò của các hình thức khác của thực tiễn đối với nhận thức.
G. Hêghen tuy có đề cập đến thực tiễn, nhưng ông không coi thực tiễn là hoạt động vật
chất mà là hoạt động tinh thần.
L. Phoiơbăc chỉ coi lý luận mới là hoạt động đích thực, còn thực tiễn chỉ được ông xem xét
ở khía cạnh biểu hiện bẩn thỉu mà thôi.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận
nhận thức bằng cách đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận nhận thức. lOMoAR cPSD| 61463864
Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ
bản của lý luận về nhận thức” (Lenin toàn tập, tập 18, tr. 167) Thực tiễn là gì
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội - lịch sử của con người
nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân con người . Các hình thức cơ bản của thực
tiễn Hoạt động thực tiễn có 3 hình thức cơ bản:
Lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt động trực tiếp
tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, Là hoạt dộng của con người
trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan
hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng
đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích phục vụ nghiên
cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
1.1.2. Phạm trù lý luận của Triết học
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh những mối liên
hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng
hợp những tri thức về tụ nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Để hình thành lí luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức
kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật hiện tượng. Kết
quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri
thức kinh nghiệm thong thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy
là thành tố của tri thức ở trình độ thấp nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.
Lý luận có nghững cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó, cps thể
phân chia lý luận thành lí luận ngành và lí luận triết học.
Lý luận ngành là ly luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một
ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt động của ngành đó,
như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật…
Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con người, là
thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người.
1.2. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUÂN VÀ THỰC TIỄṆ
1.2.1. Thực tiễn là cơ sở, là đông ḷ ực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luân, ḷ ý luâṇ hình
thành, phát triển sản xuất từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn 1.2.1.1. Thực tiễn là
cơ sở cuả lý luâṇ
Xét môt c ̣ ách trực tiếp những tri thức được khái quát thành lý luân ḷ à kết quả của quá
trình hoạt đông tḥ ực tiễn cuả con người. Thông qua kết quả của hoạt đông tḥ ực tiễn, kể cả
thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tích chất và các mối quan hê ̣ của
các yếu tố, các điều kiên trong c ̣ ác hình thức thực tiễn để hình thành lý luân. Qụ á trình hoạt lOMoAR cPSD| 61463864
đông tḥ ực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh các lý luân đ ̣ ã được khái quát. Măṭ khác,
hoạt đông tḥ ực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mơi đòi hỏi quá trình nhân tḥ
ức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, lý luân đự ợc bổ sung mở rông. Cḥ ính vì vây,
V.I.Lênin ṇ ói: “Nhân tḥ ức lý luân pḥ ải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong
những quan hê tọ àn diên cụ ả nó, trong sự vân độ ng mâu thu ̣ẫn cuả nó tự nó và vì nó”
1.2.1.2. Thực tiễn là đông ḷ ực của lý luâṇ
Hoạt đông c ̣ ủa con người không chỉ là nguông gốc để hoàn thiên c ̣ ác cá nhân mà còn
góp phần hoàn thiên c ̣ ác mối quan hê c ̣ ủa con người với tự nhiên, với xã hôi. Ḷ ý luân đự ợc
vân ḍ ụng làm phương pháp cho hoạt đông tḥ ực tiễn,mang lại lợi ích cho con người càng
kích thích cho con người bám sát thực tiễn khái quát lý luân. Qụ á trình đó diễn ra không
ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luân ng ̣ ày càng đầy đủ, phong phú và sâu
sắc hơn. Nhờ vây họ ạt đông c ̣ ủa con người không bị hạn chế trong không gian và thời gian.
Thông qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy môt ng ̣ ành khoa học mới ra đời – khoa học lý luâṇ
1.2.1.3. Thực tiễn là mục đích của lý luâṇ
Măc ḍ ù lý luân cung c ̣ ấp những tri thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn những
nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu của lý luân ḷ à nâng cao những hoạt
đông c ̣ ủa con người trước hiên tḥ ực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu
cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hôi. Ṭ ự thân lý luân không tḥ ể tạo lên những sản phẩm
đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiên trong họ ạt đông tḥ ực tiễn.
Hoạt đông tḥ ực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hôi theo ṃ ục đích của con người. Đó thực
chất là mục đích của lý luân. Ṭ ức lý luân pḥ ải đáp ứng nhu cầu hoạt đông tḥ ực tiễn của con người
1.2.1.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn khách quan và
được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của
con người. Do đó mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C.
Mác nói: “vấn đề đẻ tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến chân lý của khách
quan không, hoàn toàn không phỉa vẫn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực
tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thông qua lý luận những lý luận đạt đến chân
lý sẽ được bổ sung vào khp tàng chi thức nhân loại, những kết luận chưa phù hợp thực tiễn
thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được
chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu
chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chấn lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến mức toàn
vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, hoạt động,
phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai cấp phát
triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có
thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn
thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I.Leenin cho rằng :“Thực tiễn của con người lặp lOMoAR cPSD| 61463864
đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng logic.
Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên khiến, có một tính chất công lý, chính
vì sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”
1.2.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vân dụng
vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng mục
tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả
năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những rủi ro đã xảy ra,
những hạn chế những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ
giúp con người hoạt động hiện quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng
lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng
liên kết các cá nhân thành cộng đồng tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong
cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán
cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị
đánh đổ bằng lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn mang tính lịch sử, cụ thể. Do đó,
khi vận dụng lý luận chúng ta còn phân tích cụ thể mỗi tính hình cụ thể. Nếu vân dụng lý luận
máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiều sai giá trị của lý luận mà còn làm phương
hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thồng nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của con
người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng nhưng
không phải khôn g có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới hình thức
lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp mà còn định hướng cho hoạt động
thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết
các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những thế lý luận còn định hướng mô
hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết từ lý luận
để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự
báo các diễn biến các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá
trình phát triển đẻ phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu với thực tiễn. Vận dụng
lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều
chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với
thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả có thể không,
hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luân phải do thực tiễn quy định.
Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét
rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận, vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của
tính hiện thực trực tiếp” lOMoAR cPSD| 61463864
Ý NGHĨA CỦA VIỆC VẬN DỤNG TÍNH THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ nghĩa xã
hội của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã
xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây
dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm
sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp... Quán triệt nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy
ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn,
phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan và tính năng động chủ
quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học bởi tri thức
khoa học có được hay không là nhờ ở lòng ham hiểu biết, trí thông minh, ý chí ngược lại nếu
tri thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì nó lại trở thành động lực tăng
thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế khách quan và phát huy nỗ lực chủ
quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự phát triển nhận thức mà còn giúp cho lý
luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để hoạt động
và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ đạo trong công cuộc đổi
mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với tri thức khoa học được trang bị, chúng
ta mới thành công được. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật
sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng`và mục tiêu đúng đắn
phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ phát triển kinh tế chung của
khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, những chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.
3.1 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO VIỆC VẬN DỤNG TÍNH THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN NHẮM PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI
Hiện nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước nghèo trên thế giới,
việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của mỗi người đặc biệt
là phát triển kinh tế . Mục tiêu của chúng ta là phát triển kinh tế đi kèm với công bằng và tiến
bộ xã hội. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới
một cách toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này phải đồng bộ, tuân theo quá trình nhận thức
và tình hình thực tiễn đất nước. Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường nhưng phải dưới sự quản lý của Nhà nước là theo định hướng xã hội chủ lOMoAR cPSD| 61463864
nghĩa. Vì những mục tiêu trên đây, cần thiết phải có một số giải pháp cho phát triển kinh tế tương lai.
Tập trung phát triển kinh tế về chất và lượng. Đầu tư có trọng điểm cho nông nghiệp,
phát triển hình thức nông trại sản xuất của tư nhân hoặc tổ chức nhỏ. Tạo nguồn vốn cho công
nghiệp nhẹ, hiện đại hoá dây chuyền thiết bị. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến lương
thực thực phẩm đưa công nghệ thông tin vào đời sống sản xuất.
Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính cho đất nước bằng các đầu tư cho xuất khẩu
thu lợi nhuận cao và nguồn vốn nhanh. Phát triển công tác thu và nộp thuế, phổ biến bằng
mọi phương tiện thông tin đại chúng. Phát hành trái phiếu Nhà nước theo định kỳ, làm lành
mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, gọi vốn đầu tư nước ngoài bằng cách
mở rộng, nới lỏng chính sách về đầu tư, hệ thống hoá luật đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở kinh
tế thuận lợi và những dự án nhiều tiềm năng.
Giải quyết tốt mọi vấn đề kinh tế xã hội như vấn đề tạo việc làm. Có thể phát triển
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả nông thôn và thành thị để thu hút lao động. Sắp xếp lại
các xí nghiệp quốc doanh, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh trên thị trường và nhà nước bảo
hộ sản xuất trong nước ở một bộ phận nào đó.
Cần đề ra những mục tiêu cho mười, hai mươi năm tới . Những chính sách, chủ trương
lớn phù hợp với thực tiện hoàn cảnh đất nước và xu thế phát triển của thế giới. Điều hành
đúng, có tổ chức cao và chặt chẽ nền kinh tế thị trường, chống mọi biểu hiện nhận thức sai
lầm, lệch lạc làm đi không đúng con đường đã chọn. Vận dụng các quy luật khách quan trong
việc chỉ đạo, tổ chức đề ra những phương hướng, giải pháp kinh tế táo bạo, có cơ sở vứng chắc.
Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, hỗ trợ
vốn cho người nghèo không lấy lãi.
Hạ trần lãi suất tiết kiệm để kích cầu, tiêu thụ trên thị trường mới tăng mạnh, sản xuất
trong nước mới có nhiều điều kiện cạnh tranh, phát triển.
Tạo nguồn cán bộ kinh tế tương lai với những tri thức khoa học và lý luận vững chắc.
Gắn đào tạo với thực hành, đầu tư thiết bị quản lý kinh tế hiện đại để giảng dạy và thực hành
trong các trường kinh tế, xã hội hoá giáo dục và đào tạo.
CÂU 4: Vai trò phương pháp luận của triết học đối với các khoa học chuyên ngành?
1. Thế giới quan và phương pháp luận Khái niệm thế giới quan.
"Thế giới quan" là khái niệm có gốc tiếng Đức "Watanschaung", làn đầu tiên được I.
Canto sử dụng trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán (Kritik der Urteilskraft, 1790)
dùng để chỉ thế giới quan sát được với nghĩa là thế giới trong sự cảm nhận của con người.
Sau đó, Ph. Senling đã bổ sung cho khái niệm này một nội dung quan trọng là, khái niệm thế
giới quan luôn có sẵn trong nó một sơ đồ xác định về thế giới, một sơ đồ mà không cần tới
một sự giải thích lý thuyết nào cả. Chính theo nghĩa này mà Hêghen đã nói đến "thế giới quan lOMoAR cPSD| 61463864
đạo đức", Gớt nói đến "thế giới quan thơ ca", còn L. Rancơ (L. Ranke) nói đến "thế giới quan
tôn giáo". Kể từ đó, khái niệm thế giới quan như cách hiểu ngày nay đã phổ biến trong tất cả
các học phái triết học.
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các quan điểm về thế giới và về vị
thế của con người (bao hàm cả xã hội và nhân loại) trong thế giới đó; tức là hệ thống quan
điểm về mối quan hệ của con người với thế giới và với chính mình.
Với tính cách là quan điểm chung nhất của con người về thế giới, thế giới quan là
phương thức tinh thần - thực tiễn của sự chiếm lĩnh hiện thực. Nó không chỉ là nội dung của
những quan niệm về thế giới mà còn là cách thức tự ý thức của con người, bao gồm cả niềm
tin và giá trị, dạng điều chỉnh quan trọng nhất của hoạt động sống và giao tiếp.
Các thuật ngữ "Bức tranh chung về thế giới", "Cảm nhận về thế giới", "Nhận thức
chung về cuộc đời",... gần gũi với nội hàm của phạm trù thế giới quan.
"Thế giới quan của toàn xã hội thay đổi qua các thời đại được diễn ra dưới tác động
của văn hóa nói chung của các thời đại. Sự thay đổi này không phải là kết quả sự tác động
của riêng mặt này hay mặt khác trong đời sống xã hội, cũng không phải là có nguyên nhân từ
một tư tưởng phổ biến cụ thể nào đó".
Sự định hướng phản ánh thế giới là bản chất của thế giới quan. Thế giới được phản ánh
trước hết là thế giới văn hóa, sau đó mới là thế giới tự nhiên, tự nó.
Kiểu tư duy của mỗi thời kỳ lịch sử thể hiện quan hệ đánh giá của con người với thế
giới trong mỗi thời kỳ. Kiểu tư duy cũng xác định các nguyên tắc chung của sự phát triển lý
luận về thế giới và xác định các giới hạn của tư duy thời đại. Kiểu tư duy luôn không tách rời
thế giới quan, là sản phẩm trực tiếp của thế giới quan; sự phát triển của kiểu tư duy, đến lượt
mình lại làm hoàn thiện hơn chính thế giới quan.
Triết học và triết lý là hạt nhân của thế giới quan, đóng vai trò quan trọng đối với toàn bộ thế giới quan.
Thế giới quan không đơn giản là tổng số của tất cả các quan điểm và quan niệm về thế giới,
mà là những quan niệm chung, vĩ mô, khái quát, định hướng của con người về mối quan hệ
giữa thế giới với con người. Xuyên qua tất cả các quan điểm và quan niệm về thế giới, thế
giới quan định hình và chỉ dẫn nhận thức.
- Kết cấu và những hình thức chủ yếu của thế giới quan
+ Về mặt kết cấu, những thành phần quan trọng cấu thành thế giới quan thường được thừa
nhận (một cách tương đối) gồm:
Những quan điểm và quan niệm sống chủ yếu.
Những lý tưởng lớn và ý chí quy định hành vi. Niềm
tin và những tín ngưỡng cơ bản.
Tình cảm và thái độ chủ yếu.
Những nguyên tắc và khuôn mẫu hoạt động.
• Hệ thống giá trị và những định hướng giá trị cơ bản cho nhận thức và hoạt động thực tiễn. lOMoAR cPSD| 61463864
Nói chung, khi thực hiện chức năng (chức năng thế giới quan) của mình, ở tất cả các
thành phần của nó, thế giới quan luôn có xu hướng giản lược hóa, lý tưởng hóa những dạng
thức phong phú của văn hóa và lịch sử trong đời sống xã hội hiện thực thành những khuôn
mẫu cơ bản để giải thích và định hướng hoạt động. Nói cách khác, những quan điểm sống và
quan niệm sống, những lý tưởng cao đẹp hay ý chí con người, những niềm tin xác tín hay tín
ngưỡng thiêng liêng, những khuynh hướng tình cảm hay kiểu thái độ, những nguyên tắc hành
vi hay khuôn mẫu hoạt động, những hệ giá trị và những định hướng giá trị... luôn được con
người tự định ra cho mình một cách lý tưởng hóa, thành những khuôn mẫu văn hóa điều chỉnh
hành vi. Ý nghĩa to lớn của thế giới quan thể hiện trước hết là ở điểm này.
+ Về mặt loại hình, thế giới quan thường được phân loại thành các hình thức chủ yếu sau:
• Phân loại theo chủ thể của thế giới quan:
Thế giới quan của các tầng lớp, các giai cấp xã hội. Thế giới quan của các cộng đồng xã hội
khác. Thế giới quan của toàn xã hội, hay của một thời kỳlịch sử nào đó của một xã hội. Phân
loại theo trình độ của bản thân thế giới quan: Thế giới quan thường ngày. Thế giới quan huyền
thoại. Thế giới quan tôn giáo. Thế giới quan triết học. Thế giới quan khoa học. Trong nhiều
tài liệu, các loại hình quan trọng nhất của thế giới quan thường được nhắc đến là thế giới quan
tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Thế giới quan chung nhất, phổ
biến nhất, có khả năng được sử dụng trong mọi ngành khoa học là thế giới quan triết học. ●
Triết học thể hiện quan niệm của con người dưới dạng hệ thống các phạm trù, quy luật
đóng vai trò như những bậc thang, những mắt xích trong quá trình nhận thức thế giới. Do vậy,
triết học được coi là trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan.
Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người;
trong đó trị thức của các khoa học cụ thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan
niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết học, với phương thức tư duy
đặc thù đã tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới với tư
cách là một chỉnh thể. Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; triết học giữ
vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi
cộng đồng trong lịch sử.
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc
về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con
người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải
nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình, thế giới bên ngoài và thế giới bên trong của
con người. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế
giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế
giới. Triết học là công cụ lý luận hữu hiệu giúp con người nhìn nhận thế giới xung quanh
cũng như tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống
và lựa chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như vậy, thế giới quan đúng
đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là lOMoAR cPSD| 61463864
tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Thế giới quan tôn giáo cũng là thế giới quan chung nhất, có ý nghĩa rất phổ biến, nhưng
về bản chất là thế giới quan có xu hướng khỏa lấp, che giấu những thiếu hụt không thể bù đắp
của con người, đi ngược với sự vận động khách quan của tri thức khoa học, nên hầu như
không được ứng dụng trong khoa học. Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng
vai trò chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực. Trên thực tế, cũng không ít
nhà khoa học sùng đạo mà vẫn có phát minh, nhưng với những trường hợp này, cần phải giải
thích sự vượt ra ngoài giới hạn của những tín điều bằng những nghiên cứu kỹ lưỡng và sâu
sắc hơn. - Khái niệm phương pháp luận
Phương pháp luận chỉ thực sự được chú ý trong khoa học và trong nền triết học tự
nhiên kể từ thế kỷ XVII khi cuộc cách mạng của giai cấp tư sản đã đạt được những thành tựu
rực rỡ trong văn hóa tinh thần châu Âu. Nhu cầu cần phải thay đổi một cách căn bản những
chỉ dẫn về phương pháp nghiên cứu để chống lại khuynh hướng kinh viện cản trở khoa học
được Ph. Bêcơn đặt ra một cách quyết liệt với cách tiếp cận kinh nghiệm luận để mở đường
cho nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên. Cùng với R. Đềcáctơ, G. Lốccơ và sau đó là I. Cantơ,
G. Phíchtơ, Ph. Senlinh, G.V.Ph. Hêghen... khái niệm phương pháp luận được hiểu như ngày nay.
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về các phương pháp nhận thức và hoạt động thực
tiễn, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng
các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phương pháp luận bao gồm các nguyên
tắc thế giới quan, các nguyên tắc sử dụng phương pháp cho một ngành khoa học, một lĩnh
vực nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phương pháp luận còn là lý luận về bản thân phương pháp.
"Phương pháp luận là hệ thống những nguyên tắc và phương thức tổ chức và triển khai
các hoạt động lý thuyết và thực tiễn, cũng đồng thời là học thuyết về chính hệ thống những
nguyên tắc và phương thức đó".
Với một đối tượng cụ thể, cái đóng vai trò là phương pháp luận cho nhận thức hoặc
cho hoạt động thực tiễn, trước hết là lý luận về phương pháp (định nghĩa nào về phương pháp
luận cũng ghi rõ "phương pháp luận là lý luận về phương pháp"). Lý luận về phương pháp
với tính cách là một thành phần của phương pháp luận, chính là hệ thống các quan điểm, các
nguyên tắc để tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Không nên hiểu lý
luận về phương pháp quá rộng, đến mức coi mọi sự bàn luận lý thuyết về phương pháp đều là phương pháp luận.
Một nội dung quan trọng khác của khái niệm phương pháp luận là các nguyên tắc các
nguyên tắc (có tính chất) thế giới quan để nhận thức, hoạt động thực tiễn và các nguyên tắc
sử dụng phương pháp ở một đối tượng cụ thể.
Phân loại và những hình thức chủ yếu của phương pháp luận lOMoAR cPSD| 61463864
Trong tương quan với các hình thức thế giới quan, việc phân loại phương pháp luận có
phần giản đơn hơn, nhưng giữa các loại phương pháp luận cũng không phải là có sự cách biệt
hoàn toàn và tuyệt đối. Từ những năm 1970, các nhà khoa học đã tương đối thống nhất chia
phương pháp luận thành các loại chủ yếu sau:
-Phương pháp luận triết học.
-Phương pháp luận khoa học chung, bao gồm cả phương pháp luận của các khoa học liên
ngành, đa ngành, xuyên ngành.
- Phương pháp luận của các khoa học cụ thể, chuyên biệt, bao gồm cả phương pháp luậncủa các khoa học giáp ranh.
- Phương pháp luận của các hoạt động nghiên cứu, kỹ thuật, công nghệ chuyên biệt.
Trong so sánh với các phương pháp, phương pháp luận của các khoa học chuyên biệt
là học thuyết dẫn đường đối với việc ứng dụng các phương pháp. Do vậy, nó không phải là
tập hợp giản đơn các phương pháp cụ thể, cũng không phải là một thứ công cụ tách rời các
phương pháp cụ thể. Phương pháp luận có loại có thể sử dụng chung cho một số hoặc toàn
thể các khoa học, nhưng cũng có những phương pháp luận chỉ ứng dụng được cho một ngành,
một khoa học, hoặc một phương thức nghiên cứu. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến
nhất, có khả năng được sử dụng trong mọi ngành khoa học là phương pháp luận triết học.
- Thế giới quan và phương pháp luận triết học trong so sánh với các loại thế giới quanvà phương pháp luận khác
Như đã nói ở trên, thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất, có khả năng được sử dụng
trong mọi ngành khoa học là thế giới quan triết học; phương pháp luận chung nhất, phổ biến
nhất, có khả năng được sử dụng trong mọi ngành khoa học là phương pháp luận triết học.
Sở dĩ có được khả năng như vậy là do triết học với đặc thù của mình có chức năng và
có thể được sử dụng để giải thích và định hướng cho mọi hoạt động của con người, mọi sự
vận động của mọi hiện tượng và sự vật, nhằm tìm ra các bản chất, các thực chất, các nguyên
nhân, và nhằm dự báo, tiên đoán, định hướng chiều hướng vận động của mọi khách thể, đương
nhiên, theo cách mà mỗi triết học giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Việc ứng dụng thế
giới quan và phương pháp luận của triết học nào vào việc lựa chọn phương pháp và vào việc
giải quyết các vấn đề của mỗi khoa học cụ thể là do chủ thể của mỗi nhiệm vụ cụ thể quyết
định. Nhưng các thế giới quan triết học cùng với các phương pháp luận triết học tương ứng
về nguyên tắc, là có khả năng ứng dụng được.
Tuy nhiên, việc ứng dụng các phương pháp luận triết học vào nghiên cứu và triển khai,
vào khám phá và phát minh, nghĩa là vào hoạt động nói chung của các khoa học, luôn tiềm
tàng khả năng dẫn đến sai lầm. Phương pháp luận đúng với nghĩa là phương pháp luận phù
hợp về trình độ khái quát, hợp lôgích cho mọi phương án ứng dụng, và hợp lý về khả năng
gợi mở, về giới hạn để tránh sai lầm... vẫn có thể bị sử dụng một cách không hợp lý, dẫn đến
bế tắc, lạc hướng hoặc sai lầm trong các khoa học cụ thể. Tình trạng hạn chế sử dụng những lOMoAR cPSD| 61463864
thành tựu của sinh học phân tử, cô lập học thuyết Menđen Moócgan những năm 1930 một
phần có nguyên nhân từ đây.
Nhưng nguy hiểm nhất là bản thân thế giới quan và phương pháp luận của một triết
học nào đó ngay từ điểm xuất phát đã sai lầm hoặc không hợp lý cho việc ứng dụng vào một
đối tượng cụ thể. Đó thường là thế giới quan và phương pháp luận của một thứ triết học không
đạt tới khả năng ứng dụng và trình độ khái quát hợp lý, thứ triết học lệch lạc hoặc thiếu một
độ khách quan cần thiết. Tình trạng giả khoa học, ngụy khoa học phần nhiều có nguyên nhân này.
Vấn đề đặt ra với các khoa học cụ thể là ở chỗ, nó không thể lảng tránh thế giới quan
và phương pháp luận. Bằng cách này hay bằng cách khác, các khoa học vẫn phải tự giác hoặc
tự phát chọn lấy cho mình trong các quá trình, các hiện tượng, các hoạt động, thậm chí các
thao tác... một thế giới quan hoặc phương pháp luận nào đó. Có những quá trình sáng tạo và
phát minh đòi hỏi phải ứng dụng thế giới quan và phương pháp luận chuyên biệt, hẹp, chuyên
sâu của khoa học chuyên ngành. Nhưng trong toàn bộ xu hướng vận động của một ngành hay
một khoa học, thậm chí trong một số quá trình sáng tạo và phát minh cụ thể nào đó ở khoa
học chuyên ngành vẫn xuất hiện nhu cầu phả ứng dụng thế giới quan và phương pháp luận
triết học phổ quát, vĩ mô thay cho các phương pháp luận và thế giới quan chuyên biệt, hẹp,
chuyên sâu của khoa học chuyên ngành.
Về nguyên tắc, thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, tức là thế giới quan
và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin có khả năng thỏa mãn tốt nhất những nhu cầu
của hầu hết mọi khoa học chuyên ngành, liên ngành, đa ngành cụ thể. Vì trong thế giới này,
xét cho cùng "mọi cái đều diễn ra một cách biện chứng chứ không phải siêu hình". Chủ động
ứng dụng thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, các khoa học sẽ tránh được
nguy cơ "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh
và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng".
Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của
khoa học cụ thể, qua khái quát các thành tựu của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết
học lại có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể, nó là thế giới
quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học
cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được, cũng như vạch ra phương
hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể. A.Anhxtanh, nhà
vật lý học nổi tiếng của thế kỷ XX, đã nhận xét: “Các khái quát của triết học cần
phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và được
truyền bá rộng rãi, chúng thường ảnh hưởng đến sự phát triển của tư tưởng khoa
học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển của
khoa học; ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho lOMoAR cPSD| 61463864
tôn giáo và cản trở khoa học phát triển. Vào thời cổ đại, khoa học tự nhiên mới bắt đầu
hình thành, triết học tự nhiên (một hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại)
đã trình bày được một bức tranh tổng quát về thế giới, đã có nhiều tư tưởng và dự báo
thiên tài định hướng cho khoa học phát triển. Vào thời Phục hưng và nhất là thời cận
đại, chủ nghĩa duy vật đã phát triển gắn liền với khoa học tự nhiên, đã góp phần tích
cực vào sự phát triển của khoa học tự nhiên, chống lại sự thống trị của giáo hội. Tuy
nhiên vào thời kỳ này, quan điểm “triết học là khoa học của các khóa học” và phương
pháp tư duy siêu hình vẫn giữ vai trò thống trị. Sự phát triển của khoa học vào cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã làm cho quan điểm “triết học là khoa học của các khoa
học” và phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp nữa. Từ đó chủ nghĩa duy
vật biện chứng đã ra đời.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn luôn gắn liền với các
thành tựu của khoa học hiện đại, là sự khái quát các thành tựu khoa học mang lại; đồng
thời, nó lại đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng là thế giới quan và phương pháp luận thật sự khoa học cho các khoa
học cụ thể đánh giá đúng các thành tựu đã đạt được, cũng như xác định đúng phương
hướng và phương pháp trong nghiên cứu. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ đang đạt được nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi sâu sắc
nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, thì
nắm vững thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng càng có ý nghĩa quan
trọng. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể thay thế được các khoa học
khác. Theo yêu cầu của sự phát triển đòi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa triết học
với các khoa học khác.
2. Triết học là cơ sở để giải thích và định hướng nhận thức, hoạt động của các khoa học
- Triết học có vai trò thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự phát triển của khoa học + Triết học sáng
suốt dẫn đường cho khoa học phát minh, sáng chế.
Lịch sử phát triển tri thức nhân loại đã cho thấy rằng, tất cả các phát minh khoa học,
nhất là những phát minh có ý nghĩa vạch thời đại, dù nhà khoa học có thừa nhận hay không,
đều được định hướng hay ảnh hưởng bởi những tư tưởng triết học dẫn đường nào đó. Thuyết
tương đối của A. Anhxtanh, Lý thuyết sinh học phân tử của Menđen - Moócgan, Bản đồ gen
người của Gi.D. Oátxơn (James D. Watson)..., không có ngoại lệ, đều là những phát minh
theo con đường như vậy.
Đối với nhà khoa học cụ thể, vấn đề là ở chỗ tìm kiếm, lựa chọn tư tưởng triết học dẫn
đường. Phạm vi ứng dụng và trình độ khái quát của tư tưởng triết học dẫn đường thường rất
khó nhận biết một cách thật chuẩn xác. Trong những điều kiện như vậy, trực giác, linh cảm...
của nhà khoa học về độ sáng suốt của triết học, có ý nghĩa thành bại. lOMoAR cPSD| 61463864
Triết học duy vật biện chứng được thừa nhận là một dạng triết học vạn năng. Nhưng
kinh nghiệm cho thấy, việc ứng dụng máy móc các chỉ dẫn triết học biện chứng cũng thường
dẫn nhà khoa học đến thất bại.
+ Sự hạn chế trong tư tưởng triết học sẽ dẫn tới cản trở khoa học và hoạt động thực tiễn.
Ở Liên Xô trước đây, sự thiển cận trong cách xem xét lý thuyết Menđen - Moócgan đã
cản trở nhiều phát kiến của các nhà nghiên cứu sinh học và di truyền học. Thời đó, các nghiên
cứu về phỏng sinh học (Bionics) và vận trù học (Operations Research) cũng gặp nhiều khó
khăn khi ứng dụng các phương pháp luận máy móc, cứng nhắc. Ngày nay, các tư tưởng giáo
điều, định kiến về ưu sinh học (Eugenics), về chủ nghĩa châu Âu trung tâm (Eurocentrism),
về chủ nghĩa Sôvanh (Chauvinism)... vẫn còn là những thứ triết học cản trở hoặc làm lệch
hướng sự phát triển của khoa học. Các nhà khoa học bị cầm tù trong các triết học này khó có
thể có những phát kiến hữu ích.
+ Phép biện chứng duy vật là cơ sở phương pháp luận của khoa học hiện đại, là công cụ để
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, định hướng phát triển khoa học.
Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học biện chứng duy vật từ lâu đã
được nhiều nhà khoa học thừa nhận. Ngày nay, triết học này vẫn là một trong các định hướng
triết học sáng suốt đối với sự phát triển các khoa học trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và tư duy. Ở phạm vi phổ quát nhất, khó có thứ triết học nào gần với các quy luật tiến triển
của khoa học như triết học biện chứng duy vật. Tuy nhiên, mặc dù triết học biện chứng duy
vật là công cụ tốt cho mọi nhận thức và phát kiến khoa học, nhưng không phải cứ nắm chắc
triết học này là các khoa học cụ thể có thể đi tới các phát minh. Sự ứng dụng hợp lý, phạm vi
khái quát không vượt quá xa hoặc không quá hạn hợp so với đối tượng khả năng tinh thông
chuyên ngành hẹp của người nghiên cứu và hàng loạt tiền đề khác nữa mới tạo thành tổng thể
các điều kiện cần và đủ cho một phát minh.
Nhiều loại triết học khác cũng có chức năng thế giới quan và phương pháp luận của
mình Tùy theo phạm vi ứng dụng và trình độ khái quát của chúng các nhà khoa học có thể sử
dụng các loại triết học này như là những công cụ dẫn đường cho hoạt động chuyên môn của mình.
Khả năng đi tới thành công phụ thuộc vào tính hợp lý, sáng suốt của sự ứng dụng. -
Phương pháp luận siêu hình cản trở sự phát triển của khoa học
Triết học siêu hình và phương pháp luận cơ học, máy móc trước đây đã được chứng tỏ
là những loại công cụ triết học dẫn nhà khoa học đến ngõ cụt. Ph. Ăngghen đã chỉ ra những
hạn chế không thể khắc phục của phương pháp luận siêu hình đối với các khoa học cụ thể.
Khủng hoảng vật lý học diễn ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là minh chứng thực tế
rất điển hình cho việc ứng dụng không hợp lý loại phương pháp luận này. Ngày nay, với trình
độ hiện đại của khoa học công nghệ, tất cả những gì còn bị cầm tù trong phương pháp luận
này sẽ khó đem lại cho bản thân khoa học công nghệ những đóng góp thực sự. Bởi vậy, chủ
động tránh và đoạn tuyệt triệt để với cách nhìn siêu hình trong sáng tạo, phát minh, lý giải và
hoạt động khoa học là điều mà các nhà khoa học luôn luôn phải đặc biệt chú ý. lOMoAR cPSD| 61463864
3. Nhà khoa học không thể thiếu phương pháp luận triết học sáng suốt dẫn đường - Thiếu
tư duy triết học sáng suốt dẫn đường, nhà khoa học khó có thể xác định tốt những định hướng
nghiên cứu đúng đắn, tối ưu để đi tới những phát minh, sáng chế.
Phát minh sáng chế cho đến nay vẫn được coi là những "hộp đen" với nghĩa là còn
nhiều bí ẩn mà người ta khó có thể giải mã hết được. Tuy vậy, tư duy triết học sáng suốt dẫn
đường là cái không thể không có. Tất nhiên điều này không máy móc đến mức thúc ép nhà
khoa học nào cũng phải cố đi theo một loại triết học được coi là sáng suốt nào đó. Vấn đề là
ở chỗ, trước các tình huống có vấn đề, nhà khoa học thường có thể có nhiều lựa chọn. Triết
học sáng suốt, rất tự nhiên, sẽ mách bảo nhà khoa học và bản thân khoa học đi theo lựa chọn nào.
+ Nhà khoa học đạt tới trình độ cao trong các khoa học chuyên ngành thường là những người
có tư duy triết học sâu sắc.
Ngày nay các nhà khoa học có trình độ cao thường cũng là những người có tư duy triết
học sâu sắc, mặc dù họ có thể không hẳn đã am tường bản thân các học phái triết học hay lịch
sử triết học. Những tri thức khoa học đỉnh cao thường là những tri thức giáp ranh với các
miền tri thức khác, đòi hỏi phải xử lý về phương diện triết học. Bản thân tri thức phương pháp
luận của các ngành khoa học chuyên biệt, tại các vùng giáp ranh, thường không còn đủ bao
quát để dẫn đường cho chính nó. Mẫn cảm triết học trong trường hợp này là phẩm chất cần
phải có của các nhà khoa học cụ thể. Ngày nay, nhắc đến những tên tuổi như E. Morin, A.
Toffler, S. Huntington, S. Hawkin, A. Sen,... người ta thường khó phân biệt đó là các nhà triết
học hay là các nhà khoa học thuộc các chuyên ngành. Các nhà khoa học dù có thái độ thế
nào đi nữa cũng vẫn bị triết học chi phối.
Điều thú vị là không ít nhà khoa học chuyên ngành thường dị ứng với triết học. Thậm
chí có nhiều người ghét bỏ triết học, phủ nhận mọi ảnh hưởng của triết học đến mình. Tuy
thế, với tính cách là một loại tri thức vĩ mô, giải quyết các vấn đề nằm ở ngoại biên và bên
trên của khoa học nên tư duy triết học lại là một thành tố hữu cơ trong tri thức khoa học. Nhà
khoa học không có cách nào tránh được việc giải quyết các quan hệ ngẫu nhiên - tất yếu hay
nhân quả trong ngành khoa học mà họ hoạt động. Nghĩa là, dù yêu thích hay ghét bỏ triết học,
nhà khoa học vẫn bị chi phối bởi triết học. Vấn đề là thứ triết học nào sẽ chi phối nhà khoa
học trong hoạt động của họ, đặc biệt trong những phát minh, sáng tạo. Về điều này, Ph.
Ăngghen trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên đã viết: "Những ai phỉ báng triết học nhiều
nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của những học
thuyết triết học tồi tệ nhất... Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng
vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ
hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết
về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó.
Câu 5. Vai trò của các tri thức khoa học chuyên ngành đối với sự phát triển của triết học? lOMoAR cPSD| 61463864
I- MỐI QUAN HỆ GIỮA KHOA HỌC VỚI TRIẾT HỌC
Các tri thức khoa học và các tư tưởng triết học đã ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Trong
thời cổ đại, triết học và khoa học không tách rời nhau. Nói đúng hơn là do trình độ phát triển
của khoa học hạn chế, những hiểu biết của con người trong các lĩnh vực khác nhau chưa thể
hình thành nên các bộ môn khoa học. Các tri thức đơn lẻ, riêng biệt nằm cạnh nhau được khái
quát trong một khối tri thức chung, phổ quát, được gọi là triết học. Các tri thức, hiểu biết về
tự nhiên, con người và xã hội hoà chung với các tư tưởng triết học về tự nhiên tạo nên triết
học tự nhiên. Triết học tự nhiên là hệ thống các quan điểm về thế giới và những hiểu biết về
các lĩnh vực khác của con người như toán học, thực vật học, động vật học, thiên văn học, y
học, dược học, nhà nước, pháp quyền, v.v.. Triết học tự nhiên lúc bấy giờ mang tính chất duy
vật chất phác, mộc mạc và phép biện chứng tự phát, ngây thơ, phản ánh thế giới một cách
trực quan tạo nên bức tranh chung về thế giới đúng đắn trên những nét lớn, tổng thể.
Các nhà triết học đồng thời là nhà khoa học tự nhiên nên nhờ có quan điểm triết học duy vật
và phương pháp biện chứng họ đã có những phỏng đoán thiên tài về thế giới mà sau này hàng
ngàn năm khoa học hiện đại mới có điều kiện xác nhận. Trong thời kỳ cổ đại, triết học tự
nhiên là nền tảng tư tưởng và khoa học quan trọng không chỉ của thời kỳ lịch sử đó mà còn
đối với toàn bộ lịch sử khoa học và tư tưởng của nhân loại về sau. Trong nó đã chứa đựng
mầm mống của tất cả các tư tưởng, các trường phái và thế giới quan sau này.
Tuy nhiên, do bị hạn chế về trình độ của khoa học nên nhiều mối liên hệ, quan hệ của thế giới
hiện thực chưa được nghiên cứu, thống kê, phân tích trên cơ sở thực nghiệm được thay thế
bằng các suy đoán tư duy của các nhà triết học và khoa học. Do vậy, trong chi tiết các quan
hệ, liên hệ ấy của thế giới trở nên mờ nhạt, không đầy đủ và chứa đựng nhiều sai lần, tư biện
và bịa đặt. Đối với triết học tự nhiên thời cổ đại, thế giới trong chi tiết trở nên không đủ tin
cậy. Về sau khi cả triết học lẫn khoa học đều đã phát triển thì tính chất hai mặt như vậy của
triết học tự nhiên đã bị bác bỏ bởi cả triết học lẫn khoa học.
Từ thời kỳ Phục hưng đặc biệt từ thế kỷ XVII, cả triết học lẫn khoa học có những bước phát
triển cách mạng. Do đòi hỏi của sự phát triển sản xuất, khoa học buộc phải đi vào nghiên cứu
chi tiết, cụ thể để cung cấp nhiều hơn các tri thức về tự nhiên và xã hội. Các ngành khoa học
cụ thể dần dần tách khỏi triết học và hình thành nên các khoa học độc lập. Những ngành đã
có nền tảng phát triển từ thời cổ đại được tách ra đầu tiên: toán học, sau đó là cơ học, rồi đến
vật lý học, hóa học, sinh học, địa chất học, y học, v.v.. Về sau nữa, các ngành khoa học xã hội
cũng tách khỏi triết học và hình thành các bộ môn độc lập: văn học, kinh tế học, lịch sử, xã hội học, v.v..
Sản xuất đã đặt ra cho khoa học nhiệm vụ phải sưu tập, thống kê các tài liệu, miêu tả các sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, phân tích, so sánh trên cơ sở thực nghiệm, thực tế. Tuy vậy, không
thể ngay lập tức có thể đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và xã hội. Các tri thức khoa học lOMoAR cPSD| 61463864
còn rất nhiều thiếu sót và ít ỏi. Do vậy triết học vẫn buộc phải bổ sung những thiếu sót và bù
đắp sự ít ỏi đó bằng các phán đoán suy luận của mình. Tiếp tục truyền thống triết học tự nhiên
thời cổ đại, triết học giai đoạn này cũng tìm cách tổng hợp, thống nhất các khoa học thành
một hệ thống thống nhất và duy nhất. Các nhà triết học và khoa học đều xem triết học là bộ
môn bách khoa về tri thức của nhân loại, là "khoa học của các khoa học".
Theo sự phát triển của cả khoa học lẫn triết học, các ngành khoa học cụ thể ngày càng phân
định rõ đối tượng, phương pháp và hệ thống tri thức của mình, xác định đúng đắn và cụ thể
hơn vị trí của chính nó trong hệ thống tri thức và các ngành khoa học khác. Những phán đoán,
suy luận của triết học không còn chỗ đứng thay thế các Đến đầu thế kỷ XIX, triết học Hêghen
là hệ thống triết học cuối cùng muốn giữ vị trí là "khoa học của các khoa học" đã được thực
tiễn xác nhận là thất bại. Triết học Mác khẳng định rằng, trong giai đoạn hiện đại các triết học
muốn đứng trên các khoa học và thay thế các khoa học cụ thể đều là thừa. Thực tiễn phát
triển của khoa học và triết học hiện đại đã minh chứng điều đó.
Các ngành khoa học nghiên cứu các quy luật riêng trong các lĩnh vực riêng lẻ, cụ thể của thế
giới. Mỗi ngành đều phải xác định một dạng đối tượng, một loại hình quy luật thể hiện một
hình thức vận động của thế giới vật chất. Cơ học nghiên cứu hình thức vận động máy móc,
vận động cơ học của các vật thể trong không gian; vật lý học nghiên cứu các quy luật vận
động của nguyên tử, điện tử, quang tử và các hạt cơ bản của thế giới vật chất; hóa học nghiên
cứu các quy luật phân giải và kết hợp các phân tử và nguyên tố hóa học; sinh học nghiên cứu
các quy luật của sự sống; các khoa học xã hội nghiên cứu sự vận động của các hiện tượng xã
hội trong các phạm vi khác nhau. tri thức như trước đây trong các ngành khoa học cụ thể nữa.
Trong khi đó, thế giới có những quy luật riêng ở các lĩnh vực và phạm vi cụ thể, có những
quy luật chung, phổ biến tác động trong rất nhiều hoặc trong tất cả các lĩnh vực của thế giới.
Triết học nghiên cứu các mối liên hệ, quan hệ, các quy luật chung nhất của thế giới, thể hiện
và tác động trong tất cả các lĩnh vực từ tự nhiên đến xã hội và cả tư duy con người, nó tạo
nên hệ thống tri thức lý luận chung về con người, xã hội và tự nhiên. Đối tượng của triết học
và các ngành khoa học là khác nhau, nhưng giữa chúng có quan hệ khăng khít đặc biệt với
nhau, là điều kiện, tiền đề bổ sung, hỗ trợ nhau. Các khoa học cụ thể muốn nhận thức đúng
các sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực nghiên cứu của mình thì bắt buộc phải dựa trên một nền
tảng thế giới quan đúng đắn. Đồng thời, cũng phải có phương pháp tư duy đúng đắn. Điều đó
có nghĩa rằng các khoa học cụ thể cần đến triết học với tính cách là nền tảng thế giới quan và phương pháp luận.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, các khoa học cụ thể cần đến triết học nhưng sẽ là triết học
nào. Nếu chúng bị chi phối của những triết học không đúng đắn thì những kết luận của chính
các khoa học ấy nhất định sẽ bị sai lầm hoặc rơi vào những mâu thuẫn. Có thể các nhà khoa
học có được những thành tựu xuất sắc do họ có lập trường triết học đúng đắn, nhưng là tự
phát. Thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn sẽ là công cụ sắc bén để các nhà khoa học