


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601688
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
Câu 1: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Tinh hoa văn hóa phương Đông và tinh hoa văn hóa phương Tây
1.1) Tinh hoa văn hóa phương Đông tác động đến sự hình thành TTHCM như thế nào? Liên hệ tới
việc tiếp thu những giá trị văn hóa phương Đông của sinh viên trong giai đoạn hiện tại.
a) Phân tích tinh hoa văn hóa phương Đông tác động đến sự hình thành TTHCM
Hồ Chí Minh tiếp thu các tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Đông: Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo, một số
nhà tư tưởng tiến bộ như CN Tam dân của Tôn Trung Sơn.
Nho giáo: HCM đã thừa kế và phát triển những mặt tích cực của Nho giáo, như: tư tưởng nhân trị và đức trị
để quản lý xã hội, tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức con người,
triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời,v.v… Tuy nhiên, HCM cũng phê phán những mặt
tiêu cực của Nho giáo như: bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao
nghề đọc sách, coi trọng thi cử.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Phật giáo: HCM kế thừa và phát triển tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân, đề cao nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động… Những quan
điểm này được HCM vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì một nước
VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Lão giáo: HCM chú ý kế thừa tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó, hòa đồng với thiên
nhiên, ít lòng ham muốn vật chất, hành động đúng với quy luật của tự nhiên và xã hội
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương Đông như Lão Tử, Mặc
Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như sau này, khi đã trở thành người mác-
xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó
“những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc lập; dân
quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố
tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Kết luận: Cách tiếp thu của HCM: tiếp thu trên tinh thần biện chứng, có chọn lọc, không rập khuôn không
máy móc, vận dụng sáng tạo và phát triển vào điều kiện cụ thể của VN. Ưu điểm được HCM tiếp thu, cương
quyết loại bỏ nhược điểm ra khỏi tư tưởng của mình, đông thời những điểm chưa phù hợp được HCM cải
biến cho phù hợp hơn. Nhiều khái niệm đạo đức nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm từ xưa
đã được sử dụng rộng rãi trở nên quen thuộc với nhân dân. Khi đề cập đến đạo đức mới, Người cũng sử dụng
những khái niệm đó nhưng với nội dung hoàn toàn mới. Trong bài viết Ý kiến về việc làm và xuất bản loại
sách “người tốt, việc tốt”, Hồ Chí Minh cho rằng: “đạo đức ngày nay cao rộng hơn: không phải chỉ có hiếu
với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân”
b) Giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sinh viên trong giai đoạn hiện nay lOMoAR cPSD| 61601688
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng xác định: “Phát triển con người toàn
diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức lOMoAR cPSD| 61601688
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh
CNH, HĐH, hoàn thiện nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, vấn đề giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông, kết hợp học hỏi
những tinh hoa văn hóa nhân loại cần được đặc biệt chú trọng.
Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư duy, lối sống của
sinh viên theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Sinh viên nước ta biết thêm nhiều hơn về phong
tục, tập quán, văn hóa và con người của các quốc gia trên thế giới. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu
và làm chủ các tiến bộ khoa học -kỹ thuật hiện đại, tri thức mới...
Nhận thức được điều đó, sinh viên chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu vốn văn hóa
của mình, có sự trao đổi, sàng lọc cần thiết, có sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phù hợp vào thực tiễn lịch
sử và xã hội cụ thể của dân tộc. Có thể nói, trên cơ sở tỉnh hoa văn hóa nhân loại, sinh viên tiếp thu, tiếp biến
những giá trị bên ngoài để làm giàu có cho chính mình mà còn phải biết đem những giá trị, bản sắc của mình
vốn có để đóng góp xứng đáng vào kho tàng văn hoá của nhân loại, làm cho kho tàng ấy giàu có hơn, phong
phú hơn, cũng là một cách để khẳng định mình trong thế giới rộng lớn.
Bên cạnh đó, cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận và điều chỉnh kịp thời, như: Một số người xa rời
truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc. Không ít người có thái độ ứng xử, biểu hiện tình cảm thái quá
trong các hoạt động giải trí, văn hóa, nghệ thuật; lãng quên, thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca, dòng nhạc cách
mạng, truyền thống, hay là du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực, không phù hợp thuần phong, mỹ tục
của dân tộc. Chính vì thế để đất nước ta vẫn giữ nguyên bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập chứ không hòa
tan thì mỗi sinh viên chúng ta phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần
thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng
đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn
sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh, chủ động, sáng tạo, tiếp thu những
mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại.
1.2) Tinh hoa văn hóa phương Tây tác động đến sự hình thành TTHCM như thế nào? Liên hệ tới việc
tiếp thu những giá trị văn hóa phương Tây của sinh viên trong giai đoạn hiện tại
a) Tinh hoa văn hóa phương Tây
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, HCM đã tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, chú ý đến lý
tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái của Cách mạng Pháp (1789). Người đã kế thừa và phát triển những quan
điểm nhân quyền, dân quyền và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân
tộc. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, sau khi nêu rõ tinh thần của bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của
Mỹ, từ đấy Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm của mình: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” Người còn trích dẫn Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 và khẳng định: “đó là những lẽ phải k ai chối cãi
được”. Người lên án: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái,
đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái với nhân đạo và chính nghĩa”.
Trong thời gian HCM sống và hoạt động ở phương Tây, bằng sự hiểu biết nhiều ngoại ngữ như Mỹ, Anh,
Pháp, Nga, Trung Quốc, Người đã tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng của các nhà khai sáng Pháp như: Vonte,
Rotxô, Môngtétxkiơ, tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn TQ,…. HCM còn tham gia các hoạt
động chính trị, nghiên cứu lý luận, kinh tế, văn hóa, v.v.. đồng thời tiếp thu tư tưởng của Thiên Chúa giáo
trong quá trình hình thành tư tưởng của mình, tiêu biểu nhất là tinh thần bác ái, yêu thương con người.
Trong tư tưởng của mình, HCM kế thừa và phát triển một số nội dung chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn. Người chủ trương xây dựng một nước VN Dân chủ Cộng hòa phải là một nước “độc lập, tự do, hạnh lOMoAR cPSD| 61601688
phúc”. Người không sao chép, không phỏng theo chủ nghĩa Tam dân mà thận trọng lọc ra, bảo tồn và phát
triển hạt nhân dân chủ cách mạng của Tôn Trung Sơn nhào nặn với thực tiễn VN, dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác Lênin hình thành tư tưởng của Người mang bản chất dân tộc, phản ánh quy luật phát triển của lịch sử.
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây một cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó
một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
b) Liên hệ với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây trong giai đoạn hiện nay
Giá trị văn hóa phương Tây là những điều tốt đẹp, tiến bộ văn minh mà người dân phương Tây đạt được.
Giá trị nhân văn: mưu cầu hạnh phúc, hướng tới xã hội công bằng, văn minh. Giá trị tư tưởng: tư tưởng chính
trị là dân chủ, pháp quyền, các giá trị đạo đức.
Việc tiếp nhận văn hóa phương Tây có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sinh viên, làm tăng kiến thức, vốn
văn hóa của nhân dân. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, con người Việt Nam phát
triển toàn diện phải là con nguời có văn hóa, thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, có năng lực tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho kho tàng đó giài có hơn, phong phú hơn, cũng là một cách để khẳng
định mình trong thế giới rộng lớn.
Vận dụng thực hành các gía trị văn hóa phương Tây trong đời sống học tập và làm việc:
- Làm giàu vốn tri thức, kết hợp yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại, phù hợp với các giá trị truyền thống
dân tộc, thích nghi với quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa.
-Học được cách tiếp thu văn hóa một cách có chọn lọc: có những điểm hạn chế trong qúa trình tiếp thu văn
hóa phương Tây như một bộ phận sinh viên xa rời truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc trong việc hội
nhập, tiếp thu văn hóa du nhập những văn hóa tiêu cực, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Do đó trong quá trình tiếp thu giá trị văn hóa phương Tây mỗi sinh viên cần phải tự mình phấn đấu rèn luyện
tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng tri thức cần thiết và không ngừng nâng cao trình độ, nỗ lực rèn luyện
vì lợi ích chung của cộng đồng và chính sự phát triển của bản thân.
Khi đã nhận thức được những giá trị trong văn hóa phương Tây, cần có sự tiếp thu một cách có chọn lọc,
biết tận dụng những điều tốt, loại bỏ những điều chưa tốt, đồng thời kết hợp hài hòa với truyền thống văn hóa dân tộc ta.
Câu 2: Quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc
Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền của con người - “những quyền mà không ai có thể xâm
phạm được” đã được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị thiêng
liêng, bất biến về quyền dân tộc” Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do....Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”
Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong thư
gửi tới Liên hợp quốc năm 1946 Người đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong
muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp xâm lược VN lOMoAR cPSD| 61601688
lần 2, Người ra lời kêu gọi vang dậy núi sông: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu đất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh
ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát
nền độc lập, tự do trên thế giới” Khộng có gì quý hơn độc lập tự do”.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no,áo ấm và hạnh phúc của Nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh giá cao học thuyết “Tam
dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Hồ
Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó
là lẽ phải không ai chối cãi được”. Người nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của Nhân dân. Ngay sau thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong hoàn cảnh Nhân dân đói rét, mù chữ, v.v.., HCM yêu cầu: “Chúng ta phải… Làm cho dân có ăn, Làm cho dân có mặc, Làm cho dân có chỗ ở,
Làm cho dân có học hành”.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của HCM, Người luôn coi độc lập gắn
liền với tự do, cơm no, áo ấm cho Nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực.
Người nhấn mạnh, độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng,
không có nền tài chính riêng thì độc lập đó chả có ý nghĩa gì. Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện
Chính phủ Pháp hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, theo đó:”Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là một quóc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”
Độc lập dân tộc gắn với quyền tự quyết, tự do lựa chọn con đường phát triển riêng của dân tộc.
Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ
thù. Trong hoàn cảnh đó, trong bức thư gửi đồng bào Nam Bộ, Hồ Chí Minh khẳng định”Đồng bào Nam Bộ
là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp
tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc. Tháng 2 năm 1958, Người khẳng định:”Nước Việt Nam là một,
dân tộc Việt Nam là một”
* Trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc lOMoAR cPSD| 61601688
- Nhận thức về độc lập dân tộc: hiểu rõ hơn về tư tưởng độc lập dân tộc và vai trò của Hồ Chí Minh trong
việcđưa đất nước Việt Nam đến với độc lập tư do. Bên cạnh đó theo tư tưởng HCM, độc lập dân tộc là
quyền của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, là một giá trị cốt lõi của con người, đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Chính vì thế sinh viên cần đưa ra những quan điểm chính
xác về độc lập dân tộc, cần nắm vững những nguyên tắc và giá trị của độc lập dân tộc bao gồm cả tôn
trọng và bảo vệ quyền tự quyết của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, sự công bằng và bình đẳng cho tất cả các
thành viên trong cộng đồng dân tộc. Sinh viên cần đặt sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người lên hàng
đầu, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng cho mọi công dân. Đồng thời sinh viên cần tìm cách đối thoại và
hợp tác với các quốc gia, dân tộc khác nhau trong khu vực và trên thế giới để xây dựng một thế giới hòa
bình, ổn định và phát triển bền vững.
- Trách nhiệm của sinh viên
• Có nhận thức, hiểu biết về những vấn đề có liên quan đến sự nghiệp bảo vệ tổ quốc: hiểu biết về đất nước
và con người, các dân tộc và tôn giáo ở VN, hiểu biết về lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa, hiểu biết
về Đảng, Nhà nước xhcn của dân do dân và vì dân và chế độ xhcn mà ta đang xây dựng, hiểu biết bản
chất âm mưu thủ đoạn của kẻ thù trong và ngoài nước,…
• Sinh viên cần cảnh giác, tích cực trong đấu tranh với những hành động sai trái, k để các thế lực thù định,
các phần tử chống đối lợi dụng. Tố cáo những hành vi tuyên truyền lôi kéo sinh viên tham gia các hoạt
động trái quy định của pháp luật nhằm chống đối đảng, nhà nước.
• Tích cực tham gia các hoạt động để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn an toàn trật tự xã hội. Tham gia xd
nếp sống văn minh trật tự nagay trong trường học, khu vực dân cư mà mình sinh sống, bảo vệ môi trường.
• Tăng cường rèn luyện thể lực, học tập tốt môn giáo dục quốc phòng an ninh, góp phần chuẩn bị cho lực
lượng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
• Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xhcn, cảnh giác trước âm mưu chia rẻ, xuyên tạc của các thế lực
thù địch, phê phán, đấu tranh với những thái độ làm việc gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền.
• Tích cực học tập ể nâng cao hiểu biết về toàn vẹn lãnh thổ, tuyên truyền những điều đúng đắn cho m.n.
Mỗi sv cần phải nắm chắc đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật cảu Nhà nước.
Câu 3.2. Tại sao Đảng Cộng sản VN lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng theo HCM
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động vì:
Về tầm quan trọng của lý luận, trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), HCM khẳng định: “Đảng
muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nan. Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin”.
HCM luôn luôn nhấn mạnh phải trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin, nhưng đồng thời phải luôn luôn sáng
tạo, vận dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, từng lúc từng nơi, không được phép giáo điều. Hồ Chí
Minh yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ đảng viên phải hiểu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
– Đối với cơ quan và tổ chức Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam cho hành động chứ không phải là kinh thánh. Phải nắm vững phép
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phải căn cứ vào thực tiễn để xác định đúng quan điểm, đường lối
chính sách, pháp luật; phải vận dụng sáng tạo, không máy móc, giáo điều, rập khuôn. lOMoAR cPSD| 61601688
+ Phải tìm các giải pháp, biện pháp thực hiện, phải có quyết tâm, “đường lối 1, biện pháp phải 10, quyết tâm phải 20”
+ Phải tổng kết kinh nghiệm của Đảng mình, các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học
thành công, chưa thành công.
+ Phải tổ chức việc học tập, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên phù hợp, đồng thời phải tuyên truyền
vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách.
– Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ Học lý luận, hiểu lý luận là phải vận dụng vào thực tiễn, “học mà không hành là cái hòm đựng sách”, “để
lòe thiên hạ”, để “ra vẻ ta đây”. Phải chống các biểu hiện kém lý luận, coi thường lý luận, lý luận suông, lý
luận giáo điều + Phải tin tưởng, nhất trí với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước và quyết tâm thực
hiện; phải bảo vệ quan điểm đường lối chính sách, giữ vững kỷ luật Đảng và kỷ luật cơ quan đoàn thể.
+ Phải lấy hiệu quả công tác, hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo sự hiểu và vận dụng
chủ nghĩa Mác – Lênin; công việc bê trễ thì không thể nói là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được.
+ Phải coi việc thường xuyên học tập lý luận là nhiệm vụ và tiêu chuẩn đảng viên.
+ Phải sống với nhau có tình có nghĩa.
* Liên hệ vai trò của sinh viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
- Nhận thức được nền tảng tư tưởng của Đảng là gì?
Sinh viên nắm được nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác- Lenin và tư tưởng HCM, đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của nhà nước...Sinh viên xây dựng cơ sở khoa học cho nhận thức và nièm tin
vững chắc vào con người đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhiều sinh viên đã chủ động, thẳng
thắn đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, thông tin xấu, phê phán nhận thức lệch lạc
và hành vi tiêu cực, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Đặt vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng?
Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp; tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, các thế lực thù địch,
phản động tìm mọi thủ đoạn chống phá, nhất là trên môi trường không gian mạng và các phương tiện truyền
thông xã hội. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 35-TW/NQ, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình
hình mới”, đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ
thường xuyên và lâu dài của cả hệ thống chính trị.
Sự bùng nổ của Internet và mạng XH tác động mạnh mẽ, nhiều chiều đến mọi mặt đời sống xã hội. Trong
đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị đã và đang triệt để lợi dụng để xuyên tạc, kích động chống
phá Đảng và Nhà nước. Một bộ phận SV còn hạn chế nhất định về trình độ, kinh nghiệm sống, lập trường tư
tưởng chưa vững vàng, ngại tham gia các hoạt động cộng đồng dễ bị lôi kéo, kích động... Đây là đặc điểm
dễ bị các thế thù địch lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu” diễn biến hòa bình”, chống phá Đảng và Nhà nước
ta... tạo ra sự bất ổn về chính trị, tư tưởng trong đời sống SV và XH.
Để phát huy được vai trò hạt nhân chính trị của SV, TN nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước cho SV, TN.
Hai là, tổ chức Đoàn, Hội SV chủ động, sáng tạo trong tuyên truyền, vận động TN, SV tham gia đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Ba là, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội. lOMoAR cPSD| 61601688
Bốn là, xây dựng lực lượng nòng cốt trong SV, TN.
Năm là, phát huy vai trò “nêu gương” của cán bộ Đoàn, Hội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. lOMoAR cPSD| 61601688
Câu 4:Tư tưởng HCM về nhà nước: nhà nước pháp quyền nhà nước dân chủ
4.1 Nhà nước pháp quyền
a. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Nhà nước hợp hiến, hợp pháp là nhà nước do nhân dân tổ chức nên thông qua tổng tuyển cử để bảo đảm cho
nhà nước được tổ chức và vận hành phù hợp với pháp luật, đồng thời nhà nước được xây dựng và hoạt động
theo các nguyên tắc của hiến pháp.
Hồ Chí Minh nêu ra và thực hiện điều này ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền
đã về tay Nhân dân. Sau khi giành chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính
phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc gia đồng bào và thế giới về sự khai
sinh của nước Việt Nam mới. Nhờ đó, chính phủ lâm thời do cuộc cách mạng của nhân dân lập ra có được địa vị hợp pháp.
Cuộc tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc ngày. 06/01/1946 đã thành công tốt đẹp. Ngày
02/3/1946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ
máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ
tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phù hợp hiến đầu tiên do đại biểu của Nhân dân bầu ra,
có đầy đủ tư cách vá hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam mới.
b. Nhà nước thượng tôn pháp luật
Trong tư tưởng HCM, Nhà nước quản lý bằng bộ máy và nhiều biện pháp khác nhau, nhưng quan trọng nhất
là quản lý bằng Hiến pháp và bằng pháp luật nói chung. Muốn vậy, trước hết cần làm tốt công tác lập pháp.
Cùng với công tác lập pháp, HCM cũng rất chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, bảo đảm cho pháp
luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật.
Pháp luật là công cụ quyền lực của nhân dân, vì thế điều quan trọng là phải làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân ch, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
HCM luôn nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật. Đòi hỏi pháp luật phải đúng và phải đủ, tăng cường
tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi người dân, người thực thi pháp luật phải thực sự công tâm và nghiêm minh,..
HCM luôn luôn khuyến khích nhân dân ohee bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám sát quá trình Nhà
nước thực thi pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong
việc tuân thủ pháp luật, trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
c. Pháp quyền nhân nghĩa
“Pháp quyền nhân nghĩa” tức trước hết Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con
người, chăm lo đến lợi ích của mọi người.
Trong pháp quyền nhân nghĩa pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện. Tính nhân văn của hệ thống luật
pháp thể hiện ở việc ghi nhận đầy đủ và bảo vệ quyền con người, ở tính nghiêm minh nhưng khách quan và
công bằng, tuyệt đối chống đối xử với con người một cách dã man. Đặc biệt, hệ thống luật pháp đó có tính
khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm căn 1
bản. Với Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và lOMoAR cPSD| 61601688 1
các giá trị đạo đức thấm sâu vào trong mọi quy định của pháp luật. Nói cách khác, pháp luật trong nhà nước
pháp quyền nhân nghĩa phải là pháp luật vì con người.
* Liên hệ với việc xây dựng nhà nước XHCN VN hiện nay. -
Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. -
Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để
nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi
trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. -
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân. Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ
chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. -
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy
định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để
thực thi đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. -
Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức. -
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện và
đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ
trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính
sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực.
4. 2 Tư tưởng HCM về Nhà nước dân chủ
* Bản chất giai cấp của nhà nước: Nhà nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, thống nhất với
tính nhân dân và dân tộc.
+) Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta biểu hiện:
Một là, ĐCS VN giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Đảng cầm quyền bằng phương thức thích hợp sau đây: 1,
bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch; 1,
bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước; 3, bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nahf nước VN thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
+) Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc biểu hiện: lOMoAR cPSD| 61601688
Một là, Nhà nước VN ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người VN, của toàn thể dân tộc.
Hai là, Nhà nước VN ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì, nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của
nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
Ba là, trong thực tế, Nhà nước mới ở VN đã đảm đương nhiệm vụ mà toàn thể dân tộc giáo phó.
*Nhà nước của nhân dân
Thứ nhất, tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Điều này được thể hiện
rất rõ rang trong điều 1 Hiến pháp năm 1946 do HCM đứng đầu Uỷ ban soạn thảo: “ Tất cả mọi quyền binh
trong nhà nước đều là của toàn thể nhân dân VN, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”, điều 32 cũng khẳng định “ những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ được đưa ra nhân dân phúc
quyết”. Thực chất chính là hình thức dân chủ trực tiếp trưng cầu dân ý. Bên cạnh đó là hình thức dân chủ gián
tiếp: Nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua đại diện mà dân lựa chọn, bầu ra và những thiết chế
quyền lực mà họ lập nên.
Trong hình thức này, Quyền lực nhà nước là “ thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản thân nhà nước không có
quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do. Do vậy, các cơ quan quyền lực nhà nước cùng
với đội ngũ cán bộ của nó đều là “ công bộc” của nhân dân.
Vì vậy, Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu mà họ đã lựa
chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên.
Thứ tu, trong nhà nước của dân, Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Đây cũng là điểm
khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước VN mới với luật pháp của các chế độ tư sản, phong kiến là ở
chỗ nó phản ánh được ý nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân chúng, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
*Nhà nước do Nhân dân
Theo HCM, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên sau khi nhân dân giành được
chính quyền. Nhân dân tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương thông qua thực hiện
chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín bầu các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước.
Điều đó, cũng có nghĩa, trong nhà nước do nhân dân, thì dân làm chủ, giúp đỡ nhà nước, đóng thuế để nhà
nước chi tiêu và hoạt động.
Nhà nước do dân có một nội dung quan trọng là nhân dân có quyền tham gia quản lý nhà nước, để sao cho
các quyết định của cơ quan nhà nước đều xuất phát từ ý trí, nguyện vọng của nhân dân.
Cuối cùng, trong nhà nước do nhân dân làm chủ, thì nhà nước phải tạo ra mọi điều kiện để nhân dân được
thực hiện những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn
nghĩa vụ làm chủ của mình.
*Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. lOMoAR cPSD| 61601688
Do vậy, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Điều này thể hiện rõ nét nhất
trong câu nói của Người; “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh.”
Nhà nước phải đặt quyền lợi, lợi ích của dân lên trên hết. Mọi đường lối, chủ trương và các chính sách, đều
phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
Trong nhà nước vì dân, từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. Do vậy, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng
đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân.
Câu 5.1: Phân tích TTHCM về vai trò của đại đoàn kết dân tộc. Trách nhiệm của sinh viên trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
* Vai trò của đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt
Nam. Người nói: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc
lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Trong từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp
tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song
không bao giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc. lOMoAR cPSD| 61601688
Hồ Chí Minh khái quát chân lý: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của
chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn
kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, “Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ.
Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết” Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Tóm lại, đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam, là nhân tố quyết định
thành bại của cách mạng
b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu dài của cách
mạng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, cho tới hoạt động
của Đảng. Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là:
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại đoàn kết là yêu cầu khách
quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng, bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Đảng
Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, giác ngộ quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi
khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại
đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho Nhân dân và
hạnh phúc cho con người.
Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
* Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay. -
Nhận thức rõ về vai trò của đại đoàn kết dân tộc, quán triệt tư tưởng đại đoàn kết là vấn đề sống còn
của dân tộc, từ đó ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát
huy tính năng động của bản thân, tỉnh thần tự lực tự cường, vượt qua mọi thách thức. -
Nâng cao nhân thức của bản thân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của từ tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị và chuyên đề năm 2020 về
“Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cư dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức;
trong đó, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. -
Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân; tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân trên địa bàn dân
cư thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương
nơi cư trú nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân gắn
với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. -
Tích cực tham gia các hoạt động tổ chức của Đoàn thanh niên nhằm tuyên truyền tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc trong các lĩnh vực văn hóa, kinh tế và an ninh quốc phòng, cương quyết chống lại những ý kiến
xuyên tạc, gây mất đoàn kết trong nhân dân. lOMoAR cPSD| 61601688 -
Tham gia và vận động các thành viên trong gia đình tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi
đua do địa phương phát động. Vận động gia đình và nhân dân xây dựng mối quan hệ gắn bó đoàn kết, xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. -
Đẩy mạnh công tác làm việc tự học, tự tu dưỡng để nâng cao kỹ năng và kiến thức và trình độ trình độ
của bản thân. Thực hiện tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, pháp lý của nhà nước đến quần chúng nhân dân. -
Tùy theo sức và vị trí của mình bản thân cá thể luôn nâng cao niềm tin cẩn trọng, chống những luận
điệu xuyên tạc về Đảng, về quản trị Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để hoàn toàn
có thể thích ứng được với điều kiện kèm theo xã hội mới. -
Mỗi cá nhân cần dám nhận những thiếu sót, những khuyết điểm của bản thân, của bạn bè và thẳng thắn
góp ý để cùng xây dựng cùng chia sẻ những cái hay cái tốt và loại bỏ dần những khuyết điểm, hạn chế còn
tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm túc, chân thành, đúng nơi đúng lúc.
Câu 6. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Hồ Chí Minh coi nguyên tắc nói đi đôi với làm là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng nền đạo
đức mới. Nói đi đôi với làm là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó trở thành phương pháp luận trong
cuộc sống và là nền tảng triết lý sống của Người. Nguyên tắc này được Người nói ngay trong tác phẩm “
Đường cách mệnh” khi đề cập tư cách của người cách mệnh. Theo HCM, lời nói phải đi đôi với việc làm thì
mới đem lại hiệu quả thiết thực cho bản thân mình và có tác dunhj đối với người khác, Mặt khác phải chống
lại những biểu hiện: nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo, không gương mẫu.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông. Sự gương mẫu của cán bộ,
đảng viên trong lời nói và việc làm không chỉ là cách thức để giáo dục đạo đức cho quần chúng, mà còn là
một phương pháp để tự giáo dục bản thân mình.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một nền tảng rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn
mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của mỗi người và của toàn xã hội, mà những tấm gương
đạo đức của những người tiêu biểu có ý nghĩa thúc đẩy cho quá trình đó.
b. Xây đi đôi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, đây là đòi hỏi của nền đạo đức mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Xây tức là xây dựng, bồi dưỡng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới
Chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức cụ thể như: các bệnh tham ô, lãng
phí, quan liêu. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp xây đi đôi với chống, muốn xây phải
chống chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính.
Xây dựng đạo đức mới theo Hồ Chí Minh phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những
chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể – nơi
mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó bằng hoạt động thực tiễn của mình. Mặt khác, việc giáo
dục đạo đức mới phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi,
ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. lOMoAR cPSD| 61601688
Để xây và chống có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh phái tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần
chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh trong sạch về đạo đức, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân để
mọi người nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng phải chú trọng kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường
tính nghiêm minh của pháp. luật. Thực tiễn chứng minh những cuộc vận động đó đã mang lại kết quả rất lớn. lOMoAR cPSD| 61601688
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức là một cuộc cách mạng trường kỷ, gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ
có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Người nhắc lại luận điểm của
Khổng Tử: “chính tâm, tu thân”, “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu:” đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”
Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua các hoạt động thực tiễn trong công
việc, trong các mối quan hệ của mình; phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ
cái hay hại tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải
kiên trì rèn luyện liên tục, tu dưỡng suốt đời, trong đó thời tuổi trẻ là đặc biệt quan trọng.
* Liên hệ với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay
Đạo đức HCM là đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân. Để thích ứng với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một nền đạo đức mới đã và đang hình
thành. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu ước, thương người,
sống tình nghĩa, cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới, nội dung mới do đòi hỏi của
dân tộc và thời đại. Nhờ đó phần lớn sinh viên vânc giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh,
khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập, sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động,
nhạy bén,dám đối mặt với khó khăn thách thức.
Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải: -
Thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi sinh viên phải trung thành với mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. -
Thực hiện tốt “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh -
Có ý thức trong tự phê bình và phê bình; biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác; tích cực
đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè phái. -
Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên các cấp. Phấn đấu tu
dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình
nguyện tốt, Hội nhập tốt. -
Có ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua thử thách, nguy hiểm để đạt được những mục
đích sống cao đẹp, hoàn thành thử thách mới, chiến thắng chính mình và trước những thử thách trong cuộc sống. -
Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, đồng thời
tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng, càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
Câu 7. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người lOMoAR cPSD| 61601688
a. Ý nghĩa của việc xây dựng con người
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, có ý nghĩa
chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có
mối hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
“Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” đã cho thấy đây là công việc lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích
trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của văn hóa giáo dục. “Trồng người” phải được tiến hành bền
bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân
đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể chính trị – xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã
hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt
tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Nội dung xây dựng con người
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người
có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có
tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và có năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện với
những khía cạnh chủ yếu sau:
+ Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
+ Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
+ Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
+ Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi
dưỡng về năng lực, trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ,
ngoại ngữ, sức khỏe. c, Phương pháp xây dựng con người.
Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính khoa học của bộ máy
và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Người nói rằng
“lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau" là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Hiền, dữ của con người không phải là
tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của nhà trường, gia đình
và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Nền giáo dục đó phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cách mạng, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước, do đó, khi tình hình thực tiễn có sự thay đổi thì nền giáo dục cũng phải
có sự điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông qua các phong trào cách mạng
như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”, đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý
kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
* Sinh viên phải làm gì để xây dựng và phát triển con người toàn diện. lOMoAR cPSD| 61601688
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi trọng nhân tố con người, coi đó là yếu tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển. Vấn đề phát triển con người
toàn diện trong các văn kiện của Đại hội XII được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát
phát triển đất nước. Với nhận thức của mình, theo em muốn xây dựng và phát triển con người toàn diện, sinh
viên cần thực hiện một số giải pháp sau: -
Một là, sinh viên cần tự bồi dưỡng, rèn luyện tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống
và nhân cách. Lấy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc là giá trị cơ bản, cốt lõi đoàn kết mọi người Việt
Nam ở trong nước và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy chuẩn mực đạo đức, lối sống và nhân
cách làm thước đo đánh giá con người trong quan hệ ứng xử với tự nhiên, xã hội, hưởng tới giá trị nhân văn. -
Hai là, sinh viên cần xây dựng cho mình thế giới quan khoa học, hưởng tới các giá trị chân - thiên - mỹ.
Sống trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng quốc tế, đang diễn ra cuộc cách mạng
4.0, đòi hỏi sinh viên phải có thế giớimquan khoa học trong nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng và xử lý
các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. -
Ba là, sinh viên cần xây dựng và phát huy lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”;
hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ môi
trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản
thân, gia đình và xã hội; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; không ngừng nhân
rộng các giá trị nhân văn… -
Bốn là, nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo
đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. -
Năm là, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu
cực ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người…
Câu 8: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa. Liên hệ phát triển văn hóa
trong sự phát triển ngày nay.
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
a) Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là mục tiêu. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa nằm trong mục
tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng
Theo quan điểm HCM, văn hóa là mục tiêu - nhìn một cách tổng quát - là quyền sống, quyền sung sướng,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân, thiên, mỹ. Đó là một
xã hội dân chủ - dân là chủ và dân làm chủ - công bằng, văn minh, ai cũng có căm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành, một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn luôn được quan tâm và không
ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện
Văn hóa động lực. Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể
trong tư tưởng HCM, động lực có thể nhận thức ở các phương diện chủ yếu:Văn hóa chính trị ,Văn hóa văn
nghệ ,Văn hóa giáo dục ,Văn hóa đạo đức,Văn hóa pháp luật
b) Văn hóa là một mặt trận lOMoAR cPSD| 61601688
Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa- tư tưởng. Đây là hoạt động có tính độc lập, có
mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa.
Nội dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống... của các hoạt
động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặc biệt là định hướng giá trị chân thiện mỹ của văn hóa nghệ thuật.
Măth trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa, vì vậy, anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt
trận có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường tư tưởng vững vàng, ngòi bút là vũ khí sắc
bén trong sự nghiệp” phò chính trừ tà”. Phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình
nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu và ca tụng chân thật những người
tốt, việc tốt để làm gương cho chúng ta ngày nay và giáo dục con cháu đời sau. Đó chính là “chất thép “ của
văn nghệ theo tinh thần”kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”
c) Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Theo Người mọi hoạt động văn hóa phải trở về với cuộc sống hiện tại của quần chúng, phản ánh được tư
tưởng và khát vọng của quần chúng. Phản ánh chân thực không phải chỉ dừng lại ở chôc phản ánh những gì
đã có trong đời sống nhân dân mà còn phải hướng nhân loại bỏ cái giả, cái sai, cái không đúng để vươn tới cái lý tưởng.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân là phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn; phải trả lời được các
câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài liệu đâu mà viết? Cách viết như thế nào? Viết phải thiết thực, tránh
cái lối viết rau muống mà ham dùng chữ. Nói cũng vậy. Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn,
thì quân chúng thích hơn. Tóm lại” từ trong quần chúng ta. Về sâu trong quần chúng” Trên cơ sở đó để định
hướng giá trị cho quần chúng.
Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là những người sáng tác rất hay.
Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu quý. Và chính họ là những người thẩm định
khách quan, trung thực, chính xác các sản phẩm nghệ thuật. Nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hóa.
* Liên hệ phát triển văn hóa trong sự phát triển của đất nước hiện nay.
Sinh viên phải tự phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng, chính sự phát triển của
cá nhân. Quan trọng hơn cả, xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm
văn hóa không lành mạnh. -
Tích cực hăng hái tham gia hoặc tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động tình nguyện, các cuộc thi về
chủ đềvăn hóa ở địa phương toàn quốc hay thậm chí là cùng những quốc gia khác. -
Đã có trong mình hiểu biết cũng như kiến thức nền vững, sinh viên tích cực tham gia các hoạt động công
tác tuyên truyền, đưa văn hóa dân tộc trở lại sát gần hơn với thế hệ trẻ, bổ sung cho họ những phần kiến thức
còn thiếu, nâng cao ý thức về việc trân trọng bản sắc văn hóa dân tộc, -
Chủ động tuyên truyền, giới thiệu cho bạn bè quốc tết về những nét đẹp trong văn hóa dân tộc VN thông
quamạng xã hội, hay trong các buổi giao lưu văn hóa. -
Trong giao tiếp hàng ngày, sinh viên cần phát ngôn, ứng xử phù hợp với chuẩn mực, không biến tấu
ngôn ngữ dân tộc theo hướng sai lệch,…..