Đề cương ôn tập Pháp luật đại cương | Trường Đại học Đồng Tháp
Đề cương ôn tập Pháp luật đại cương | Trường Đại học Đồng Tháp. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 67 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật Việt Nam đại cương
Trường: Đại học Đồng Tháp
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BÀI PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Họ và tên : Trần Anh Thư Mssv : 0022412419 Nhóm 2
Chương 2 : pháp luật đại cương
1. Phân tích các thuộc tính đặc trưng của pháp luật? Cho ví dụ
minh họa tương ứng với từng thuộc tính.
Thuộc tính thứ nhất: Pháp luật có tính quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước là một thuộc tính riêng của pháp luật mà không một
quy phạm nào có thể có được. Để có thể thực hiện việc tổ chức và quản lý
xã hội, nhà nước cần phải có pháp luật, nhằm mục đích bắt buộc mọi
người phải thực hiện. Các quy định của pháp luật có thể do nhà nước đặt
ra, cũng có thể được tạo nên từ việc nhà nước thừa nhận những quy tắc
ứng xử đã có sẵn từ trong xã hội (đạo đức, phong tục tập quán, tín điều
tôn giáo,...) Và với kết cấu là những quy tắc xử sự chung, pháp luật chính
là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho phép của nhà nước đối với các hành vi
ứng xử của mọi người trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật là sự thể
hiện ý chí của nhà nước.
Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép các chủ thể được làm gì, không
được làm gì, nên làm gì, không nên làm gì và có thể bắt buộc họ phải làm
gì, làm như thế nào, . . . Mặt khác, với thuộc tính quyền lực nhà nước của
mình, pháp luật có thể có các biện pháp cưỡng chế từ nhà nước, để bắt
buộc người dân phải thực hiện theo những quy định được nên ra của pháp
luật, nếu không họ sẽ bị trừng phạt, để đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.
Ví dụ: Luật an toàn giao thông đường bộ được Nhà nước ban hành và
đảm bảo bằng sức mạnh quyền lực nhà nước (đại diện là Cảnh sát giao
thông, Cảnh sát cơ động, …..). Những người vi phạm Luật giao thông
đường bộ đều phải chịu phạt theo điều luật đã quy định.
Thuộc tính thứ hai: Pháp luật có tính quy phạm phổ biến
Pháp luật được tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật, quy phạm là tế
bào của pháp luật, là khuôn mẫu, là mô hình xử sự chung. Trong xã hội
các hành vi xử sự của con người rất khác nhau, tuy nhiên trong những
hoàn cảnh điều kiện nhất định vẫn đưa ra được cách xử sự chung phù hợp với đa số.
Cũng như quy phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có những
quy tắc xử sự chung, nhưng khác với các quy phạm xã hội, pháp luật có
tính quy phạm phổ biến. Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần
trên lãnh thổ, việc áp dụng các quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi bằng những quy định
khác hoặc thời hiệu áp dụng các quy phạm đã hết.
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước "được
đề lên thành luật". Tùy theo từng nhà nước khác nhau mà ý chí của giai
cấp thống trị trong xã hội mang tính chất chủ quan của một nhóm người
hay đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn của đa số nhân dân trong quốc gia đó.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ được áp dụng đối với tất cả công dân
đang sinh sống trên lãnh thổ nước Việt Nam, đối với tất cả mọi người
không phân biệt lứa tuổi, giới tính, tôn giáo, dân tộc,…. và được áp dụng nhiều lần.
Thuộc tính thứ ba: Pháp luật có tính hệ thống
Ngay chính bản thân khái niệm của pháp luật đã là một hệ thống các quy
tắc xử sự chung, hoặc là các quy phạm, cũng có thể là các nguyên tắc
hoặc khái niệm pháp lý . . . Pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hộ thông qua
việc tác động một cách trực tiếp lên các cách xử sự của các chủ thể khi
tham gia vào mối quan hệ xã hội đó, nhưng những quy định đó lại không
tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ,
gắn bó và thống nhất với nhau, tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ; Nghị định 100/2019/NĐ-CP
Thuộc tính thứ tư: Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Quy phạm có thể hiểu một cách đơn giản là các khuôn mẫu, chuẩn mực.
Các quy định của pháp luật được xem như là các quy phạm trong xã hội
và nó được biết đến, và sử dụng một cách vô cùng phổ biến. Từ đó, pháp
luật định hướng cho nhận thức và hành vi của các chủ thể trong xã hội.
Khi rơi vào một tình huống nhất định, dựa vào thuộc tính quy phạm của
pháp luật, các chủ thể sẽ được định hướng hành vi cho bản thân mình để
đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Phạm vi tác động của pháp luật rất lớn, nó là khuôn mẫu ứng xử cho mọi
người, cho cá nhân, tổ chức trong phạm vi của một quốc gia và được sử
dụng trong cuộc sống hàng ngày; hay thể hiện trên mọi lĩnh vực của các
mối quan hệ xã hội. Cũng chính vì vậy, pháp luật mới mang thuộc tính phổ biến.
Ví dụ: Luật an toàn giao thông có văn bản chứa quy phạm pháp luật.
Trong đó sẽ ghi rõ những trường hợp cũng như hình phạt cho những lỗi vi
phạm, như: điều 60 quy định về độ tuổi của người điều khiển xe máy:
+ Người đủ 16 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy có dung tích xi- lanh dưới 50 cm3
+ Người đủ 18 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy có dung tích xi- lanh từ 50 cm3 trở lên
2. Trình bày khái niệm, đặc điểm và cấu thành quy phạm pháp luật
Khái niệm quy phạm pháp luật
Theo khoản 1 Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 sđ,
bs năm 2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, có
định nghĩa quy phạm pháp luật như sau:
“Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung,
được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được
Nhà nước bảo đảm thực hiện.”
Vậy chúng ta hiểu khái niệm quy phạm pháp luật này như thế nào? Làm
sao có thể phân biệt được quy phạm pháp luật và các loại quy phạm xã hội khác?
Để có thể hiểu rõ được khái niệm của quy phạm pháp luật, chúng ta cần
hiểu quy phạm là gì? Quy phạm nói chung được giải thích đơn giản là các
chuẩn mực, các quy tắc xử sự chung, các khuôn mẫu cho hành vi giao
tiếp giữa các thành viên. Và quy phạm đặt ra nhằm đạt đến mục đích
chung là trật tự xã hội.
Từ đó, chúng ta có thể phân biệt được quy phạm pháp luật khác với các
quy phạm xã hội khác thông qua 3 đặc điểm cơ bản đã được nêu tại Luật
BHVBQPPL trên. Các đặc điểm sẽ được liệt kê dưới đây.
Quy phạm pháp luật là gì?
2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật
2.1. Là quy tắc xử sự có hiệu lực bắt buộc chung
Đặc điểm là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung là sự thể
hiện một trong những thuộc tính cơ bản của pháp luật chính là tính quy
phạm phổ biến. Đặc điểm này có 2 vế, thứ nhất là quy tắc xử sự chung
mang nghĩa quy tắc này áp dụng cho mọi chủ thể. Và vế thứ hai có hiệu
lực bắt buộc chung có nghĩa là nó mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể trong xã hội.
Khác với các quy phạm xã hội khác hay các quy tắc xử sự chung khác có
trong xã hội rất nhiều nhưng chúng không bắt buộc đối với mọi chủ thể.
Hoặc có những quy tắc xử sự khác mang tính bắt buộc nhưng lại không
áp dụng cho mọi chủ thể. Đối với quy phạm pháp luật, tính bắt buộc và
chung lúc nào cũng đi đôi với nhau không tách rời.
2.2. Do cơ quan có thẩm quyền ban hành
Đặc điểm chỉ có thể do các cơ quan có thẩm quyền ban hành mới được
ban hành chính là một đặc điểm giúp phân biệt rõ giữa quy phạm pháp
luật và quy phạm xã hội khác. Ở những quy phạm xã hội khác có thể có
hoặc không thể xác định được chủ thể ban hành. Nhưng ở quy phạm pháp
luật, mỗi một loại văn bản quy phạm pháp luật đều được quy định cụ thể,
rõ ràng các cơ quan có thẩm quyền ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật đó.
Có thể lấy ví dụ như Quốc hội có thể ban hành Bộ luật, luật hoặc nghị
quyết; Chủ tịch nước có thẩm quyền ban hành lệnh hoặc quyết định;
Chính phủ có quyền ban hành nghị định,…
2.3. Được nhà nước đảm bảo thực hiện
Ở đặc điểm thứ ba này, Nhà nước là chủ thể vừa có quyền vừa có trách
nhiệm đảm bảo pháp luật chắc chắn được thực hiện. Biện pháp bảo đảm ở
đây chính là cưỡng chế thi hành.
3. Kết cấu của quy phạm pháp luật
Với tư cách là phương tiện dùng để quản lý xã hội và thiết lập trật tự
chung cho xã hội, việc nắm được kết cấu quy phạm pháp luật sẽ giúp
chúng ta hiểu được nguyên lý, cách thức và những yêu cầu cơ bản nhất
trong việc xây dựng nên các quy phạm pháp luật. Đồng thời, giúp nắm
được nội dung của một quy phạm pháp luật dễ dàng hơn.
Kết cấu chung của một quy phạm pháp luật thông thường có 3 phần: giả
định, quy định và chế tài.
Kết cấu của quy phạm pháp luật 3.1. Giả định
Giả định là bộ phận xác định phạm vi tác động của quy phạm pháp luật
tới các quan hệ xã hội. Hay cũng có thể hiểu rằng giả định là một bộ phận
của quy phạm pháp luật trong đó, nó nêu ra những yếu tố giúp chủ thể có
thể xác định được chủ thể có bị tác động bởi quy phạm pháp luật đó hay không.
Phạm vi tác động được xác định bởi hai yếu tố là hoàn cảnh cụ thể và chủ
thể. Hai yếu tố này cần được nêu đầy đủ, rõ ràng, chính xác và sát với
thực tế. Chỉ có như vậy, mới có thể xác định đúng quy phạm pháp luật tác
động đến quan hệ chủ thể nào. 3.2. Quy định
Quy định được hiểu là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó
chứa đựng thông tin về hành vi, xử sự của chủ thể rơi vào hoàn cảnh
được nêu trong phần giả định. Được thể hiện dưới hình thức:
Nêu cách thức, chuẩn mực xử sự của chủ thể rơi vào điều kiện,
hoàn cảnh được nêu trong phần giả định được phép hoặc buộc
phải thực hiện những hành vi nhất định.
Thông tin cho chủ thể biết những hành vi, xử sự nào không được
chấp nhận và nếu thực hiện sẽ bị trừng phạt.
Vai trò của quy định là thông tin cho chủ thể biết:
Hành vi nào không được thực hiện hoặc bị cấm.
Hành vi nào phải thực hiện.
Hành vi nào có thể lựa chọn thực hiện. 3.3. Chế tài
Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu biện pháp mà nhà
nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh
của nhà nước được nêu ở phần quy định của quy phạm pháp luật. Chế tài
gồm có 2 loại là chế tài cố định và chế tài không cố định. Chế tài là gì?
4. Phân loại quy phạm pháp luật
Để có thể phân tích, so sánh nội dung và phân tích mối quan hệ của các
quy phạm pháp luật mà chúng ta cần phải phân loại chúng. Có 3 loại căn
cứ để phân loại quy phạm pháp luật, cụ thể như sau:
4.1. Căn cứ vào tính chất mệnh lệnh của quy phạm
Quy phạm cấm: cấm thực hiện những hành vi nhất định, thường
là những hành vi sẽ gây nguy hiểm cho xã hội.
Quy phạm trao quyền: Trong quy phạm chủ thể có quyền lựa
chọn xử sự trong khuôn khổ nhất định.
Quy phạm bắt buộc: bắt buộc chủ thể phải thực hiện hành vi nhất định.
4.2. Căn cứ vào nội dung và mục đích
Quy phạm định nghĩa: có nội dung xác định một vấn đề pháp lý,
định nghĩa hay giải thích một khái niệm pháp lý.
Quy phạm điều chỉnh: có nội dung tác động đến mối quan hệ xã
hội bằng việc xác định loại và mức độ thực hiện hành vi.
Quy phạm bảo vệ: có nội dung ghi nhận, bảo vệ trật tự một loại
quan hệ xã hội nhất định và dự kiến những biện pháp cưỡng chế
có tính chất trừng phạt, những hậu quả bất lợi phải gánh chịu đối
với sự xâm phạm những loại quan hệ này.
4.3. Căn cứ vào tác dụng của quy phạm
Quy phạm nội dung: có nội dung xác định quyền và nghĩa vụ các
chủ thể khi tham gia vào những loại quan hệ xã hội nhất định.
Quy phạm hình thức: xác định trình tự, thủ tục thực hiện quyền
và nghĩa vụ khi chủ thể tham gia vào những quan hệ pháp luật.
Quy phạm pháp luật là gì?
Quy phạm pháp luật (QPPL) là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc
chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành
và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
3. Trình bày cách xác định từng bộ phận cấu thành của một quy
phạm pháp luật. Cho ví dụ minh họa.
2. Ví dụ về quy phạm của pháp luật
Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn
khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm. (Khoản 1, Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
=> Xem phân tích cấu trúc của quy phạm pháp luật này ở mục bên dưới.
3. Xác định cấu trúc của quy phạm pháp luật
Các yếu tố cấu thành quy phạm pháp luật bao gồm 3 bộ phận là Giả
định, quy định và chế tài. Tuy nhiên, không phải mọi quy phạm pháp luật
luôn có đủ 3 bộ phận này. a) Giả định:
Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên những
hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân hay tổ
chức nào ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đó phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó.
Trong giả định của quy phạm pháp luật cũng nêu lên chủ thể nào ở vào
những điều kiện, hoàn cảnh đó.
Ví dụ về giả định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn
của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” (khoản 1, Điều 141
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Bộ phận giả định của quy
phạm là: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân”. b) Quy định:
Quy định là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu cách xử sự
mà tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong bộ phận
giả định của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải thực hiện.
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi: Phải làm gì?
Được làm gì? Không được làm gì? Làm như thế nào?
Ví dụ về quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm.” (Điều 33 Hiến pháp năm
2013). Bộ phận quy định của quy phạm là “có quyền tự do kinh doanh” (được làm gì).
Hoặc “Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy
định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3
của Bộ luật này” (Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015), bộ phận quy định
của quy phạm là: “thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng
không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định
tại Điều 3 của Bộ luật này”.
Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể
dứt khoát (chỉ nêu một cách xử sự và các chủ thể buộc phải xử sự theo
mà không có sự lựa chọn. Ví dụ khoản 1, Điều 12 Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2014 quy định: “Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai
bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.”).
Hoặc không dứt khoát (nêu ra 2 hoặc nhiều cách xử sự và cho phép các tổ
chức hoặc cá nhân có thể lựa chọn cho mình cách xử sự thích hợp từ
những cách xử sự đã nêu, ví dụ: Luật hôn nhân và Gia đình quy định:
“Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên
kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.; Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa
công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài”). c) Chế tài:
Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp
tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật có
thể sẽ được áp dụng với tổ chức hay cá nhân nào vi phạm pháp luật,
không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã nêu ở bộ phận quy
định của quy phạm pháp luật.
Ví dụ về chế tài: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn
của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” (khoản 1, Điều 141
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Bộ phận chế tài của quy
phạm là “phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
4. Trình bày khái niệm, đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật? Liệt
kê được một số văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam và xác định
được tình trạng có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật đó.
1. Văn bản quy phạm pháp luật là gì ?
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước cố thẩm
quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định, trong đó có chứa đựng các
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, làm khuôn mẫu cho xử sự của
các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần cho nhiều chủ thể pháp luật
trong một khoảng thời gian và không gian nhất định nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định mà nhà nước muốn xác lập.
Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 định nghĩa:
“Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm
pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức,
trình tự, thủ tục quy định trong Luật này.
2. Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau:
- Do những cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành và bảo
đảm thực hiện bao gồm: Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân các cấp, uỷ ban nhân dân
các cấp. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật văn bản quy phạm pháp
luật còn được ban hành bởi Đoàn Chủ tịch ủy ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam phối hợp với ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chính
phủ, các chủ thể phối hợp với nhau để ban hành thông tư liên tịch (Xem:
Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2020). TÌM HIỂU THÊM
- Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật là các quy phạm pháp
luật được áp dụng nhiều lần trong thực tiễn và là cơ sở để ban hành các
văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính thông dụng.
Ví dụ: Luật Giáo dục đại học năm được 2012
Quốc hội ban hành là văn
bản quy phạm pháp luật. Dựa trên những quy định của Luật này, các cơ
sở giáo dục đại học ban hành văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính để thực hiện.
Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 định nghĩa:
“Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực
băt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc
đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà
nước bảo đảm thực hiện"
Dưới góc độ khoa học, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Quy phạm là danh từ gốc Hán có
nghĩa đen là khuôn thước, tức là mực thước, khuôn mẫu. Như vậy, danh
từ quy phạm dùng để chỉ cái khuôn, cái mẫu, cái thước mà người ta nói
và làm theo.(1) Ngoài ra, quy phạm còn có nghĩa như quy tắc (phép tắc)
nhưng với nghĩa đầy đủ hon đó là khuôn mẫu, chuẩn mực đã được họp
pháp hoá để mọi người đối chiếu và lựa chọn cách xử sự phù hợp. về cơ
cấu của quy phạm pháp luật, đa số các luật gia đều cho rằng quy phạm
pháp luật thông thường có ba bộ phận: giả định, quy định, chế tài. Bộ
phận giả định của quy phạm pháp luật xác định điều kiện, hoàn cảnh có
thể xảy ra trong cuộc sống mà khi gặp điều kiện, hoàn cảnh đó, các chủ
thể sẽ xử sự theo cách thức Nhà nước đặt ra. Nó trả lời câu hỏi: Cá nhân
nào? tổ chức nào? khi nào? trong điều kiện, hoàn cảnh nào?
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật định hướng hành vi xử sự của
cá nhân, tổ chức theo hướng chỉ rõ những hành vi được thực hiện, hành vi
không được thực hiện và cách thức việc cụ thể xảy ra trên thực tế, nên
được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần. Còn văn bản áp dụng pháp luật chỉ
được thực hiện duy nhất một lần. Có nghĩa văn bản quy phạm pháp luật
có khả năng tác động trong khoảng thời gian lâu dài.
Tính bắt buộc chung đã ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của văn bản quy
phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý trong
phạm vi cả nước hoặc từng địa phương tùy thuộc vào thẩm quyền của cơ
quan ban hành cũng như nội dung của mỗi văn bản quy phạm pháp luật.
Thông thường, văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung
ương ban hành có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước, văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành có hiệu lực
pháp lý trên phạm vi địa phương đó. Ngoài ra, có trường họp văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước trung ương ban hành nhưng có hiệu
lực pháp lý trên phạm vi lãnh thổ địa phương xuất phát từ tính đặc thù
của địa phương đã quyết định tới nội dung văn bản quy phạm pháp luật.
Dấu hiệu này là cơ sở để phân biệt với những văn bản có nội dung đặt ra
quy tắc xử sự nội bộ trong cơ quan nhà nước. Hiện nay, khá nhiều văn
bản như quy chế, điều lệ, quy định, nội quy... có nội dung là quy tắc xử sự
nội bộ được ban hành kèm theo hình thức văn bản quyết định, nghị quyết.
Những quy tắc xử sự được đặt ra để điều chỉnh hoạt động trong nội bộ
một cơ quan nhà nước không phải là quy phạm pháp luật vì các quy tắc
xử sự đó không có tính bắt buộc chung mà chỉ là văn bản được ban hành
để điều hành quản lý nội bộ, chúng có tính chất bắt buộc nhưng chỉ đối
với các đơn vị trực thuộc, nhân viên của cơ quan đó.
- Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo hình thức do pháp luật quy định.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo hình thức có nghĩa là
đúng tên loại văn bản và đúng thể thức, kĩ thuật trình bày. Theo quy định
của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, những cơ
quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật với tên gọi xác định: Quốc hội ban hành Hiến pháp, luật, nghị quyết;
ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết
liên tịch với Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tố quốc Việt
Nam; Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định; Chính phủ ban hành nghị
định, nghị quyết liên tịch với Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định; Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết; Chánh án Toà
án nhân dân tối cao ban hành thông tư; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ban hành thông tư; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
ban hành thông tư; Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành quyết định; hội
đồng nhân dân ban hành nghị quyết; ủy ban nhân dân ban hành quyết
định. Theo quy định của pháp luật (Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một sô điêu của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 và Nghị định số
34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điêu và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật),
văn bản quy phạm pháp luật phải có đủ và trình bày đúng những yếu tố
như: quốc hiệu; tiêu ngữ; tên cơ quan ban hành; số, kí hiệu văn bản; địa
danh, thời gian ban hành; tên vãn bản; trích yếu nội dung; chữ kí; nơi nhận.
- Trình tự, thủ tục ban hành tuân theo quy định của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015. Vãn bản quy phạm pháp luật được
ban hành theo trình tự: lập chương trình xây dựng văn bản; soạn thảo; lấy
ý kiến đóng góp; thấm định, thẩm Ưa; trình, thông qua, kí chứng thực và ban hành.
Trong những dấu hiệu trên, nội dung có chứa đựng quy phạm pháp luật
được coi là dấu hiệu đặc trưng quan trọng và thể hiện bản chất nhất của
văn bản quy phạm pháp luật.
Trên thực tiễn, việc sử dụng khái niệm văn bản quy phạm pháp luật và
văn bản pháp luật có những nét tương đồng, đồng nhất nhưng khác biệt
trong văn phong sử dụng của người học luật chuyên ngành và trong xã
hội (nói chung). Có thể hiểu rằng văn bản quy phạm pháp luật là cách
thức sử dụng mang tính luật học và được người học luật, nhà nghiên cứu
pháp lý sử dụng thường xuyên, còn khái niệm văn bản pháp luật là một
khái niệm được sử dụng phổ biến hơn trên thực tiễn của đời sống xã hội.
3. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ?
Văn bản quy phạm pháp luật được chia làm hai loại là văn bản luật và văn bản dưới luật.
Văn bản luật là văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất. Văn bản luật bao
gồm Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước, các luật, các bộ luật và
các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật của Quốc hội. Trong các loại
văn bản này thì Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực
pháp lí tối cao. Hiến pháp được ban hành với một thủ tục đặc biệt: phải
có từ 2/3 số phiếu thuận trở lên của các đại biểu Quốc hội thì Hiến
pháp mới có thể được ban hành. Bất kì văn bản pháp luật nào khác trái
với Hiến pháp đều là văn bản vô hiệu và phải được bãi bỏ.
Các văn bản dưới luật bao gồm:
1) Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
2) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
3) Nghị quyết, nghị định của Chính phủ;
4) Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
5) Quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, š Chánh án toà án nhân dân tối cao, viện trưởng : Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
6) Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyển, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội;
7) Nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp;
8) Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp.
4. Soạn thảo, ban hành văn bản pháp luật như thế nào ?
Công tác soạn thảo, ban hành và quản lý văn bản nói chung và vãn bản
pháp luật nói riêng có vị trí quan trọng, diễn ra thường xuyên trong hoạt
động quản lý của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các
chủ thể ban hành văn bản pháp luật nhằm thực hiện hoạt động quản lý
một cách có hiệu quả nhất. Bởi văn bản pháp luật là phương tiện ghi lại
và truyền đạt các quyết định quản lý hình thành trong hoạt động quản lý
của các cơ quan nhà nước cũng như cá nhân có thẩm quyền. Vì thế, văn
bản pháp luật luôn thể hiện tính pháp lý, tính mệnh lệnh, quản lý điều
hành, tính thống nhất về hình thức, nội dung của từng loại và phản ánh
kết quả hoạt động quản lý ưên các lĩnh vực. Hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau về văn bản pháp luật.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, văn bản pháp luật là hình thức thể hiện ý
chí của chủ thể có thẩm quyền, thể hiện dưới dạng ngôn ngữ viết, được
ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đạt được
mục tiêu quản lý đã đặt ra.
Quan điểm thứ hai khẳng định văn bản pháp luật là văn bản được ban
hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy
định, có nội dung là ý chí của Nhà nước, luôn mang tính bắt buộc và
được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.
Hai quan điểm trên chủ yếu khác nhau về ngôn ngữ thể hiện còn các dấu
hiệu thuộc tính của văn bản pháp luật về cơ bản là tương tự nhau. Tuy
nhiên, tác giả cho rằng, quan điểm thứ nhất coi ngôn ngữ viết là dấu hiệu
đặc trưng của văn bản pháp luật là chưa thuyết phục bởi lẽ văn bản của
các tổ chức xã hội như nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam... đều được thể hiện bằng ngôn ngữ viết. Còn quan
điểm thứ hai định nghĩa văn bản pháp luật theo truyền thống lấy khái
niệm rộng hơn (văn bản) để nhấn mạnh văn bản pháp luật là một loại của
văn bản nói chung. Cách định nghĩa này chưa khẳng định và gọi tên
chính xác bản chất của văn bản pháp luật.
Từ hai quan điểm trên, trong Giáo trình này văn bản pháp luật được hiểu:
Văn bản pháp luật là hình thức thể hiện ý chí của Nhà nước,
được ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy
định, luôn mang tính bắt buộc và được bảo đảm thực hiện bởi Nhà nước.
5. Đặc điểm của văn bản pháp luật
Văn bản pháp luật có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn bản pháp luật được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền.
Đây là dấu hiệu đầu tiên để phân biệt giữa văn bản pháp luật với văn bản
do các tổ chức xã hội ban hành như văn bản của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam... Tuỳ theo mỗi nhóm văn bản pháp luật khác nhau mà pháp
luật hao quyền ban hành cho những cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền khác nhau. Đối với vãn bản quy phạm pháp luật, chỉ những chủ thể
được quy định tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020 mới có thẩm quyền ban hành. Đối với
vãn bản áp dụng pháp luật, số lượng các chủ thể có thẩm quyền ban hành
nhiều hon văn bản quy phạm pháp luật nhưng vẫn chịu sự ràng buộc của quy định pháp luật.
Trên bình diện chung nhất, văn bản pháp luật được ban hành bởi những nhóm chủ thể sau: + Cơ quan nhà nước
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật
quy định, các cơ quan nhà nước thường xuyên ban hành văn bản pháp
luật để giải quyết những công việc phát sinh như ban hành quy định pháp
luật để điều chỉnh quan hệ xã hội cơ bản; ổn định tổ chức bộ máy, tồ chức
nhân sự trong nội bộ; giải quyết những công việc về chuyên môn, nghiệp
vụ... Mọi cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều là cơ quan
có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật, có thể kể điển hình như:
Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, toà án
nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân...
Ngoài ra, pháp luật còn quy định một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phối họp với cơ quan nhà nước khác hoặc với Đoàn Chủ tịch ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để ban hành văn bản pháp luật
liên tịch (Xem: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2020, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021). + Cá nhân có thẩm quyền
Văn bản pháp luật không chỉ do các cơ quan nhà nước mà còn do những
cá nhân được Nhà nước trao quyền ban hành. Nhóm cá nhân có thẩm
quyền ban hành văn bản pháp luật bao gồm một số thủ trưởng cơ quan
nhà nước (Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân...); công chức
khi thi hành công vụ (nhân viên thuế, nhân viên kiểm lâm, thanh tra viên
chuyên ngành, cảnh sát, bộ đội biên phòng...) và người chỉ huy tàu bay,
tàu biển khi tàu bay, tàu biển rời sân bay, bến cảng (Xem: Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012).
Thứ hai, nội dung của văn bản pháp luật là ý chí của Nhà nước
Ý chí của Nhà nước trong văn bản pháp luật được hiểu là Nhà nước quyết
tâm đạt được mục đích đem lại lợi ích cho Nhà nước và xã hội. Thông
thường ý chí của Nhà nước được biểu hiện thông qua:
+ Những chủ trương, chính sách, biện pháp của Nhà nước mang tính định hướng.
Thông qua những chủ trương, chính sách, biện pháp mang tính vĩ mô,
Nhà nước đã thể hiện được mong muốn của mình đó là sự phát triển về
mọi mặt của đời sống xã hội, là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Hiện nay, nội dung là chủ trương, chính sách,
biện pháp của Nhà nước được các cơ quan nhà nước thể hiện trong hình
thức văn bản pháp luật chủ yếu là nghị quyết.
Ví dụ: Nghị quyết số 31/2012/QH13 ngày 08/11/2012 của Quốc hội về
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.
+ Những quy tắc xử sự chung điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức
trong xã hội theo hướng xác lập, làm thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ của đối tượng thi hành văn bản đó.
Ví dụ: Điều 9 Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012 quy định:
Nghiêm cấm người chưa đủ 18 tuổi sử dụng, mua, bán thuốc lá.
+ Những mệnh lệnh áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc đoi với những
cá nhân, tổ chức cụ thể.
Ví dụ: Mệnh lệnh phạt tiền trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính
đối với ông Nguyễn Văn A.
Thứ ba, văn bản pháp luật được ban hành theo thủ tục do pháp luật quy định
Thủ tục ban hành văn bản pháp luật là những cách thức, trình tự mà các
chủ thể có thẩm quyền cần phải tiến hành khi ban hành văn bản pháp luật.
Các văn bản pháp luật đều được ban hành theo thủ tục, trình tự do pháp
luật quy định. Tuỳ theo mỗi loại văn bản pháp luật khác nhau mà thủ tục
ban hành chúng cũng khác biệt. Ví dụ: Khi ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân theo trình tự mà Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định từ khâu lập chương
trình, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, lấy ý kiến đóng góp cho đến thông
qua, kí, công bố ban hành. Đối với văn bản áp dụng pháp luật trong nội
bộ, thủ tục ban hành tuân theo quy định của Nghị định số 30/2020/NĐ-
CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về công tác văn thư và các văn bản
quy phạm pháp luật khác điều chỉnh theo lĩnh vực. Trải qua quy trình vừa
họp pháp vừa hợp lý này, văn bản pháp luật được xây dựng, ban hành sẽ
đáp ứng yêu cầu về chất lượng, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước.
Thứ tư, văn bản pháp luật được trình bày theo hình thức do pháp luật quy định
Hình thức của văn bản pháp luật bao gồm tên loại văn bản và thể thức, kĩ thuật trình bày.
Hệ thống văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều loại văn
bản. Các loại văn bản này không chỉ khác nhau về tên gọi mà còn về cách
thức trình bày. Thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật cũng như cách
trình bày về hình thức của từng loại văn bản đều được Nhà nước quy định
cụ thể trong những văn bản khác nhau như Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015; Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020
của Chính phủ về công tác văn thư.
Khi soạn thảo văn bản để giải quyết công việc thuộc thẩm quyền, cơ quan
nhà nước cần căn cứ vào các quy định của pháp luật và nội dung, tính
chất công việc để lựa chọn loại văn bản đúng với thẩm quyền của mình
và phù họp với tình huống thực tế cần giải quyết, đồng thời cần phải trình
bày văn bản theo đúng thể thức mà pháp luật quy định.
Pháp luật cũng quy định các văn bản pháp luật cần được trình bày theo
kết cấu chung về hình thức văn bản như vị trí và cách thức thể hiện một
số chi tiết thuộc về mẫu trình bày văn bản (cỡ chữ, kiểu chữ, dấu gạch
chân...) cho mỗi đề mục hình thức: quốc hiệu, tên cơ quan ban hành...
Thứ năm, văn bản pháp luật luôn mang tính bắt buộc và được bảo đảm
thực hiện bởi Nhà nước
Vì có nội dung là ý chí của Nhà nước nên văn bản pháp luật luôn có tính
áp đặt, ràng buộc quyền, nghĩa vụ với đối tượng quản lý. Đe văn bản
được triển khai và thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế, Nhà nước sử dụng
nhiều biện pháp như phổ biến, tuyên truyền; biện pháp tổ chức, hành
chính; biện pháp cưỡng chế...
6. Phân loại văn bản pháp luật
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại văn bản pháp luật.
- Tiêu chí chủ thể ban hành: Văn bản pháp luật được chia thành văn bản
pháp luật của cơ quan lập pháp, văn bản pháp luật của cơ quan hành
pháp, văn bản pháp luật của cơ quan tư pháp.
- Tiêu chí hiệu lực pháp lý: Văn bản pháp luật được chia thành văn bản
luật và văn bản dưới luật.
- Tiêu chí về tính chất pháp lý: Văn bản pháp luật được chia thành văn
bản quy phạm pháp luật và vãn bản áp dụng pháp luật.
Những tiêu chí phân loại này thể hiện sự khác biệt bản chất nhất của văn bản pháp luật.
5. Cho ví dụ minh họa quan hệ pháp luật, từ đó phân tích các bộ
phận của qua hệ pháp luật đã cho.
Vào ngày 20/11/2020, chị B có vay của chị A một số tiền trị giá
500.000.000 đồng. Giữa A và B có lập hợp đồng cho vay, được công
chứng theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Với quan hệ pháp luật trên, có thể xác định:
Chủ thể của quan hệ pháp luật: chị A và chị B.
Chị A: có năng lực pháp luật (vì không bị Tòa án hạn chế
hay là tước đoạt năng lực pháp luật); có năng lực hành vi (đủ
tuổi và không mắc các bệnh theo quy định pháp luật). Vì thế,
chị A có năng lực chủ thể đầy đủ.
Chị B cũng có năng lực chủ thể đầy đủ, tương tự như chị A.
Khách thể của quan hệ pháp luật: khoản tiền vay 500.000.000 đồng và tiền lãi.
Nội dung của quan hệ pháp luật:
Với chị A: có quyền được nhận lại khoản tiền đã cho vay và
tiền lãi; có nghĩa vụ giao khoản tiền vay 500.000.000 đồng
cho chị B như đã thỏa thuận;
Với chị B: có quyền được nhận số tiền cho vay; có nghĩa vụ
phải trả cả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận trước đó.
6. Phân biệt điểm giống và khác nhau cơ bản giữa quan hệ pháp luật với quan hệ xã hội.
Sự khác nhau giữa quan hệ pháp luật với quan hệ xã hội khác
Quan hệ pháp luật và các quan hệ xã hội khác khác nhau ở các điểm cơ bản sau: Quan hệ pháp luật Quan hệ xã hội khác
- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã - Quan hệ xã hội khác là quan hệ xã
hội do pháp luật điều chỉnh nên luôn hội do các loại quy phạm xã hội
thế hiện ý chí của nhà nước thông khác như phong tục, tập quán, đạo
qua việc xác định các quan hệ xã
đức, luật tục hoặc quy phạm của các
hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, Tổ chức phi nhà nước... điều chỉnh
qua việc quy định điều kiện cho các nên không thể hiện ý chí của nhà
chủ thể tham gia quan hệ và qua
nước mà chỉ thế hiện ý chí của các
việc quy định quyền và nghĩa vụ
chủ thể cụ thể tham gia quan hệ đó
pháp lý cho các chủ thể tham gia
hoặc ý chí của các chủ thể đó cùng
vào quan hệ pháp luật đó. Bên cạnh với ý chí của các Tổ chức phi nhà
đó, quan hệ pháp luật còn thể hiện ý nước.
chí của các chủ thể cụ thể tham gia
vào quan hệ đó nhưng ý chí của các
chủ thể khác phải phù hợp, không
được trái với ý chí của nhà nước.
- Các bên chủ thể tham gia quan hệ - Các bên chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật có các quyền và nghĩa vụ xã hội khác có các quyền và nghĩa
pháp lý được nhà nước quy định
vụ được quy định trong phong tục,
hoặc thừa nhận và bảo đảm thực
tập quán, đạo đức, luật tực, tín điều hiện.
tôn giáo hoặc quy phạm của các tố
chức phi nhà nước... và được bảo
đảm thực hiện bằng thói quen, bằng
lương tâm, niềm tin nội tâm, bằng
dư luận xã hội hoặc bằng các biện
pháp cưỡng chế phi nhà nước.
7. Trình bày điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật. Cho ví dụ minh họa.
Cơ sở phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính
Cơ sở phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính là: Quy
phạm pháp luật, sự kiện pháp lí, năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan. Quan hệ pháp luật hành chính chỉ phát sinh thay đổi
chấm dứt khi có đủ 3 điều kiện này. Trong đó, quy phạm pháp luật hành
chính, năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức cá nhân liên quan là điều
kiện chung cho việc phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật
Hành chính còn sự kiện pháp lý hành chính là điều kiện thực tế cụ thể
trực tiếp làm phát sinh thay đổi chấm dứt các quan hệ đó.
Quy phạm pháp luật hành chính
Là một dạng cụ thể quy phạm pháp luật, được ban hành để điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính.
Quy phạm pháp luật hành chính tạo điều kiện tiền đề, là cơ sở ban đầu
cho sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính. Quy
phạm pháp luật hành chính quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quản lý hành chính nhà nước, quy định nội dung những quy tắc xử
sự của các bên tham gia quan hệ… Tuy nhiên, nếu không có các chủ thể
thì quan hệ pháp luật hành chính không thể phát sinh, thay đổi hay chấm
dứt, bản thân nó không tạo ra được quan hệ pháp luật hành chính mà phải
có những tình huống, những điều kiện cụ thể khác như chủ thể, sự kiện pháp lý.
+ Ðiều kiện và hoàn cảnh phát sinh quan hệ pháp luật hành chính, cơ cấu
tổ chức, mối quan hệ công tác giữa các chủ thể quản lý hành chính trong
quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước.
+ Thẩm quyền quản lý hành chính.
+ Quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ: Pháp lệnh công chức quy định nghĩa vụ, trách nhiệm quyền lợi của cán bộ công chức.
+ Các thủ tục hành chính và các trường hợp vi phạm hành chính.
+ Các biện pháp khen thưởng và cưỡng chế hành chính. Năng lực chủ thể
Năng lực chủ thể là khả năng pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham
gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể của quan hệ đó.
Thành phần của quan hệ pháp luật bao gồm:
+ Chủ thể của quan hệ pháp luật : Bao gồm cá nhân, pháp nhân và các tổ chức.
+ Khách thể của quan hệ pháp luật: Là những lợi ích vật chất, tinh thần và
những lợi ích xã hội khác có thể thỏa mãn những nhu cầu đòi hỏi của các
tổ chức hoặc cá nhân mà vì chúng các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp