Đề cương ôn tập Phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Khái niệm, đặc điểm, chức năng của nghiên cứu khoa học. Vấn đề nghiên cứu và các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu. Các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu và thẩm định vấn đề nghiên cứu. Khái niệm giả thuyết nghiên cứu, các phương pháp suy luận cơ bản để hình thành giả thuyết nghiên cứu. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC VÀ NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ***
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP BỘ MÔN
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của nghiên cứu khoa học.
- Khái niệm: Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa
học nhằm tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, ứng
dụng vào các quá trình xã hội để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần thoả
mãn nhu cầu của con người.
- Đặc điểm:
+ Tính mới và sự kế thừa: Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những
phát hiện mới hoặc sáng tạo những sự vật, những giải pháp quản lý và công
nghệ mới. Biểu hiện tính mới trong nghiên cứu khoa học là sự không chấp nhận
lặp lại về phương pháp, cách tiếp cận hay sản phẩm tạo ra. Con người dù đã đạt
được những thành tựu khoa học vĩ đại thì vẫn không ngừng tìm kiếm và sáng
tạo, liên tục chiếm lĩnh những đỉnh cao mới trong nhận thức và hiệu quả cải tạo
thế giới. Tính mới không mâu thuẫn mà bao hàm trong nó sự kế thừa những kết
quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước. Thành quả nghiên cứu khoa học
phụ thuộc vào thái độ của nhà khoa học trước những giá trị khoa học mà nhân loại đã sáng tạo ra.
+ Tính khách quan, tin cậy, trung thực của thông tin: Sản phẩm của
nghiên cứu khoa học là những tri thức thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
như bài báo khoa học, mẫu sản phẩm, mô hình sản xuất thí điểm,… song đều
đem đến cho người tiếp nhận những tri thức, thông báo và hiểu biết mới. Thông
tin là nguyên liệu của hoạt động nghiên cứu, là sản phẩm của nghiên cứu khoa
học. Đặc thù này đòi hỏi thông tin trong nghiên cứu phải đạt yêu cầu về sự
khách quan, trung thực, đa chiều và cập nhật. Đồng thời, quá trình nghiên cứu
chỉ có chất lượng khi nhà khoa học có những phẩm chất chính trị, đạo đức và
năng lực tư duy lý luận khoa học.
+ Tính mạnh dạn, mạo hiểm: Thất bại hay không thành công trong
nghiên cứu khoa học là điều có thể xảy ra. Thất bại trong nghiên cứu cũng được
xem là kết quả có ý nghĩa, sự thất bại ấy cần được tổng kết, lưu giữ như một tài
liệu khoa học, trở thành bài học kinh nghiệm quý giá cho người đi sau. Đặc
điểm này còn thể hiện ở sự vượt lên trên lối mòn và rào cản tâm lý, đề xuất
những ý tưởng nghiên cứu, phương pháp tiếp cận mới.
+ Tính phi kinh tế: Lợi ích kinh tế trước mắt không được xem là mục
đích trực tiếp, động lực duy nhất. Tính phi kinh tế trong nghiên cứu khoa học được thể hiện:
Lao động nghiên cứu khoa học khó định mức một cách chính xác như
trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Trong 1 số trường hợp, lao động khoa
học không thể định mức.
Những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như không thể
khấu hao bởi tần suất sử dụng không ổn định.
Hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định.
+ Tính cá nhân và vai trò của tập thể khoa học:
Trong nghiên cứu, những sáng tạo, những phát minh, sáng chế luôn gắn
với vai trò đột phá của cá nhân, các nhà khoa học đầu đàn. Tính cá nhân
thể hiện trong tư duy và chủ kiến độc đáo của nhà nghiên cứu.
Trong hoạt động nghiên cứu, cá nhân không thể tách rời tập thể khoa học.
Tập thể khoa học là môi trường nâng đỡ cho sự ra đời ý tưởng mới của cá
nhân, phản biện, hoàn thiện ý tưởng ấy, tập trung trí tuệ thực hiện quá trình nghiên cứu. - Chức năng:
+ Mô tả: Trong nghiên cứu khoa học, sự vật được mô tả chân thực như
sự tồn tại, vận động vốn có của nó. Mô tả giúp con người nhận dạng, phân biệt
sự vật hiện tượng ấy với sự vật hiện tượng khác thông qua những dấu hiệu của
nó. Mô tả gồm mô tả định lượng (chỉ rõ đặc trưng về lượng của sự vật) và mô tả
định thức (cho phép nhận thức đặc trưng về chất của sự vật).
+ Giải thích: Giải thích trong nghiên cứu khoa học là lãm rõ căn nguyên
dẫn đến sự hình thành, phát triển và quy luật chi phối quá trình vận động của sự
vật hiện tượng. Trong nghiên cứu khoa học, giải thích bao gồm làm rõ nguồn
gốc, mối quan hệ, sự tương tác giữa các yếu tố cấu thành sự vật và giữa sự vật
hiện tượng ấy với sự vật hiện tượng khác. Mục đích của giải thích là đưa ra
thông tin về thuộc tính bản chất của sự vật nhằm nhận thức cả những thuộc tính bên trong sự vật. + Tiên đoán, dự :
báo nhìn trước quá trình hình thành, sự vận động và
biến đổi của sự vật hiện tượng trong tương lai. Tiên đoán được thực hiện trên cơ
sở mô tả và giải thích. Với phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, con
người có thể tiên đoán với độ chuẩn xác cao về nhiều hiện tượng, quá trình diễn
ra trong tự nhiên, xã hội. Trong nghiên cứu khoa học, mặc dù thừa nhận khả
năng tiên đoán của con người về sự vật, hiện tượng song chúng ta cần chấp
nhận sự sai lệch nhất định trong chính khả năng ấy.
+ Sáng tạo: làm ra 1 sự vật mới chưa từng tồn tại. Sứ mệnh lớn lao của
khoa học là sáng tạo ra các giải pháp nhằm cải tạo thế giới. Đó có thể là những
phương pháp, phương tiện, cách thức tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của con người, có thể là những giải pháp kỹ thuật trong sản xuất, nguyên
lý công nghệ mới, vật liệu hay sản phẩm mới.
2. Vấn đề nghiên cứu và các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu.
- Khái niệm: Vấn đề nghiên cứu là những mâu thuẫn nhà nghiên cứu phát
hiện trong quá trình quan sát sự kiện.
+ Bản chất của vấn đề nghiên cứu là mâu thuẫn đang đặt ra yêu cầu
nhận thức và giải quyết, mâu thuẫn thuộc về khách thể, gắn với khách thể, là cái
vốn có của hiện thực khách quan.
+ Vấn đề nghiên cứu được phát hiện trong quá trình quan sát sự kiện tồn
tại trong tự nhiên và đời sống xã hội. Trong nghiên cứu khoa học, quan sát có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Bản chất của quan sát thường đặt ra những câu hỏi,
từ đó đặt ra vấn đề nghiên cứu. Vấn đề nghiên cứu là cơ sở giúp cho nhà khoa
học chọn chủ đề nghiên cứu: đặt câu hỏi/ đặt vấn đề, phát hiện được vấn đề
nghiên cứu là bước khởi đầu thành công cho công trình nghiên cứu. Câu hỏi
nghiên cứu là biểu hiện của mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận thức của chủ thể với
vốn tri thức đã có, giữa mong muốn của nhà nghiên cứu với những gì đang diễn
ra trong hiện thực. Câu hỏi nghiên cứu biểu hiện nhu cầu nhận thức và cải tạo
xã hội của bản thân nhà nghiên cứu, mang tính chủ quan.
⇨ Vấn đề nghiên cứu là những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn mà nhà
khoa học muốn giải quyết (TS. Lê Thị Anh)
- Các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu:
+ Phát hiện những “kẽ hở” trong các tài liệu khoa học
Đọc tài liệu nghiên cứu giúp cho nhà khoa học phát hiện “vấn đề”.
Đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu.
Thấy điều gì đó chưa rõ.
Nghiên cứu tài liệu là một phương thức quan trọng để phát hiện vấn đề nghiên cứu.
Nhiều ý tưởng mới nảy sinh.
Phát hiện những kiến giải không còn phù hợp.
Tri thức mà tài liệu khoa học ấy chuyền tải trở nên mâu thuẫn, không đáp
ứng được nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Khi nhà nghiên cứu phản biện các công trình khoa học của đồng nghiệp
có thể phát hiện ra những nội dung chưa được nhận thức và giải quyết.
⇨ Để có thể phát hiện vấn đề nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu tài
liệu đòi hỏi nhà khoa học phát huy tính phân tích, phản biện của tư duy.
+ Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học:
Các hội thảo, hội nghị khoa học,… đôi khi có những bất đồng, tranh cãi
và tranh luận về một vấn đề khoa học giúp cho các nhà khoa học nhận
thấy mặt yếu, mặt hạn chế của vấn đề -> người nghiên cứu phải phân tích,
nhận định và chọn lọc, rút ra vấn đề cần nghiên cứu.
Trước những ý kiến trái chiều, người nghiên cứu khoa học có thể nhận
dạng vấn đề cần giải quyết thấu đáo và sâu sắc hơn.
Tranh luận khoa học là điều kiện, môi trường tốt cho sự nhận diện vấn đề
nghiên cứu và hình thành ý tưởng nghiên cứu.
Trong tranh luận, nhà khoa học phát hiện mặt mạnh, yếu trong nghiên cứu của đồng nghiệp.
+ Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn:
Vấn đề khoa học được phát hiện từ nhu cầu đổi mới nội dung, phương
pháp làm việc trong lĩnh vực công tác chuyên môn -> nhà khoa học phải
có ý thức trách nhiệm cao, tích cực trong lao động, yêu nghề.
Sự phản ánh của quần chúng nhân dân: Những ý kiến đánh giá đã lạc hậu,
chưa hợp lý, thiếu tính toàn diện, thậm chí là sai lầm,… luôn là gợi ý tốt
nhất cho các nhà khoa học về vấn đề nghiên cứu.
Nghĩ ngược lại quan điểm thông thường: Nhà khoa học cần có thái độ
hoài nghi khoa học, không tự bằng lòng với tri thức đã có, phải lật đi lật
lại vấn đề, đặt hướng giải quyết khác biệt,thậm chí trái ngược với những
kiến giải/ phương pháp đã được thừa nhận rộng rãi.
3. Các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu và thẩm định
vấn đề nghiên cứu.
- Khái niệm: Thẩm định vấn đề nghiên cứu là quá trình xem xét nhằm
củng cố ý tưởng nghiên cứu, loại bỏ hướng nghiên cứu không phù hợp để chuẩn
bị xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
- Phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cứu:
+ Thay đổi phương thức quan sát: Tuỳ theo vấn đề nghiên cứu và đối
tượng nghiên cứu mà ta lựa chọn phương thức quan sát phù hợp. Có nhiều loại
quan sát: quan sát có chuẩn bị, quan sát không chuẩn bị, quan sát có tham dự,
quan sát không tham dự,… Khi phương thức quan sát cũ không đưa ta đến kết
quả mong muốn thì phải thay đổi.
+ Mở rộng phạm vi quan sát: trong quá trình thẩm định vấn đề nghiên
cứu, trong nhiều trường hợp, ta phải mở rộng phạm vi quan sát. Mở rộng phạm
vi quan sát giúp ta mở rộng tầm hiểu biết về vấn đề nghiên cứu mà ta đang thẩm
định. Nếu chỉ quan sát trong phạm vi hẹp có thể ta chưa đủ cơ sở để thẩm định,
đánh giá một vấn đề nghiên cứu nào đó. Mở rộng phạm vi quan sát có thể là mở
rộng phạm vi về thời gian, có thể là mở rộng phạm vi về không gian hoặc cả hai.
+ Thu thập tài liệu: Thu thập tài liệu đầy đủ, phù hợp giúp chúng ta có
cơ sở, dữ liệu để thẩm định vấn đề nghiên cứu. Qua tài liệu thu thập được, ta sẽ
có cái nhìn bao quát, toàn diện, có được những thông tin đầy đủ về tình hình
nghiên cứu của vấn đề. Ta sẽ biết được thành tựu nghiên cứu của vấn đề đó đạt
đến mức độ nào, còn mảng nào chưa được nghiên cứu,… Tài liệu thu thập được
là một kênh thông tin quan trọng giúp chúng ta thẩm định chính xác vấn đề nghiên cứu.
+ Trao đổi với đồng nghiệp, nhất là trao đổi với những người đã hoặc
đang nghiên cứu những vấn đề có tính liên quan với vấn đề ta đang thẩm định,
sẽ giúp ta nắm rõ thêm tình hình nghiên cứu, có thêm cơ sở để thẩm định chính
xác, tránh được những cảm nhận chủ quan.
4. Khái niệm giả thuyết nghiên cứu, các phương pháp suy luận cơ
bản để hình thành giả thuyết nghiên cứu.
- Khái niệm: Giả thuyết nghiên cứu (Giả thuyết khoa học) là một kết luận
giả định về bản chất, biện pháp tác động đến một hiện tượng hay một quá
trình xã hội đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu.
- Các phương pháp suy luận cơ bản để hình thành giả thuyết nghiên cứu:
+ Suy luận quy nạp:
Là hình thức suy luận trong đó kết luận là tri thức chung được khái quát
từ những tri thức cụ thể hơn đã được trình bày trước đó. Có thể nói suy
luận quy nạp là suy luận đi từ cụ thể đến khái quát.
Phương pháp xét tất cả các lớp đối tượng nghiên cứu rồi rút ra kết luận về
thuộc tính, tính chất chung của chúng là quy nạp hoàn toàn. Ngược lại,
kết luận thu được bằng cách chỉ xét một số bộ phận của lớp đối tượng gọi
là quy nạp không hoàn toàn. + :
Suy luận diễn dịch
Khi đã có những khái quát về thuộc tính chung của một số loại đối tượng,
người ta xây dựng những kết luận về các sự vật, hiện tượng mới trong cùng tập hợp.
Diễn dịch trực tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ một
tiền đề. Diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ nhiều tiền đề.
5. Yêu cầu cơ bản của quá trình kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
- Một giả thuyết đưa ra cần được kiểm chứng dựa trên những căn cứ khoa
học. Kết quả kiểm chứng là sự khẳng định hay phủ định giả thuyết. Quá trình
này bao gồm 3 bộ phận hợp thành: + : Luận đề
Là phán đoán do nhà nghiên cứu đưa ra và tính chân thực của nó cần
được chứng minh/ bác bỏ.
Phải được trình bày rõ ràng, xác định và đơn nghĩa.
Đúng với văn phong khoa học. + Luận cứ:
Là những căn cứ, những bằng chứng, phán đoán chân thực, có mối quan
hệ trực tiếp với luận đề, dùng để chứng minh (hoặc bác bỏ) luận đề.
Tính chân xác của luận cứ được công nhận và sử dụng làm tiền đề chứng minh luận đề. + Luận chứng:
Là cách thức tổ chức, nối kết các luận cứ và liên hệ giữa các luận cứ với
luận đề nhằm khẳng định/ phủ định luận đề ấy.
Luận chứng gồm 1 chuỗi các phép suy luận khác nhau được liên kết theo trật tự xác định.
Luận chứng phải thực hiện theo đúng các quy tắc suy luận.
6. Các phương pháp kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
- Chứng minh giả thuyết:
+ Là hình thức suy luận trong đó người nghiên cứu dựa vào những luận cứ để
khẳng định tính chân xác của luận đề. + Có 2 cách thực hiện:
Chứng minh trực tiếp: phép chứng minh dựa vào những luận cứ chân
thực và bằng các quy tắc quy luật để khẳng định tính chân xác của giả thuyết.
Chứng minh gián tiếp: là phép chứng minh trong đó tính chân xác của
luận đề được khẳng định khi nhà nghiên cứu đã chứng minh tính phi chân
xác của phản luận đề, tức là việc khẳng định phản luận đề là giả dối, nhà
nghiên cứu rút ra luận đề là chân thực. Chứng minh gián tiếp tiếp tục
được chia thành 2 loại:
Chứng minh phản chứng: tính chân xác của giả thuyết được chứng minh
bằng tính phi chân xác của phản luận đề, tức là 1 giả thuyết đặt ngược lại
với giả thuyết ban đầu.
Chứng minh phân liệt: chứng minh gián tiếp dựa trên cơ sở loại bỏ 1 số
luận cứ này để khẳng định luận cứ khác. Chứng minh phân liệt còn được
gọi là chứng minh bằng phương pháp loại trừ.
- Bác bỏ giả thuyết:
+ Là hình thức chứng minh nhằm chỉ rõ tính phi chân xác, sai lầm của 1
giả thuyết. Bác bỏ giả thuyết được thực hiện khi phủ định cả 3 hoặc 1 trong 3
thành tố cấu thành của quá trình kiểm chứng.
Bác bỏ luận đề: 1 luận đề bị bác bỏ khi người nghiên cứu chứng minh
được rằng luận đề không hội tụ đủ các điều kiện của 1 giả thuyết, không
thoả mãn các tiêu chí của một giả thuyết.
Bác bỏ luận cứ: Nhà nghiên cứu chứng minh rằng luận cứ được sử dụng
để chứng minh luận đề là sai, thiếu luận cứ để rút ra kết luận.
Bác bỏ luận chứng: vạch rõ tính phi logic, sự vi phạm nguyên tắc trong chứng minh.
7. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học và các cấp độ phương
pháp nghiên cứu khoa học.
- Khái niệm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là lý luận về phương
pháp nhận thức và cải tạo thế giới. Phương pháp luận nghiên cứu là hệ
thống các quan điểm có tính nguyên tắc mà nhà nghiên cứu coi là cơ sở,
điểm xuất phát cho việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cũng như dự kiến phạm vi, mức độ sử dụng phương pháp ấy để đạt được
mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là lý luận về phương pháp nghiên cứu khoa học:
Theo Vũ Cao Đàm: “phương pháp luận” là “lý luận về phương pháp”.
Đó là những tư tưởng, quan điểm, quan niệm, giải thích,… về phương
pháp nghiên cứu khoa học.
+ Phương pháp luận nghiên cứu là hệ thống các quan điểm có tính nguyên tắc:
Nguyên tắc là điều mà nhà khoa học phải tuân thủ.
Hệ thống các quan điểm có tính nguyên tắc: phương pháp biện chứng
mác xít, luận điểm, lý thuyết, góc tiếp cận đặc thù của mỗi ngành khoa
học, lý luận về phương pháp nghiên cứu cụ thể của từng đề tài.
+ Phương pháp luận là cơ sở, điểm xuất phát cho việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận nghiên cứu chi phối hoạt động nghiên cứu của nhà khoa học.
Dựa vào phương pháp luận nghiên cứu, nhà khoa học lựa chọn, sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể để đạt được mục tiêu và nhiệm cụ nghiên cứu. ⇨
Phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn nhà nghiên cứu trên
con đường tìm tòi nghiên cứu. Nắm vững phương pháp luận là điều kiện thiết
yếu để thành công trong nghiên cứu khoa học.
- Các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học
+ Phương pháp luận chung nhất: Là phương pháp luận triết học –
những quan điểm, nguyên tắc chung nhất, xuất phát điểm cho việc lựa chọn và
sử dụng các phương pháp bộ môn và phương pháp luận chung, chi phối cả
phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt động thực tiễn
+ Phương pháp luận chung (Phương pháp luận bộ môn): Là phương
pháp luận của từng ngành khoa học cụ thể. Đó là những luận điểm, lý thuyết cơ
bản, góc tiếp cận đặc thù của mỗi ngành khoa học cụ thể. Mỗi 1 bộ môn khoa
học đều có phương pháp luận của riêng mình.
+ Phương pháp luận riêng: Là phương pháp luận của mỗi 1 đề tài cụ
thể. Mỗi 1 đề tài cụ thể đều có hệ thống quan điểm, nguyên tắc mà người nghiên
cứu xác định. Nó là cơ sở, điểm xuất phát cho việc lựa chọn, sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể. ⇨
Các cấp độ phương pháp luận độc lập tương đối, hợp thành hệ
thống khoa học về phương pháp chỉ đạo việc lựa chọn và sử dụng các phương
pháp cụ thể sao cho khoa học, hiệu quả.
8. Quy trình thực hiện và yêu cầu của phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin
khoa học trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu đã có, thông qua các thao tác
tư duy để rút ra kết luận khoa học. Với phương pháp này người nghiên
cứu không có bất kỳ sự quan sát trực tiếp nào lên đối tượng nghiên cứu,
song phương pháp đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có lý thuyết “nền” làm
căn cứ xuất phát như thế giới quan, quan điểm, lập trường tư tưởng để có
thái độ tiếp nhận và cách thức xử lý thông tin phù hợp.
- Quy trình thực hiện và yêu cầu của phương pháp nghiên cứu tài liệu:
+ Thu thập và phân loại tài liệu:
Thu thập tài liệu là bước đầu tiên, cần thiết và quan trọng cho bất kỳ hoạt
động nghiên cứu khoa học nào, giúp nhà nghiên cứu tránh được sự trùng
lặp với các nghiên cứu đã hoàn thành, giúp nhà nghiên cứu có thêm kiến
thức về lĩnh vực nghiên cứu đang theo đuổi. Từ giả thuyết khoa học, nhà
nghiên cứu tiến hành xác định nguồn tài liệu, tìm kiếm và lựa chọn tài
liệu cần thiết nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để
chứng minh giả thuyết khoa học của mình.
Phân loại tài liệu: được tiến hành sau khi thu thập tài liệu để chuẩn bị cho
quá trình đọc, khai thác nội dung. Phân loại tài liệu là phương pháp sắp
xếp tài liệu khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng
đơn vị kiên thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu theo mục đích
sử dụng của nhà nghiên cứu. Hình thức phân loại phổ biến là theo tên tác
giả, thời gian công bố, hình thức công bố,…
+ Phân tích và tổng hợp tài liệu:
Phân tích tài liệu: là phương pháp nghiên cứu tài liệu về 1 chủ đề bằng
cách tách chúng thành từng bộ phận, từng mặt, từng vấn đề để hiểu chúng
sâu sắc, tìm thông tin phục vụ vấn đề nghiên cứu. Thông qua việc phân
tích hình thức tài liệu, xác định nguồn tài liệu, tác giả, nơi công bố, hình
thức công bố tài liệu,… nhà nghiên cứu xác định mức độ phải xử lý tài
liệu theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Sau đó, người
nghiên cứu tiến hành phân tích một số tiêu chí cơ bản về nội dung tài liệu.
Theo cách này, người nghiên cứu lập 1 phiếu phân tích đối với mỗi tài
liệu hay nhóm tài liệu cụ thể.
Tổng hợp tài liệu: là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông
tin từ tài liệu thu thập được nhằm tạo ra 1 cách hiểu đầy đủ và sâu sắc về
chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp tài liệu được thực hiện trên cơ sở kết quả
phân tích tài liệu, cho phép nhà nghiên cứu có những thông tin toàn diện
và khái quát về vấn đề nghiên cứu dựa trên những tài liệu đã có. Tổng
hợp tài liệu giúp xác định tính tương thích của tài liệu so với mục tiêu
nhiệm vụ nghiên cứu, lựa chọn tư liệu cần và đủ, sắp xếp chúng theo tiến
trình thời gian hay quan hệ nhân quả.
+ Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu:
Đọc tài liệu: gắn liền với hành vi tư duy. Yêu cầu đạt được khi đọc tài
liệu là ghi nhớ được tên tài liệu, nguồn, tác giả tài liệu, nội dung cơ bản,
những dữ kiện được đề cập đến trong tài liệu, khả năng sử dụng chúng
trong giải quyết vấn đề khoa học cùa nhà nghiên cứu. Đối với từng tài
liệu, căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu của từng đề tài có những cách đọc khác nhau.
Đọc thông thường: đối với tài liệu không cần thiết phải quá ghi nhớ và chú ý nhiều.
Đọc nhanh: yêu cầu ghi nhớ những thông tin căn bản trong tài liệu với tốc độ nhanh.
Đọc trượt: đọc chọn lọc, mắt lướt theo toàn bộ nội dung nhưng chỉ chú ý những đoạn cần thiết.
Đọc quét: đọc chọn lọc, mắt không lướt toàn bộ nội dung mà chỉ lướt
những phần có thể có thông tin ẩn.
Đọc sâu: đối với những tài liệu chuyên môn phức tạp, yêu cầu nhà nghiên
cứu phải suy nghĩ và phân tích ngay trong quá trình đọc. ⇨
Để thu được thông tin hiệu quả, nhà nghiên cứu cần điều chỉnh tốc
độ đọc, phương pháp đọc phù hợp. Trình tự đọc thông thường là đọc tổng quát
tài liệu nhằm xác định những phần, những trang phải đọc kỹ, đọc kỹ những
phần đã đánh dấu và tiến hành ghi chép.
Ghi chép tài liệu: Sau khi đọc lướt toàn bộ tài liệu, nhà khoa học tiến
hành đọc kỹ và ghi chép những nội dung tài liệu có ý nghĩa và liên quan
đến vấn đề nghiên cứu của mình.
+ Tóm tắt khoa học: được thực hiện sau khi nhà nghiên cứu tiến hành
đọc và ghi chép tài liệu, trên cơ sở các kết quả thu được của việc đọc và ghi
chép tài liệu. Tóm tắt để loại bỏ những thông tin không cần thiết trong tài liệu
đã thu thập, cô đọng và làm bật lên nội dung của tài liệu. Tuỳ vào nội dung vấn
đề nghiên cứu và nội dung thông tin tài liệu, tóm tắt tài liệu có thể khác nhau về
độ dài, mức độ chi tiết, có đánh giá, phê phán, tóm tắt toàn bộ hay từng phần,…
Tóm tắt lược thuật: Bản lược thuật đạt trình độ khách quan, khoa học làm
căn cứ tin cậy của đề tài dựa trên yêu cầu: vấn đề tài liệu nêu phải được
lược thuật đầy đủ theo trình tự thời gian, đảm bảo tính lịch sử, logic,
tránh lược thuật các vấn đề bằng cách tách rời, cô lập vấn đề khỏi bối
cảnh tồn tại của nó. Bản lược thuật cần ngắn gọn, súc tích về nội dung,
đảm bảo tính chính xác của các thuật ngữ mà tài liệu trình bày.
Tóm tắt tổng thuật: trình bày tổng hợp 1 hay 1 số vấn đề liên quan đến
mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu. Yêu cầu tóm tắt tổng thuật
cũng như lược thuật nhưng phải có sự liên hệ, so sánh, bình luận, phê
phán 1 cách sơ bộ các thông tin đó. Bản tổng thuật tài liệu cần đảm bảo
tính khách quan khoa học của các tài liệu khảo cứu.
9. Trình bày các phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa
học và nêu ví dụ minh hoạ.
- Theo diễn trình thời gian tiến hành thực nghiệm:
+ Thực nghiệm cấp diễn: là thực nghiệm để xác định sự tác động của các
giải pháp hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên đối tượng nghiên cứu trong một
thời gian ngắn. VD: Thực nghiệm một phản ứng hoá học trong phòng thí
nghiệm diễn ra trong vài giây, vài ngày,...
+ Thực nghiệm trường :
diễn là thực nghiệm nhằm xác định sự tác động
của các giải pháp hoặc ảnh hưởng của tác nhân lên đối tượng nghiên cứu lâu
dài, liên tục. VD: Để nhân rộng hình thức dạy học theo tín chỉ ở các trường đại
học, Bộ Giáo dục đào tạo và một số trường đại học đã có những thí điểm kéo
dài trong nhiều năm, theo khoá đào tạo. Sau đó thấy được những điểm mạnh vê
niên chế thì phương thức dạy học này đã được áp dụng phổ biến ở tất cả các trường đại học.
+ Thực nghiệm bán cấp diễn: diễn ra ở mức độ trung gian giữa 2 quá
trình thực nghiệm cấp diễn và trường diễn. VD: Thực nghiệm đối với sự phát
triển của cây ngô trong 3 tháng. Ta thực nghiệm bằng cách bón 1 loại phân bón
mới cho cây ngô, theo dõi và tìm hiểu sự sinh trưởng trong thời gian 3 tháng.
- Theo nơi tiến hành thực nghiệm
+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: Người nghiên cứu hoàn toàn
chủ động tạo dựng mô hình thực nghiệm và khống chế các tham số. VD: Thí
điểm 1 phương pháp dạy học trong một lớp học.
+ Thực nghiệm tại hiện trường: Người nghiên cứu được tiếp cận những
điều kiện hoàn toàn thực nhưng lại bị hạn chế về khả năng khống chế các tham
số và các điều kiện nghiên cứu. VD: Tướng Hoàng Minh Thảo đã thực hiện 1
thực nghiệm cho di chuyển quân theo cách của vua Quang Trung ngày xưa, đó
là cách di chuyển quân từ nam ra bắc, từ Phú Xuân ra Ngọc Hồ. Tướng Hoàng
Minh Thảo cho quân hành quân như vậy để xem xem quân có đạt được tốc độ
chuyển quân giống như trong sử sách đã ghi hay không?
+ Thực nghiệm trong quần thể xã hội: là dạng thực nghiệm được tiến
hành trên một cộng đồng người trong những điều kiện sống của họ. Trong thực
nghiệm này, người nghiên cứu thay đổi các điều kiện sinh hoạt, cách thức tổ
chức, quản lý,… của đối tượng. VD: Thí điểm cải tiến quản lý ở 1 doanh nghiệp
nào đó, người ta thay đổi phương thức quản lý ngay trong 1 doanh nghiệp nào đó.
- Theo mục đích thực nghiệm:
+ Thực nghiệm thăm dò: được tiến hành để phát hiện bản chất của sự
vật, hiện tượng. Loại thực nghiệm này được sử dụng để nhận dạng vấn đề và
xây dựng giả thuyết. VD: Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng nhu cầu
thị trường, nhà nghiên cứu của công ty X đã thiết kế và đưa ra thị trường một
sản phẩm mới. Công ty X làm thử sản phẩm mẫu, khuyến khích người tiêu dùng
sử dụng rồi từ đó thu thập ý kiến phản hồi để quyết định chiến lược sản xuất kinh doanh sản phẩm đó.
+ Thực nghiệm kiểm chứng: dùng để kiểm chứng các giả thuyết, là
những thực nghiệm nhằm tìm kiếm các luận cứ để chứng minh cho giả thuyết
nghiên cứu. VD: Với giả thuyết phương thức dạy học tín chỉ đều có ưu, nhược
điểm. Người nghiên cứu đi tìm các luận cứ để chứng minh cho điều này.
+ Thực nghiệm song hành: là những thực nghiệm được tiến hành đối với
2 hay nhiều đối tượng khác nhau trong những điều kiện thực nghiệm như nhau
nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của cùng 1 điều kiện thực nghiệm lên những
đối tượng khác nhau. VD: Để đánh giá hiệu quả của một loại phân bón, người ta
bón cùng một loại phân cho các loại cây trồng khác nhau. Từ đó theo dõi và rút
ra kết luận về tác dụng của loại phân đó đối với các loại cây trồng khác.
+ Thực nghiệm đối nghịch: là những thực nghiệm được tiến hành trên
hai hay nhiều đối tượng giống nhau trong các điều kiện thực nghiệm ngược
chiều nhau, nhằm quan sát kết quả của các phương thức tác động của các điều
kiện thực nghiệm lên các đối tượng đó. VD: Nhóm nghiên cứu tổ chức thực
nghiệm dựa trên hai nhóm sinh viên cùng một khoa áp dụng một phương pháp
đọc sách, nghiên cứu cùng một tài liệu. Một nhóm đọc trong thư viện với các
điều kiện tốt nhất còn nhóm kia đọc tại sân trường vào giờ ra chơi. Kết quả thu
được của mỗi nhóm sẽ đánh giá hiệu quả của phương pháp, đồng thời cho thấy
tác động của điều kiện môi trường đối với đọc sách.
+ Thực nghiệm đối chứng: là thực nghiệm được tiến hành đối với 1
trong 2 (hay trong nhóm) đối tượng giống nhau. Một trong 2 đối tượng giống
nhau đó được chọn làm thực nghiệm, đối tượng còn lại là đối chứng của đối
tượng thực nghiệm. Thực nghiệm này nhằm tìm chỗ khác biệt giữa đối tượng
được thực nghiệm và đối tượng không được thực nghiệm. VD: Tổ chức 2 nhóm
sinh viên có trình độ như nhau, cùng học 1 nội dung nhưng bằng 2 phương pháp
dạy học khác nhau. Một nhóm sinh viên được học theo phương pháp mới, còn
một nhóm vẫn được dạy học phương thức truyền thống, không có gì thay đổi.
Nhóm được dạy theo phương pháp mới được gọi là nhóm thực nghiệm, còn
nhóm được dạy bằng phương pháp truyền thống gọi là nhóm đối chứng. Sau đó
người ta sẽ tìm hiểu, điều tra,… để rút ra kết luận về tác dụng, ưu/ nhược của
phương pháp dạy học mới.
10. Trình bày các phương pháp nghiên cứu được phân loại theo logic biện chứng.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp:
+ Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ thành từng bộ phận để
đi sâu nhận thức các bộ phận đó.
+ Tổng hợp là phương pháp thống nhất các bộ phận đã được phân tích
nhằm nhận thức cái toàn bộ.
+ Đây là 2 phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất giúp tìm
hiểu đối tượng như 1 chỉnh thể toàn vẹn. Phải kết hợp chúng với nhau để hiểu
được thực chất đối tượng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên cứu nhất
định, mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng của mình.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch:
+ Quy nạp là phương pháp suy luận từ tiền đề chứa tri thức riêng đến kết
luận chứa tri thức chung.
+ Diễn dịch là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa tri thức chung
đến kết luận chứa tri thức riêng.
+ Đây là 2 phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất giúp phát
hiện những tri thức mới về đối tượng. Phải kết hợp chúng với nhau mới hiểu
được thực chất đối tượng.
Đối lập: Quy nạp dùng để khái quát tài liệu quan sát, thí nghiệm nhằm
xây dựng giả thuyết, nguyên lý, định luật tổng quát của khoa học. Vì vậy
nó có giá trị lớn trong khoa học thực nghiệm. Diễn dịch dùng để cụ thể
hoá các giả thuyết, nguyên lý, định luật tổng quát của khoa học. Vì vậy,
diễn dịch, đặc biệt là phương pháp giả thuyết – diễn dịch, phương pháp
tiên đề có giá trị lớn trong khoa học lý thuyết.
Thống nhất: Quy nạp xây dựng tiền đề cho diễn dịch, diễn dịch bổ sung
thêm tiền đề cho quy nạp thêm chắc chắn. Không có quy nạp thì không
hiểu được cái chung tồn tại trong cái riêng như thế nào, ngược lại không
có diễn dịch thì không hiểu được cái riêng có liên hệ với cái chung ra sao.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên cứu nhất định, mỗi phương
pháp vẫn có ưu thế riêng của mình.
- Phương thức lịch sử - logic:
+ Phương pháp lịch sử là phương pháp đòi hỏi phải tái hiện lại trong tư
duy quá trình lịch sử - cụ thể với những chi tiết của nó, nghĩa là phải nắm lấy sự
vận động, phát triển lịch sử của sự vật trong toàn bộ tính phong phú của nó.
+ Phương pháp logic là phương pháp đòi hỏi vạch ra bản chất, tính tất
nhiên – quy luật của quá trình vận động, phát triển của sự vật dưới hình thức
trừu tượng và khái quát của nó. Tức là loại bỏ cái ngẫu nhiên, vụn vặt ra khỏi
tiến trình nhận thức sự vận động, phát triển của sự vật.
+ Đây là 2 phương pháp đối lập nhưng thống nhất biện chứng giúp xây
dựng hình ảnh cụ thể và sâu sắc về sự vật. Muốn hiểu bản chất và quy luật sự
vật phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó, đồng thời nắm được bản chất,
quy luật của sự vật mới nhận thức được lịch sử của nó. Khi nghiên cứu cái lịch
sử, phương pháp lịch sử cũng phải dựa trên logic để phân tích sự kiện, biến cố.
Khi tìm hiểu bản chất, quy luật, phương pháp logic cũng dựa trên các tài liệu
lịch sử để uốn nắn, chỉnh lý chúng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên
cứu nhất định, mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng của mình.
- Phương pháp đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể:
+ Từ cụ thể đến trừu tượng là phương pháp đòi hỏi phải xuất phát từ
những tài liệu cảm tính thông qua phân tích xây dựng các khái niệm đơn giản,
những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính sự vật.
+ Từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp đòi hỏi phải xuất phát từ
những khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng thông qua tổng hợp
biện chứng đi đến cái cụ thể.
+ Nhận thức khoa học là sự thống nhất của 2 quá trình nhận thức đối
lập: từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể. Mỗi phương pháp đều
có vị trí khác nhau trong quá trình nhận thức chân lý khách quan. Mỗi phương
pháp có tính độc lập nhưng thống nhất trong quá trình nhận thức sự vậy, chúng
hỗ trợ, bổ sung và cung cấp những tri thức thu được để quá trình nhận thức đạt đến chân lý.
11. Trình bày phương pháp thực hiện phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
(*) Đặc điểm:
- Điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp người nghiên cứu thiết kế sẵn 1
phiếu hỏi những câu trả lời được sắp xếp theo trật tự logic nhất định để có được
thông tin về đối tượng.
- Ưu điểm: cho phép tiến hành nghiên cứu trên 1 địa bàn rộng, nhiều người
tham gia, có thể thu thập được ý kiến của 1 số lượng lớn nghiệm viên. Song
thành công phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cả năng lực, kỹ năng của
nhà nghiên cứu, trạng thái tâm lý, nhận thức và mức độ hợp tác của người được
hỏi cũng như môi trường, tình huống triển khai phương pháp.
(*) Trong phương pháp điều tra bảng hỏi, cần chú ý đến việc chọn mẫu và
thiết kế bảng hỏi: - Chọn mẫu:
+ Mẫu điều tra là tập hợp được lựa chọn, có đủ các yếu tố có tính chất
tiêu biểu, được rút ra từ 1 tập hợp lớn thuộc nhóm đối tượng nhà nghiên cứu
quan tâm. Điều tra chọn mẫu là điều tra không toàn bộ, trong đó người ta ngẫu
nhiên 1 số đơn vị trong tổng tể nghiên cứu để điều tra, rồi dùng kết quả thu thập
được tính toán suy rộng cho toàn bộ tổng thể.
+ Chọn mẫu trong phương pháp này giúp quá trình nghiên cứu giảm chi
phí, thời gian, đảm bảo số liệu, dữ liệu thu được phản ánh chính xác nhóm đối tượng.
+ Tính đại diện của mẫu thụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố sau:
Mẫu có tính đại diện nếu tất cả các thành viên của tổng thể đều có cơ hội
ngang bằng để được lựa chọn vào mẫu.
Mẫu đại diện cho tổng thể nếu bản chất, cấu trúc của nó phản ánh bản
chất, cấu trúc tổng thể.
Mẫu không đại diện cho mọi khía cạnh của tổng thể mà chỉ giới hạn đến
những đặc tính phù hợp với nhu cầu cơ bản của mục tiêu nghiên cứu.
Phụ thuộc vào kích cỡ mẫu, tính đồng nhất của mẫu. Mẫu càng lớn, càng
đồng nhất thì tính đại diễn càng cao.
+ Một số cách chọn mẫu:
Lấy ngẫu nhiên đơn giản: người nghiên cứu có thể rút thăm hoặc sử dụng
bảng ngẫu nhiên để lấy mẫu.
Lấy ngẫu nhiên hệ thống: người nghiên cứu cần lập danh sách các phần
tử hiện có rồi tuỳ kích thuóc mẫu mà chọn bước nhảy.
Chọn mẫu hệ thống phân tầng: dựa trên cơ sở phân chia đối tượng thành
nhiều lớp, mỗi lớp có đặc trưng thống nhất. Đối với mỗi lớp, người
nghiên cứu thực hiện kỹ thuật lấy mẫu có hệ thống.
Chọn mẫu phân nhóm: việc phân nhóm có hiệu quả khi tổng thể nghiên
cứu không thuần nhất theo dấu hiệu nghiên cứu. Trong mỗi nhóm, chỉ
chọn 1 hay 1 số phần tử để điều tra.
- Thiết kế bảng hỏi:
+ Bảng câu hỏi gồm các câu hỏi đưa ra để các cá nhân, đơn vị trả lời.
Cần căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu và những nội dung cần điều tra
để xây dựng bảng hỏi. Bên cạnh đó, thiết kế bảng hỏi cũng cần dựa trên việc
xác định đối tượng nghiên cứu, các nhân tố ảnh hưởng đến đối tượng. + Cấu trúc bảng hỏi:
Phần mở đầu: bắt đầu bằng việc đặt tên cho bảng hỏi. Tên phải phản ánh
được nội dung đề tài nghiên cứu. Việc chọn thuật ngữ trong phần mở đầu
phụ thuộc vào loại điều tra, đối tượng của nó, đặc điểm văn hoá mẫu nghiên cứu,…
Lời giới thiệu: gồm những chỉ dẫn về chủ đề khảo sát, những chỉ dẫn kỹ
thuật,… Lời giới thiệu không được quá dài và phải dễ hiểu.
Các câu hỏi: nhằm thu thập thông tin của đề tài nghiên cứu. Người hỏi
phải có thái độ cởi mở, tích cực đối với việc nghiên cứu. Câu hỏi được
sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp, từ chung đến riêng, câu sau làm rõ câu
trước. Các loại câu hỏi:
Câu hỏi đóng: đã có phương án trả lời, người được hỏi lựa chọn câu trả
lời phù hợp với ý kiến của họ. Câu hỏi đóng gồm câu hỏi đối cực, câu hỏi
cường độ, câu hỏi tuyển,…
Câu hỏi mở: không có phương án trả lời, do người được hỏi tự trả lời.
Câu hỏi hỗn hợp: bao gồm cả thành phần của câu hỏi đóng và câu hỏi
mở, có đưa ra 1 số lượng nhất định các phương án trả lời.
* Phần cuối: bày tỏ lời cảm ơn người trả lời về sự hợp tác tham gia.
(*) Quy trình điều tra bảng hỏi:
- Bước 1: Chuẩn bị điều tra: Nhà nghiên cứu cần xác định mục tiêu điều
tra, phạm vi và mức độ thu thập thông tin. Bên cạnh đó cần lập kế hoạch điều
tra, tổ chức nguồn nhân lực, chuẩn bị điều kiện vật chất, phương tiện, mẫu điều
tra và hoàn thành bảng hỏi.
- Bước 2: Tiến hành điều tra:
+ Điều tra thử trên 1 phạm vi nhỏ nhằm kiểm tra tính hợp lý và khả năng
thu thập thông tin từ bảng hỏi, tính toán chi phí, điều chỉnh nhận lực,…
+ Trưng lập, tập huấn cán bộ điều tra.
+ Triển khai điều tra theo kế hoạch. Tổ chức giám sát người đi điều tra,
đảm bảo yêu cầu điều tra đúng đối tượng, đúng số người định hỏi theo kế
hoạch, nắm bắt khó khăn trong quá trình điều tra.
- Bước 3: Xử lý số liệu: Nhà nghiên cứu tiến hành tập hợp bảng hỏi, phân
chia sắp xếp, kiêm tra và đánh giá độ tin cậy của số liệu.
+ Kiểm tra bảng hỏi là công việc cần thiết trước khi xử lý số liệu, giúp
nhà nghiên cứu xác định lại độ tin cậy của quá trình điều tra, mức độ sử dụng
thông tin trong các phiếu hỏi và đánh giá khả năng của điều tra viên.
+ Mã hoá các câu trả lời, chuyển các câu trả lời ra 1 ngôn ngữ xác định
gọi là mã để có thể thích hợp việc xử lý bằng máy tính.
+ Nhà nghiên cứu lựa chọn phương pháp mô tả số liệu phù hợp với ý đồ
nghiên cứu. Nhà khoa học viết và hoàn thành bản báo cáo tổng hợp kết quả điều
tra theo mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
12. Phân tích những căn cứ để nhà khoa học lựa chọn 1 đề tài nghiên cứu.
Việc lựa chọn đề tài khoa học có ý nghĩa quan trọng. Đề tài được lựa chọn
sẽ kéo theo sự đầu tư trí tuệ, thời gian, kinh phí,… của người làm khoa học. Lựa
chọn đề tài là khởi điểm cho phương hướng nghiên cứu chuyên môn. Thông
thường để đi đến quyết định chọn 1 đề tài nghiên cứu, cần thoả mãn cả điều
kiện khách quan và chủ quan:
- Điều kiện khách quan:
+ Đề tài nghiên cứu được lựa chọn phải chưa có ai nghiên cứu hoặc đã
có người nghiên cứu những kết quả không thoả đáng so với nhu cầu nhận thức
của nhà nghiên cứu hoặc đòi hỏi của thực tiễn.
+ Đề tài nghiên cứu được lựa chọn khi nó đã được nhiều nhà khoa học
luận giải nhưng kết quả khác nhau, trái ngược nhau.
+ Kết quả nghiên cứu đề tài ấy đã có nhưng không áp dụng được vào
tình huống, lĩnh vực hay địa phương cụ thể do những khác biệt về yếu tố kinh
tế, văn hoá, chính trị,…
+ Vấn đề nghiên cứu được lựa chọn phải được giới chuyên môn quan
tâm. Việc thực hiện đề tài góp phần phát triển hệ thống lý thuyết của 1 khoa
học. Đồng thời nhà nghiên cứu có điều kiện nghiên cứu về thông tin, địa bàn khảo sát,…
- Điều kiện chủ quan:
+ Người nghiên cứu phải thực sự quan tâm đến vấn đề nghiên cứu dù đề
tài có thể được áp đặt từ cơ quan quản lý, từ đơn vị đặt hàng nghiên cứu,…
+ Người nghiên cứu có tri thức, vốn sống, kinh nghiệm ở mức độ nhất
định liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
+ Người nghiên cứu phải có đủ khả năng, thời gian, tài chính để triển khai thực hiện đề tài.
13. Nội dung cơ bản trong cơ sở lý thuyết của một đề tài nghiên cứu.
- Khách thể và đối tượng nghiên cứu của đề tài: + Khách thể nghiên cứu:
Là hệ thống sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan trong các mối liên hệ
mà người nghiên cứu cần tìm hiểu, khám phá.
Khách thể nghiên cứu là vật mang đối tượng nghiên cứu.
Khách thể nghiên cứu là nơi chứa đựng những câu hỏi, những mâu thuẫn
mà người nghiên cứu cần tìm câu trả lời và cách thức giải quyết phù hợp.
+ Đối tượng nghiên cứu:
Là những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ tồn tại trong sự vật,
hiện tượng hay quá trình mà nhà nghiên cứu cần làm rõ.
Được giới hạn trong 1 phạm vi nghiên cứu nhất định: quy mô xem xét đối
tượng, phạm vi không gian tồn tại và phát triển, phạm vi thời gian của
tiến trình vận động của đối tượng.
- Đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng khảo sát là bộ phận đại diện của khách thể nghiên cứu được
người nghiên cứu lựa chọn để xem xét. + Phạm vi nghiên cứu:
Là phần giới hạn của nghiên cứu liên quan đến đối tượng khảo sát và nội dung nghiên cứu.
Giới hạn nghiên cứu được xác định bởi góc tiếp cận nội dung, thể hiện
quy mô nội dung được giải quyết trong khuôn khổ đề tài.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm những giới hạn về không gian của đối
tượng khảo sát, giới hạn quỹ thời gian trong tiến trình khảo sát của đề tài.
- Khái niệm trung tâm:
+ Khái niệm trung tâm là khái niệm bao chứa đối tượng nghiên cứu
được nhà nghiên cứu sử dụng như 1 công cụ nhận thức trong quá trình triển khai
thực hiện đề tài. Xác định khái niệm trung tâm là xác định bản chất của sự vật,
hiện tượng hay quá trình. Đây được xem là bộ phận quan trọng bậc nhất trong
xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Mục tiêu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
+ Mục tiêu nghiên cứu là kết quả dự kiến về mặt nội dung mà nhà
nghiên cứu vạch ra và thực hiện.
+ Mục đích nghiên cứu là ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu được xác định căn cứ vào mục tiêu. Đó là
những nội dung cụ thể cần triển khai để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã xác
định. Các loại hình nghiên cứu, quy mô nghiên cứu có thể là cơ sở để nhà ngiên
cứu xác định các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.