Đề cương ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa

Đề cương ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Triết học Mác 48 tài liệu

Trường:

Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu

Thông tin:
25 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa

Đề cương ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

36 18 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CSND KHOA LLCT & KHXHNV
1
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Câu 1: Mối quan hệ vật chất, ý thức. (Phân tích mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề. Liên
hệ bản thân trong học tập rèn luyện của sinh viên Đại học Cảnh sát Nhân
dân)
1. Khái niệm
Định nghĩa vật chất: Vật chất 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác. Do vậy,
vật chất tồn tại khách quan.
Định nghĩa ý thức: Ý thức một phạm trù song song với phạm trù vật chất.
Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người
và có sự cái biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm rằng giữa vật chất ý thức vừa
đối lập với nhau vừa thống nhất với nhau sự đối lập . Hay nói cách khác giữa
vật chất và ý thức .vừa có ý nghĩa tuyệt đối, vừa có ý nghĩa tương đối
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất cái trước, ý thức cái sau; vật
chất nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức sự phản ánh
đối với vật chất.
Ý thức sản phẩm của một dạng vật chất tổ chức cao bộ óc người nên chỉ
khi con người thì mới ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới vật chất thì con người kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
học về giới tự nhiên; nó một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật
chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đều hoặc là
chính bản thân thế giới vật chất, hoặc những dạng tồn tại của vật chất nên vật
chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thứccái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật hội
sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc
lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung còn quyết định
cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức dẫn con người hoạt động thực tiễn: Xác định đối tượng, mục tiêu, phương
hướng và phương pháp thực hiện mục tiêu đề ra.
Ý thức đưa lại cho con người những thông tin cần thiết về đối tượng.
Ý thức thông qua các hoạt động con người tác động gián tiếp lên thực tại.
Tuy nhiên, ý thức có thể kìm hãm sức mạnh cải tạo hiện thực khách quan của con
người, nhất trong lĩnh vực hội; phản ánh không đầy đủ về thế giới đó dẫn
đến những sai lầm, duy ý chí.
c. Ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất:
Ý thức do vật chất sinh ra quyết định, khi ra đời, ý thức không lệ thuộc hoàn
toàn vào vật chất đã sinh ra ý thức tính độc lập tương đối, tác động trở
lại to lớn đối với cật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức đúng đắn dựa trên quy luật khách quan của con người có tác dụng tích cực,
làm biến đổi hiện thực, biến đổi hoàn cảnh khách quan theo nhu cầu của mình.
d. Yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của ý thức đối với vật chất:
Nếu tính khoa học của ý thức càng cao thì tính tích cực của ý thức càng lớn.
Muốn vậy, phải tôn trọng các quy luật khách quan, phải nhận thức đúng, nắm
vững, vận dụng đúng và hành động phù hợp với quy luật khách quan.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc vào mục đích sử dụng ý
thức con người.
Các phương tiện, điều kiện vật chất tương ứng.
Chú ý:
Sự tác động của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Còn bản thân ý thức tự không trực tiếp làm thay đổi
được trong hiện thực.vậy nói tới vai trò của ý thức về thực chất nói đến
vai trò của con người, ý thức chỉ đạo hành động của con người hình thành mục
tiêu kế hoạch, biện pháp cho hoạt động của con người. (Hồ Chí Minh: “chủ
trương một, biện pháp mười, thực hiện hai mươi”.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng diễn ra trên cơ sở vật
chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Trong bất kỳ trường hợp nào ý thức
cũng chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất và sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của
phản ánh và sáng tạo trong khuôn khổ của sự phản ánh.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng thực tế khách quan và lấy nó làm căn cứ, cơ sở cho việc hoạch định mọi chủ
trương, chính sách.
Lênin đã nhấn mạnh: Không được lấy ý muốn chủ quan của mìnhchính
sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược sách lược
của cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực
tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí”.
Thực tế Việt Nam trước thời lỳ đổi mới chúng ta cũng phạm phải sai lầm chủ
quan duy ý chí. Tại Đại hội Đảng CSVN đã rút ra bài học:” Đảng đã phạm phải
sai lầm duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” Đại hội VII rút ra bài học:”
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan”.
Đến Đại hội IX, một trong những bài học rút ra sau 15 năm tiến hành đổi mới
đổi mới phải phù hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo.
Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, tính tích cực, chủ động trong hoạt
động cải tạo thế giới khách quan của con người. Vai trò tích cực của ý thức,
tưởng không phải là ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà
nhận thức đúng đắn thế giới khách quan. Từ đó hình thành con người mục
đích, phương hướng, ý chí, phương pháp… (Bổ sung) Con người càng phản
ánh chính xác, đầy đủ thế giới khách quan thì hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của họ càng hiệu quả. vậy phát huy tính năng động, sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người vấn đề ý nghĩa quyết định đến sự
thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng.
Tại Đại hội VIII, Đảng CSVN đã khẳng định:” Trong thời kỳ đổi mới phải lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố bản cho sự phát triển mạnh
bền vững”.
Đến Đại hội IX, Đảng CSVN một lần nữa khẳng định:” Phát huy nguồn lực trí tuệ
sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục đào tạo,
khoa học công nghệ nền tảng động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Phát huy nguồn lực con người yếu tố bản để phát triển XH,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Cần chống xu hướng coi thường thực tế khách quan để rơi vào CNDT duy ý chí,
mặt khác cần chống khuynh hướng giáo điều hay thụ động chờ đợi rơi vào chủ
nghĩa bảo thủ.
Câu 2: Nguyên sự phát triển mối liên hệ phổ biến. (Phân tích nội
dung nguyên về sự phát triển. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận liên
hệ trong nhiệm vụ học tập và rèn luyện bản thân đồng chí làm sáng tỏ vấn đề)
1. Nguyên lý sự phát triển theo Mác – Lênin
nguyên tắc luận trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan
phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn của sự vật).
Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển 3 tính chất bản: tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện tượng
quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiên tượng đó. Tính chất này thuộc
tính tất yếu không phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện các quá trình phát triển diễn ra
trong một lĩnh vực tự nhiên, hội duy. Trong tất cả mọi sự vật hiện
tượng trong quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi quá
trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời phù hợp với quy luật
khách quan.
+ Trong tự nhiên: Tăng cường khả năng thích nghi thể trước sự biến đổi của
môi trường.
+ Trong hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo hội, tiến tới
mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
+ Trong tư duy: Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với
tự nhiên và xã hội.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện chỗ: Phát triển
khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại có
quá trình phát triển không giống nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của
mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều
yếu tố, điều kiện. Thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể
làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Nguyên về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức trong hoạt
động thực tiễn của con người cần phải tôn trọng quan điểm phát triển phát triển,
đòi hỏi khi nhận thức cũng như khi giải quyết một vấn đề nào đó thì con người
cần phải đặt chúng trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung của sự
phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nghiên cứu nguyên về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức được rằng
muốn thật sự nắm bắt được bản chất sự vật hiện tượng, nắm bắt được khuynh
hướng vận động của chúng thì cần phải xây dựng quan điểm vận động phát
triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ. Yêu cầu cơ bản của quan điểm đó là: khi
xem xét sự vật hiện tượng phải đặt trong trạng thái vận động phát triển.
Lênin đã khẳng định:” Lôgic biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự
phát triển, trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó”.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng không chỉ với cách cái đang tồn tại cần
phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó, dự báo sự xuất
hiện của nhân tố mới, cái mới, chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời
của cái mới.
Cần thái độ lạc quan, tin tưởng vào sự chiến thắng tất yếu của cái mới đồng
thời phải nhận thức quá trình phát triển quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Chiến thắng của cái mới đối với cái rất khó khăn, phức tạp thậm chí
còn có những thất bại tạm thời.
Để có một sự phát triển trong hiện thực cần có quá trình tích lũy về lượng, một sự
chuẩn bị cho những bước nhảy vọt nhằm thay đổi về chất qua những lần phủ định.
Mặt khác, cần biết phát hiện ra mâu thuẫn tổ chức để các mâu thuẫn đó được
giải quyết.
Cần đấu tranh khắc phục chống lại mọi biểu hiện của trì trệ, bảo thủ, không
dám đổi mới để phát triển đồng thời phải chống thái độ nóng vội, chủ quan muốn
đốt cháy giai đoạn.
* Nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến và sử phát triển đồi hỏi phải xây dựng
và quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Khi nhận thức tác động vào sự vật cần chú ý điều kiện hoàn cảnh cụ thể, môi
trường cụ thể và trong đó sự vật được sinh ra tồn tại và phát triển.
Đối với mỗi sự vật, hiện tượng, vấn đề khác nhau cần những biện pháp, giải
pháp khác nhau để giải quyết chúng.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện lịch sử đã thay đổi phải kịp thởi
điều chỉnh bổ sung giải pháp, biện pháp cho phù hợp.
Cần nhận thức sâu sắc bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác đó là “phân tích
cụ thể mỗi tình hình cụ thể để đề ra chủ trương, chính sách cụ thể cho mỗi lĩnh
vực cụ thể” từ đó vận dụng vào công tác của bản thân.
Liên hệ với công cuộc đổi mới trong tình hình hiện nay (tình hình thế giới, trong
nước.. thuận lợi, khó khăn ……)
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Liên hệ là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự tác động ảnh
hưởng lẫn nhau, ràng buộc, chế ước nhau, quy định chuyển hóa cho nhau của
các sự vật hiện tượng hc giữa các mặt, các yếu tố trong sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan.
sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật tính thống nhất vật chất của thế
giới, các sự vật hiện tượng khác nhau, đa dạng đến mấy thì chúng cũng chỉ
những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi.
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng mang tính phổ biến thể hiện qua những
điểm sau:
Nếu xét về mặt không gian: mỗi một sự vật, hiện tượng một chỉnh thể riêng
biệt, song chúng tồn tại không phải trong một trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối
với các sự vật khác. Trong hiện thực khách quan không có sự vật, hiện tượng nào
tồn tại biệt lập, không nhận tác động không tác động đến sự vật khác. Ngược
lại, các sự vật vừa tách biệt nhau vừa phụ thuộc nhau,sự vật này lấy sự vật kia làm
tiền đề cho sự tồn tại của mình, chúng vừa tác động vừa nhận sự tác động, chúng
vừa tách biệt vừa phụ thuộc vào nhau. đó chính hai mặt của một quá trình tồn
tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Angen đã khẳng định: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được
một hệ thống, một tập hợp gồm các tập thể khăng khít với nhau, việc các vật
thể ấy đều mối liên hệ qua lại với nhau đã nghĩa các vật thể này tác
động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
Nếu xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng: các yếu tố,
các bộ phận cấu thành nên một sự vật nào đó đều tồn tại trong một tổ chức nhất
định, đều được sắp xếp theo một trật tự lôgic, một kiểu tổ chức nhất định. Các bộ
phận đó không thể tồn tại trong một trạng thái hỗn độn hoặc hoàn toàn tách rời
nhau, không có liên hệ với nhau. Giữa các bộ phận, các yếu tố đó có mối liên hệ,
trong đó mỗi bộ phận, mỗi yếu tố vừa đảm trách phần việc của mình vừa tạo điều
kiện cho những bộ phận khác. Do vậy, sự biến đổi của một bộ phận nào đó trong
cấu trúc của sự vật sẽ gây ảnh hưởng đến những bộ phận khác cũng như đối với
toàn bộ chỉnh thể sự vật.
Nếu xét về mặt thời gian: mỗi một sự vật, hiện tượng nói riêng cả thế giới nói
chung trong quá trình tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua những giai
đoạn, những thời kỳ khác nhau, thể hiện nhất giai đoạn phát sinh, giai đoạn
phát triển, giai đoạn suy tàn giai đoạn chuyển hóa thành cái khác. Các giai
đoạn, các thời kỳ đó có mối liên hệ không tách rời nhau mà làm tiền đề cho nhau,
sự kết thúc của giai đoạn này lại là điểm mở đầu cho giai đoạn tiếp sau. Như vậy
giữa quá khứ, hiện tại tương lai mối liên hệ với nhau. sự chuẩn bị cho
nhau.
Như vậy, xét trên mọi phương diện từ vĩ mô đến vi mô, từ hiện tại tới quá khứ
tương lai đâu chúng ta cũng thấy sự hiện diện của các mối quan hệ, sự vật hiện
tượng tồn tại trong các mối quan hệ đó vì vậy: mối liên hệ là có tính phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được thể hiện rất phong phú, rất
đa dạng, phức tạp tuỳ theo tình chất của mối liên hệ, phạm vi của mối liên hệ,
vai trò cùa mối liên hệ đối với sự tồn tại phát triển của sự vật. Khi nghiên cứu
về hiện thực khách quan có thể phân chia chúng ra thành từng loại khác nhau tùy
theo tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay
sâu…. Khái quát lại có những mối liên hệ chính phổ biến sau đây:
+Mối liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài.
+Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.
+Mối liên hệ chung và riêng.
+Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
+Mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ bản chất và không bản chất.
Trong đó, những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, bản chất, tất nhiên những
mối liên hệ quan trọng giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại phát triển của
sự vật.
Triết học Mác xít cũng đồng thời chỉ rằng: các loại liên hệ khác nhau khả
năng chuyển hóa cho nhau, thay đổi vị trí cho nhau. Điều này tùy thuộc vào sự
thay đổi phạm vi bao quát của việc nghiên cứu hoặc do kết quả vận động của
chính bản thân sự vật đó.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng
ta rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức các sự vật cũng như trong hoạt động
thực tiễn. Yêu cầu của quan điểm toàn diện bao gồm:
Về mặt nhận thức: cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng nào đó đặt trong mối
quan hệ với các sự vật, hiện tương khác; Phát hiện ra những mối liên hệ qua lại
giữa các yếu tố, bộ phận, thuộc tính, các giai đoạn phát triển khác nhau của sự
vật đó. Lênin khẳng định: Muốn thật sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao
quát nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ quan hệ gián tiếp của s
vật đó”.
Để nhận thức đúng về sự vật còn đòi hỏi phải xem xét trong mối liên hệ với
nhu cầu thực tiễn của con người, ứng với mỗi thời kỳ, mỗi thế hệ con người bao
giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn mối liên hệ. Vì vậy tri thức đạt
được về sự vật chỉ tương đối, không đầy đủ cần được bổ sung thêm. Mặt
khác, cần phải biết phân loại, đánh giá chính xác tính chất, vai trò, ý nghĩa của
mỗi loại liên hệ đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật.
Về mặt hoạt động thực tiễn: để cải tạo được sự vật cần phải làm biến đổi những
mối liên hệ của sự vật đó với các sự vật khác, đặc biệt mối liên hệ bên trong,
trực tiếp, bản chất. Cần phải xây dựng kế hoạch tổng thể và phải sử dụng đồng bộ
nhiều biện pháp, phương pháp, phương tiện khác nhau để tác động. Mặt khác,
quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi cần phải kết hợp chặt chẽ chính sách dàn đều và
chính sách có trọng điểm, vừa chú ý giải quyết cái tổng thể vừa biết lựa chọn vấn
đề trung tâm, trọng tâm để giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết các vấn
đề khác.
Trong sự nghiệp đổi mới Việt Nam, Đảng CSVN xác định: đổi mới toàn
diện,mọi mặt đời sống XH trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.
Tại Đại hội Đảng lầ thứ VIII, Đảng CSVN đã khẳng định:” Xét trên tổng thể
Đảng ta đã bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về duy chính trị trong việc
hoạch định đường lối đối nội đối ngoại, không sự đối nội đó thì không
mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết việc thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế- XH, tạo
tiền đề cần thiết về vật chất tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng
và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện để đổi mới các mặt khác của đời
sống XH”.
Câu 3: Con đường biện chứng của quá trình nhận thức, chân lý vai trò,
mối quan hệ thực tiễn và nhận thức.
1. Con đường biện chứng của quá trình nhận thức
Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức chân (tức
phản ánh đúng đắn đối với hiệt thực khách quan) là một quá trình. Đó là quá trình
bắt đầu từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Nhưng những sự trừu tượng đó không phải điểm cuối cùng của một chu kỳ
nhận thức, mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn, đồng thời có thể kiểm tra
và chứng minh đúng đắn và tiếp tục trong quá trình nhận thức.
a. Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức mà con người,
trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự
vật, hiện tượng khách quan, mang tính chất cụ thể, với những biểu hiện phong
phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người.
Giai đoạn này mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của
sự vật cụ thể, trong hiện thực khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy
luật, nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được, thực hiện qua ba hình
thức là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác :
Là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của các quá trình nhận thức, phản ánh chủ
quan con người
Là cơ sở hình thành nên tri giác.
Tri giác:
Là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật,
hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng
hợp những cảm giác về sự vật, hiện tượng.
Hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Nhưng chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan.
Biểu tượng :
sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách quan vốn đã được phản ánh
bởi cảm giác tri giác; hình thức phản ánh cao nhất phức lạp nhất của
giai đoạn nhận thức cảm tính.
Tái hiện những hình ảnh mang tính chất biểu trưng về sự vật, hiện tượng khách
quan, liên tưởng về hình thức bên ngoài.
Tiền đề của những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
Nhận thức tính giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức, sự phản ánh
gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của
sự vật, hiện tượng khách quan.
Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm
lấy cái bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức tính
được thực hiện thông qua ba hình thứcbản là: khái niệm, phán đoán và suy
(suy luận).
Khái niệm :
Hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của sự
vật, hiện tượng.
Là cơ sở hình thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy về sự
vật, hiện tượng khách quan.
Phán đoán :
Hình thức cơ bản của nhận thức lý tính.
Hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm theo phương thức khẳng định
hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
* Phán đoán được chia làm ba loại:
Phán đoán đơn nhất
Phán đoán đặc thù
Phán đoán phổ biến
Trong đó: Phán đoán phổ biến là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát
rộng lớn nhất về thực tại khách quan.
Suy lý:
Hình thức cơ bản của nhận thức lý tính.
Hình thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự
vật, hiện tượng.
Điều kiện: trên cơ sở những tri thức và tuân theo những quy tắc lôgích của
các loại hình suy luận.
b. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính nhận thức tính những nấc thang hợp thành chu trình
nhận thức song chúng những chức năng nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận
thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ
sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể
hiểu biết được bản chất, quy luật vận động phát triển sinh động của sự vật,
hiện tượng giúp cho nhận thức cảm tính được sự định hướng đúng trở nên
sâu sắc hơn. nhận thức tính thì con người mới chỉ được những tri thức về
đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con
người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem
những tri thức đó có chân thực hay không.
Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực
tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được
trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức suy đến cùng đều là xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Như vậy, có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình
vận động, phát triển của nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận thức – từ nhận thức
trở về với thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức, vv...
Quy luật chung của sự nhận thức cũng một sự biểu hiện cụ thể, sinh động của
những quy luật chung trong phép biện chứng duy vật: quy luật phủ định của phủ
định, quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
2. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn
a. Khái niệm chân lý
Trong phạm vi luận nhận thức của chủ nghĩa Mác Lênin, khái niệm chân
được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự
phù hợp đó được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
b. Tính chất của chân lý
3 tính chất: Tính khách quan, tính tương đối tính cụ
thể. Tính khách quan:
+ Độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội
dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại.
+ Điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri.
Tính tương đối:
+ Chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với
hiện thực khách quan về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối.
+ Nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ mới đạt được sự phù hợp
từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều
kiện nhất định.
Tính cụ thể:
+ Đặc tính gắn liền phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất
định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể.
+ Mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể, xác định.
+ Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân một ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoại động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
c. Vai trò chân lý đối với thực tiễn
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong
quá trình vận động, phát triển của cả chân thực tiễn: chân phát triển nhờ
thực tiễn thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân con
người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân thực tiễn đòi hỏi trong
hoạt động nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân
lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình .
Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực
tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên
hội. Coi trọng tri thức khoa học tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức
đó vào trong các hoạt động kinh tế hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt
động đó về thực chất cũng chính phát huy vai trò của chân khoa học trong
thực tiễn hiện nay.
Câu 4: Trình bày các cặp phạm trù chung riêng, bản chất hiện
tượng, nguyên nhân – kết quả.
Trong triết học, phạm trù được hiểu những khái niệm chung nhất, rộng nhất
phản ánh những mặt, những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Cặp phạm trù cái chung – cái riêng
a. Khái niệm
Cái riêng: phạm trù triết học để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định. (Cái
riêng được hiểu như là một chỉnh thể độc lập với cái khác).
Cái chung: phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những một sự vật, một hiện tượng, còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng khác.
Cái đơn nhất: phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm vốn
một sự vật, hiện tượng mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Trong lịch sử triết học đã hai xu hướngduy thực và duy danhđối lập nhau
giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng cái chung. Các nhà duy thực khẳng
định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Các nhà duy danh
cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan. Chỉ sự vật
đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại trong duy con người.
i chung chỉ tên gọi, danh xưng của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coi cái
riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy đanh giải quyết khác nhau vấn đề hình
thức tồn tại của nó. Một số (như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng
vật chật cảm tính; số khác (Béccli) lại coi cảm giác hình thức tồn tại của cái
riêng…..
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu
hướng đó trong việc lý giải mối quan hệ cái chung – cái riêng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng, cái chung, cái đơn nhất đều
tồn tại khách quanmối quan hệ hữu với nhau. Mối quan hệ đó được thể
hiện qua các đặc điểm sau:
+ Cái chung tồn tại trong cái riêng, vì cái chung là một mặt, một thuộc tính của cái
riêng, không cói chung tồn tại bên ngoài cái riêng liên hệ không tách rời
cái đơn nhất.
+ Mọi cái riêng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, giữa cái đơn nhất và cái
chung. (Trong cùng một lúc, sự vật, hiện ợng đó vừa cái đơn nhất vừa cái
chung; các mặt cá biệt, không lặp lại của sự vật, hiện tượng đó là biểu hiện cái đơn
nhất. Còn các mặt lặp lại ở nhiều sự vật hiện tượng thì biểu hiện cái chung).
+ Cái riêng cái toàn bộ bởi một chỉnh thể độc lập với cái khác, cái
phong phú hơn cái chung ngoài những điểm chung, cái riêng còn cái đơn
nhất.
+ Cái chung cái bộ phận bởi vì chỉ những thuộc tính của cái riêng nhưng
sâu sắc hơn cái riêng cái chung những thuộc tính, những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
+ Cái đơn nhất cái chung mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất.
Trong những điều kiện nhất định thể chuyển hoá lẫn nhau: khi i đơn nhất
chuyển
hoá thành i chung thì thể hiện cái mới ra đời phát triển, khi cái chung
chuyển hoá thành cái đơn nhất thì nó thể hiện cái, cái lỗi thời cần phải vứt bỏ.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một thuộc
tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất và
mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì các phương
pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều không thể
như nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó, Vì
bản thần cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không giống
nhau hoàn toàn, chỉ biểu hiện của cái chung đã được biệt hóa, thì các
phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải
thay đổi hình thức, phải biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường
hợp.
Thứ hai nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn,
nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đổ trong điều kiện khác, không nên sử
dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường
hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định “cái
đơn nhất” thể biến thành “cái chung” ngược lại “cái chung” thể biến
thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn thể cần phải tạo điều
kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” lợi cho con người trở thành “cái chung”
“cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
2. Cặp phạm trù bản chất – hiện tượng
a. Khái niệm
Khi tìm hiểu về , chúng ta cần tìm hiểu,cặp phạm trù bản chất hiện tượng
nhìn nhận chúng một cách riêng rẽ sau đó tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa
chúng. Phạm trù bản chất phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động
và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
dụ: Bản chất của con người tổng hòa của các mối quan hệ của hội. Do
đó, một con người thực sự phải là người có các mối quan hệ xã hội. Các mối quan
hệ đó rất đa dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn
bè, quan hệ đồng nghiệp.
Hay, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công nhân và người lao động
bằng các quy luật như quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận,…
Nếu bản chất cái bên trong quy định sự vận động sự phát triển của sự vật,
hiện tượng thì phạm trù hiện tượng lại được dùng để chỉ cái biểu hiện ra bên
ngoài của bản chất.
Ví dụ: Bản chất của xã hội tư bản sự mâu thuẫn giữa tính xã hội lực lượng sản
xuất và tính chất chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất. Hay nói cách khác là
sự mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Bản chất đó được thể hiện thông qua các hiện tượng như nạn thất nghiệp, đời
sống khổ cực của giai cấp sản người lao động, sự giàu của giai cấp
sản.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta thấy hai
phạm trù này . giữa chúng hai mặt đều tồn tại khách quan Mối quan hệ vừa
thống nhất, vừa đối lập.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Qua dụ đã nêu, ta thấy bản chất cái bên trong chỉ được biểu hiện thông qua
hiện tượng. Hay nói cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một bản chất nhất định.
Như vậy, không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như không
có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào. Lênin khẳng định: “Bản
chất hiện ra, hiện tương tường là có tính bản chất”.
Chính vì vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Chúng sẽ luôn
tồn tại cùng nhau, nếu bản chất mất đi thì các hiện tượng do sinh ra cũng
mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới xuất hiện thì lại sản sinh ra các hiện
tượng phù hợp với nó.
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
Sự đối lập cặp phạm trù bản chất hiện tượng của được thể hiện thông
qua các yếu tố sau:
+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú
đa dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất cái tương đói ổn định, còn hiện ợng i thường xuyên biến
đổi.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Qua tìm hiểu cặp phạm trù bản chất hiện tượng ta rút ra được những kết luận
sau:
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, phải đi sâu tìm bản chất,
không dừng ở hiện tượng, bởi bản chất là cái ở bên trong hiện tượng.
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
Vì bản chất tồn tại một cách khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó.
Bản chất không tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, do đó, tìm bản chất phải thông
qua tìm hiểu các hiện tượng bên ngoài. Cần lưu ý, trong quá tnh nhận thức bản chất
của sự vật phải xem xét nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Đặc biệt, để cái tạo sự vật phải thay đổi bản chất của chứ không chỉ thay đổi
hiện tượng. Bởi thay đổi được bản chất thì hiện tượng sẽ thay đổi theo. thể
thấy, đây một quá trình cùng phức tạp, do đó cần kiên nhẫn, không chủ
quan, nóng vội.
Như vậy, ta thấy là một cặp phạm trù quancặp phạm trù bản chất và hiện tượng
trọng, thể hiện tính khoa học đúng đắn. Xuất phát từ các đặc điểm của chúng,
mỗi chúng ta cần nhìn nhận các vấn đề một cách khách quan, khoa học thông qua
tìm hiểu đầy đủ, toàn diện các hiện tượng bên ngoài. Từ đó đưa ra các kết luận
đúng đắn về bản chất bên trong. Nhờ vậy giúp chúng ra được nhận thức một
cách đúng đắn nhất về sự vật hiện tượng.
3. Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả
a. Khái niệm
Nguyên nhân sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Trong hai khái niệm này, chúng ta cần lưu ý đối với khái niệm nguyên nhân
nguyên cớ, để không có sự nhầm lẫn về khái niệm.
Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết quả.
Nguyên cớ liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó mối liên hệ bên ngoài,
không bản chất.
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng
có tác dụng đối với việc sinh ra kết quả.
Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác mặt khi nguyên nhân gây
ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
b. Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân kết quả
mối quan hệ qua lại, cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
Nguyên nhân cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn trước kết quả. Còn
kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện bắt đầu tác động. Tuy
nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều
biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn
cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên
nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây
nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các
nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm
suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả,
thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không
giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở
lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả.
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ
khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này nguyên nhân thì
trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến
lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này
tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận.
Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầy hay cuối cùng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối liên hệ nhân quả tính khách quan tính phổ biến, nghĩa không sự
vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không nguyên nhân. Nhưng
không phải con người thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ
của nhận thức khó học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên
nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn
tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc con
người, tách rời với thế giới hiện thực.
nguyên nhân luôn trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện
tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi
hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những
nguyên nhân này vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. vậy
trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên
nhân bản, nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải nắm được chiều hướng
tác động của các nguyên nhân, từ đó biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho
nguyên nhân tác động tích cực đến họt động hạn chế sự hoạt động của
nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta
cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thức đẩy
nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
u 5: sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng. Tồn tại hội ý thức xã
hội.
* Cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng
1. Khái niệm
a. Cơ sở hạ tầng là gì?
Với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:
Quan hệ sản xuất thống trị;
Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó;
Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, vai trò chủ đạo
quyết định tính chất, đặc trưng của một sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai
kiểu quan hệ sản xuất còn lại cũng có vai trò nhất định.
| 1/25

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CSND KHOA LLCT & KHXHNV
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Câu 1: Mối quan hệ vật chất, ý thức. (Phân tích mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề. Liên
hệ bản thân trong học tập và rèn luyện của sinh viên Đại học Cảnh sát Nhân dân)
1. Khái niệm
Định nghĩa vật chất: Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác. Do vậy,
vật chất tồn tại khách quan.
Định nghĩa ý thức: Ý thức là một phạm trù song song với phạm trù vật chất.
Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người
và có sự cái biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm rằng giữa vật chất và ý thức vừa
đối lập với nhau vừa thống nhất với nhau. Hay nói cách khác sự đối lập giữa
vật chất và ý thức vừa có ý nghĩa tuyệt đối, vừa có ý nghĩa tương đối.
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật
chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người thì mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật
chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đều hoặc là
chính bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất nên vật
chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội
và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc 1
lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định
cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức dẫn con người hoạt động thực tiễn: Xác định đối tượng, mục tiêu, phương
hướng và phương pháp thực hiện mục tiêu đề ra.
Ý thức đưa lại cho con người những thông tin cần thiết về đối tượng.
Ý thức thông qua các hoạt động con người tác động gián tiếp lên thực tại.
Tuy nhiên, ý thức có thể kìm hãm sức mạnh cải tạo hiện thực khách quan của con
người, nhất là trong lĩnh vực xã hội; phản ánh không đầy đủ về thế giới đó dẫn
đến những sai lầm, duy ý chí.
c. Ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất:
Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, khi ra đời, ý thức không lệ thuộc hoàn
toàn vào vật chất đã sinh ra ý thức mà nó có tính độc lập tương đối, tác động trở
lại to lớn đối với cật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức đúng đắn dựa trên quy luật khách quan của con người có tác dụng tích cực,
làm biến đổi hiện thực, biến đổi hoàn cảnh khách quan theo nhu cầu của mình.
d. Yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của ý thức đối với vật chất:
Nếu tính khoa học của ý thức càng cao thì tính tích cực của ý thức càng lớn.
Muốn vậy, phải tôn trọng các quy luật khách quan, phải nhận thức đúng, nắm
vững, vận dụng đúng và hành động phù hợp với quy luật khách quan.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc vào mục đích sử dụng ý thức con người.
Các phương tiện, điều kiện vật chất tương ứng. Chú ý:
Sự tác động của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Còn bản thân ý thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi
được gì trong hiện thực. Vì vậy nói tới vai trò của ý thức về thực chất là nói đến
vai trò của con người, ý thức chỉ đạo hành động của con người hình thành mục
tiêu kế hoạch, biện pháp cho hoạt động của con người. (Hồ Chí Minh: “chủ
trương một, biện pháp mười, thực hiện hai mươi”.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng diễn ra trên cơ sở vật
chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Trong bất kỳ trường hợp nào ý thức
cũng chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất và sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của
phản ánh và sáng tạo trong khuôn khổ của sự phản ánh.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng thực tế khách quan và lấy nó làm căn cứ, cơ sở cho việc hoạch định mọi chủ trương, chính sách.
Lênin đã nhấn mạnh: “Không được lấy ý muốn chủ quan của mình là chính
sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược
của cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực
tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí”.

Thực tế ở Việt Nam trước thời lỳ đổi mới chúng ta cũng phạm phải sai lầm chủ
quan duy ý chí. Tại Đại hội Đảng CSVN đã rút ra bài học:” Đảng đã phạm phải
sai lầm duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” và Đại hội VII rút ra bài học:”
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Đến Đại hội IX, một trong những bài học rút ra sau 15 năm tiến hành đổi mới là
đổi mới phải phù hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo.
Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, tính tích cực, chủ động trong hoạt
động cải tạo thế giới khách quan của con người. Vai trò tích cực của ý thức, tư
tưởng không phải là ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà
là nhận thức đúng đắn thế giới khách quan. Từ đó hình thành ở con người mục
đích, phương hướng, ý chí, phương pháp… (Bổ sung) … Con người càng phản
ánh chính xác, đầy đủ thế giới khách quan thì hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của họ càng có hiệu quả. Vì vậy phát huy tính năng động, sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự
thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng.
Tại Đại hội VIII, Đảng CSVN đã khẳng định:” Trong thời kỳ đổi mới phải lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển mạnh và bền vững”.
Đến Đại hội IX, Đảng CSVN một lần nữa khẳng định:” Phát huy nguồn lực trí tuệ
và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển XH,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Cần chống xu hướng coi thường thực tế khách quan để rơi vào CNDT duy ý chí,
mặt khác cần chống khuynh hướng giáo điều hay thụ động chờ đợi rơi vào chủ nghĩa bảo thủ.
Câu 2: Nguyên lý sự phát triển và mối liên hệ phổ biến. (Phân tích nội
dung nguyên lý về sự phát triển. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên
hệ trong nhiệm vụ học tập và rèn luyện bản thân đồng chí làm sáng tỏ vấn đề)

1. Nguyên lý sự phát triển theo Mác – Lênin
Là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan
phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển có 3 tính chất cơ bản: tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện tượng là
quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiên tượng đó. Tính chất này là thuộc
tính tất yếu không phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra
trong một lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong tất cả mọi sự vật và hiện
tượng trong quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi quá
trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời phù hợp với quy luật khách quan.
+ Trong tự nhiên: Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi trường.
+ Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới
mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
+ Trong tư duy: Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với tự nhiên và xã hội.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: Phát triển là
khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại có
quá trình phát triển không giống nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của
mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều
yếu tố, điều kiện. Thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể
làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn của con người cần phải tôn trọng quan điểm phát triển phát triển,
đòi hỏi khi nhận thức cũng như khi giải quyết một vấn đề nào đó thì con người
cần phải đặt chúng ở trạng thái động và nằm trong khuynh hướng chung của sự phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức được rằng
muốn thật sự nắm bắt được bản chất sự vật hiện tượng, nắm bắt được khuynh
hướng vận động của chúng thì cần phải xây dựng quan điểm vận động và phát
triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ. Yêu cầu cơ bản của quan điểm đó là: khi
xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động và phát triển.
Lênin đã khẳng định:” Lôgic biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự
phát triển, trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó”.

Nghiên cứu sự vật, hiện tượng không chỉ với tư cách là cái đang tồn tại mà cần
phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó, dự báo sự xuất
hiện của nhân tố mới, cái mới, chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của cái mới.
Cần có thái độ lạc quan, tin tưởng vào sự chiến thắng tất yếu của cái mới đồng
thời phải có nhận thức rõ quá trình phát triển là quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Chiến thắng của cái mới đối với cái cũ là rất khó khăn, phức tạp thậm chí
còn có những thất bại tạm thời.
Để có một sự phát triển trong hiện thực cần có quá trình tích lũy về lượng, một sự
chuẩn bị cho những bước nhảy vọt nhằm thay đổi về chất qua những lần phủ định.
Mặt khác, cần biết phát hiện ra mâu thuẫn và tổ chức để các mâu thuẫn đó được giải quyết.
Cần đấu tranh khắc phục và chống lại mọi biểu hiện của trì trệ, bảo thủ, không
dám đổi mới để phát triển đồng thời phải chống thái độ nóng vội, chủ quan muốn đốt cháy giai đoạn.
* Nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến và sử phát triển đồi hỏi phải xây dựng
và quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Khi nhận thức và tác động vào sự vật cần chú ý điều kiện hoàn cảnh cụ thể, môi
trường cụ thể và trong đó sự vật được sinh ra tồn tại và phát triển.
Đối với mỗi sự vật, hiện tượng, vấn đề khác nhau cần có những biện pháp, giải
pháp khác nhau để giải quyết chúng.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện lịch sử đã thay đổi phải kịp thởi
điều chỉnh bổ sung giải pháp, biện pháp cho phù hợp.
Cần nhận thức sâu sắc bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác đó là “phân tích
cụ thể mỗi tình hình cụ thể để đề ra chủ trương, chính sách cụ thể cho mỗi lĩnh
vực cụ thể” từ đó vận dụng vào công tác của bản thân.
Liên hệ với công cuộc đổi mới trong tình hình hiện nay (tình hình thế giới, trong
nước.. thuận lợi, khó khăn ……)
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Liên hệ là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự tác động ảnh
hưởng lẫn nhau, ràng buộc, chế ước nhau, quy định và chuyển hóa cho nhau của
các sự vật hiện tượng hc giữa các mặt, các yếu tố trong sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật là tính thống nhất vật chất của thế
giới, các sự vật hiện tượng dù khác nhau, đa dạng đến mấy thì chúng cũng chỉ là
những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi.
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng mang tính phổ biến thể hiện qua những điểm sau:
Nếu xét về mặt không gian: mỗi một sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể riêng
biệt, song chúng tồn tại không phải trong một trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối
với các sự vật khác. Trong hiện thực khách quan không có sự vật, hiện tượng nào
tồn tại biệt lập, không nhận tác động và không tác động đến sự vật khác. Ngược
lại, các sự vật vừa tách biệt nhau vừa phụ thuộc nhau,sự vật này lấy sự vật kia làm
tiền đề cho sự tồn tại của mình, chúng vừa tác động vừa nhận sự tác động, chúng
vừa tách biệt vừa phụ thuộc vào nhau. đó chính là hai mặt của một quá trình tồn
tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Angen đã khẳng định: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được
là một hệ thống, một tập hợp gồm các tập thể khăng khít với nhau, việc các vật
thể ấy đều có mối liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác
động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.

Nếu xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng: các yếu tố,
các bộ phận cấu thành nên một sự vật nào đó đều tồn tại trong một tổ chức nhất
định, đều được sắp xếp theo một trật tự lôgic, một kiểu tổ chức nhất định. Các bộ
phận đó không thể tồn tại trong một trạng thái hỗn độn hoặc hoàn toàn tách rời
nhau, không có liên hệ với nhau. Giữa các bộ phận, các yếu tố đó có mối liên hệ,
trong đó mỗi bộ phận, mỗi yếu tố vừa đảm trách phần việc của mình vừa tạo điều
kiện cho những bộ phận khác. Do vậy, sự biến đổi của một bộ phận nào đó trong
cấu trúc của sự vật sẽ gây ảnh hưởng đến những bộ phận khác cũng như đối với
toàn bộ chỉnh thể sự vật.
Nếu xét về mặt thời gian: mỗi một sự vật, hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói
chung trong quá trình tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua những giai
đoạn, những thời kỳ khác nhau, thể hiện rõ nhất là giai đoạn phát sinh, giai đoạn
phát triển, giai đoạn suy tàn và giai đoạn chuyển hóa thành cái khác. Các giai
đoạn, các thời kỳ đó có mối liên hệ không tách rời nhau mà làm tiền đề cho nhau,
sự kết thúc của giai đoạn này lại là điểm mở đầu cho giai đoạn tiếp sau. Như vậy
giữa quá khứ, hiện tại và tương lai có mối liên hệ với nhau. có sự chuẩn bị cho nhau.
Như vậy, xét trên mọi phương diện từ vĩ mô đến vi mô, từ hiện tại tới quá khứ và
tương lai ở đâu chúng ta cũng thấy sự hiện diện của các mối quan hệ, sự vật hiện
tượng tồn tại trong các mối quan hệ đó vì vậy: mối liên hệ là có tính phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được thể hiện rất phong phú, rất
đa dạng, phức tạp và tuỳ theo tình chất của mối liên hệ, phạm vi của mối liên hệ,
vai trò cùa mối liên hệ đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật. Khi nghiên cứu
về hiện thực khách quan có thể phân chia chúng ra thành từng loại khác nhau tùy
theo tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay
sâu…. Khái quát lại có những mối liên hệ chính phổ biến sau đây:
+Mối liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài.
+Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.
+Mối liên hệ chung và riêng.
+Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
+Mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ bản chất và không bản chất.
Trong đó, những mối liên hệ ở bên trong, trực tiếp, bản chất, tất nhiên là những
mối liên hệ quan trọng giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Triết học Mác xít cũng đồng thời chỉ rõ rằng: các loại liên hệ khác nhau có khả
năng chuyển hóa cho nhau, thay đổi vị trí cho nhau. Điều này tùy thuộc vào sự
thay đổi phạm vi bao quát của việc nghiên cứu hoặc do kết quả vận động của
chính bản thân sự vật đó.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng
ta rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức các sự vật cũng như trong hoạt động
thực tiễn. Yêu cầu của quan điểm toàn diện bao gồm:
Về mặt nhận thức: cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng nào đó đặt trong mối
quan hệ với các sự vật, hiện tương khác; Phát hiện ra những mối liên hệ qua lại
giữa các yếu tố, bộ phận, thuộc tính, các giai đoạn phát triển khác nhau của sự
vật đó. Lênin khẳng định: ” Muốn thật sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó
”.
Để nhận thức đúng về sự vật còn đòi hỏi phải xem xét nó trong mối liên hệ với
nhu cầu thực tiễn của con người, ứng với mỗi thời kỳ, mỗi thế hệ con người bao
giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn mối liên hệ. Vì vậy tri thức đạt
được về sự vật chỉ là tương đối, không đầy đủ và cần được bổ sung thêm. Mặt
khác, cần phải biết phân loại, đánh giá chính xác tính chất, vai trò, ý nghĩa của
mỗi loại liên hệ đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật.
Về mặt hoạt động thực tiễn: để cải tạo được sự vật cần phải làm biến đổi những
mối liên hệ của sự vật đó với các sự vật khác, đặc biệt là mối liên hệ bên trong,
trực tiếp, bản chất. Cần phải xây dựng kế hoạch tổng thể và phải sử dụng đồng bộ
nhiều biện pháp, phương pháp, phương tiện khác nhau để tác động. Mặt khác,
quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi cần phải kết hợp chặt chẽ chính sách dàn đều và
chính sách có trọng điểm, vừa chú ý giải quyết cái tổng thể vừa biết lựa chọn vấn
đề trung tâm, trọng tâm để giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết các vấn đề khác.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Đảng CSVN xác định: đổi mới toàn
diện,mọi mặt đời sống XH trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.
Tại Đại hội Đảng lầ thứ VIII, Đảng CSVN đã khẳng định:” Xét trên tổng thể
Đảng ta đã bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc
hoạch định đường lối đối nội và đối ngoại, không có sự đối nội đó thì không có
mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết và việc thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế- XH, tạo
tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng
và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện để đổi mới các mặt khác của đời sống XH”.
Câu 3: Con đường biện chứng của quá trình nhận thức, chân lý vai trò,
mối quan hệ thực tiễn và nhận thức.
1. Con đường biện chứng của quá trình nhận thức
Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức là
phản ánh đúng đắn đối với hiệt thực khách quan) là một quá trình. Đó là quá trình
bắt đầu từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Nhưng những sự trừu tượng đó không phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ
nhận thức, mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn, đồng thời có thể kiểm tra
và chứng minh đúng đắn và tiếp tục trong quá trình nhận thức.
a. Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức mà con người,
trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự
vật, hiện tượng khách quan, mang tính chất cụ thể, với những biểu hiện phong
phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người.
Giai đoạn này mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của
sự vật cụ thể, trong hiện thực khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy
luật, nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được, thực hiện qua ba hình
thức là: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Cảm giác :
Là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của các quá trình nhận thức, phản ánh chủ quan con người
Là cơ sở hình thành nên tri giác. Tri giác:
Là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật,
hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng
hợp những cảm giác về sự vật, hiện tượng.
Hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Nhưng chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan. Biểu tượng :
Là sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách quan vốn đã được phản ánh
bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức lạp nhất của
giai đoạn nhận thức cảm tính.
Tái hiện những hình ảnh mang tính chất biểu trưng về sự vật, hiện tượng khách
quan, liên tưởng về hình thức bên ngoài.
Tiền đề của những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức, là sự phản ánh
gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của
sự vật, hiện tượng khách quan.
Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm
lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính
được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận). Khái niệm :
Hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật, hiện tượng.
Là cơ sở hình thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy về sự
vật, hiện tượng khách quan. Phán đoán :
Hình thức cơ bản của nhận thức lý tính.
Hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm theo phương thức khẳng định
hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
* Phán đoán được chia làm ba loại:
Phán đoán đơn nhất Phán đoán đặc thù Phán đoán phổ biến
Trong đó: Phán đoán phổ biến là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát
rộng lớn nhất về thực tại khách quan. Suy lý:
Hình thức cơ bản của nhận thức lý tính.
Hình thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật, hiện tượng.
Điều kiện: trên cơ sở những tri thức và tuân theo những quy tắc lôgích của các loại hình suy luận.
b. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình
nhận thức song chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận
thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ
sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể
hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật,
hiện tượng giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên
sâu sắc hơn. ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về
đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con
người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem
những tri thức đó có chân thực hay không.
Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực
tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được
trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức suy đến cùng đều là xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Như vậy, có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình
vận động, phát triển của nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận thức – từ nhận thức
trở về với thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức, vv...
Quy luật chung của sự nhận thức cũng là một sự biểu hiện cụ thể, sinh động của
những quy luật chung trong phép biện chứng duy vật: quy luật phủ định của phủ
định, quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
2. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn a. Khái niệm chân lý
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm chân lý
được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự
phù hợp đó được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
b. Tính chất của chân lý
Có 3 tính chất:
Tính khách quan, tính tương đối và tính cụ thể. Tính khách quan:
+ Độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội
dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại.
+ Điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri. Tính tương đối:
+ Chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với
hiện thực khách quan về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối.
+ Nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ mới đạt được sự phù hợp
từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định. Tính cụ thể:
+ Đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất
định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể.
+ Mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể, xác định.
+ Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoại động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
c. Vai trò chân lý đối với thực tiễn
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong
quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ
thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con
người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong
hoạt động nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân
lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình .
Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực
tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và
xã hội. Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức
đó vào trong các hoạt động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt
động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay.
Câu 4: Trình bày các cặp phạm trù chung – riêng, bản chất – hiện
tượng, nguyên nhân – kết quả.
Trong triết học, phạm trù được hiểu là những khái niệm chung nhất, rộng nhất
phản ánh những mặt, những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Cặp phạm trù cái chung – cái riêng a. Khái niệm
Cái riêng: là phạm trù triết học để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định. (Cái
riêng được hiểu như là một chỉnh thể độc lập với cái khác).
Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những có ở một sự vật, một hiện tượng, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng khác.
Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm vốn có ở
một sự vật, hiện tượng mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Trong lịch sử triết học đã có hai xu hướng – duy thực và duy danh – đối lập nhau
giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực khẳng
định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Các nhà duy danh
cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan. Chỉ có sự vật
đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại trong tư duy con người.
Cái chung chỉ là tên gọi, danh xưng của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coi cái
riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy đanh giải quyết khác nhau vấn đề hình
thức tồn tại của nó. Một số (như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng
vật chật cảm tính; số khác (Béccli) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng…..
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu
hướng đó trong việc lý giải mối quan hệ cái chung – cái riêng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng, cái chung, cái đơn nhất đều
tồn tại khách quan và có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ đó được thể
hiện qua các đặc điểm sau:
+ Cái chung tồn tại trong cái riêng, vì cái chung là một mặt, một thuộc tính của cái
riêng, không có cái chung tồn tại bên ngoài cái riêng và nó liên hệ không tách rời cái đơn nhất.
+ Mọi cái riêng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, giữa cái đơn nhất và cái
chung. (Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất vừa là cái
chung; các mặt cá biệt, không lặp lại của sự vật, hiện tượng đó là biểu hiện cái đơn
nhất. Còn các mặt lặp lại ở nhiều sự vật hiện tượng thì biểu hiện cái chung).
+ Cái riêng là cái toàn bộ bởi vì nó là một chỉnh thể độc lập với cái khác, là cái
phong phú hơn cái chung vì ngoài những điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.
+ Cái chung là cái bộ phận bởi vì nó chỉ là những thuộc tính của cái riêng nhưng
nó sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung là những thuộc tính, những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
+ Cái đơn nhất và cái chung có mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất.
Trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau: khi cái đơn nhất chuyển
hoá thành cái chung thì nó thể hiện cái mới ra đời và phát triển, khi cái chung
chuyển hoá thành cái đơn nhất thì nó thể hiện cái cũ, cái lỗi thời cần phải vứt bỏ.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một thuộc
tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất và
mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì các phương
pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều không thể
như nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó, Vì
bản thần cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không giống
nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các
phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải
thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp.
Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn
nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đổ trong điều kiện khác, không nên sử
dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường
hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định “cái
đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến
thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều
kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và
“cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
2. Cặp phạm trù bản chất – hiện tượng a. Khái niệm
Khi tìm hiểu về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, chúng ta cần tìm hiểu,
nhìn nhận chúng một cách riêng rẽ sau đó tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa
chúng. Phạm trù bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động
và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ của xã hội. Do
đó, một con người thực sự phải là người có các mối quan hệ xã hội. Các mối quan
hệ đó rất đa dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn
bè, quan hệ đồng nghiệp.
Hay, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công nhân và người lao động
bằng các quy luật như quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận,…
Nếu bản chất là cái bên trong quy định sự vận động và sự phát triển của sự vật,
hiện tượng thì phạm trù hiện tượng lại được dùng để chỉ cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Ví dụ: Bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn giữa tính xã hội lực lượng sản
xuất và tính chất chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất. Hay nói cách khác là
sự mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Bản chất đó được thể hiện thông qua các hiện tượng như nạn thất nghiệp, đời
sống khổ cực của giai cấp vô sản và người lao động, sự giàu có của giai cấp tư sản.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta thấy hai
phạm trù này đều tồn tại khách quan. Mối quan hệ giữa
chúng là hai mặt vừa
thống nhất, vừa đối lập.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Qua ví dụ đã nêu, ta thấy bản chất là cái bên trong chỉ được biểu hiện thông qua
hiện tượng. Hay nói cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một bản chất nhất định.
Như vậy, không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như không
có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào. Lênin khẳng định: “Bản
chất hiện ra, hiện tương tường là có tính bản chất”.
Chính vì vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Chúng sẽ luôn
tồn tại cùng nhau, nếu bản chất cũ mất đi thì các hiện tượng do nó sinh ra cũng
mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới xuất hiện thì nó lại sản sinh ra các hiện tượng phù hợp với nó.
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
Sự đối lập của cặp
phạm trù bản chất và hiện tượng được thể hiện thông qua các yếu tố sau:
+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất là cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Qua tìm hiểu cặp phạm trù bản chất và hiện tượng ta rút ra được những kết luận sau:
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, phải đi sâu tìm bản chất,
không dừng ở hiện tượng, bởi bản chất là cái ở bên trong hiện tượng.
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
Vì bản chất tồn tại một cách khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó.
Bản chất không tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, do đó, tìm bản chất phải thông
qua tìm hiểu các hiện tượng bên ngoài. Cần lưu ý, trong quá trình nhận thức bản chất
của sự vật phải xem xét nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Đặc biệt, để cái tạo sự vật phải thay đổi bản chất của nó chứ không chỉ thay đổi
hiện tượng. Bởi thay đổi được bản chất thì hiện tượng sẽ thay đổi theo. Có thể
thấy, đây là một quá trình vô cùng phức tạp, do đó cần kiên nhẫn, không chủ quan, nóng vội.
Như vậy, ta thấy cặp phạm trù bản chất và hiện tượng là một cặp phạm trù quan
trọng, thể hiện tính khoa học và đúng đắn. Xuất phát từ các đặc điểm của chúng,
mỗi chúng ta cần nhìn nhận các vấn đề một cách khách quan, khoa học thông qua
tìm hiểu đầy đủ, toàn diện các hiện tượng bên ngoài. Từ đó đưa ra các kết luận
đúng đắn về bản chất bên trong. Nhờ vậy giúp chúng ra có được nhận thức một
cách đúng đắn nhất về sự vật hiện tượng.
3. Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả a. Khái niệm
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Trong hai khái niệm này, chúng ta cần lưu ý đối với khái niệm nguyên nhân và
nguyên cớ, để không có sự nhầm lẫn về khái niệm.
Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết quả.
Nguyên cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài, không bản chất.
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng
có tác dụng đối với việc sinh ra kết quả.
Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác có mặt khi nguyên nhân gây
ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
b. Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có
mối quan hệ qua lại, cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn
kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động. Tuy
nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều
biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn
cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên
nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây
nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các
nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm
suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có
thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không
giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở
lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả.
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ
khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì
trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến
lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này
tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận.
Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầy hay cuối cùng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự
vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng
không phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ
của nhận thức khó học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên
nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn
tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc con
người, tách rời với thế giới hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện
tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi
hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những
nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy
trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên
nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải nắm được chiều hướng
tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho
nguyên nhân có tác động tích cực đến họt động và hạn chế sự hoạt động của
nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta
cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thức đẩy
nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
Câu 5: Cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng. Tồn tại xã hội – ý thức xã hội.
* Cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng 1. Khái niệm
a. Cơ sở hạ tầng là gì?
Với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:
• Quan hệ sản xuất thống trị;
• Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó;
• Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và
quyết định tính chất, đặc trưng của một cơ sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai
kiểu quan hệ sản xuất còn lại cũng có vai trò nhất định.