Đề cương ôn tập triết học - Triết học Mác - Lênin | Học viện Phụ nữ Việt Nam
Ý thức: Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác-Lênin (DHCT13)
Trường: Học viện Phụ nữ Việt Nam
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT HỌC Câu 1:
Phân tích nguồn gốc, bản chất của ý thức? * Khái niệm
- Ý thức: Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là
cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách
rời ý thức ra khỏi bộ óc. Ý thức có hai nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc của ý thức - Nguồn gốc tự nhiên:
+ Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài của vật chất.
+ Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác nhau của
vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành phản
ánh ý thức của con người.
- Nguồn gốc xã hội: ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những
quan hệ xã hội của loài người.
VD: Con người khi lao động cụ thể là lao động chế tạo ra các công cụ lao động, công cụ dùng
trong sinh hoạt, từ đó con người có ý thức về việc thay đổi thói quen ăn uống hay mục đích của
hoạt động biến đổi phát triển xã hội. * Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; còn vật chất là cái được phản ánh.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức không phải là hình ảnh vật
lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể
xã hội năng động sáng tạo. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho
nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
- Tính năng động, sáng tạo: ý thức phản ánh hiện thực một cách có định hướng và có chọn
lọc nhằm nhận thức và cải biến thế giới thông qua lao động. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức
có thể tạo ra tri thức mới, có thể tưởng tượng, có thể tiên đoán và dự báo tương lai, có thể lập ra
những giả thuyết khoa học…
- Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội: Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn
liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là của
quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định.
VD: Các hoạt động xây nhà, cày ruộng, đào mương, xây cầu, làm đường,… mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn hay ở mỗi địa phương có sự khác nhau và đều được con người tác động theo mục đích, nhu
cầu khác nhau phù hợp điều kiện vật chất, kinh tế-xã hội,…
Câu 2: Trình bày khái niệm vận động? Tại sao nói vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất? * Khái niệm:
“Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. VD:
Con người, các loài động vật, thực vật sinh ra, lớn lên, sinh ra các thế hệ sau rồi lại chết
đi, nhường chỗ cho những cá thể mới.
Trái đất liên tục quay quanh trục của nó, đồng thời xoay quanh Mặt Trời.
* Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất:
+ Vật chất luôn gắn liền với vận động và chỉ thông qua vận động mà các dạng cụ thể của
vật chất mới biểu hiện được sự tồn tại của mình.
+ Vật chất tồn tại khách quan nên vận động cũng tồn tại khách quan và vận động của vật
chất là tự thân vận động.
VD: Khi chúng ta gieo hạt đỗ thì nó sẽ tự nảy mầm.
+ Trong thế giới, không có vận động bên ngoài vật chất và cũng không có vật chất nào là
không vận động; vận động và vật chất thống nhất với nhau.
+ Trong sự vận động bao hàm cả sự đứng im, mang tính tương đối và tạm thời: vận động
theo chiều ngang, vận động thụt lùi, bởi nếu không có sự đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được.
+ Do vật chất không được sáng tạo và không bị hủy diệt (tính tuyệt đối) nên vận động vật
chất trong thế giới cũng không được sinh ra hay không mất đi, mà chỉ chuyển từ hình thức, kiểu
này sang hình thức, kiểu khác. Tính đa dạng của tồn tại vật chất trong thế giới được thể hiện bằng
tính đa dạng của các hình thức vận động. Có 5 hình thức vận động cơ bản là: cơ học, lý học, hóa
học, sinh học và xã hội. Câu 3:
Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biế
n của phép biện chứng duy vật?
Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nội dung nguyên lý này? * Khái niệm
- Liên hệ: Là quan hệ giữa hai đối tượng mà sự thay đổi của một trong số chúng nhất định
làm đối tượng kia thay đổi.
- Mối liên hệ: Dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau.
- Mối liên hệ phổ biến: là khái niệm chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
VD: Thực vật, nước và không khí có mối liên hệ phổ biến. Nước và không khí là điều kiện sinh
tồn của thực vật. Thực vật có tác dụng làm sạch đối với nước và không khí. * Nội dung
Tất cả mọi sự vật hiện tượng cũng như thế giới, luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ phổ
biến quy định ràng buộc lẫn nhau, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại cô lập, riêng lẻ, tách rời không liên hệ. * Tính chất
- Tính khách quan: Mối liên hệ phổ biến là cái vốn có, tồn tại độc lập với con người; con
người chỉ nhận thức sự vật thông qua các mối liên hệ vốn có của nó.
VD: Con người có các quan hệ xã hội giữa người này với người khác. Có như vậy con người mới
tồn tại, vận động và phát triển. - Tính phổ biến:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có liên hệ với sự vật, hiện tượng khác.
+ Các yếu tố, bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng cũng có mối liên hệ với nhau.
+ Mối liên hệ có ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy.
VD: Trong tự nhiên, cây xanh không chỉ có mối liên hệ với môi trường (không khí, nhiệt độ…)
mà còn có mối liên hệ với con người (con người chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…)
- Tính đa dạng, phong phú, muôn vẻ: Mọi sự vật, hiện tượng đều có những mối liên hệ cụ
thể và chúng có thể chuyển hóa cho nhau; ở những điều kiện khác nhau thì mối liên hệ có tính
chất và vai trò khác nhau.
VD: Các loài cá, chim, thú đều có quan hệ với nước, nhưng cá quan hệ với nước khác chim và thú.
+ Có rất nhiều mối liên hệ:
Mối liên hệ bên trong và bên ngoài.
Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.
Mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Nhận thức sự vật trong mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt của chính sự vật và trong sự
tác động giữa sự vật đó với các sự vật khác.
- Biết phân loại từng mối liên hệ, xem xét có trọng tâm, trọng điểm, là nổi bật cái cơ bản
nhất của sự vật, hiện tượng.
- Từ việc rút ra mối liên hệ bản chất của sự vật, ta lại đặt mối liên hệ bản chất đó trong
tổng thể các mối liên hệ của sự vật xem xét cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Cần tránh phiến diện siêu hình và chiết trung, ngụy biện. * Liên hệ thực tiễn
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp
với từng con người. Đối với những người bề trên như ông bà, cha mẹ, thầy cô… thì chúng ta cần
có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động, thái độ thoải mái,
tự nhiên. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời
gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách ứng xử phù hợp như ông cha đã kết
luận: “đối nhân xử thế”.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét
chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt. Khi ta
học kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu
bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu,
thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn. Câu 4:
Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng d uy vật? Ý nghĩa
phương pháp luận được rút ra từ nội dung nguyên lý này. * Khái niệm
- Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo
khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước thụt lùi.
VD: Trong quá trình biến đổi của các giống loài đã có sự biến đổi và phát triển từ bậc thấp lên bậc cao. * Tính chất
- Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển do các quy luật khách quan chi phối mà
cơ bản nhất là quy luật mâu thuẫn.
VD: Hạt lúa khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có con người nhưng nó vẫn phát triển.
- Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật, hiện tượng, mọi
quá trình và giai đoạn của chúng và kết quả là cái mới xuất hiện.
VD: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây thể hiện khả năng nhận
thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với tự nhiên và xã hội trong tư duy.
- Tính phong phú, đa dạng: Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không hoàn toàn
giống nhau, ở những không gian và thời gian khác nhau; chịu sự tác động của nhiều yếu tố và
điều kiện lịch sử cụ thể.
VD: Sự phát triển của giới tự nhiên thuần tuý tuân theo tính tự phát, còn sự phát triển của xã hội
loài người lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải luôn đặt nó trong khuynh hướng vận động, biến đổi,
chuyển hóa nhằm phát hiện ra xu hướng biến đổi.
- Nhận thức sự vật, hiện tượng trong tính biện chứng để thấy được tính quanh co, phức tạp của sự phát triển.
- Biết phát hiện và ủng hộ cái mới; chống bảo thủ, trì trệ định kiến.
- Biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới. * Liên hệ thực tiễn
Việc vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập mang ý nghĩa rất quan trọng, đặc
biệt với sinh viên để có thể phát triển và hoàn thiện bản thân.
Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận cuẩ quan điểm toàn diện, để từ
đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần phải phân biệt các mối
liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối
liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân.
Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định
Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng
phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với chuyên
ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn
thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Câu 5:
Phân tích quan niệm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa cái
riêng và cái chung? Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù này với nhận thức hoạt động thực tiễn? * Khái niệm
- Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ nhất định.
VD: một phân tử, một cá nhân con người,…
- Cái chung: là phạm trù để chỉ một thuộc tính của sự vật có trong nhiều sự vật, hiện
tượng hay quá trình riêng lẻ khác nhau
VD: cùng là người Việt Nam; cùng học tại Học viện Phụ nữ Việt Nam,…
- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ một thuộc tính của sự vật chỉ có trong một sự vật mà
không được lặp lại ở bất kì sự vật nào khác
VD: gen người; vân tay; những phát minh, sáng kiến,…
* Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
- Cái chung và cái riêng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau.
+ Cái riêng tồn tại trong mối liên hệ giữa cái chung => cái riêng tồn tại độc lập nhưng không
được hiểu là cô lập, bởi vì nếu hiểu theo nghĩa cô lập thì sự vật, hiện tượng không có mối liên hệ
=> sự vật, hiện tượng không vận động và phát triển => sự vật, hiện tượng không tồn tại.
VD: con chó, con mèo là cái riêng nhưng đều có sự sống (cái chung)…
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với những cái riêng khác.
Ví dụ: sự vật liên hệ với môi trường.
+ Cái riêng luôn bị tác động và chi phối bởi các quy luật chung.
Ví dụ: con người chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, quy luật tự nhiên…
- Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn thể (cái chung nằm trong cái riêng).
+ Cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất.
Ví dụ: Việc ứng dụng lai tạo giống lúa, tạo ra nhiều giống lúa để có nhiều loại gạo, mỗi loại gạo đó là cái đơn nhất.
+ Cái riêng có thể gia nhập vào rất nhiều cái chung thậm chí vào cả những cái chúng đối lập.
Ví dụ: trong gia đình 3 thế hệ, thế hệ thứ hai là con của thế hệ thứ nhất nhưng vừa là cha của thế hệ thứ 3.
+ Cái riêng phong phú hơn cái chung, cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì nó gạt bỏ đi những đặc
tính không cơ bản của sự vật hiện tượng ra, nó chỉ tập trung hướng vào phản ánh một khía cạnh,
một bản chất của thế giới hiện thực.
- Bất cứ cái chung nào cũng mang tính bao quát nhưng không có cái chung nào bao quát
hết toàn bộ tất cả các mặt riêng lẻ: bên cạnh cái chung là những thuộc tính được lặp đi lặp lại
trong các sự vật hiện tượng thì bất cứ cái riêng nào cũng chứa đựng cái đơn nhất.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cái chung sâu sắc hơn cái riêng nên khi hoạt động, nghiên cứu cải tạo sự vật chúng ta
nên xuất phát từ quy luật chung, các tính chung cơ bản của sự vật, không được bắt đầu hoạt động
khi không có sự chỉ đạo của các nguyên tắc lý luận.
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng nên chúng ta có thể rút ra hai kết luận sau đây:
chúng ta không thể tìm cái chung trong ý nghĩa chủ quan mà phải tìm trong từng sự vật cụ thể;
cần phải vận dụng cái chung trong những điều kiện, hòan cảnh cụ thể.
- Không được tuyệt đối hóa cái chung hoặc cái riêng bởi vì nếu như chúng ta tuyệt đối
hóa cái chung thì gây ra bệnh giáo điều, sách vở, và cũng không được tuyệt đối hóa cái riêng vì
sẽ gây ra bệnh kinh nghiệm.
- Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung để
thúc đẩy sự phát triển. * Liên hệ thực tiễn
- Mối quan hệ giữa bản thân và gia đình: Gia đình là mái ấm, là nơi che chở vững chắc
cho mỗi cá nhân, mỗi con người. Nơi đây còn là một tổ hợp của các chỉnh thể có các mối liên hệ
với nhau như: vợ-chồng, cha mẹ-con, ông bà-cháu,… chung sống hạnh phúc. Còn bản thân là
một cái riêng mang những đặc tính riêng biệt về tính cách, học vấn, nhận thức, cách giao tiếp,…
cái riêng này tạo nên sự khác biệt cho mỗi thành viên trong gia đình. Câu 6:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết q
uả. Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ nhân quả. * Khái niệm
- Nguyên nhân: Là sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các
sự vật, hiện tượng với nhau gây ra những biến đổi nhất định.
- Kết quả: Là những biến đổi xảy ra bởi sự tương tác giữa các mặt trong cùng một sự vật,
hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
VD: Do lũ lụt nên người dân ở miền Trung gặp rất nhiều khó khăn. Lũ lụt ở đây chính là nguyên
nhân dẫn đến kết quả là sự khó khăn trong nhiều mặt của người dân miền Trung.
* Tính chất của mối liên hệ nhân quả - Tính khách quan:
+ Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan của bản thân các sự vật. Nó tồn tại ngoài ý
muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
+ Vì mối quan hệ nhân quả là vốn có trong bản thân sự vật nên không thể đồng nhất nó với khả năng tiên đoán.
- Tính phổ biến: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân
nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó
đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về
mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực. - Tính tất yếu:
+ Kết quả sẽ được xác định trong những điều kiện nhất định, hòan cảnh xác định với nguyên nhân xác định.
+ Kết quả sẽ khác nếu điều kiện và nguyên nhân thay đổi.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ sản sinh. Từ nguyên nhân có kết quả. Kết quả chỉ
xuất hiện sau khi nguyên nhân bắt đầu tác động.
VD: Do sự mâu thuẫn giữa hai giai cấp tư sản và vô sản (nguyên nhân) nên đã dẫn đến cuộc đấu
tranh giai cấp (kết quả). Chính vì mâu thuẫn có trước nên mới dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp.
- Mối quan hệ nhân quả mang tính phức tạp:
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
VD: Một sinh viên không chịu học hành tử tế (nguyên nhân) chính vì vậy mà dẫn đến việc sinh
viên đó đạt kết quả thấp trong bài thi (kết quả 1), phải học lại môn (kết quả 2), bản thân sẽ thụt lùi
so với các bạn (kết quả 3).
+ Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra.
VD: Công cuộc cách mạng của nước Việt Nam ta thắng lợi (kết quả) do sự lãnh đạo tài tình của
Đảng (nguyên nhân 1), do tinh thần yêu nước và đoàn kết của nhân dân ta (nguyên nhân 2), do có
sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa (nguyên nhân 3).
- Mối liên hệ nhân quả mang tính quá trình. Nó nối tiếp nhau, kế liền nhau.
VD: Sinh viên có ý thức học tập tốt T
iếp thu được kiến thức Đạt kết quả tốt trong kì thi
Nhận được học bổng Đạt được bằng giỏi Có việc làm tốt sau khi ra trường.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng sau khi kết quả xuất hiện sẽ tác động ngược trở lại nguyên nhân.
VD: Do những hoạt động tiêu cực của con người dẫn đến sự biến đổi môi trường sự sống trên
Trái Đất theo chiều hướng đi xuống, nhưng chính vì sự biến đổi môi trường theo hướng tiêu cực
ấy đã tác động trở lại theo chiều hướng bất lợi cho hoạt động của con người.câu
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn nhận thức sâu sắc, đầy đủ về một sự vật, hiện tượng, cần phải tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nó.
- Muốn triệt tiêu hoặc làm cho nảy sinh một hiện tượng cần phải loại bỏ hoặc tác động và
nguyên nhân sinh ra hiện tượng đó.
- Phải biết đánh giá đúng vai trò của từng nguyên nhân trong việc sinh ra kết quả và sự tác
động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân. * Liên hệ thực tiễn
Trong đại dịch Covid-19 đang diễn ra phức tạp hiện nay, ý thức của con người rất quan
trọng (ý thức của con người ở đây là nguyên nhân): Nếu ý thức con người tốt, chấp hành và thực
hiện đúng các nguyên tắc, quy định 5K thì đại dịch sẽ được kiểm soát và dần dần ta có thể đẩy lùi
dịch bệnh (kết quả); nhưng nếu ý thức không tốt thì nguy cơ bùng dịch sẽ rất lớn, có thêm nhiều
ca mắc cộng đồng và khó kiểm soát tình hình dịch bệnh (kết quả). Câu 7:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiê
n? Tại sao trong hoạt
động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên. * Khái niệm
- Tất nhiên là cái do những nhiên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định
và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra như thế chứ không thể khác.
VD: Đã là con người, ai cũng phải sinh ra, lớn lên và chết đi. Điều này không thể khác được.
- Ngẫu nhiên là cái do nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên
ngoài quyết định, có thể xuất hiện hoặc không, có thể xuất hiện thế này hoặc thế khác.
VD: Tất nhiên thi lại nếu lười học, nhưng nếu do ốm không học để thi được thì lại là ngẫu nhiên.
- Cùng một sự vật có thể là tất nhiên, cũng có thể là ngẫu nhiên.
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
+ Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
VD: Tai nạn giao thông xảy ra trên một đoạn đường nào đó là ngẫu nhiên. Nhưng nếu đoạn
đường đó liên tiếp xảy ra tai nạn, vậy thì đằng sau vô số cái ngẫu nhiên ấy ẩn giấu một cái tất
nhiên nào đấy. Có thể do đoạn đường này quá hẹp, địa hình bị nhà cửa che khuất, không có biển
báo từ xa nên tai nạn xảy ra là tất nhiên. Nhưng cái tất nhiên không thể tồn tại thuần tuý mà nó
được bộc lộ thông qua từng trường hợp tai nạn cụ thể, ngẫu nhiên, xảy ra thường xuyên trên đoạn đường này.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau: Trong hiện thực, tất nhiên và ngẫu
nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, và trong những điều
kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau. Tức là tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngược lại. ,
VD: Về quả trứng vỡ, nếu xét ở khía cạnh cuối cùng có vỡ hay không, thì việc quả trứng bị vỡ
là tất nhiên. Nhưng xét ở khía cạnh nó vỡ khi bị rơi, bị đập ra hay khi gà con đạp vỡ, thì việc bị vỡ là ngẫu nhiên.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không
được căn cứ vào cái cái ngẫu nhiên.
- Từ những cái ngẫu nhiên thường gặp trong hoạt động thực tiễn, cần phải tìm ra cái tất
nhiên và quy luật chung chi phối hiện thực.
- Không được coi thường cái ngẫu nhiên. Trong cuộc sống phải biết dự phòng những đối
sách cần thiết với các tình huống đột xuất. * Giải thích
Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên, mà không thể dựa vào cái ngẫu
nhiên vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự
vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể
không. Tuy vậy cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên vì cái ngẫu nhiên tuy không
chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn
có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính (phương
án một), người ta thấy có phương án hành động dự phòng (phương án hai) để chủ động đáp ứng
những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.
Câu 8: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ này. * Khái niệm
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình cấu tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
VD: Một chiếc áo: vải làm nên chiếc áo đó là nội dung và kiểu dáng, màu sắc của chiếc áo đó là hình thức.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Nội dung và hình thức tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau:
+ Không có hình thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có nội dung nào mà không tồn tại trong hình thức.
VD: Có các bộ phận, động cơ bên trong (nội dung) thì mới hình thành nên một chiếc máy tính (hình thức).
+ Tuy nhiên trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, ở trong những tình hình phát triển
khác nhau, một nội dung có thể có nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể biểu
hiện nhiều nội dung khác nhau.
VD: Gỗ (nội dung) có thể được dùng để làm bàn, ghế, tủ, kệ,…(hình thức).
VD: Với một độ dài là 1m (hình thức) người ta có thể tạo ra một chiếc bàn dài 1m, một chiếc tủ dài 1m,…
- Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức tác động trở lại nội dung
+ Nội dung quyết định hình thức:
Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất của sự vật, có khuynh hướng chủ đạo là khuynh
hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật, có khuynh hướng ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi của nội dung, còn
hình thức cũng biến đổi nhưng biến đổi chậm hơn nội dung.
Khi nội dung biến đổi buộc hình thức cũng phải biến đổi theo, sao cho phù hợp với nội dung mới.
VD: Mối quan hệ giữa một người phụ nữ với một người đàn ông là vợ chồng (nội dung) thì họ
phải có hình thức là “giấy chứng nhận kết hôn”.
- Sự tác động trở lại của hình thức: hình thức bị quy định bởi nội dung nhưng sau khi xuất
hiện, hình thức vẫn mang tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với nội dung theo hai hướng:
+ Khi hình thức phù hợp với nội dung -> thúc đẩy nội dung phát triển.
+ Khi hình thức không phù hợp với nội dung -> kìm hãm sự phát triển của nội dung.
VD: Câu tục ngữ “Lúa tốt vì phân”. Nhờ có phân bón (hình thức) mà lúa mới tốt (nội dung).
- Sự chuyển hóa giữa nội dung và hình thức: nội dung và hình thức có thể chuyển hóa cho
nhau trong những trường hợp với những điều kiện nhất định.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy trong họat động
nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt ấy.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật hiện tượng thì trước hết phải căn
cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.
- Trong thực tiễn cần phải phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên
cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác cũng cần phải thực hiện những
thay đổi đối với hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển của nội dung. * Liên hệ thực tiễn
Trong công cuộc đổi mới của nước ta bao gồm rất nhiều nội dung, trong đó có nội dung
về kinh tế đó là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Và các hình thức kinh tế được biểu hiện:
kinh tế nhà nước; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,… Câu 9:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng? Ý nghĩ a phương
pháp luận của mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn? * Khái niệm
- Bản chất: Là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên
trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng: Là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
VD: Bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp tư sản và vô sản. Điều đó
được thể hiện thông qua hiện tượng như: sự nghèo đói, khổ cực của giai cấp vô sản; sự giàu có của giai cấp tư sản.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
- Bản chất và hiện tượng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau.
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua
những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ
của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
+ Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng
không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
+ Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.
+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo và khi bản
chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
VD: Trong nghiên cứu khoa học, người ta thường quan sát các hiện tượng để tiến hành nghiên
cứu về bản chất của hiện tượng và giải thích nó.
- Tính mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, hiện tượng phong phú hơn bản chất.
+ Hiện tượng không hoàn toàn phù hợp với bản chất.
VD: Nhúng một phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.
+ Bản chất ổn định hơn so với hiện tượng, hiện tượng biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
VD: Người xưa có câu “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn tìm hiểu bản chất sự vật cần phải căn cứ vào hiện tượng. Để xác định bản chất
được đúng, cần phải dựa vào nhiều hiện tượng, mà trước hết là các hiện tượng điển hình.
- Quá trình nắm bắt bản chất là quá trình lâu dài và công phu. Do đó, khi xác định bản
chất sự vật cần hết sức cẩn thận.
- Do bản chất thay đổi nên phương pháp tác động lên một lĩnh vực, hiện tượng nào đó cũng phải thay đổi. * Liên hệ thực tiễn
Cùng với sự thay đổi sang cơ chế thị trường như hiện nay thì lối sống, cách nghĩ của SV
cũng biến chuyển theo: Có rất nhiều SV đã trưởng thành và phát huy mọi khả năng của mình để
góp một phần sức lực trong việc đổi mới đất nước, cũng có nhiều sinh viên đã biết vượt qua số
phận nghiệt ngã của chính mình để học tập. Đồng thời đó cũng không phải ngẫu nhiên mà hàng
loạt các tệ nạn như: đua xe, ma tuý, cờ bạc, rượu chè… ngày càng xâm nhập sâu vào giảng
dường. Tất cả những điều đó trở thành điều nhức nhối cho toàn xã hội. Trên hết, tất cả chúng ta
phải quan tâm hơn nữa đến lực lượng chủ chốt này, phải làm sao cho Sinh viên Việt Nam có lối
sống đứng đắn, thực sự nhận thức rõ vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển của đất nước. Câu 10:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực? Dấu hiệu chí nh để
phân biệt khả năng và hiện thực là gì? Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này. * Khái niệm
- Hiện thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự. Còn khả năng là những gì chưa
có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng.
VD: Chiếc xe đạp bạn A đang đi là hiện thực.
- Khả năng là cái hiện chưa có ở thời điểm đang xét nhưng bản thân khả năng với tư cách
cái chưa có đó lại tồn tại. Tức là các sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, nhưng bản
thân khả năng để xuất hiện sự vật đó thì tồn tại.
VD: Cái cây có khả năng chết, hoặc cao lớn.
* Dấu hiệu chính để phân biệt khả năng và hiện thực: Khả năng là cái chưa có, hiện thực là cái
hiện đang có, đang tồn tại.
* Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau:
+ Điều này do chính quá trình phát triển của sự vật quy định. Quá trình phát triển là quá trình
trong đó còn hiện thực này lại sản sinh ra những khả năng mới. Cả khả năng mới ấy trong những
điều kiện thích hợp lại trở thành hiện thực mới.
- Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể tồn tại nhiều khả năng:
+ Ngoài một số khả năng vốn sẵn có ở sự vật, khi xuất hiện điều kiện mới thì sẽ xuất hiện những
khả năng mới và tính chất, vai trò của các khả năng có sẵn của sự vật cũng biến đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
VD: Do những điều kiện thực tế khác nhau nên cuộc sống của mỗi người đều có thể xuất hiện
những khả năng phát triển khác nhau. Vấn đề là ở chỗ mỗi người tự xác định được và lựa chọn
được cho mình khả năng có tính khả thi nhất và tối ưu nhất để hành động, biến nó thành hiện thực trong tương lai.
- Để khả năng biến thành hiện thực thường cần có không chỉ có một điều kiện, mà là một
tập hợp những điều kiện.
- Trong tự nhiên, quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực diễn ra một cách tự phát.
Còn trong xã hội, quá trình khả năng biến đổi thành hiện thực được diễn ra thông qua hoạt động
có ý thức của con người.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong một sự vật tồn tại nhiều khả năng nên cần phải lựa chọn khả năng phù hợp, hạn chế khả năng xấu,…
- Cần phải nhận thức được khả năng tiềm tàng trong sự vật để nắm bắt được xu thế phát triển của nó.
- Tích cực phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động nhận thức và thực tiễn để biến khả
năng thành hiện thực theo mục đích nhất định. * Liên hệ thực tiễn
Vấn đề xả rác nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Câu 11: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập? Ý nghĩa
phương pháp luận của quy luật đó?
- Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật: Là quy luật cơ bản nhất, đóng
vai trò là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển. * Khái niệm:
- Mặt đối lập: Là những mặt có thuộc tính khác nhau và vận động theo các khuynh hướng trái ngược nhau.
VD: Những ưu điểm – hạn chế của một người; sự giàu – nghèo của một quốc gia,…
- Mâu thuẫn: Là mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại nhau trong một thể thống nhất.
VD: Mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa lực hút và lực đẩy trong thế giới vật
lý; các học thuyết chống đối nhau trong triết học,…
- Thống nhất của hai mặt đối lập: Là sự nương tựa lẫn nhau, tương tác qua lại, thống nhất
hay đồng chất cùng chuyển hóa.
VD: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau nhưng nếu không có sản xuất thì không có sản phẩm để tiêu dùng, ngược lại nếu
không có tiêu dùng thì sản xuất mất lí do để tồn tại.
- Đấu tranh của các mặt đối lập: Là sự bài trừ, sự gạt bỏ, thay thế một sự vật cũ đã lỗi
thời, lạc hậu bằng một sự vật mới tiến bộ hơn.
VD: Mối quan hệ giữa giai cấp thống trị và bị trị trong xã hội xưa. Họ đối lập với nhau về quyền
lợi, ý chí. 2 giai cấp này luôn đấu tranh với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình, luôn luôn tác động đến nhau. * Nội dung quy luật - Sự thống nhất:
+ Các mặt đối lập liên hệ, ràng buộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm điều kiện tồn tại của nhau.
+ Các mặt đối lập đồng nhất với nhau, phù hợp và tác động lẫn nhau.
+ Sự vật hiện tượng là thể thống nhất của các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc vận động bên trong của sự phát triển:
+ Đấu tranh là tuyệt đối, thống nhất là tương đối.
+ Đấu tranh diễn ra ngay trong cơ thể thống nhất của sự vật. Chỉnh thể thống nhất đó là
điều kiện, tiền đề cho đấu tranh diễn ra không ngừng. Chừng nào thể thống nhất đó chưa bị phá
vỡ thì đấu tranh giữa các mặt đối lập vẫn còn tiếp diễn. Đấu tranh làm cho thể thống nhất cũ bị
phá vỡ, thể thống nhất mới ra đời, đồng thời với nó là sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
+ Đấu tranh là một quá trình diễn ra phức tạp. Quá trình đó có thể chia ra nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng, thông thường lúc đầu các mặt đấu tranh chưa gay gắt với
nhau nhưng trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra ngày
càng gay gắt và quyết liệt. Cuối cùng, các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện
nhất định. Sự chuyển hóa các mặt đối lập có thể diễn ra theo hai hướng:
Các mặt đối lập chuyển đổi vị trí cho nhau cùng phát triển.
Các mặt đối lập cùng chuyển sang dạng mới cao hơn.
+ Khi mâu thuẫn được giải quyết, thể thống nhất cũ bị phá vỡ, thể thống nhất mới
được thiết lập. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Sự vật mới, thể thống nhất mới có
những mặt đối lập mới xuất hiện do đó lại có những mâu thuẫn mới. Đấu tranh của các mắt
đối lập lại tiếp diễn từ chỗ chưa gay gắt đến chỗ ngày càng gay gắt và quyết liệt và cuối cùng
dẫn tới sự chuyển hóa trong những điều kiện nhất định…
VD: Hiện tại chưa có bằng đại học nhưng 4 năm sau sẽ có bằng. Việc có và chưa có bằng là hai
mặt đối lập. Khi bỏ thời gian 4 năm để học (giải quyết mâu thuẫn) sẽ có bằng (chưa có thành đã có).
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức cần phải phân tích những mặt đối lập
tạo nên mâu thuẫn, phát hiện nó để nắm được nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển.
- Khi giải quyết các mâu thuẫn khác nhau không được theo một khuôn mẫu.
- Để thúc đẩy sự phát triển phải giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa.
- Trong đời sống xã hội cần phải coi mọi hành vi đấu tranh thúc đẩy sự phát triển là chân chính. * Liên hệ thực tiễn
Quá trình đổi mới ở nước ta có tác dụng làm cho quen dần với các quan hệ hàng hoá, thay đổi
nâng cao đời sống kinh tế – xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Song trong xã
hội còn một số mâu thuẫn biện chứng sau:
Mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị: Khi đề ra đường lối đổi mới chính trị, Đảng ta luôn
nhấn mạnh phải ổn định chính trị giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Song
muốn ổn định lâu dài phải đổi mới và ổn định để đổi mới (ổn định và đổi mới là hai mặt
đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau)
Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội tại nước ta: Hiện nay khi nền kinh
tế phất triển mạnh xẽ xuất hiện nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Từ đó khoảng các
giàu nghèo cũng bị gia tăng xuất hiện mâu thuẫn xã hội về sự phát triển của nền kinh tế và
vấn đề công bằng xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn này là một vấn đề khó khăn với chính
phủ nước ta khi phải phân bổ đồng đều nguồn lực cho mỗi địa phương và cân bằng kinh
tế của mỗi vùng sao cho kinh tế vùng nông thôn và thành thị không có khoảng cách quá xa. Câu 12:
Phân tích nội dung quy luật phủ định của ph
ủ định? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật.
- Đây là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra khuynh hướng của
sự vận động và phát triển. * Khái niệm:
+ Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình phát triển.
+ Phủ định biện chứng là sự phủ định tự thân tạo tiền đề cho sự phát triển, sự thay thế cái cũ bằng
cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
VD: Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 11 là sự phủ định đối với iPhone X.
* Đặc điểm của phủ định biện chứng - Tính khách quan:
+ Sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật hiện tượng.
+ Nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật,
tạo khả năng ra đời cái mới, thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản
thân sự vật Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định.
VD: Quả trứng đem ấp thì nở thành con gà nên con gà đã phủ định quả trứng.
- Tính kế thừa: sự vật sau khi ra đời có nền tảng của sự vật trước đó, loại bỏ những cái lỗi
thời lạc hậu để ra đời một sự vật mới tốt hơn.
VD: Trong bất kỳ loài sinh vật nào, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực của cha
mẹ và bỏ qua những yếu tố lạc hậu. * Nội dung của quy luật
- Phát triển là một quá trình phủ định liên tục từ thấp đến cao.
- Qua hai lần phủ định liên tiếp tạo thành một vòng khâu của sự phát triển: Sau lần phủ
định một được thực hiện một cách căn bản, sự vật chuyển thành cái đối lập với nó: cái khẳng
định cái phủ định. Sau lần phủ định thứ hai, sự vật mới này lại chuyển thành cái đối lập với nó
nữa: cái phủ định cái phủ định của phủ định, tức là dường như trở lại cái ban đầu nhưng ở trên cơ sở mới cao hơn.
- Khi phủ định của phủ định được thực hiện thì kết thúc một chu kỳ phát triển nhưng đồng
thời lại là điểm xuất phát của chu kỳ mới tiếp theo. Tùy theo tính chất của từng chu kỳ mà số lần
phủ định có thể có thể ít hoặc nhiều nhưng ít nhất là hai lần.
- Tổng hợp toàn bộ các vòng khâu của sự phát triển, ta được con đường phát triển của sự
vật là con đường xoáy ốc: Quy luật phủ định của phủ định thể hiện rõ khuynh hướng vận động,
phát triển của sự vật là từ thấp đến cao, từ chưa hòan thiện đến hoàn thiện hơn… nhưng không
theo đường thẳng mà theo hình xoáy ốc. Đường xoáy ốc thể hiện rõ tính biện chứng của sự vật và
phát triển, nói lên tính liên tục, tính kế thừa giữa cái cũ và cái mới, sự lặp đi lặp lại không ngừng
và tiến lên của sự phát triển.
VD: Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) Phủ định lần 1 tạo ra cây lúa
Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu
hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
- Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật hiện tượng để tác
động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu họat động, nhận thức biểu hiện của thế giới khách
quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn.
- Cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi họat động, có niềm tin vào
sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó khắc phục
được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật
phủ định của phủ định. một
- Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo
nguyên tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo
cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ. * Liên hệ thực tiễn
Quá trình đổi mới của nước ta diễn ra theo chiều hướng tiến bộ hơn. Nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền
đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong
tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn
đề và đã có cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ. Câu 13:
Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự t
hay đổi về chất và
ngược lại? Vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên * Khái niệm
- Chất là tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là tổng hợp các thuộc tính làm cho
sự vật là nó, khác với cái khác.
VD: Chất của chanh là chua; chất của muối mặn,…
- Lượng là tính quy định vốn có của sự vật về mặt độ lớn, quy mô, trình độ phát triển, tốc
độ vận động, biểu thị bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó.
VD: Một người cao 1m58, nặng 44kg (số đo và cân nặng đó là lượng).
Sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. * Nội dung quy luật
- Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
+ Bất kỳ một sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng. Sự thay đổi về lượng
có thể chưa làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật mà có sự tích luỹ dần dần.
+ Các khái niệm liên quan:
Độ: Là phạm trù dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong
đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất.
Điểm nút: Là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Bước nhảy: Là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật gây nên trước đó. Là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển.
Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất: Chất và lượng là hai mặt đối lập
nằm trong một thể thống nhất (được giới hạn trong một độ nhất định) Khi lượng thay đổi đến
điểm nút chất phải thay đổi.
VD: Đun một ấm nước lã (hai lít) từ 0 C đến 100 o
oC. Nhiệt độ tăng dần từ 0 C đến 99 o C; 99 o C là o
thời kì lượng đổi dần dần, khi đạt tới 100 C là giới hạn độ bị phá vỡ đạt tới o điểm nút. Tại thời
điểm 100 C là điểm nút, ở điểm nút diễn ra bước nhảy vọt, c o
hất cũ (thể lỏng…) thành thể khí.
- Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng.
+ Sau khi ra đời, chất mới sẽ làm thay đổi lượng của sự vật:
Thay đổi quy mô tồn tại của sự vật.
Thay đổi nhịp điệu, tốc độ vận động và phát triển của sự vật đó.
Tóm lại: Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
thông qua bước nhảy; đồng thời chất mới sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, tạo ra những biến
đổi mới về lượng của sự vật. Quá trình đó diễn ra liên tục, tạo thành phương thức cơ bản, phổ
biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
VD: Khi một sinh viên tốt nghiệp loại giỏi và nhận được bằng cử nhân thì trình độ văn hóa của
sinh viên đó sẽ cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô và trình độ nhận thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải khắc phục được tư tưởng nôn nóng “tả
khuynh” và tư tưởng bảo thủ “hữu khuynh”.
- Cần phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều
kiện, từng lĩnh vực cụ thể.
* Vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên
Trong chất sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam kéo dài từ năm 2021 đến năm 2025 (độ), khi đó
lượng không ngừng được tăng lên, đó chính là kiến thức. Cũng như học sinh phổ thông, sinh viên
Đại học muốn có được tấm bằng Đại học phải tích lũy đủ số học phần. Tuy nhiên việc tích lũy
kiến thức ở Đại học có nhiều khác biệt, đó là sinh viên không thể thụ động tiếp thu kiến thức đơn
thuần mà còn phải tìm tòi, nghiên cứu từ những chỉ dẫn của giảng viên. Nó không chỉ bao gồm
những kiến thức cơ bản trong giáo trình, sách vở mà kiến thức đó còn là những kĩ năng mềm bên
ngoài như cách sử dụng từ ngữ, ứng xử, xử lý thông tin, phân tích và giải quyết các tình huống
trong xã hội. Việc tiếp thu kiến thức còn vô cùng phong phú và đa dạng đến chuyên sâu, từ cơ
bản đến nâng cao, từ ít đến nhiều. Do vậy, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh
viên cũng được thay đổi, tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn. Tuy nhiên
quá trình đó chưa đủ để làm thay đổi về chất sinh viên. Chất của sinh viên đó chỉ có thể được
thay đổi khi lượng kiến thức của sinh viên đó đủ để vượt qua các điểm nút tức là những kì thi,
đặc biệt là những kì thi kết thúc học phần. Trong đó điểm nút quan trọng nhất là sau khi viết luận
văn, luận án, đến ngày nhận bằng tốt nghiệp. Đó chính là điểm nút lớn nhất đánh dấu bước nhảy
từ một sinh viên trở thành một cử nhân. Điều đó chứng minh rằng lượng (kiến thức) được tích lũy
qua 4 năm học lâu dài của sinh viên đó đã đầy đủ để làm chất sinh viên thay đổi.
Bên cạnh đó, sau khi thay đổi chất mới cũng tác động ngược lại đến lượng. Đó là khi trở thành cử
nhân việc tiếp thu kiến thức chuyên ngành hay kĩ năng xử lý các tình huống và khả năng giao
tiếp, ứng xử cũng trở nên tốt hơn khi còn là sinh viên.