-
Thông tin
-
Hỏi đáp
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC | Triết học - MacLenin | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Đề cương ôn tập cho môn học Triết học - MacLenin tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tập trung vào việc nắm vững lịch sử, các lý thuyết cơ bản và ứng dụng của triết học Mác - Lenin. Sinh viên sẽ được khuyến khích tham gia vào các hoạt động ôn tập như đọc tài liệu, thảo luận nhóm và làm các bài tập thử để chuẩn bị cho kỳ thi cuối kỳ.
Triết học - Mac Lênin 19 tài liệu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC | Triết học - MacLenin | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Đề cương ôn tập cho môn học Triết học - MacLenin tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tập trung vào việc nắm vững lịch sử, các lý thuyết cơ bản và ứng dụng của triết học Mác - Lenin. Sinh viên sẽ được khuyến khích tham gia vào các hoạt động ôn tập như đọc tài liệu, thảo luận nhóm và làm các bài tập thử để chuẩn bị cho kỳ thi cuối kỳ.
Môn: Triết học - Mac Lênin 19 tài liệu
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40190299
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Triết học Mác Lenin (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) lOMoAR cPSD| 40190299
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC
1. Khái niệm con người và bản chất con người. (khái niệm con
người từ thời kỳ cổ đại, trung cận đại, triết học cổ điển Đức,…
(sơ lược) đến THM-L (phân tích), bản chất con người (phân
tích) – nhớ bàn luận: liệu rằng bản chất con người có thể thay
đổi hay ko, nếu có thì giải pháp (giáo dục – đào tạo, nâng cao
nhận thức, xây dựng môi trường sống tốt đẹp, lành mạnh,…) ,
ý nghĩa ppl, liên hệ tt.
Con người đã được xem là một đối tượng nghiên cứu từ thời kỳ cổ đại, trung
cận đại và triết học cổ điển Đức. Trong triết học cổ điển Đức, Immanuel
Kant đã đưa ra quan điểm rằng con người là một thực thể độc lập, có khả
năng tự quyết định và có giá trị vô hạn . Trong triết học cổ điển Hy Lạp,
Aristoteles đã đưa ra quan điểm rằng con người là một sinh vật xã hội, có
khả năng suy nghĩ và có khả năng tự quyết định . Trong triết học Trung
Quốc cổ đại, Confucius đã đưa ra quan điểm rằng con người là một thực thể
xã hội, có khả năng tự cải thiện và có trách nhiệm với xã hội. Song đến quan
điểm của triết học Mác-Lenin con người được định nghĩa là 1 thực thể tự
nhiên-xã hội, được hình thành và phát triển dưới sự tác động của giới tự
nhiên và xã hội. Mặt tự nhiên là tiền đề đầu tiên còn mặt xã hội được xem là
mặt quyết định bản chất con người.
Con người tồn tại trước hết với tư cách là sản phẩm của tự nhiên. Con người
tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh
học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
Con người trước hết là một tồn tại dạng sinh vật, biểu hiện trong những cá lOMoAR cPSD| 40190299
nhân, con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của
nó với tự nhiên. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết
định bản chất con người. Đặc trưng quy đinh sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện trong
hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện tính xã hội
của con người thông qua lao động sản xuất, con người tạo ra của cải vật chất
và tinh thần, hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy, xác lập các quan hệ
xã hội. Như vậy, quá trình hình thành bản chất con người thông qua những
quy luật vốn có của thế giới tự nhiên, xã hội loài người. Vì vậy, mặt tự nhiên
là cơ sở tất yếu của con người còn mặt xã hội là đặc trưng để phân biệt con người với loài vật
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, có viết “Bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội, là sản phẩm của lịch sử và
là chủ thể của lịch sử. Vạch ra bản chất con người từ quan hệ XH là một
bước tiến của CNDV lịch sử. Song, khi xét những quan hệ XH khong chỉ xét
ở từng hình thái XH riêng biệt mà phải khái quát những quan hệ Xh chung
thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng biệt. Các quan hệ XH vừa diễn ra
theo chiều ngang, vừa diễn ra theo chiều dọc lịch sử: Muốn giáo dục, cải tạo
con người phải thay đổi các quan hệ xã hội mà người đó đang sống. “Muốn
xây dựng một xã hội có tính người, thì phải xóa bỏ các quan hệ xã hội làm
mất tính người.” Xã hội tạo điều kiện thu hút quần chúng lao động hoạt động
sáng tạo. Xem xét bản chất con người từ quan hệ xã hội không có nghĩa là
xem nhẹ mặt tự nhiên, vì con người là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và
mặt xã hội. Mặt tự nhiên của con người có nét chung với động vật cao cấp
nhưng chỉ được cải tạo, nâng cao nhờ mặt XH. Mặt tự lOMoAR cPSD| 40190299
nhiên và mặt xã hội không tồn tại song song bên cạnh nhau mà còn tồn tại
trong sự liên hệ, gắn bó với nhau
Bản chất con người có thể thay đổi, tuy nhiên quá trình đó diễn ra một cách
phức tạp, khó khăn và cần sự tích lũy nhất định về lượng để dẫn đến sự thay
đổi về chất vì: Thế giới luôn vận động – biến đổi và bản thân con người có
ý thức, bị tác động bởi các yếu tố cơ bản: tình cảm, ý chí, tri thức, tự ý thức,
… chính vì thế con người phải tự rèn luyện, tự giáo dục, phê bình và tự phê
bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên”. “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng.
Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người và bản chất con người là cơ sở
phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người. Do vậy, khi đánh giá con
người thì cần phải xem xét cả phương diện bản tính tự nhiên lẫn bản tính xã hội và
đặc biệt hơn là cần xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội bởi lẽ sự
tổng hòa của các mối quan hệ xã hội đã góp phần tạo nên bản chất của con người.
Thứ nhất: nó đã nhấn mạnh phương diện XH, từ các quan hệ KT-XH để lý giải
những vấn đề về con người. Thứ hai: Giải phóng con người trước hết giải phóng
những điều kiện KT-XH sản sinh ra các quan hệ áp bức bóc lột. Thứ ba: Năng lực
sáng tạo của con người là động lực cơ bản của sự tiến bộ XH từ đó phát huy năng
lực sáng tạo. Ta không thể hiểu hay đánh giá một ai đó bằng một cái nhìn phiến
diện, hạn hẹp hoặc chỉ đưa ra một nhận định mang tính khái quát vì phải trong các
quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới bộc lộ bản chất thật sự của mình.
Thêm vào đó, trong việc xây dựng thái độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh
học song cần coi trọng rèn luyện phẩm chất xã hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy
theo nhu cầu bản năng tầm thường (còn thiếu liên hệ tt) lOMoAR cPSD| 40190299
2. *Quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. (khái niệm
Tồn Tại XH (phân tích), Ý Thức XH (phân tích), nội dung quy
luật (TTXH quyết định YTXH và YTXH có sự tác động trở
lại), ý nghĩa ppl, liên hệ tt (văn hóa).
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của XH, bao gồm các
nhân tố cấu thành là: Hoàn cảnh địa lý, điều kiện dân số, phương thức sản xuất ra
của cải vật chất. Các yếu tố do tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng,
chúng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển chủ yếu
trong xã hội. Phương thức sản xuất ra của cải vật chất là cách thức con người tiến
hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài
người. Các yếu tố khác liên quan đến điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý như các
điều kiện về khí hậu, đất đai, nguồn nước,…tạo nên đặc điểm riêng biệt của không
gian sinh tồn của xã hội. Đây là điều kiện thường xuyên và tất yếu của sự tồn tại và
phát triển của xã hội, nó có thể gây ảnh hưởng khó khăn hoặc thuận lợi cho đời
sống của con người và sản xuất xã hội. Các yếu tố về dân cư, bao gồm cách thức tổ
chức dân cư, tính chất lưu dân cư, mô hình tổ chức dân cư… Đây là điều kiện đối
với đời sống xã hội vì nó có ảnh hưởng thuận lợi hoặc khó khăn đối với đời sống
và sản xuất. . Có thể nói rằng trong 3 nhân tố trên, thì PTSX ra của cải vật chất là
nhân tố quyết định đối với tồn tại XH. Như trong lời tựa của tác phẩm Góp phần
phê phán khoa kinh tế chính trị C.Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật
chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ.” lOMoAR cPSD| 40190299
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống…của cộng đồng xã hội, nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
nhất định. Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá
nhân.Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể
(tôi, anh, cậu ta). Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những
mức độ khác nhau. Do đó, nó hiển nhiên là mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân
không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một
cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định. Ý thức xã hội và ý
thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào
nhau và làm phong phú cho nhau.Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần,
những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau
Có thể nói ý thức XH thường lạc hậu hơn so với tồn tại XH: Thứ nhất, do bản chất
của ý thức XH chỉ là sự phản ánh của tồn tại XH cho nên ý thức XH chỉ có thể biến
đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại XH. Mặt khác tồn tại XH biến đổi nhanh ý
thức XH không phản ánh kịp. Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, truyền thống,
tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức XH. Thứ
ba, ý thức XH luôn gắn với lợi ích của nhóm, tập đoàn người, những giai cấp nhất
định trong XH. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng
phản tiến bộ lưu giữ, truyền bá, nhằm chống lại lực lượng tiến bộ. Bên cạnh đó, ý
thức XH có thể vượt trước tồn tại XH: những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể
vượt trước sự phát triển của tồn tại XH, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người tuy nhiên, suy đến cùng vẫn phụ
thuộc vào TTXH. Không những vậy, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát
triển của nó: Ý thức xã hội luôn hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những lOMoAR cPSD| 40190299
giá trị của quá khứ. Sự phát triển trong chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, triết học của
giai đoạn này luôn có sự kế thừa những giá trị của các giai đoạn trước. Đồng thời,
Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội: Ý thức tư tưởng tiến bộ
góp phần to lớn vào thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển ngược lại ý thức xã hội lạc
hậu, phản tiến bộ có thể kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội Tồn tại XH sinh
ra ý thức XH, còn ý thức XH là sự phản ánh tồn tại XH; Tồn tại XH như thế nào
thì ý thức XH như thế ấy; tồn tại XH biến đổi, nhất là PTSX biến đổi thì những tư
tưởng, lý luận XH, những quan điểm về chính trị, pháp quyền,v,v…sớm muộn
cũng biến đổi theo. Tồn tại XH quyết định ý thức XH, ý thức XH là phản ánh tồn
tại XH, nhưng không phải bất cứ tư tưởng, quan điểm,… cũng nhất thiết trực tiếp
phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại, mà xét đến cùng thì các quan hệ
kinh tế mới được phản ánh vào trong những tư tưởng đó.
Qua các khái niệm tồn tại XH và ý thức XH cung với nội dung quy luật ta có thể
rút ra ý nghĩa phương pháp luận rằng trong quá trình cải tạo và phát triển xã hội,
cần phải đồng thời cải tạo hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội cùng với đó tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội nên muốn cải tạo và thay đổi đời sống tinh
thần, xóa bỏ tư tưởng lac hậu,…thì cần phải thay đổi tồn tại xã hội.
Nhìn nền kinh tế Việt Nam, để khắc phục nhưng suy nghĩ lạc hậu, để xây dựng
đời sông văn hóa mới, con người mới, chúng ta đã không ngừng phát triển kinh tế,
đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước
3. *Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
(khái niệm CSHT (phân tích), KTTT (phân tích), nội dung
(CSHT quyết định KTTT; KTTT có sự tác động trở lại: phù
hợp (tích cực) – thúc đẩy; không phù hợp (tiêu cực) – kìm
hãm), ý nghĩa ppl, liên hệ tt. (nếu liên hệ mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị) lOMoAR cPSD| 40190299
Khái niệm “cơ sở hạ tầng” trong triết học Mác-Lênin được định nghĩa là toàn bộ
những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ
tầng bao gồm các yếu tố vật chất, kỹ thuật, môi trường tự nhiên, dân số và mật độ dân
số, được sử dụng để phục vụ cho mọi hoạt động đời sống và sản xuất của con người.
Trong một xã hội, có thể tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau gồm:
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất
mầm mống của một xã hội tương lai. Cơ sở hạ tầng chính là sự tổng hợp của các quan
hệ sản xuất ấy, trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các quan hệ sản xuất khác. Do đó, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, bên
cạnh những quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống thì quan hệ sản
xuất thống trị vẫn là đặc trưng cơ bản của xã hội ấy
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,…cùng với những thể chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,…. được hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định. Khi xã hội đã phân chia giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng
mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về chính trị - tư tưởng của các giai
cấp đối kháng, trong đó nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, nó là sự biểu hiện
rõ nét nhất cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định
Trước hết nói về vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
thì CSHT quyết định KTTT. CSHT của một XH nhất định như thế nào, tính chất của
nó ra sao, GC đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng, chính trị, pháp quyền,
đạo đức, triết học,v,v…và các quan hệ, các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy
cũng như vậy. CSHT quyết định sự biến đổi của KTTT. Sự biến đổi đó lOMoAR cPSD| 40190299
xảy ra trong mỗi hình thái KT-XH, cũng như từ HTKT-XH này sang HTKT-XH
khác. Trong XH có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu
tranh GC gay go phức tạp. CSHT quyết định KTTT là qui luật phổ biến của mọi
hình thái KT-XH. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”
Song bên cạnh đó, KTTT cũng có tác động trở lại đối với CSHT. Sự tác động của
KTTT đối với CSHT thể hiện trước hết ở chức năng CT-XH của KTTT nhằm bảo vệ,
duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó; Các bộ phận khác nhau của KTTT
đều tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó Nhà nước giữ vai
trò đặc biệt quan trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với CSHT. Trong mỗi
HTKT-XH, KTTT phù hợp với CSHT thì sự tác động của nó đối với CSHT càng có
hiệu quả; ngược lại, thì nó sẽ cản trở sự phát triển của CSHT. Trong xã hội có giai
cấp, Nhà nước là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong KTTT, tiêu biểu cho
chế độ chính trị hiện tồn. Tính giai cấp của KTTT thể hiện rõ sự đối lập về quan điểm
tư tưởng và cuộc đấu tranh về mặt chính trị - tư tưởng của các giai cấp đối kháng.
Mâu thuẫn trong KTTT bắt nguồn từ mâu thuẫn trong CSHT. KTTT của xã hội có
giai cấp đối kháng, các bộ phận đó đóng vai trò là công cụ của giai cấp thống trị để
bảo vệ cơ sở kinh tế của nó. KTTT tác động trở lại, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó. Mỗi
bộ phận của KTTT tác động trở lại CSHT theo hình thức và mức độ khác nhau, trong
đó Nhà nước có vai trò quan trọng và có hiệu lực mạnh nhất vì Nhà nước là công cụ
bạo lực, hiệu quả của giai cấp thống trị xã hội. V.I. Lênin: “Chính trị là biểu hiện tập
trung của kinh tế”. “Nhà nước là biểu hiện và là sản phẩm của những mâu thuẫn
không thể điều hòa được”
Qua đó ta có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận rằng vì kinh tế quyết định chính
trị, do vậy, muốn hiểu đúng các hiện tượng chính trị, văn hóa, xã hội thì phải xem
xét chúng từ cơ sở kinh tế đã làm nảy sinh các hiện tượng đó nhưng chính trị, văn lOMoAR cPSD| 40190299
hóa, xã hội lại có khả năng tác động trở lại kinh tế. Vì vậy, cần phải phát huy vai
trò tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của chúng tới cơ sở kinh
Liên hệ thực 琀椀 ễn - Tập trung phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế hợp lý. - Ổn định chính trị, văn tế.
hóa, xã hội,… trên cơ sở kinh tế
4. *Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản
xuất (khái niệm quy luật, sản xuất, hình thức sản xuất, phương thức sản xuất,
LLSX (phân tích), QHSX (phân tích), nội dung (LLSX quyết định QHSX;
QHSX có sự tác động trở lại: phù hợp (tích cực) – thúc đẩy; không phù hợp
(tiêu cực) – kìm hãm), ý nghĩa ppl, liên hệ tt (kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giáo dục, nguồn nhân lực, công cụ lao động,…).
Sản xuất là đặc trưng riêng của con người và xã hội loài người, là quá trình hoạt động
có mục đích và quá trình không ngừng sáng tạo của con người. Sản xuất của xã hội
bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con
người. Ba quá trình này không tách rời nhau nhưng trong đó, sản xuất vật chất xét đến
cùng đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của
xã hội. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, theo cách đó con người có
những quan hê ̣nhất định với tự nhiên và với nhau trong sản xuất. Mỗi phương thức
sản xuất gồm hai mặt: Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong đó, con người đã khai thác,
cải tạo, chinh phục tự nhiên bằng tổng hợp sức mạnh của mình, sức mạnh đó được
chủ nghĩa duy vật khái quát thành khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất xã hội. Lực lượng sản
xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất. Trong LLSX, yếu tố người lao động
đóng vai trò quyết định, công cụ lao động là yếu tố năng động, cách mạng. Công cụ
lao động là sức mạnh của tri thức được vật chất hóa có tác dụng nối dài bàn tay người
và nhân lên sức mạnh của con người. Khi công cụ lao động đạt đến trình độ tin học
hóa, tự động hóa thì vai trò của công cụ lao động trở nên kỳ diệu hơn. Trình độ phát
triển của công cụ lao động là thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Suy đến cùng, những thành tựu công
cụ lao động là do trí tuệ, sự sáng tạo của con người. Vì vậy, nếu muốn phát huy
nhân tố con người (NGƯỜI LAO ĐỘNG), cần tập trung phát triển về thể lực và trí
lực. Có thể nói Lực lượng sản xuất là yếu tố động– cách mạng. Trong đó thì người
lao động giữ vai trò quyết định và công cụ lao động giữ vai trò cách mạng. Đồng
thời trong khi con người quan hệ với tự nhiên để tiến hành sản xuất thì con người
cũng phải quan hệ với nhau và được khái quát trong phạm trù quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội)., nó bao gồm những mối quan hệ kinh tế cơ bản
như: quan hệ đối với sở hửu tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản
xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. T rong QHSX, quan hệ sở hữu
về TLSX giữ vị trí quyết định, qui định các quan hệ khác. QHSX do con người tạo
ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người. QHSX mang tính ổn định tương đối trong bản chất XH và
tính phong phú đa dạng trong hình thức biếu hiện.
Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan
hệ mang tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành qui luật cơ bản nhất của
sự vận động và phát triển của đời sống xã hội – qui luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết, LLSX quyết định
QHSX. Do yêu cầu thoả mãn ngày càng phong phú hơn đời sống vật chất, con người
không ngừng cải tiến công cụ lao động, nâng cao năng suất, làm cho lực lượng sản
xuất liên tục phát triển. Về tính chất ta có tính cá nhân và tính xã hội hóa. LLSX và
QHSX gắn bó hữu cơ với nhau. LLSX là nội dung vật chất, QHSX là hình thức xã hội
của phương thức sản xuất. Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức của quá trình sản xuất. LLSX như thế nào về trình độ thì QHSX sẽ
phù hợp như thế ấy. Trình độ đc biểu hiện ở 4 khía cạnh là trình độ của công cụ lao
động; trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng của ng lao động; trình độ tổ chức và phân
công lao động xh; trình độ ứng dụng khoa học vào sx. Nếu trình độ LLSX thủ công,
với công cụ thô sơ có tính chất cá nhân thì phù hợp với nó là QHSX cá thể. Khi trình
độ LLSX thay đổi thì QHSX cũng sẽ thay đổi theo. Do con người luôn tích lũy sáng
kiến và kinh nghiệm, luôn cải tiến công cụ và phương pháp sản xuất nên LLSX luôn
phát triển không ngừng. Ngày nay, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức phát triển
đã trở thành LLSX trực tiếp mà LLSX phát triển đến mức độ nào đó, QHSX cũ không
còn phù hợp nữa nó sẽ cản trở hoặc mâu thuẫn gay gắt với LLSX. Để tiếp tục phát
triển, LLSX phải phá vỡ QHSX cũ thiết lập QHSX mới, phù hợp với trình độ mới của LLSX. lOMoAR cPSD| 40190299
Song bên cạnh đó, QHSX có sự tác động trở lại. Nếu QHSX phù hợp với trình độ
của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy LLSX phát triển. QHSX không phù hợp thì nó kìm
hãm, thậm chí phá vỡ LLSX. QHSX là phù hợp với trình độ của LLSX khi nó tạo
ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của LLSX (NLĐ, CCLĐ, đối
tượng lao động) kết hợp với nhau một cách hài hòa để sản xuất phát triển và đưa
lại năng suất cao. Sự phù hợp giữa LLSX và QHSX không phải chỉ thực hiện một
lần là xong mà diễn ra cả một quá trình. Mỗi khi sự phù hợp giữa LLSX và
QHSX bị phá vỡ là mỗi lần điều chỉnh, thay bằng sự phù hợp khác cao hơn.
Từ đó ta có thể rút ra phương pháp luận rằng muốn xã hội tiến bộ, phát triển phải
sản xuất ra của cải vật chất. Để sản xuất phát triển phải thúc đẩy LLSX phát triển,
phải ứng dụng những CCLĐ tiên tiến vào sản xuất, không ngừng nâng cao trình
độ, kỹ năng của NLĐ, phải làm rõ các quan hệ sở hữu, cách thức tổ chức, quản lý
quá trình sản xuất, các hình thức phân phối phù hợp thúc đẩy LLSX phát triển không ngừng.
Ở ViêṭNam, để xây dựng phương thức sản xuất xã hôịchủ nghĩa, chúng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hôịchủ nghĩa. Như vâỵ viêc ̣ bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa về thực chất là bỏ qua chế đô ̣chính trị tư
bản, chúng ta lại kế thừa những giá trị của chủ nghĩa tư bản với tư cách là lực
lượng sản xuất, để hướng nền sản xuất đi lên sản xuất lớn xã hôịchủ nghĩa.
5. *Thực tiễn là gì? Các đặc trưng cơ bản của thực tiễn? Vai trò thực tiễn đối
với nhận thức (nhận thức là gì – ngắn gọn, thực tiễn là gì (hoạt động vật chất
cảm tính) …., các hình thức của thực tiễn (3 hình thức, hình thức nào đóng
vai trò quyết định, vì sao), vai trò của thực tiễn đối với nhận thức (thực tiễn
là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm
tra chân lý), ý nghĩa ppl (lý luận phải gắn liền với thực tiễn), liên hệ tt). lOMoAR cPSD| 40190299
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ. Thực tiễn
là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm
cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Là hoạt động đặc trưng của bản
chất con người, thực tiễn không ngừng phát triển bởi các thế hệ của loài người qua các quá trình lịch sử.
Có 3 loại hình cơ bản của thực tiễn: Hoạt động sản xuất vật chất: đây là dạng hoạt
động thực tiễn nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó
tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người,
giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật; Hoạt động chính trị - xã
hội là loại hình thực tiễn nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội; Hoạt
động thực nghiệm khoa học (bao gồm cả thực nghiệm khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội), đây là dạng hoạt động thực tiễn diễn ra trong những điều kiện " nhân
tạo" mà những kết quả của nó dù là thành công hay thất bại đều có ý nghĩa quan
trọng vì nó rút ngắn được quá trình nhận thức nhằm làm cho hoạt động thực tiễn
ngày càng hiệu quả. Trong 3 hình thức của thực tiễn, hình thức sản xuất vật chất
đóng vai trò quan trọng nhất vì nó là cơ sở cho các hoạt động khác của con người
và cho sự tồn tại, phát triển của xã hội loài ng. Tuy nhiên hình thức sản xuất không
phải là yếu tố duy nhất quyết định sự phát triển của xã hội. Các yếu tố khác như
hoạt động chính trị-xh và hoạt động thực nghiệm khoa học cũng góp phần quan
trọng trong quá trình sản xuất của xã hội.
Có thể nói thực tiễn có vai trò vô cùng quan trọng đối với nhận thức. Trước hết,
nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về
TGKQ. Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận
thức: thực tiễn làm bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ... của sự vật, hiện
tượng phát triển các giác quan của con ng. Thứ hai, thực tiễn là mục đích của nhận
thức: nó đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và phương hướng vận động, phát triển
của nhận thức. Thứ ba, thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát
triển của nhận thức bởi suy đến cùng nhận thức đều hướng đến phục vụ hoạt động
vật chất trước hết là quá trình sản xuất của cải vật chất và quá trình cải tạo các
quan hệ XH. Thứ tư, thực tiễn là tiêu chuẩn ktra chân lí: Nhâṇ thức phải thông qua
thực tiễn mới kiểm tra được tính chân lý của nó. Chỉ trong thực tiễn, con người
mới xác định được cái đúng đắn, cái sai lầm và giới hạn của tính đúng đắn của mọi
tri thức do nhâṇ thức đem lại. lOMoAR cPSD| 40190299
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi phải quán triệt quan điểm thực
tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với
thực tiễn; học phải đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo
điều, máy móc, quan liêu. Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn,
tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng. Rèn luyện khả
năng nắm bắt thực tiễn, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
6. *Quy luật phủ định của phủ định (khái quát quy luật là gì – ngắn gọn,
PBCDV nghiên cứu những quy luật gì? – ngắn gọn, Vị trí của quy luật phủ
định của phủ định, khái niệm, nội dung, vai trò (KHUYNH HƯỚNG
CHUNG), ý nghĩa ppl, liên hệ tt).
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại
giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. Quy luật bao gồm tính khách quan, tính phổ biến và tính
ổn định tương đối. PBCDV nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
XH và tư duy. Những quy luật cơ bản của phép BCDV là quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại; quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
Trước hết, phủ định của phủ định là 1 quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng
phát triển của sự vật/ hiện tượng từ trình độ thấp đến trình độ cao có tính chu kì
theo hình “xoáy ốc”. Theo tính chất trên, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường
phải trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó. Một
chu kỳ phủ định biện chứng có thể có số lần phủ định từ hai lần trở lên. Điều đó
phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Phủ định biện chứng là sự phủ định có tính
chất tiến lên theo đường xoáy ốc. Đường xoáy ốc biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc
trưng của quá trình phát triển biện chứng như: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến
lên. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích
cực của các giai đoạn trước và bổ sung những thuộc tính mới làm cho sự phát triển
đi theo đường “xoáy ốc” lOMoAR cPSD| 40190299
Như vậy có thể nói quy luật phủ định của phủ định có vai trò vô cùng quan trọng,
nó đã chỉ ra khuynh hướng chung của sự vận động, phát triển. Từ đó ta có thể rút
ra phương pháp luận rằng vì sự phát triển diễn ra phức tạp, nên chúng ta phải nắm
vững các mối liên hệ để có sự tác động phù hợp với sv/ht . Trong thực tế, chúng ta
phải thực hiện câu: “Thắng không kiêu, bại không nản đồng thời vì phát triển là
xu hướng tất yếu nên cta phải có thái độ ủng hộ cái mới, cái tiến bộ, cái vận động
phù hợp với quy luật. Không những thế, vì sự phát triển bao giờ cũng có tính kế
thừa, nên chúng ta không nên phủ định sạch trơn cũng như không được bảo thủ
trong hoạt động thực tiễn.
7. *Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (khái quát quy
luật là gì – ngắn gọn, PBCDV nghiên cứu những quy luật gì? – ngắn gọn, Vị
trí của quy luật mâu thuẫn, khái niệm, phân loại mâu thuẫn, nội dung, vai
trò (NGUỒN GỐC, ĐỘNG LỰC; HẠT NHÂN CỦA PBCDV), ý nghĩa ppl, liên hệ tt).
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại
giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. Quy luật bao gồm tính khách quan, tính phổ biến và tính
ổn định tương đối. PBCDV nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
XH và tư duy. Những quy luật cơ bản của phép BCDV là quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
Trước hết, mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và
chuyển hóa giữa những mặt đối lập của mỗi sv,ht hoặc giữa các sv,ht với nhau. Mâu
thuẫn đc chia thành 4 loại: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn
cơ bản và mâu thuẫn kh cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu; mâu thuẫn đối kháng
và kh đối kháng. Tất cả các sự vật hiện tượng đều là một chỉnh thể thống nhất có cấu
trúc với nhiều mặt, yếu tố, thuộc tính, mối liên hệ. Mỗi mâu thuẫn là một chỉnh thể
thống nhất của hai mặt đối lập. Mặt đối lập là sự khái quát những lOMoAR cPSD| 40190299
mặt, những thuộc tính có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau nằm trong 1
chỉnh thể thống nhất cấu thành nên SV/ HT. Hai mặt đối lập vừa thống nhất với
nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa
vào nhau, 2 mặt đối lập liên hệ ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy
mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Sự đấu tranh của 2 mặt đối lập là các mặt đối
lập bài trừ nhau, phủ định nhau. Sự bài trừ, phủ định lẫn nhau của 2 mặt đối lập
chỉ là 1 trong những hình thức đấu tranh của chúng. Tính chất đấu tranh của 2 mặt
đối lập rất đa dạng, nó phụ thuộc vào tính chất, mối quan hệ, vào điều kiện diễn ra
cuộc đấu tranh. Có thể nói, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực
của sự vận động và phát triển. Khi mâu thuẫn được giải quyết, sự vật được chuyển
đến sự vật khác. Mâu thuẫn mới được hình thành và giải quyết. Vì vậy, một sự vật
hiện tượng có vô vàn mâu thuẫn. Từ đó ta có thể thấy vai trò của quy luật mâu
thuẫn chính là chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Đặc biệt quy luật mẫu
thuẫn là hạt nhân của PBCDV.
Qua đó ta có thể rút ra đc phương pháp luận rằng mâu thuẫn là 1 hiện tượng khách
quan và phổ biến đồng thời cũng là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển
vì vậy đòi hỏi trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cta phải tìm ra mâu thuẫn
và giải quyêt mâu thuẫn. Bên cạnh đó, mâu thuẫn còn là động lực cho sự phát triển
nên cta phải biết phát hiện, phân tích mâu thuẫn để tìm ra khuynh hướng vận động
của SV/HT. Khi phát hiện ra mâu thuẫn phải tiếp cận nó để phân tích cụ thể và giải
quyết từng loại mâu thuẫn cụ thể. Phải thực hiện giải quyết mâu thuẫn, kh đc điều
hòa mâu thuẫn để cho sv mới ra đời. Tuy nhiên cta cũng cần lưu
ý rằng mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi đk đã chín muồi.
8. *Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành (dẫn đến) những
thay đổi về chất và ngược lại. (khái quát quy luật là gì – ngắn gọn, PBCDV
nghiên cứu những quy luật gì? – ngắn gọn; Vị trí Quy luật lượng – chất
trong PBCDV, khái niệm (CHẤT, LƯỢNG), nội dung 2 chiều (1. , 2. ), vai
trò (“PHƯƠNG THỨC, CÁCH THỨC CHUNG NHẤT”), ý nghĩa ppl, liên
hệ tt). Nhớ ca dao, tục ngữ lOMoAR cPSD| 40190299
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại
giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. Quy luật bao gồm tính khách quan, tính phổ biến và tính
ổn định tương đối. PBCDV nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
XH và tư duy. Những quy luật cơ bản của phép BCDV là quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
Trước hết, Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sv, ht về mặt
quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng
số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sv,
ht. Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sv, ht; là sự
thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sv, ht làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
Về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất thì đầu tiên có thể nói sự tích lũy về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống
nhất giữa C và L, nó là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về L chưa đủ để
làm thay đổi về C. Sự vận động và biến đổi của SV bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay
đổi về L so với C. Quá trình biến đổi L có thể diễn ra theo hướng tăng dần hoặc
giảm dần. Khi L thay đổi vượt điểm nút thì dẫn đến sự thay đổi về C. Điểm nút là
phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về L đã đủ để làm
thay đổi về C của SV. Sự thay đổi về C được gọi là bước nhảy. Bước nhảy là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về C do sự thay đổi về L. Chất mới ra đời
lại hình thành L mới, L mới lại biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy
mới và cứ như thế làm cho SV mới luôn xuất hiện. Sự vận động và biến đổi của
SV bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về L so với C. Quá trình biến đổi L có thể lOMoAR cPSD| 40190299
diễn ra theo hướng tăng dần hoặc giảm dần. Khi L thay đổi vượt điểm nút thì dẫn
đến sự thay đổi về C.
Tiếp theo, chất mới ra đời tác động ngược trở lại L làm cho nó biến đổi. Chất mới
có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của SV, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động
và phát triển của SV. Bất kì 1 SV, HT nào cũng đều có 1 sự thống nhất giữa C và
L. Trong quá trình vận động và phát triển, C và L luôn có sự biến đổi. L thường có
xu hướng là biến đổi, C có tính tương đối ổn định hơn. Sự thay đổi của L và C có
quan hệ chặt chẽ với nhau. C và L thống nhất với nhau ở 1 độ nhất định trong quá
trình L biến đổi chưa đẫn đến sự biến đổi về C. Chất mới ra đời tác động tới lượng
trên nhiều phương diện làm cho lượng tiếp tục biến đổi với quy mô, trình độ kết cấu cao hơn.
Từ đó ta có thể thấy vai trò của quy luật sự tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất và ngược lại chính là chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động, phát triển.
Qua đó ta có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận rằng vì sự vật/ht có sự thống nhất
giữa L và C nên cta phải có cái nhìn toàn diện, kh đc tuyệt đối hóa yếu tố nào. Vì
phát triển có sự tích lũy về L nên trong hoạt động thực tiễn cần có sự chuẩn bị chu
đáo (dục tốc bất đạt). Đồng thời vì lượng tích lũy tới giới hạn sẽ có bước chuyển về
chất nên cta kh nôn nóng nhưng cũng kh nên thụ động chờ đợi trái lại phải biết tạo
và chớp lấy thời cơ để đạt đc mục đích.
9. *Nguyên lý về sự phát triển (khái niệm phát triển, nội dung, ý nghĩa ppl
(quan điểm phát triển), liên hệ tt). lOMoAR cPSD| 40190299
Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự thay đổi về lượng, không
quanh co phức tạp còn quan điểm biện chứng lại cho rằng phát triển là quá
trình tiến lên từ thấp đến cao, từ sự tích lũy dần dần về lượng để có sự thay
đổi về chất . Quá trình này diễn ra theo hình xoáy ốc. Khác với quan điểm
siêu hình và quan điểm biện chứng, theo quan điểm CNDVBC , “phát triển
là một hình thức của vận động, nó khái quát quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn”
Bên cạnh đó ta cũng cần phải phân biệt giữa phát triển và vận động. Theo
quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự
vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới
cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự
liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự
vật cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Trong hiện
thực khách quan, tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất
sự phát triển sẽ được thực hiện hết sức khác nhau. Trong giới hữu cơ, sự
phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả nằng thích nghi của cơ thể trước
sự biến đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình
độ ngày càng hoàn thiện hơn, ở khả năng hoàn thiện quá trình trao đổi chất
giữa cơ thể và môi trường. Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực
chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để tiến tới mức độ ngày càng cao trong
sự nghiệp giải phóng con người. Còn trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở
khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đúng đắn hơn đối với hiện thực tự nhiên và xã hội. lOMoAR cPSD| 40190299
Như vậy có thể nói, mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, phát triển
không ngừng. Vận động và phát triển không đồng nghĩa như nhau. Có
những vận động diễn ra theo khuynh hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Có những vận
động lại thụt lùi, đi xuống song nó là tiền đề, là điều kiện cho sự vận động đi
lên. Có khuynh hướng vận động theo vòng tròn, lặp lại như cũ.
Qua đó ta có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận rằng ở quan điểm phát
triển phải thấy tính phức tạp, quanh co của sv/ht trong quá trình phát triển
của nó để có cách thức giải quyết thích hợp. Phải thấy tính phức tạp, quanh
co của sv/ht trong quá trình phát triển của nó để có cách thức giải quyết
thích hợp. Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, định
kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
10.*Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (khái niệm mối liên hệ, phân loại mối
liên hệ, nội dung, tính chất của mối liên hệ, ý nghĩa ppl (quan điểm toàn
diện và quan điểm lịch sử - cụ thể), liên hệ tt).
"Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương
hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối
tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. MLHPB là khái niệm dùng để chỉ
các mối liên hệ tồn tại ở nhiều SV, HT của thế giới, trong đó MLH phổ biến
nhất là những MLH tồn tại ở mọi SV, HT của thế giới.
Thế giới có vô vàn các sự vật, hiện tượng nhưng chúng tồn tại trong mối liên
hệ trực tiếp hay gián tiếp với nhau, tức là chúng luôn luôn tồn tại trong sự
quy định lẫn nhau, tác động, biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau. Mặt khác, lOMoAR cPSD| 40190299
mỗi sự vật, hiện tượng của thế giới cũng là một hệ thống được cấu thành từ
nhiều yếu tố, nhiều mặt, tồn tại trong mối liên hệ ràng buộc, chi phối và làm
biến đổi lẫn nhau. Vì vậy, một sự vật, hiện tượng có vô vàn mối liên hệ.
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng rất đa dạng, muôn hình, muôn vẻ:
mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chung lại có mối
liên hệ riêng; MLH trực tiếp lại có MLH gián tiếp; MLH tất nhiên và ngẫu
nhiên; MLH cơ bản và kh cơ bản.
MLH có 3 tính chất là tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú. Trc hết, tính khách quan là tất cả các sự vật, hiện tượng trong
thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, chúng tồn tại một cách
khách quan ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Thông qua các
mối liên hệ, con người có thể phát hiện ra quy luật, nguyên lý của thế giới
khách quan. Tính phổ biến được thể hiện ở: Thứ nhất, tất cả mọi sự vật đều
có mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào
nằm ngoài mối liên hệ. Thứ hai, mối liên hệ được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau tùy theo trình độ, kết cấu vật chất nhất định. Tính đa dạng,
phong phú: có nhiều mối liên hệ cụ thể khác nhau với những vai trò, vị trí
khác nhau trong thế giới vật chất
Qua đó ta có thể rút ra 2 quan điểm sau: quan điểm toàn diện và quan điểm
lịch sử-cụ thể. Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong hoạt động nhận thức sự
vật chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với thực tiễn. Quan điểm toàn
diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta
phải đi từ tri thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát
để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật đó. Quan
điểm toàn diện còn yêu cầu chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ nhiều biện
pháp, nhiều phương tiện khác nhau nhằm thay đổi mối liên hệ tương ứng. Vì
thế, trong hoạt động thực tiễn, phải kết hợp “chính sách dàn đều” và “chính lOMoAR cPSD| 40190299
sách có trọng điểm”. Tuy nhiên, một sự vật, hiện tượng bao giờ cũng tồn tại
trong một không gian, thời gian nhất định. Do vậy, quan điểm toàn diện
còn đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm lịch sử-cụ thể. Đầu tiên, nó phải xét
đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải
giải quyết khác nhau trong hoạt động thực tiễn đồng thời phải xác định rõ
vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống
cụ thể để từ đó có những giải pháp cụ thể