Đề cương Ôn thi kết thúc học phần môn Triết học - Chủ nghĩa xã hội khoa học| Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Đề cương Ôn thi kết thúc học phần môn Triết học - Chủ nghĩa xã hội khoa học| Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem !

lOMoARcPSD|44744371
lOMoARcPSD|44744371
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN LỚP B8A
CHƯƠNG II: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG. Các nội dung ôn tập :
1. Định nghĩa vật chất của LêNin.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
4. Cặp phạm trù nguyên nhân- kết quả
5. Cặp phạm trù bản chất- hiện tượng
6. Quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
7. Thực tiễn và vai trò đối với nhận thức.
Nội dung chi tiết:
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin?
Gợi ý các ý chính:
- Nêu 1 số quan niệm trước Mác về vật chất (nêu ngắn gọn, DT, DV…)
- Hoàn cảnh ra đời của định nghĩ vật chất (cuộc CMKHTN cuối 19 đầu 20 phá sản
DVSH)
- Đ/n vật chất
- PP định nghĩa vật chất
- Làm rõ 3 nội dung của định nghĩa (Phân tích, nêu ví dụ)
- Ý nghĩa phương pháp luận
- Có thể liên hệ bản thân
Phân tích ý (tham khảo)
* Một số quan điểm về vật chất trước mácxít:
- Chủ nghĩa duy tâm: Bản chất của thế giới là ý thức, họ đều phủ nhận sự tồn tại của vật
chất, họ cho rằng nguồn gốc của nó là “sự tha hoá” của “tinh thần thế giới”.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Ý thức, cảm giác của con người là cơ sở quyết định tồn tại
của vật chất.
lOMoARcPSD|44744371
- Chủ nghĩa duy vật: Vật chất trước, ý thức sau, vật chất quyết định ý thức. Một số
nhà triết học đã quy vật chất về một hay vài dạng cụ thểxem chúng là khởi nguyên của
thế giới như với Ta-lét nước, Heraclit lửa,… Bước tiến quan trọng nhất của sự phát
triển phạm trù vật chất định nghĩa của nhà triết học Đêmôcrit khi cho rằng vật chất
nguyên tử. Theo thuyết nguyên tử tvật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không
đồng nghĩa với những vật thể con người thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà
một lớp các phân tử hữu hình rộng rãi nằm sâu bên trong mỗi sự vật, hiện tượng. Quan
niệm này như một dự báo khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất
nói chung.
* Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa vật chất: Định nghĩa ra đời vào cuối thế kỉ XIX, đầu
thế kỉ XX, khi mà khoa học tự nhiên đang phát triển mạnh mẽ.
+ 1985, Rơnghen phát hiện tia X
+ 1986, Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ
+ 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử (hạt electron)
+ 1916, Anhxtanh chứng minh không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng
với sự vận động của vật chất thông qua Thuyết Tương đối Tổng quát.
* Lênin tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang nhầm lẫn hoặc xuyên tạc
những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất, mưu toan bác bỏ
chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ phát triển quan niệm duy vật biện chứng về phạm trù
vật chất. Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, Lênin đặc biệt quan
tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này.
* Lênin đã định nghĩa vật chất với cách một phạm trù triết học bằng cách
đem đối lập với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức luận cơ bản. Với phương
pháp nêu trên, Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.”
lOMoARcPSD|44744371
* Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm 3 nội dung cơ bản:
- Thứ nhất, vật chất thực tại khách quan cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức
không lệ thuộc vào ý thức. “Tồn tại khách quan” thuộc tính bản của vật chất, tiêu
chuẩn để phân biệt cái vật chất, cái không phải vật chất. con người đã nhận
thức được hay chưa, con người mong muốn hay không thì vật chất luôn tồn tại vĩnh
viễn trong vũ trụ.
- Thứ hai,vật chất cái khi tác động vào các giác quan của con người thì đem lại cho
con người cảm giác. Vật chất, tức thực tại khách quan, là cái trước cảm giác (nói
rộng ra ý thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, tính thứ nhất. Cảm giác thức)
“sinh ra sau”, là tính thứ hai. Do tính trước sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý
thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất. Ví dụ như trước khi loài người xuất hiện trên trái
đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì chưa có con người.
- Thứ ba, vật chất cái ý thức chẳng qua chỉ sự phản ánh của nó. Nói rộng ra,
duy, ý thức, tưởng, tình cảm... của con người chẳng qua chỉ sự phản ánh, hình ảnh
của vật chất trong bộ óc của con người
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Gỉai quyết được vấn đề bản của triết học theo lập trường duy vật biện chứng.
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề bản của triết học: Vật
chất hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.
- Cung cấp nguyên tắc thế giới quan phương pháp luận để đấu tranh chống lại
các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình
mọi biểu hiện của chúng trong triết học sản hiện đại về phạm trù này, chống lại bọn
hội xét lại. Khi khẳng định vật chất cái được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép
lại, phản ánh,... Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau, con
người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm này đã phủ nhận thuyết
không thể biết. Luận điểm này cũng đã trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề bản của
triết học: Con người nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng định
là có.
lOMoARcPSD|44744371
- Trong nhận thức thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách
quan. Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không một dạng cụ thể
cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất, lại thể
đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất. Vật chất phải được hiểu tất cả những tồn
tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được
hay chưa, đã biết về hay chưa. Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của
Lênin đã khắc phục những quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất.
- sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực hội, tạo sự liên kết
giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử. Khẳng định thế giới vật
chất khách quan cùng tận, không bao giờ biến mất, luôn luôn vận động, định
nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật
chất để tìm ra những kết cấu mới, những dạng thức thuộc tính, quy luật vận động mới của
vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại.
- Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực hội. Trong việc nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống hội, định nghĩa vật chất của Lênin đã giúp chúng ta xác định
được cái vật chất trong lĩnh vực hội. Đây điều các nhà duy vật trước Mác
chưa đạt tới. Ta thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực hội các hoạt động thực tiễn
của con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất để nuôi sống con người và phát triển xã hội.
Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học sở luận để giải thích những
nguyên nhân cuối cùng của các biến cố hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động
của phương thức sản xuất, trên sở đó, con người thể tìm ra các phương án tối ưu để
thúc đẩy xã hội phát triển.
Câu 2: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?
Gợi ý các ý chính:
- Khái niệm vật chất, ý thức, mối quan hệ( Vật chất sinh ra ý thức, ý thức tác động trở
ịa vật chất)
- Ý nghĩa phương pháp luận.
lOMoARcPSD|44744371
Phân tích tham khảo.
Khái niệm vật chất: Vật chất phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của con người chép lại chụp lại phản
ánh tồn tại không phụ thuộc vào
Khái niệm ý thức: Là toàn bộ đời sống tinh thần của con người, Hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan được sáng tạo lại theo nhu cầu và mục đích của con người .
* Quan điểm của Chủ nghĩa duy tâm và Chủ nghĩa duy vật siêu hình:
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Bản chất thế giới, thực thể thế giới ý thức, ý thức
tính thứ nhất, vật chất tính thứ hai, ý thức trước quyết định vật chất, chi phối sự
tồn tại của thế giới vật chất
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Vật chất trước, ý thức sau, vật chất quyết định
ý thức sinh ra ý thức. Tuy nhiên do ảnh hưởng bởi tư duy siêu hình, máy móc nên họ
chỉ coi ý thức sự phản ánh thụ động, máy móc thế giới khách quan vào bộ óc người
chưa thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức.
* Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, vật chất ý thức mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật
chất.”
- Vật chất quyết định ý thức: Được thể hiện trên mấy khía cạnh sau
+ Một là, vật chất trước, ý thức sau, vật chất nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người
con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra lẽ tất nhiên ý thức một thuộc nh của bộ
phận con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Vật chất tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức nguồn gốc nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật
chất tổ chức cao nhất, quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ
thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
lOMoARcPSD|44744371
+ Hai là, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức mà nội dung của nó
chẳng qua kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người,
hay nói cách khác thế giới hiện thực vận động phát triển theo quy luật khách quan của
được phản ánh vào trong ý thức mới nội dung của ý thức. Sự phát triển của hoạt
động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú, sâu sắc nội dung của tư duy, ý thức của con người qua các thế hệ, các thời đại từ
mông muội tới văn minh, hiện đại.
+ Ba , vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh sáng tạo hai
thuộc tính không thể tách rời trong bản chất ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người
không phải là “soi gương”, “chụp ảnh”, “phản ánh tâm lý” như con vật mà là phản ánh tích
cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Hoạt động vật chất tính cải biến thế giới của
con người sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa
phản ánh vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
+ Bốn , vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn
tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi vật chất; vật chất thay đổi thì
sớm hay muộn ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người một sinh vật tính hội
ngày càng phát triển cả thể chất tinh thần thì nhiên ý thức một hình thức phản ánh
của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Trong đời sống
sản xuất, vai trò quyết định của vất chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế
đối với chính trị, đời sống vật chất với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội với ý thức xã hội.
Vật chất ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất nhưng về mặt nhận
thức luận, cần quán triệt sâu sắc tưởng biện chứng của Lênin rằng “sự đối lập giữa vật
chất ý thức chỉ ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: thừa nhận
cái trước cái sau? Ngoài giới hạn đó ra thì không nghi ngờ nữa rằng sự đối
lập đó là tương đối”. đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất ý thức thể hiện
qua mối quan hệ giữa vật chất đặc biệt – bộ óc người và thuộc tính của chúng nó.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất: Điều này được thể
hiện qua các khía cạnh sau:
lOMoARcPSD|44744371
+ Thứ nhất, ý thức sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con
người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời tý thức “đời sống” riêng, quy luật
vận động phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi
ra đời thì tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức thể thay
đổi nhanh chậm đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung thường thay đổi
chậm hơn so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
+ Thứ hai, ý thức chỉ tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức thể biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra thiên nhiên thứ hai phục vụ cho cuộc sống của con
người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực.
+ Thứ ba, ý thức tác động troẻ lại đối với vật chất theo 2 khuynh hướng:
Tích cực: Ý thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan thì sẽ có tri thức
đúng, dẫn đến hành dộng đúng, góp phần cải tạo thế giới khách quan.
Tiêu cực: Ý thức phản ánh không đúng thế giới khách quan thì hành động
sai, cản trở sự phát triển của thế giới khách quan, tuy nhiên sự kìm hãm này
chỉ là tạm thời, không phải bất biến.
+ Thứ , hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, khi tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp.
+ Thứ năm, tính năng động sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không
thể vượt qua tính quy định của những tiền đề vật chất đã được xác định, phải dựa vào các
điều kiện khách quan năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó
chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu tất nhiên
không tránh khỏi thất bại trong thực tiễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Từ mối quan hệ giữa vật chất ý thức trong triết học
Mác Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận tôn trọng tính khách quan, đồng thời
kết hợp, phát huy tính năng động chủ quan:
lOMoARcPSD|44744371
- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan:
+ Nhận thức sự vật, hiện tượng như cái vốn có, không được tô hồng, bôi
đen, gán cho đối tượng cái mà nó không có.
+ Mục tiêu, kế hoạch xuất phát từ thế giới khách quan, dựa trên cơ sở thế
giới khách quan. Tổ chức các nhân tố vật chất thành lực lượng để hành động.
+ Nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh, đánh giá đúng sự thật, nói sự thật.
Nhận thức, cải tạo sự vật hiện ợng, nhìn chung phải xuất phát từ chính bản thân sự vật
hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
+ Tránh, chống lại chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa duy vật tầm
thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
- Phát huy tính năng động, chủ quan:
+ Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức vai trò con người trong
việc vật chất hoá tính tích cực, năng động sáng tạo của ý thức con người phát huy nhân
tố con người.
+ Tôn trọng tri thức khoa học, làm chủ, ứng dụng tri thức khoa học
+ Giaó dục công tác chính trị, tư tưởng, tự rèn luyện, tu dưỡng để củng cố
nhân sinh quan cách mạng.
+ Phòng chống và khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, thụ động, trông chờ
vào điều kiện vật chất.
+ Coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư
tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Gíao dục, nâng cao trình độ tri thức khoa học; củng cố bồi dưỡng ý chí
cách mạng; giữ gìn rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, dảng viên nhân dân. Đảm
bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học
* Tổng kết: Mối quan hệ giữa vật chất ý thức mối quan hệ biện chứng trong đó vật
chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
lOMoARcPSD|44744371
- Xuất phát từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Trong nhận thức
khoa học thực tiễn cách mạng yêu cầu phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
thực tế khách quan.
- Xuất phát từ vai trò ý thức đối với vật chất, trong nhận thức và thực tiễn đòi
hỏi phát huy tính năng động, chủ quan của con người.
Đó chính là thế giới quan, phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn rút ra khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Câu 3: Nguyên lý và mối liên hệ phổ biến? Liên hệ
* Khái niệm:
- Liên hệ: là loại quan hệ đặc biệt trong đó sự ra đời, tồn tại, chuyển hoá của cái này
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời chuyển hoá cái khác.
- Mối liên hệ: một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đốt tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
- Mối liên hệ phổ biến: khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời dùng để chỉ liên hệ tồn tại nhiều sự
vật, hiện tượng trong thế giới.
* Nội dung nguyên lý:
Thế giới được tạo thành từ số những sự vật, những hiện tượng, những quá trình
khác nhau. Trong lịch sử triết học, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách rời nhau giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc
quy định nào. Tuy nhiên, khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện dại, phép
biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến phổ biến của các sự vật hiện tượng
trong thế giới.
Theo phép biện chứng duy vật, nguyên mối liên hệ phổ biến sự khái quát các
mối liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp cận đó, phép biện chứng duy vật
lOMoARcPSD|44744371
chỉ ra rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mối liên hệ phổ biến cùng
ràng buộc, chi phối lẫn nhau, vận động biến đổi không ngừng. Trong thế giới không
sự vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách biệt nhau.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở của mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật,
hiện tượng trong thế giưới đa dạng khác nhau, thì cũng chỉ những dạng tồn tại
cụ thể của một thế giới duy nhất vật chất. Ý thức của con người không phải vật chất
nhưng không thể tồn tại biệt lập với vật chất bởi ý thức cũng chỉ thuộc tính của một
dạng vật chất sống tổ chức cao bộ óc con người; hơn nữa nội dung của ý thức cũng
chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chât.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
của mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình còn khẳng định tính đa
dạng của sự liên hệ; bởi thế giới một chỉnh thể với vàn các sự vật, hiện tượng khác
nhau, chúng không ngừng vận động và phát triển một cách đa dạng.
* Tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan: Mối liên hệ thuộc tiễn vốn của thế giới khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức con người. Sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau làm chuyển
hoá lẫn nhau trong tổ chức, kết cấu của các sự vật, hiện tượngcái vốn của nó, tồn tại
độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến: Bất kỳ một sự vật, hiện tượng ở bất kỳ không gian và thời gian nào
cũng mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Thể hiện chỗ, bất kỳ nơi đâu trong tự
nhiên, trong hội trong duy đều vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ vai
trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hoá, của các sự vật hiện tượng. Mối liên hệ
qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra mọi sự vật hiện tượng tự
nhiên, hội, suy còn diễn ra các mặt, các yếu tố, quá trình của mối sự vật hiện
tượng.
- Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều
nhiều tổ chức, cấu trúc khác nhau nên có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò,
lOMoARcPSD|44744371
vị trí khác nhau đối với sự tồn tại phát triển của nó. Mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, những giai đoạn
khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng những tính chất
vai trò khác nhau. Đó các mối liên hệ bên trong bên ngoài, bản không bản,
chủ yếu và thứ yếu, trực tiếp và gián tiếp,...
Để phân loại các mối liên hệ ta phải dựa vào tính chất vai trò của từng mối
liên hệ. Tuy nhiên việc phân loại này cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi các mối
liên hệ của các đốiợng rất phức tạp, không thể tách rời chúng ra khỏi các mối liên hệ
khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong trong sự biến đổi và phát triển của
chúng.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quan điểm toàn diện:
+ Xem xét trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố của sự vật đó và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác.
+ Đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ. Trong tổng số mối liên hệ thì
mối liên hệ nào là bản, bản chất nhất ý nghĩa quyết định đến sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.
+ Liên kết các mối liên hệ cơ bản, bản chất với những mối liên hệ khác để đảm
bảo tính đồng độ, hệ thống khi giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống.
+ Tránh quan điểm phiến diện gây ra tuyệt đối hoá một mặt, một khía cạnh.
- Trong nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể:
+ Trong nhận thức và thực tiễn cần phải chú ý đến điều kiện, môi trường, hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể trong đó sự việc sinh ra, tồn tại và phát triển.
+ Xác định vị trí, vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể để giải quyết các vấn đề
đúng đắn và có hiệu quả.
Câu 4: Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả?
lOMoARcPSD|44744371
* Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định
- Kết quả: phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau.
- Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ:
+ Nguyên cớ cũng một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, nhưng
không sinh ra kết quả, liên hệ với kết quả nhưng mối liên hệ bên ngoài không bản
chất.
VD: “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” vào tháng 08/1964, từ đó Mỹ ném bom miền
Bắc là nguyên cớ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
+ Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên
nhân, nhưng có tác dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của
một số phản ứng hoá học.
Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác có mặt khi nguyên
nhân gây ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
* Một số tính chất của mối quan hệ nguyên nhân – kết quả (nhân quả):
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan của bản thân các
sự vật. tồn tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta nhận thức
được hay không. mối quan hệ nhân quả vốn trong bản thân sự vật nên không
thể đồng nhất với khả năng tiên đoán
lOMoARcPSD|44744371
- Tính phổ biến: Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên hội đều được
gây ra bởi những nguyên nhân nhất định. Không sự vật hiện tượng nào không
nguyên nhân của nó. Vấn đề là chúng ta đã phát hiện, tìm ra được nguyên nhân hay chưa.
- Tính tất yếu: Tính tất yếu đây không nghĩa cứ nguyên nhân thì sẽ
kêdt quả, phải đặt nguyên nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Một
nguyên nhân nhất định trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định chỉ thể gây ra một
kết quả nhất định. Đó tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trong những điều kiện nhất
định. Nếu những sự vật, hiện tượng về bản là giống nhau, tác động trong những hoàn
cảnh tương đối giống nhau thì sẽ gất nên những kết quả giống nhau về cở bản. Nếu các
nguyên nhân hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên
càng ít khác nhau bấy nhiêu.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Khẳng định: Nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó
nguyên nhân cái trước, sinh ra kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện khi
nguyên nhân đã xuất hiện.
- Nguyên nhân là cái có trước, sản sinh ra kết quả:
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả
+ Kết quả bao giờ cũng có sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và bắt đầu tác động
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều
biểu hiện mối liên hệ nhân quả. VD: Ngày không phải là nguyên nhân của đêm ngược
lại.
- Phương thức nguyên nhân sinh ra kết quả:
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả
+ Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra
Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả
nhanh hơn. Còn nếu nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình
hình thành kết quả kết quả chậm hơn, thậm chí là triệt tiêu tác dụng của nhau.
lOMoARcPSD|44744371
* Phân loại nguyên nhân: Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình
thành kết quả, có thể phân loại nguyên nhân thành các loại sau:
- Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
+ Nguyên nhân chủ yếu: Là nguyên nhân mà thiếu chúng thì kết quả sẽ không xảy
ra.
+ Nguyên nhân thứ yếu: Là nguyên nhân mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định
những đặc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt của sự vật hiện tượng.
- Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài:
+ Nguyên nhân bên trong: Là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt hay những yếu tố
của cùng một kết cấu vật chất nào đó và gây ra những biến đổi nhất định.
+ Nguyên nhân bên ngoài: Là sự tác động lẫn nhau giữa các kết cấu vật chất khác
nhau và gây ra những biến đổi trong những kết cấu vật chất ấy.
- Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
+ Nguyên nhân khách quan: Là nguyên nhân xuất hiện và tác động đối lập đối với
ý thức con người
+ Nguyên nhân chủ quan: Là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý
thức con người.
* Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân: Nguyên nhân sản sinh kết quả.
Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, sẽ
có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
VD: Nhúng một thanh sắt vừa nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt đọ của nước
trong chậu sẽ tăng lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ toả
nhiệt của tahnh sắt
- Sự tác động trở lại diễn ra theo 2 hướng
+ Hướng tích cực: Thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân
+ Hướng tiêu cực: Cản trở sự hoạt động của nguyên nhân.
* Sự chuyển hoá, thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả:
lOMoARcPSD|44744371
- Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác
nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ
khác là kết quả và ngược lại.
- Một hiện ợng nào đó kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt
mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... quá trình này tiếp tục mãi
không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có
khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức:
+ mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí
con người nên chỉ thể tìm nguyên nhân của hiện tượng trong chính thế giới của hiện
tượng chứ không thể ở bên ngoài.
+ Do nguyên nhân luôn trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một
hiện tượng, ta cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước
khi hiện tượng đó xuất hiện.
+ Bởi dấu hiệu đặc trưng của mối liên hệ nhân quả nguyên nhân sinh ra
kết quả, nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu hiệu đặc
trưng này.
+ Vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình
tìm nguyên nhân của một sự vật hiện tượng, ta cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra được
kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như từng tổ hợp khác
nhau của chúng. Từ đó ta mới thể xác định đúng những nguyên nhân sinh ra hiện
tượng.
+ một hiện tượng trong mối quan hệ này kết quả, trong mối quan hệ
khác thể nguyên nhân, nên để hiểu tác dụng của hiện tượng ấy, cần cem xét
trong những quan hệ giữu vai trò nguyên nhân cũng như trong những quan hệ
là kết quả.
- Trong hoạt động thực tiễn:
lOMoARcPSD|44744371
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yếu nên ta có thể dựa vài mối liên hệ
nhân quả để hành động thực tiễn. Khi hành động, ta cần chú ý:
+ Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy
sinh nó
+ Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều
kiện cần thiết. Vì hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng
thời nên cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
+ Trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu
và nguyên nhân bên trong. Vì chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận động và
tiêu vong của hiện tượng.
+ Để đẩy nhanh hay kìm hãm, loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội
nào đó, ta cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều, hay lệch hoặc
ngược chiều với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
Câu 5: Phạm trù bản chất hiện tượng
Bản chất phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối
ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng thể hiện mình qua
các hiện tượng tương ứng của đối ợng. Bản chất cũng tính quy luật, nói đến bản chất
là nói đến tổng số các quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Hiện tượng phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định bên ngoài; mặt dễ biến đổi hơn hình thức thể hiện của bản
chất đối tượng
Quan hệ giữa bản chất và hiện tượng là mối liên hệ hữu cơ, cái này không thể tồn
tại thiếu cái kia, vừa thống nhất vừa đối lập:
Thống nhất:
Bản chất hiện tượng phù hợp nhau: bản chất tồn tại thông qua hiện tượng
hiện tượng phải là sự thể hiện bản chất
lOMoARcPSD|44744371
Tuy nhiên, bản chất thể hiện dưới hình thức đã bị cải biến, xuyên tạc. Do hoàn
cảnh cụ thể, các mối liên hệ ngẫu nhiên thêm vào hay bớt đi một vài yếu tố của bản chất
nên hiện tượng có thể phong phú hoặc nghèo nàn hơn bản chất.
Đối lập:
Bản chấtơng đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng “động” hơn, thường xuyên
biến đổi
Bản chất gắn với cái phổ biến, phản ánh cái chung thiết yếu, cái chung quyết
định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt, cái đơn nhất.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng)
mà cần đi sâu vào bên trong tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất
Do bản chất bao hàm cả các mâu thuẫn biện chứng và các mâu thuẫn này được giải
quyết trong quá trình phát triển, kéo theo sự thay đổi bản chất nên các phương pháp đã
được áp dụng vào hoạt động trước đây cũng phải thay đổi bằng các phương pháp khác,
phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng (nêu dụ cụ thể tương ứng với mỗi ý
nghĩa phương pháp luận)
Câu 6: Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất ngược
lại
*Vị trí: một trong ba quy luật bản của phép biện chứng duy vật, chỉ ra cách
thức, tính chất của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm các khái niệm, phạm trù
liên quan:
*Chất khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, hiện
tượng (SVHT); sự thống nhất hữu của các thuộc tính, yếu tố tạo nên SVHT làm cho
SVHT là nó mà không phải là SVHT khác
| 1/72

Preview text:

lOMoARcPSD|44744371 lOMoARcPSD|44744371
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN LỚP B8A
CHƯƠNG II: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG. Các nội dung ôn tập :
1. Định nghĩa vật chất của LêNin.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
4. Cặp phạm trù nguyên nhân- kết quả
5. Cặp phạm trù bản chất- hiện tượng
6. Quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
7. Thực tiễn và vai trò đối với nhận thức. Nội dung chi tiết:
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin?
Gợi ý các ý chính:
- Nêu 1 số quan niệm trước Mác về vật chất (nêu ngắn gọn, DT, DV…)
- Hoàn cảnh ra đời của định nghĩ vật chất (cuộc CMKHTN cuối 19 đầu 20 phá sản DVSH) - Đ/n vật chất
- PP định nghĩa vật chất
- Làm rõ 3 nội dung của định nghĩa (Phân tích, nêu ví dụ)
- Ý nghĩa phương pháp luận
- Có thể liên hệ bản thân
Phân tích ý (tham khảo)
* Một số quan điểm về vật chất trước mácxít:
- Chủ nghĩa duy tâm: Bản chất của thế giới là ý thức, họ đều phủ nhận sự tồn tại của vật
chất, họ cho rằng nguồn gốc của nó là “sự tha hoá” của “tinh thần thế giới”.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Ý thức, cảm giác của con người là cơ sở quyết định tồn tại của vật chất. lOMoARcPSD|44744371
- Chủ nghĩa duy vật: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Một số
nhà triết học đã quy vật chất về một hay vài dạng cụ thể và xem chúng là khởi nguyên của
thế giới như với Ta-lét là nước, Heraclit là lửa,… Bước tiến quan trọng nhất của sự phát
triển phạm trù vật chất là định nghĩa của nhà triết học Đêmôcrit khi cho rằng vật chất là
nguyên tử. Theo thuyết nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không
đồng nghĩa với những vật thể mà con người có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà
là một lớp các phân tử hữu hình rộng rãi nằm sâu bên trong mỗi sự vật, hiện tượng. Quan
niệm này như một dự báo khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung.
* Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa vật chất: Định nghĩa ra đời vào cuối thế kỉ XIX, đầu
thế kỉ XX, khi mà khoa học tự nhiên đang phát triển mạnh mẽ.
+ 1985, Rơnghen phát hiện tia X
+ 1986, Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ
+ 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử (hạt electron)
+ 1916, Anhxtanh chứng minh không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng
với sự vận động của vật chất thông qua Thuyết Tương đối Tổng quát.
* Lênin tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang nhầm lẫn hoặc xuyên tạc
những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất, mưu toan bác bỏ
chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật biện chứng về phạm trù
vật chất. Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, Lênin đặc biệt quan
tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này.
* Lênin đã định nghĩa vật chất với tư cách là một phạm trù triết học và bằng cách
đem đối lập với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức luận cơ bản. Với phương
pháp nêu trên, Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.” lOMoARcPSD|44744371
* Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm 3 nội dung cơ bản:
- Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu
chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Dù con người đã nhận
thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay không thì vật chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
- Thứ hai,vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem lại cho
con người cảm giác. Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói
rộng ra là ý thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức)
“sinh ra sau”, là tính thứ hai. Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý
thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất. Ví dụ như trước khi loài người xuất hiện trên trái
đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì chưa có con người.
- Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Nói rộng ra, tư
duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm... của con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh
của vật chất trong bộ óc của con người
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Gỉai quyết được vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường duy vật biện chứng.
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học: Vật
chất hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.
- Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận để đấu tranh chống lại
các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình
và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này, chống lại bọn
cơ hội xét lại. Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép
lại, phản ánh,... Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau, con
người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm này đã phủ nhận thuyết
không thể biết. Luận điểm này cũng đã trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của
triết học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng định là có. lOMoARcPSD|44744371
- Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách
quan. Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ thể
cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất, lại có thể
đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất. Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn
tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được
hay chưa, đã biết về nó hay chưa. Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của
Lênin đã khắc phục những quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất.
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội, tạo sự liên kết
giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Khẳng định thế giới vật
chất khách quan là vô cùng vô tận, không bao giờ biến mất, luôn luôn vận động, định
nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật
chất để tìm ra những kết cấu mới, những dạng thức thuộc tính, quy luật vận động mới của
vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại.
- Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội. Trong việc nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lênin đã giúp chúng ta xác định
được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác
chưa đạt tới. Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở các hoạt động thực tiễn
của con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất để nuôi sống con người và phát triển xã hội.
Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những
nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động
của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể tìm ra các phương án tối ưu để
thúc đẩy xã hội phát triển.
Câu 2: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?
Gợi ý các ý chính:
- Khái niệm vật chất, ý thức, mối quan hệ( Vật chất sinh ra ý thức, ý thức tác động trở ịa vật chất)
- Ý nghĩa phương pháp luận. lOMoARcPSD|44744371
Phân tích tham khảo.
Khái niệm vật chất: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của con người chép lại chụp lại phản
ánh tồn tại không phụ thuộc vào
Khái niệm ý thức: Là toàn bộ đời sống tinh thần của con người, Hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan được sáng tạo lại theo nhu cầu và mục đích của con người .
* Quan điểm của Chủ nghĩa duy tâm và Chủ nghĩa duy vật siêu hình:
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Bản chất thế giới, thực thể thế giới là ý thức, ý thức
là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai, ý thức có trước quyết định vật chất, chi phối sự
tồn tại của thế giới vật chất
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định
ý thức và sinh ra ý thức. Tuy nhiên do ảnh hưởng bởi tư duy siêu hình, máy móc nên họ
chỉ coi ý thức là sự phản ánh thụ động, máy móc thế giới khách quan vào bộ óc người mà
chưa thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức.
* Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.”
- Vật chất quyết định ý thức: Được thể hiện trên mấy khía cạnh sau
+ Một là, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người mà
con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra lẽ tất nhiên là ý thức – một thuộc tính của bộ
phận con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Vật chất tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức là nguồn gốc và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật
chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ
thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. lOMoARcPSD|44744371
+ Hai là, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức mà nội dung của nó
chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người,
hay nói cách khác có thế giới hiện thực vận động phát triển theo quy luật khách quan của
nó được phản ánh vào trong ý thức mới có nội dung của ý thức. Sự phát triển của hoạt
động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú, sâu sắc nội dung của tư duy, ý thức của con người qua các thế hệ, các thời đại từ
mông muội tới văn minh, hiện đại.
+ Ba là, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai
thuộc tính không thể tách rời trong bản chất ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người
không phải là “soi gương”, “chụp ảnh”, “phản ánh tâm lý” như con vật mà là phản ánh tích
cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của
con người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa
phản ánh vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
+ Bốn là, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn
tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi vật chất; vật chất thay đổi thì
sớm hay muộn ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người – một sinh vật có tính xã hội
ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức phản ánh
của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Trong đời sống
sản xuất, vai trò quyết định của vất chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế
đối với chính trị, đời sống vật chất với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội với ý thức xã hội.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất nhưng về mặt nhận
thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của Lênin rằng “sự đối lập giữa vật
chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: là thừa nhận
cái gì có trước cái gì có sau? Ngoài giới hạn đó ra thì không nghi ngờ gì nữa rằng sự đối
lập đó là tương đối”. Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện
qua mối quan hệ giữa vật chất đặc biệt – bộ óc người và thuộc tính của chúng nó.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất: Điều này được thể
hiện qua các khía cạnh sau: lOMoARcPSD|44744371
+ Thứ nhất, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con
người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật
vận động phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi
ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay
đổi nhanh chậm đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi
chậm hơn so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
+ Thứ hai, ý thức chỉ tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra thiên nhiên thứ hai phục vụ cho cuộc sống của con
người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực.
+ Thứ ba, ý thức tác động troẻ lại đối với vật chất theo 2 khuynh hướng:
Tích cực: Ý thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan thì sẽ có tri thức
đúng, dẫn đến hành dộng đúng, góp phần cải tạo thế giới khách quan.
Tiêu cực: Ý thức phản ánh không đúng thế giới khách quan thì hành động
sai, cản trở sự phát triển của thế giới khách quan, tuy nhiên sự kìm hãm này
chỉ là tạm thời, không phải bất biến.
+ Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
+ Thứ năm, tính năng động sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không
thể vượt qua tính quy định của những tiền đề vật chất đã được xác định, phải dựa vào các
điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó
chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên
không tránh khỏi thất bại trong thực tiễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học
Mác – Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan, đồng thời
kết hợp, phát huy tính năng động chủ quan: lOMoARcPSD|44744371
- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan:
+ Nhận thức sự vật, hiện tượng như cái vốn có, không được tô hồng, bôi
đen, gán cho đối tượng cái mà nó không có.
+ Mục tiêu, kế hoạch xuất phát từ thế giới khách quan, dựa trên cơ sở thế
giới khách quan. Tổ chức các nhân tố vật chất thành lực lượng để hành động.
+ Nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.
Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung phải xuất phát từ chính bản thân sự vật
hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
+ Tránh, chống lại chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa duy vật tầm
thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
- Phát huy tính năng động, chủ quan:
+ Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức và vai trò con người trong
việc vật chất hoá tính tích cực, năng động sáng tạo của ý thức con người – phát huy nhân tố con người.
+ Tôn trọng tri thức khoa học, làm chủ, ứng dụng tri thức khoa học
+ Giaó dục công tác chính trị, tư tưởng, tự rèn luyện, tu dưỡng để củng cố nhân sinh quan cách mạng.
+ Phòng chống và khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, thụ động, trông chờ
vào điều kiện vật chất.
+ Coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư
tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Gíao dục, nâng cao trình độ tri thức khoa học; củng cố bồi dưỡng ý chí
cách mạng; giữ gìn rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, dảng viên và nhân dân. Đảm
bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học
* Tổng kết: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng trong đó vật
chất quyết định ý thức và ý thức có tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. lOMoARcPSD|44744371
- Xuất phát từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Trong nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng yêu cầu phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan.
- Xuất phát từ vai trò ý thức đối với vật chất, trong nhận thức và thực tiễn đòi
hỏi phát huy tính năng động, chủ quan của con người.
Đó chính là thế giới quan, phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn rút ra khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Câu 3: Nguyên lý và mối liên hệ phổ biến? Liên hệ * Khái niệm:
- Liên hệ: là loại quan hệ đặc biệt trong đó sự ra đời, tồn tại, chuyển hoá của cái này
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời chuyển hoá cái khác.
- Mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đốt tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
- Mối liên hệ phổ biến: là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời dùng để chỉ liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật, hiện tượng trong thế giới.
* Nội dung nguyên lý:
Thế giới được tạo thành từ vô số những sự vật, những hiện tượng, những quá trình
khác nhau. Trong lịch sử triết học, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách rời nhau và giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc
quy định nào. Tuy nhiên, khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện dại, phép
biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Theo phép biện chứng duy vật, nguyên lý mối liên hệ phổ biến là sự khái quát các
mối liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp cận đó, phép biện chứng duy vật lOMoARcPSD|44744371
chỉ ra rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mối liên hệ phổ biến cùng
ràng buộc, chi phối lẫn nhau, vận động và biến đổi không ngừng. Trong thế giới không có
sự vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách biệt nhau.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở của mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật,
hiện tượng trong thế giưới dù có đa dạng và khác nhau, thì cũng chỉ là những dạng tồn tại
cụ thể của một thế giới duy nhất là vật chất. Ý thức của con người không phải là vật chất
nhưng không thể tồn tại biệt lập với vật chất bởi ý thức cũng chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người; hơn nữa nội dung của ý thức cũng
chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chât.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
của mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà còn khẳng định tính đa
dạng của sự liên hệ; bởi thế giới là một chỉnh thể với vô vàn các sự vật, hiện tượng khác
nhau, chúng không ngừng vận động và phát triển một cách đa dạng.
* Tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan: Mối liên hệ là thuộc tiễn vốn có của thế giới khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức con người. Sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển
hoá lẫn nhau trong tổ chức, kết cấu của các sự vật, hiện tượng là cái vốn có của nó, tồn tại
độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến: Bất kỳ một sự vật, hiện tượng ở bất kỳ không gian và thời gian nào
cũng có mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Thể hiện ở chỗ, bất kỳ nơi đâu trong tự
nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ vai
trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hoá, của các sự vật hiện tượng. Mối liên hệ
qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng tự
nhiên, xã hội, tư suy mà còn diễn ra ở các mặt, các yếu tố, quá trình của mối sự vật hiện tượng.
- Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có
nhiều tổ chức, cấu trúc khác nhau nên có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, lOMoARcPSD|44744371
vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó. Mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn
khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và
vai trò khác nhau. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản,
chủ yếu và thứ yếu, trực tiếp và gián tiếp,...
Để phân loại các mối liên hệ ta phải dựa vào tính chất và vai trò của từng mối
liên hệ. Tuy nhiên việc phân loại này cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì các mối
liên hệ của các đối tượng rất là phức tạp, không thể tách rời chúng ra khỏi các mối liên hệ
khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong trong sự biến đổi và phát triển của chúng.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quan điểm toàn diện:
+ Xem xét trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố của sự vật đó và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác.
+ Đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ. Trong tổng số mối liên hệ thì
mối liên hệ nào là cơ bản, bản chất nhất có ý nghĩa quyết định đến sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.
+ Liên kết các mối liên hệ cơ bản, bản chất với những mối liên hệ khác để đảm
bảo tính đồng độ, hệ thống khi giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống.
+ Tránh quan điểm phiến diện gây ra tuyệt đối hoá một mặt, một khía cạnh.
- Trong nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể:
+ Trong nhận thức và thực tiễn cần phải chú ý đến điều kiện, môi trường, hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể trong đó sự việc sinh ra, tồn tại và phát triển.
+ Xác định vị trí, vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể để giải quyết các vấn đề
đúng đắn và có hiệu quả.
Câu 4: Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả? lOMoARcPSD|44744371
* Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định
- Kết quả: Là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ:
+ Nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, nhưng
không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài không bản chất.
VD: “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” vào tháng 08/1964, từ đó Mỹ ném bom miền
Bắc là nguyên cớ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
+ Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên
nhân, nhưng có tác dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của
một số phản ứng hoá học.
Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác có mặt khi nguyên
nhân gây ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
* Một số tính chất của mối quan hệ nguyên nhân – kết quả (nhân quả):
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan của bản thân các
sự vật. Nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức
được nó hay không. Vì mối quan hệ nhân quả là vốn có trong bản thân sự vật nên không
thể đồng nhất với khả năng tiên đoán lOMoARcPSD|44744371
- Tính phổ biến: Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều được
gây ra bởi những nguyên nhân nhất định. Không có sự vật hiện tượng nào không có
nguyên nhân của nó. Vấn đề là chúng ta đã phát hiện, tìm ra được nguyên nhân hay chưa.
- Tính tất yếu: Tính tất yếu ở đây không có nghĩa là cứ có nguyên nhân thì sẽ có
kêdt quả, mà phải đặt nguyên nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Một
nguyên nhân nhất định trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra một
kết quả nhất định. Đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trong những điều kiện nhất
định. Nếu những sự vật, hiện tượng về cơ bản là giống nhau, tác động trong những hoàn
cảnh tương đối giống nhau thì sẽ gất nên những kết quả giống nhau về cở bản. Nếu các
nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên
càng ít khác nhau bấy nhiêu.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Khẳng định: Nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó
nguyên nhân là cái có trước, sinh ra kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện khi
nguyên nhân đã xuất hiện.
- Nguyên nhân là cái có trước, sản sinh ra kết quả:
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả
+ Kết quả bao giờ cũng có sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và bắt đầu tác động
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều
biểu hiện mối liên hệ nhân quả. VD: Ngày không phải là nguyên nhân của đêm và ngược lại.
- Phương thức nguyên nhân sinh ra kết quả:
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả
+ Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra
Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả
nhanh hơn. Còn nếu nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình
hình thành kết quả kết quả chậm hơn, thậm chí là triệt tiêu tác dụng của nhau. lOMoARcPSD|44744371
* Phân loại nguyên nhân: Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình
thành kết quả, có thể phân loại nguyên nhân thành các loại sau:
- Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
+ Nguyên nhân chủ yếu: Là nguyên nhân mà thiếu chúng thì kết quả sẽ không xảy ra.
+ Nguyên nhân thứ yếu: Là nguyên nhân mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định
những đặc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt của sự vật hiện tượng.
- Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài:
+ Nguyên nhân bên trong: Là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt hay những yếu tố
của cùng một kết cấu vật chất nào đó và gây ra những biến đổi nhất định.
+ Nguyên nhân bên ngoài: Là sự tác động lẫn nhau giữa các kết cấu vật chất khác
nhau và gây ra những biến đổi trong những kết cấu vật chất ấy.
- Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
+ Nguyên nhân khách quan: Là nguyên nhân xuất hiện và tác động đối lập đối với ý thức con người
+ Nguyên nhân chủ quan: Là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức con người.
* Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân: Nguyên nhân sản sinh kết quả.
Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ
có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
VD: Nhúng một thanh sắt vừa nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt đọ của nước
trong chậu sẽ tăng lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ toả nhiệt của tahnh sắt
- Sự tác động trở lại diễn ra theo 2 hướng
+ Hướng tích cực: Thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân
+ Hướng tiêu cực: Cản trở sự hoạt động của nguyên nhân.
* Sự chuyển hoá, thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả: lOMoARcPSD|44744371
- Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác
nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ
khác là kết quả và ngược lại.
- Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt
mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... Và quá trình này tiếp tục mãi
không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có
khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng
* Ý nghĩa phương pháp luận: - Trong nhận thức:
+ Vì mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí
con người nên chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng trong chính thế giới của hiện
tượng chứ không thể ở bên ngoài.
+ Do nguyên nhân luôn có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một
hiện tượng, ta cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước
khi hiện tượng đó xuất hiện.
+ Bởi dấu hiệu đặc trưng của mối liên hệ nhân quả là nguyên nhân sinh ra
kết quả, nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu hiệu đặc trưng này.
+ Vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình
tìm nguyên nhân của một sự vật hiện tượng, ta cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra được
kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như từng tổ hợp khác
nhau của chúng. Từ đó ta mới có thể xác định đúng những nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
+ Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ
khác có thể là nguyên nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần cem xét nó
trong những quan hệ mà nó giữu vai trò là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ nó là kết quả.
- Trong hoạt động thực tiễn: lOMoARcPSD|44744371
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yếu nên ta có thể dựa vài mối liên hệ
nhân quả để hành động thực tiễn. Khi hành động, ta cần chú ý:
+ Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh nó
+ Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều
kiện cần thiết. Vì hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng
thời nên cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
+ Trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu
và nguyên nhân bên trong. Vì chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận động và
tiêu vong của hiện tượng.
+ Để đẩy nhanh hay kìm hãm, loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội
nào đó, ta cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều, hay lệch hoặc
ngược chiều với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
Câu 5: Phạm trù bản chất hiện tượng
Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối
ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình qua
các hiện tượng tương ứng của đối tượng. Bản chất cũng là tính quy luật, nói đến bản chất
là nói đến tổng số các quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng
Quan hệ giữa bản chất và hiện tượng là mối liên hệ hữu cơ, cái này không thể tồn
tại thiếu cái kia, vừa thống nhất vừa đối lập: Thống nhất:
Bản chất và hiện tượng phù hợp nhau: bản chất tồn tại thông qua hiện tượng và
hiện tượng phải là sự thể hiện bản chất lOMoARcPSD|44744371
Tuy nhiên, bản chất thể hiện dưới hình thức đã bị cải biến, xuyên tạc. Do hoàn
cảnh cụ thể, các mối liên hệ ngẫu nhiên thêm vào hay bớt đi một vài yếu tố của bản chất
nên hiện tượng có thể phong phú hoặc nghèo nàn hơn bản chất. Đối lập:
Bản chất tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng “động” hơn, thường xuyên biến đổi
Bản chất gắn bó với cái phổ biến, phản ánh cái chung thiết yếu, cái chung quyết
định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt, cái đơn nhất.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng)
mà cần đi sâu vào bên trong tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất
Do bản chất bao hàm cả các mâu thuẫn biện chứng và các mâu thuẫn này được giải
quyết trong quá trình phát triển, kéo theo sự thay đổi bản chất nên các phương pháp đã
được áp dụng vào hoạt động cũ trước đây cũng phải thay đổi bằng các phương pháp khác,
phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng (nêu ví dụ cụ thể tương ứng với mỗi ý nghĩa phương pháp luận)
Câu 6: Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
*Vị trí: là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ ra cách
thức, tính chất của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan:
*Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng (SVHT); là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên SVHT làm cho
SVHT là nó mà không phải là SVHT khác