Đề cương ôn thi LSĐ/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành
• Về phương pháp cách mạng: Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ trang bạo động để giành chính quyền.• Về mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới: cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46090862
NỘI DUNG LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10/1930 Hoàn cảnh ra đời:
• Từ 14 30/10/1930 hội nghị BCH TW họp lần thứ nhất tại Hương Cảng, do Trần
Phú chủ trì. Nội dung của hội nghị gồm: Thảo luận Luận cương chính trị, quyết
định đổi tên Đảng từ Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông
Dương, trong hội nghị các đại biểu cũng nhất trí bầu đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.
• Năm 1930: Tháng 41930, Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô đượcquốc tế
cộng sản cử về nước. Đến tháng 71930 được bổ sung vào BCH TW Đảng Nội
dung cơ bản của luận cương:
• Về mâu thuẫn xã hội: Một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ,
một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và chủ nghĩa đế quốc.
• Về tính chất và mục tiêu chiến lược của cách mạng Đông Dương: Lúc đầu là
một cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. "Tư sản
dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi cách
mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản
mà đi thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa"
• Về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền: Đấu tranh để đánh đổ các di tích
phong kiến, thực hànhcách mạng ruộng đất; đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với nhau
nhưng " vấn đề thuộc địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền". Về lực lượng của cách mạng :
+ Công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, trong đó giai cấp
công nhân là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng; nông dân là
một động lực đông đảo và mạnh của cách mạng
+ Tư Sản thương nghiệp thì đứng về đế quốc chống Cộng sản. Tư sản công nghiệp
thì đứng về quốc gia cải lương, khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ đứng về đế quốc.
+Trong giai cấp tiểu tư sản: bộ phận thủ công nghiệp thì do dự, thành phần thương
gia thì không tán thành cách mạng, trí thức thì có xu hướng quốc gia chỉ hăng hái
trong thời kì đầu, chỉ các phần tử lao khổ mới theo cách mạng mà thôi.
• Về phương pháp cách mạng: Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ
trang bạo động để giành chính quyền.
• Về mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới: cách mạng
Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới
• Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt
yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Muốn vậy:
+ Đảng phải có đường lối đúng đắn, gắn bó với giai cấp, lấy chủ nghĩa MácLênin làm nền tảng
+ Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho chính quyền lợi
của giai cấp công nhân, đấu tranh cho mục tiêu chủ nghĩa cộng sản. lOMoAR cPSD| 46090862
+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản Pháp.
=>Như vậy, hội nghị Trung ương 10/1930 đã có một số quyết định rất quan trọng về đường lối cách mạng Việt Nam.
TẠI SAO NÓI CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG CSVN (2-1930)
THỂ HIỆN TINH THẦN ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO?
Cương lĩnh chính trị - Ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng
ta. Tuy còn vắn tắt nhưng nó là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc, đúng đắn và sáng
tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc nhân văn. Độc lập, tự do là
tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. •
Tính khoa học đúng đắn:
Cương lĩnh chính trị được xây dựng dựa trên cơ sở quán triệt, vận dụng nhuần nhuyễn,
sáng tạo và phát triển các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, truyền thống tinh hoa
văn hóa dân tộc, phản ánh đúng thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó vừa có tính lý luận khoa
học vừa có tính thực tiễn sâu sắc, kết hợp tính giai cấp và tính dân tộc, đáp ứng yêu cầu bức
thiết của cách mạng và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân. •
Tính độc lập, tự chủ:
Cương lĩnh chính trị là sản phẩm thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam,
nó là bảo vật quốc gia, là kết tinh tư tưởng, cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh. Cương lĩnh là
của riêng người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng, nó không bị lệ thuộc hay bị áp đặt
bởi bất kì một tổ chức nào khác. Với tư tưởng cốt lõi bao trùm là độc lập, tự do, cương lĩnh
chính trị đã vạch rõ con đường cách mạng của Đảng đã lựa chọn, đó là con đường kết hợp:
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. • Tính sáng tạo:
+ Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản” + Nhiệm vụ: •
Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước
Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông bình, tổ chức quân đội công nông. •
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của
TBCN Pháp giao cho chính phủ công nông; tịch thu ruộng đất của đế quốc làm
của công và chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân nghèo; thi hành luật ngày làm 8 giờ… •
Về VH – XH: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông giáo
dục theo hướng công nông hóa. •
Những nhiệm vụ thể hiện đầy đủ yếu tố dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và
chống phong kiến trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, chống đế quốc, giành độc lập
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
+ Lực lượng cách mạng: Lực lượng nòng cốt của cách mạng nước ta là công - nông,
đồng thời thấy được các giai cấp và tầng lớp khác cũng là lực lượng cách mạng cần
phải liên minh hoặc lôi kéo hay trung lập. lOMoAR cPSD| 46090862
+ Lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
trong đó Đảng là đội tiên phong. •
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với cách mạng nước ta, vì phải có
chính đảng của giai cấp vô sản với đường lối cách mạng đúng đắn mới lãnh đạo
nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi.
+ Quan hệ quốc tế: CM VN là một bộ phận khăng khít của CM thế giới.
Ý NGHĨA CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM?
Giá trị lý luận:
+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt
Nam, phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu cấp bách
và cơ bản của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại.
+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị là sự vận dụng, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề
như: mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến, về lực lượng cách mạng… Qua đó, cương lĩnh đã góp phần bổ sung, phát triển làm phong
phú chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh công lao to
lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau
này đã nhận xét: “Vào thời ấy, hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ, khó lòng
tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý
luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”.
Giá trị thực tiễn:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân
dân và thâm nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến thành phong trào cách
mạng, chấm dứt tình trạng bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa trở thành dân tộc độc lập,
đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của
mình. Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ, nhưng đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn
cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh
và dân tộc đã lựa chọn. Cương lĩnh đã, đang, sẽ được toàn Đảng, toàn dân trung thành, vận
dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay.
Ý NGHĨA SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra thời kì mới cho
cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách
mạng Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và lOMoAR cPSD| 46090862
trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn
thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức cách mạng tiên
phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về con đường cứu nước: “Từ cuối thế kỷ
XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa thực
dân. Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần Vương, phong trào yêu nước ba mươi năm đầu
thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái... nhưng không thành công vì thiếu
một đường lối đúng”. “Năm 1930, kế thừa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và các tổ
chức cộng sản tiền thân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó nói lên quy luật ra đời của Đảng và
cũng chứng tỏ giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng
thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm nhiệm vai trò lãnh đạo đối với
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đánh dấu bước phát triển vế
chất của cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của dân tộc Việt
Nam từ 1930 là con đường cách mạng vô sản. Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân Việt
Nam, chính lịch sử dân tộc Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam đã
trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng
đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy
chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng
tạo là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy
đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh được thông qua ở Hội nghị thành lập
Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt Nam có được đường lối chính trị toàn diện đề ra mục tiêu
và phương pháp đấu tranh thích hợp, giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã hội,
đồng thời có được tổ chức Đảng cách mạng để lãnh đạo và tổ chức phong trào cách mạng. Sự
ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề và điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng
đất nước được, mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác
vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm
của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên CNXH của dân
tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". lOMoAR cPSD| 46090862
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ VIỆT NAM (1930-1945)
Đồng chí Trần Phú, trong luận cương tháng 10 năm 1930 cho rằng vấn đề cách mạng Việt
Nam cần tập trung giải quyết là vấn đề đấu tranh giai cấp. Nhân dân Việt Nam đã đứng lên
đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề về giai cấp thông qua 2 cao trào cách mạng - Cao trào cách mạng 1930-1931
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 lan nhanh đến các nước thuộc địa, làm cho mọi
hoạt động sản xuất bị đình đốn. Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc lột để bù đắp
những hậu quả của cuộc khủng hoảng ở chính quốc, đồng thời tiến hành một chiến dịch
khủng bố trắng nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên bái (2-1930). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
nam với đế quốc Pháp và lực lượng tay sai ngày cảng phát triển gay gắt. Từ tháng 1 đến tháng
4 năm 1930, liên tục xảy ra các cuộc bãi công của công nhân tại các nhà máy xí nghiệp cũng
như là các cuộc đấu tranh của nhân dân các tỉnh thành. Tuy nhiên đến cuối năm 1930, thực
dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, kết hợp các thủ đoạn tra tấn bạo lực khiến cho các tổ
chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết.
Tuy bị đàn áp bởi đế quốc và tay sai nhưng cao trào cách mạng 1930-1931 là bước thắng lợi
đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Nó để
lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và
phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của
nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp
phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang.
- Cao trào cách mạng 1936-1939
Trong giai đoạn này, chúng ta đã thay đổi phương thức đấu tranh từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị. Chủ trương mới của Đảng đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của
quần chúng nhân dân, đã dấy lên phong trào cả nước đấu tranh sôi nổi, mạnh mẽ nhằm vào
mục tiêu trước mắt là tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Để thực hiện được mục tiêu này,
Đảng ta đã tập trung giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt;
về xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị,
phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và
công khai để tập hợp quần chúng và các hìn thức, phương pháp đấu tranh: tổ chức Đông
Dương đại hội, đấu tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, đòi dân sinh, dân chủ...
Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 là một phong trào dân tộc dân chủ rộng lớn, qua đó Đảng
ta đẩy mạnh được hoạt động tuyên truyền giáo dục sâu rộng tư tưởng Mác Lenin, đường lối
chính sách của Đảng, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân trong việc xây dựng được
một đội quân chính trị đông đảo. Phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm như bài học
về sử dụng các hình thức và khẩu hiệu đấu tranh, xây dựng được Mặt trận nhân dân thống
nhất. Đây được coi như là cuộc diễn tập lần thứ hai của sự chuẩn bị cho sự thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945. - Giai đoạn 1939-1945
Khi tình hình thế giới và trong nước có sựu thay đổi, xuất phát từ việc chúng ta không tiếp tục
mục tiêu đấu tranh giai cấp nữa mà thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc. Hình thức đấu
tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo của Đảng lOMoAR cPSD| 46090862
trước đây ta chủ yếu tập trung vào đấu tranh giai cấp, thì bây giờ ta tập trung vào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đây là giai đoạn diễn ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Việc thực dân Pháp tham gia vào
cuộc chiến tranh ngay từ những ngày đầu dẫn đến việc chúng tiến hành ra sức vơ vét của cải
của nhân dân ta, bóc lột sức lao động, đem nhân dân ta ra làm bia đỡ đạn. Chúng còn khiến
cho nhân dân lao động trong nước cũng như nhân dân các nước thuộc địa cũng phải tham gia vào cuộc chiến này.
Đảng và nhà nước ta bị rơi vào tình thế 1 cổ đôi tròng, xác định được mục tiêu hàng đầu lúc
bấy giờ là đấu tranh giải phóng dân tộc, chống Nhật và Pháp.
CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG TA ĐỀ RA ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI MỚI Tình hình thế giới:
- 1/9/1939, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, 2 ngày sau kẻ thù trực tiếp của
nhân dân Việt Nam là Anh và Pháp đã tham gia cuộc chiến này. Rõ ràng để có được
nhiều của cải vật chất nhất cho cuộc chiến này, thực dân Pháp tăng cường bóc lột nhân
dân lao động trong nước cũng như nhân dân các nước thuộc địa. Thực dân Pháp bắt
nhân dân ta làm bia đỡ đạn cho chiến tranh chiến trường -> đẩy nhân dân lao động của
Pháp và các nước thuộc địa tham gia vào chiến tranh.
- Hăm hở tham gia vào cuộc chiến tranh ngay từ những ngày đầu nhưng thực dân Pháp
chỉ trụ được 9 tháng, nhanh chóng bị phát xít Đức tấn công Pháp, buộc Pháp kí kết đầu
hàng Đức vào tháng 6/1940. Việc Pháp thua có nghĩa là tất cả các thuộc địa của Pháp
sẽ bị các nước Phát xít nhảy vào xâu xé. Trên thực tế, từ tháng 9/1940, Nhật đã nhảy
vào Đông Dương. Ngày 22/9, Nhật tấn công vào Lạng Sơn, 23/9 Chính phủ Pháp tại
Đông Dương đã nhanh chóng kí hiệp ước đầu hàng.
- Mục đích chính của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 là một cuộc chiến tranh trong nội
bộ giữa các nước tư sản và mang tính chất của cuộc chiến tranh phi nghĩa nhưng khi
Liên Xô tham gia vào cuộc chiến tranh này, tính chất của cuộc chiến tranh đã bị thay
đổi khi mà kẻ thù của nhân dân thế giới không còn là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà
lúc này là chủ nghĩa Phát xít.
- Ngày 8/12/1941, Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, chiến tranh lan rộng ở Châu
á, Thái bình dương. Mỹ bất ngờ bị tấn công, buộc tham gia vào cuộc chiến tranh khiến
cục diện cuộc chiến thay đổi, làm cho ưu thế dần nghiêng về phe của quân Đồng minh,
tạo sự cân bằng trong sức mạnh quân sự cho phe Phát xít. Tình hình trong nước:
- Pháp đã Phát xít hóa bộ máy thống trị của nước ta, toàn bộ quyền tự do dân chủ mà họ
ban cho ta từ giai đoạn 1936-1939 bị chúng bóp nghẹt.
- Sau khi Pháp kí hiệp ước đầu hàng Nhật vào ngày 23/9/1940, Nhân dân ta đã phải
chịu cảnh “1 cổ đôi tròng” khi mà vừa phải hứng chịu áp bức từ cả Nhật và Pháp. Từ
đó làm gia tăng thêm một mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội Việt Nam. Cách mạng
Việt Nam chuyển hướng sang đấu tranh giải phóng dân tộc.
VÌ SAO TRONG HNTW LẦN THỨ 8 (THÁNG 5-1941), ĐẢNG QUYẾT
ĐỊNH ĐƯA NHIỆM VỤ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC LÊN HÀNG ĐẦU? lOMoAR cPSD| 46090862
Giai đoạn 1939 – 1945 là một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử của cách mạng
Việt Nam. Đảng ta đã phải hết sức cố gắng để đưa ra những quyết định đúng đắn khi chèo
lái con thuyền cách mạng của dân tộc, đưa nhân dân thoát khỏi bóng tối nô lệ đi đến độc
lập, tự do. Thực tiễn tình hình thế giới và trong nước đã buộc Đảng ta quyết định đưa
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu trong HNTW lần thứ 8 (5/1941).
Tình hình thế giới: Ngày 1 – 9 – 1939, Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế giới thứ 2
bùng nổ. Tháng 6 – 1940, Đức tấn công Pháp. Ngày 22 – 6 – 1941, Đức tấn công Liên Xô Tình hình trong nước:
+ Pháp thực thi chính sách “cai trị thời chiến” cực kỳ tàn bạo, đẩy mâu thuẫn giữa đế
quốc Pháp và các dân tộc Đông Dương càng thêm gay gắt và “thúc đẩy nhanh quá trình cách mạng”.
+ Pháp phát xít hóa, Nhật vào Đông Dương (22/9/1940) => Pháp – Nhật cấu kết thống
trị nhân dân ĐD, nhân dân ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.
+ Nhân dân ta đã nhiều lần đứng dậy chống lại ách áp bức bóc lột đó. Tiêu biểu là các
cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9 - 1940), khởi nghĩa Nam Kì (11 - 1940), binh biến Đô Lương
(1 - 1941). Các cuộc nổi dậy vũ trang đó đã chứng tỏ ý thức quật cường, tinh thần anh
dũng bất khuất của nhân dân Việt Nam, giáng những đòn phủ đầu chí tử vào thực dân
Pháp, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo phát xít Nhật khi chúng vừa mới đặt chân vào Đông
Dương. Tuy nhiên, do kẻ thù còn mạnh, lực lượng cách mạng chưa được chuẩn bị đầy
đủ… nên trước sau đều bị thất bại nhưng nó như những tiếng súng báo hiệu cho thời kì
mới – thời kì giải phóng dân tộc.
Trước tình hình đó, Đảng ta nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được
giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp – Nhật.
Bởi “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Tại HNTW 8 (5/1941), Đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lước và xác
định: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một
cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. “nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của
cách mạng Đông Dương”.
Tóm lại, việc xác định nhiệm vụ duy nhất – giải phóng dân tộc ở đây là sự phát triển
lên một tầm cao mới, trong một hoàn cảnh mới của tư tưởng chống đế quốc là nhiệm vụ
hàng đầu. Nó thế hiện sự chuyển hướng và nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Đảng, xác định
đúng đắn con đường đi cho dân tộc.
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VN
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc:
Ngày 5 6 1911, từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc làm phụ bếp trên tàu Đô đốc
Trêvin và bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm, hòa mình vào cuộc sống lao động Pháp để lOMoAR cPSD| 46090862
tìm đường cứu nước. Từ 1911 đến 1917, Người đã đến nhà nước châu Âu, châu Phi và
châu Mĩ. Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng
Pháp: Tự do, Bình đẳng và Bác ái.
Ngày 18 6 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất
Thành với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxai Bản yêu sách của nhân dân An Nam.
Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của LêNin. Từ đây người tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
* Nguyễn Ái Quốc truyền bá CN MácLênin chuẩn bị thành lập đảng:
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của Angiêri, Marốc, Tuynidi,... Nguyễn
Ái Quốc lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng
cách mạng chống chủ nghĩa thực dân.
Tháng 6 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị
Quốc tế Nông dân (10 1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên
Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp
chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V
(1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược
của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các
nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh
to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
Ngày 11 11 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu ( Trung Quốc ) để trực tiếp đào
tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân
tộc vào Việt Nam. Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động
ở đây và chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã, mở các lớp huấn
luyện chính trị ngắn hạn để đào tạo họ thành cán bộ cách mạng đưa về nước hoạt động.
Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
phong trào cách mạng ở trong nước ngày càng phát triển sôi nổi, khuynh hướng các
mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc. Đến năm 1929, Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng cơ sở ở khắp ba kì.Những hoạt động của
Người từ 1911 đến 1929 có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính
trị và đạo đức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
* Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 đảng:
Sau một thời gian dài hoạt động có hiệu quả, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong
nước đòi hỏi phải có một đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong
trào tiếp tục đi lên. Để đáp ứng nhu cầu đó, từ giữa đến cuối năm 1929, ở Việt Nam đã
lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng
sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong
trào cách mạng nước ta. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức này đã đả
kích lẫn nhau, làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản và gây ảnh hưởng tiêu cực
đến phong trào cách mạng đang lên. lOMoAR cPSD| 46090862
Từ 3 2 đến 7 2 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ chức
cộng sản tại Hương Cảng ( Trung Quốc ). Người chủ trì hội nghị và đã phân tích
những hoạt động bè phái, chia rẽ của ba tổ chức cộng sản và tác hại của nó. Do yêu
cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam và uy tín đức độ của Người nên đã đã thống
nhất được các tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt
Nam thành đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. * Thành lập ĐCSVN:
Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã
vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản cho cách mạng Việt Nam (đây chính là bản
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ).
=>Hai thập niên đầu thể kỉ XX, với những hoạt động cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã
truyền bá chủ nghĩa MácLêNin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng.
Đồng thời, Người đã thành công trong việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 46090862
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA CHỈ THỊ "NHẬT - PHÁP BẮN NHAU VÀ
HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚNG TA" 12/3/1945 Nội dung
Sau khi Nhật vào Đông Dương, để tiến hành quá trình xâm lược của mình, Nhật đã bắt
tay với thực dân Pháp tiến hành đàm áp phong trào cách mạng ở Việt Nam. Tuy nhiên mâu
thuẫn về quyền lợi giữa chúng ngày càng gia tăng, nguy cơ nổ ra xung đột ngày càng cao và
tất yếu phát-xít Nhật sẽ hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương. Cũng từ rất sớm, Đảng
ta đã phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, nhận định phát-xít Nhật sẽ đảo
chính hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình mới.
Thực tiễn lịch sử chứng minh những dự báo mà Đảng đưa ra hoàn toàn đúng đắn, chính
xác. Lúc bấy giờ trên thế giới, với chiến thắng của Liên Xô và các lực lượng đồng minh trước
chủ nghĩa phát-xít, thời cơ cách mạng đã đến với nhiều nước trên thế giới khi Chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc. Hàng loạt cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra thắng lợi, hình
thành một hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở
Á, Phi, Mỹ la-tinh đứng trước vận hội lớn của lịch sử trong đó có Việt Nam.
Lúc bấy giờ, vấn đề "cuộc đảo chính của phát-xít Nhật" luôn luôn được đề cập trong
những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng trong những năm đầu 1945, định hướng công
tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới
sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, sau đó họp tiếp tại
làng Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" vào ngày 12-3-1945.
Chỉ thị xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương là phát xít
Nhật, do đó phải thay đổi khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật, Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát
xít Nhật” chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật.
Chỉ thị nhấn mạnh: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương “một cuộc khủng hoảng chính trị
sâu sắc”(1), tuy nhiên , “những điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi”(2) vì quân Pháp
tan rã, song quân Nhật chưa đến mức hoàng mang cực độ, các tầng lớp trung giang chưa ngã
hẵn về phía cách mạng, đội quân tiên phong chưa sẵn sàng.
Bản Chỉ thị đã vạch rõ những điều kiện về cuộc khởi nghĩa Đông Dương “Phát động một
cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào
ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị phá phách cho đến những hình
thức cao hơn như biểu tình thị uy võ trang, du kích…”(3) , đồng thời “sẵn sàng chuyển qua
hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện”(4) . Với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong
Chỉ thị là “phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạp chủ động táo bạo”(5) .
Trong cách mạng, tương quan lực lượng giữa ta và địch ở mỗi nơi không giống nhau, cách
mạng có thể chín muồi ở các địa phương không đều nhau nên Thường vụ Trung ương Đảng
đã Chỉ thị: “Nơi nào thấy so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng thì tiến hành khởi nghĩa
từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, rồi tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong toàn quốc và không được ỷ lại vào bên ngoài khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà
phải dựa vào sức mình là chính” lOMoAR cPSD| 46090862
Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù, dự báo chính xác thời cơ cách mạng, linh hoạt, sáng tạo
và chuẩn bị mọi điều kiện làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân
dân khi thời cơ đến. Điều đó thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa học và nghệ thuật chỉ
đạo cuộc cách mạng tài tình của Đảng ta trong cách mạng. Chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh, ở các địa phương cả nước trong cao trào
kháng Nhật cứu nước, có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi
nghĩa Tám năm 1945 đúng như lời khẳng định chắc chắn của Chỉ thị: "Thắng lợi cuối cùng
nhất định về tay chúng ta!". Ý nghĩa
Thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết và kịp thời của Đảng trong HCLS mới.
Là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào kháng Nhật
cứu nước, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa T8 năm1945. Từ
giữa tháng 03/1945, phong trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ. Xác định kẻ
thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật; thay
khẩu hiệu đánh đuổi phátxít Nhật, Pháp bằng khẩu hiệu đánh đuổi phátxít Nhật và đưa ra khẩu
hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”. Phát động cao trào
kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa; phải có những hình
thức tuyên truyền, đấu tranh hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như đẩy mạnh tuyên truyền võ
trang, biểu tình, tuần hành, thị uy, bãi công chính trị, phá các kho thóc của Nhật để giải quyết
nạn đói, phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, lập chính quyền bộ phận, mở
rộng căn cứ địa cách mạng để khi đủ điều kiện sẽ chuyển sang tổng khởi nghĩa.
NỘI DUNG CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC TẠI HỘI NGHỊ TW8 (5/1941) Nội dung:
- Thứ nhất, nhấn mạnh mâu thuẫn phải được giải quyết cấp bách giữa Việt Nam với
phát xít Pháp – Nhật, bởi “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong”.
- Thứ hai, khẳng định chủ trương “phải thay đổi chiến lược”. Đảng khẳng định: “Chưa
chủ trương làm CMTS dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
- Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành
chính sách “dân tộc tự quyết”. Theo đó, thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt
trận riêng đoàn kết dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung.
- Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ
cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự
do cho dân tộc”. Các tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”.
- Thứ năm, khi cách mạng thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa –
nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc”, chứ không phải “công nông liên hiệp và chính quyền Xô viết”. lOMoAR cPSD| 46090862
- Thứ sáu, nhiệm vụ trung tâm là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; “phải luôn luôn chuẩn bị
một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”, xác
định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
• Ý nghĩa của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
• Có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phong trào CM, đi tới thắng lợi của CMT8/1945
• Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930
• Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
• Là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực
lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do cho dân tộc và nhân dân.
• Phát triển và làm phong phú kho tàng lý luận Mác Lê-nin về CM giải phóng dân tộc
DỰ KIẾN THỜI CƠ CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA ĐƯỢC THÔNG QUA
NHƯ THẾ NÀO TRONG CUỘC NHẬT-PHÁP BẮN NHAU
Nhận định thời điểm chín muồi là khi Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, lúc đó sẽ tạo
thế 2 tròng để quân ta đánh đuổi Nhật
Nếu như Nhật để mất nước như Pháp ở thời điểm cuối 1940, chúng ta sẽ đứng lên giành chính
quyền. Kể từ đó, phong trào kháng Nhật nổ ra tại khắp nơi trên đất nước.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH ĐƯỢC ĐẢNG TA NHẬN ĐỊNH TRONG CUỘC
NHẬT-PHÁP BẮN NHAU
Cuộc đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Việt nam được lịch sử Thế giới ghi
nhận là cuộc chiến tranh ít đổ máu, ít tốn kém nhất. Việc Nhật Pháp bắn nhau tạo một
điều kiện hết sức hoàn hảo cho nhân dân ta giành chính quyền.
Việc Nhật đảo chính Pháp, cộng thêm việc Pháp là tay sai của Nhật trong cuộc chiến
tranh độc chiếm Đông Dương. Ngay tại thời điểm đó, Nhật chưa thể gây dựng cho
mình một bộ máy cai trị ngay lập tức thay thế cho Pháp. Trong bối cảnh đó, quân Pháp
cũng hoang mang xao động. Trên chiến trường, Pháp đang thắng nhưng trong cuộc
chiến tranh tại Đông Dương thì Pháp đang là nước bại trận, điều này gây nên một
khoảng trống lớn về mặt quyền lực chính trị ở Việt nam sau khi Nhật đảo chính Pháp
để độc chiếm Đông Dương. •
Tình thế cách mạng: chúng ta chưa cần đánh gì nhưng đã loại bỏ được 1 kẻ thù
là thực dân Pháp, hai lực lượng này xung đột lẫn nhau, làm cho lực lượng cách
mạng của họ trở nên suy yếu. Nhưng Đảng ta lại nhận định rằng “thời cơ cách
mạng chưa thật sự chín muồi”, bởi vì Đông Dương là cứ điểm cuối cùng của
phát xít Nhật, bằng mọi cách Nhật đang tìm cách giữ lại cứ điểm này. Nếu như
chúng ta tiến hành cách mạng, tất yếu sẽ dẫn đến thất bại, nhưng hiện vẫn có
những cơ hội tốt cho chúng ta tiến hành tổng khởi nghĩa. Khi mà chúng ta chỉ
có một kẻ thù thôi, chúng ta có thể xem xét nếu như trên chiến trường, nếu phát
xít Nhật đầu hàng trước quân Đồng minh vô điều kiện thì đó là lúc chúng ta có
thể đứng lên giành chính quyền. lOMoAR cPSD| 46090862 •
Xác định kẻ thù: Đảng ta nhanh chóng thay đổi khẩu hiệu là “Đánh đuổi phát
xít Nhật – Pháp” bằng “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đảng ta đã nhìn ra vấn đề
quân Đồng minh đang thắng thế, chúng ta xác định rằng phải làm mất hết chức
năng của Pháp tại Việt Nam. •
Nhiệm vụ trước mắt: Đảng ta xác định mục tiêu trước mắt hiện nay là đánh đuổi Nhật
TẠI SAO NHẬT PHÁP BẮN NHAU LẠI TẠO RA MỘT CUỘC KHỦNG
HOẢNG CHÍNH TRỊ SÂU SẮC
Đảng ta đã nhận định sau khi Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra cuộc
khủng hoảnh chính trị sâu sắc. lOMoAR cPSD| 46090862
PHÂN TÍCH BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG
8 VÀ TẬN DỤNG VÀO HIỆN NAY
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh nghiệm
quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc.
Những kinh nghiệm chính là: •
Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách mạng
nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ
chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức
sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách
rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải
phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể
như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân
nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế
quốc phát xít Nhật Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách
của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết
hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. •
Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu
người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân
chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ
lực này được xây dựng,củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng
khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng. Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết
dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. •
Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít,
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn
trong hàng ngũ ngụyquyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế
quốc phát xít và bọn tay saiphản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. •
Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng lOMoAR cPSD| 46090862
vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng
khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả
các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ
thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập rabộ máy nhà nước của nhân dân.
Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin
và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa
ở nước ta. Trongrất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã
vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm
quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta
không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...).
Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước
làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. •
Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không
ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải
biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta,
kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.
Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng
trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh
hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên
về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và
trong sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên
và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
ANH CHỊ HÃY CHỨNG MINH RẰNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN
TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công vang rội là do Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí
Minh lãnh đạo. Đây là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc nhân dân ở một nước thuộc địa ở khu vực Đông Nam Châu Á. Đây cũng là
thắng lợi đầu tiên của Đảng sau 15 năm ra đời. Thắng lợi đó khẳng định chân lý mà Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Cách mạng Tháng Tám đánh đổ chế độ phong kiến đã suy tàn, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước cách mạng kiểu mới, không phải để cai trị dân mà để phục vụ nhân
dân. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra thời đại mới của lịch sử dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh, lOMoAR cPSD| 46090862
mà nội dung chủ yếu là đất nước độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc, tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó nhân tố hàng đầu là sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo đó trước hết là sự hoạch
định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng. •
Thứ nhất, Đảng đã hoạch định đúng đắn Cương lĩnh và đường lối cách
mạng. Vào những giai đoạn khác nhau, căn cứ vào tình hình biến đổi của thực tiễn,
Đảng ra đã kịp thời điều chỉnh chủ trương, đường lối, nhiệm vụ nhưng vẫn luôn giữ
được sự nhất quán về mục tiêu cũng như phương pháp cách mạng. Đường lối cách
mạng đúng đắn đã dẫn dắt phong trào cách mạng của toàn dân tộc phát triển mạnh mẽ
bảo đảm đi đến thắng lợi. •
Thứ hai, Đảng biết coi trọng phát triển lực lượng, chủ động nắm bắt thời
cơ, dự đoán được tình hình, biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng và quan trọng là
Đảng và Bác Hồ biết tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong nhân dân cả
nước. Ngay từ khi thành lập (1930) đến năm 1945, Đảng ta đã từng bước chuẩn bị lực
lượng, xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân
dân lao động qua các phong trào, cao trào cách mạng sôi nổi rộng khắp cả nước như cao trào 1930-
1931, cao trào 1936-1939 và đặc biệt là cao trào cách mạng trong giai đoạn 1939-1945.
Chỉ với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu đồng bào cả nước
làm nên chiến công có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử mãi mãi ghi công những cán
bộ, đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu của toàn dân. Sự vùng dậy của cả
một dân tộc vì độc lập, tự do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng
cao đẹp của cuộc Cách mạng Tháng Tám. •
Thứ ba, bài học về sự lãnh đạo của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám là
Ðảng đã lựa chọn và kết hợp đúng đắn các hình thức tuyên truyền quần chúng nhân
dân; động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong khắp các cuộc đấu tranh
chính trị rộng khắp; tích cực vận động các tầng lớp trung gian (tiểu tư sản, tư sản dân
tộc, nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ…) đứng về phía cách mạng; tranh thủ tối
đa các lực lượng cách mạng trong nước và quốc tế để tổ chức phương pháp đấu trang thích hợp. •
Thứ tư, Đảng đã dự kiến và chớp đúng thời cơ hành động, nhất là trong
những bước ngoặt lớn của cuộc chiến. Từ đó, tập hợp và đoàn kết rộng rãi lực lượng
của toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, tạo sức mạng tổng hợp của khối đại đoàn
kết toàn dân đứng lên đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, tạo lập nên nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cầm quyền đầy bản lĩnh, độc lập, sáng tạo - một
đảng vì dân - Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã và đang tiếp tục phát
huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, viết tiếp những bản anh hùng ca thực
hiện khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hôi chủ nghĩa “dân ̣
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
TRÌNH BÀY VẤN ĐỀ THỜI CƠ CỦA CMT8-1945 ĐỒNG THỜI LÀM RÕ SỰ lOMoAR cPSD| 46090862
NHẠY BÉN, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC NẮM BẮT VÀ CHỚP
THỜI CƠ ĐỂ TẠO NÊN THẮNG LỢI CỦA CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA
Để có thể tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cả một quãng thời gian dài
vô cùng gian khó của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu
như: Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Trần Đăng Ninh, v. v… cùng các lực
lượng khác như: Công nhân, trí thức, tư sản yêu nước, nông dân, … hoạt động cách mạng
trước đó gần hai chục năm, kể từ đầu năm 1925, khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc mở các lớp
huấn luyện chính trị và thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc).
Tính từ năm 1925 cho đến năm 1945 là 20 năm chuẩn bị. Nhưng khi thời cơ đến, những
chiến sỹ cách mạng tiên phong đã thổi bùng lên tinh thần yêu nước vô cùng mãnh liệt của
toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết rũ khỏi kiếp bùn đen nô lệ, áp bức; đập tan xiềng xích kìm
kẹp, áp bức, bóc lột của phong kiến, thực dân; giành lại độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Mất 20 năm dày công chuẩn bị để thực hành thành công trong 22 ngày. Và sự thành công
ấy chính là do những người lãnh đạo cuộc cách mạng đã chớp được đúng thời cơ và vận dụng đúng thời cơ.
Thời cơ ấy là gì?
Thứ nhất, đó là bắt đầu từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật bị
thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải
gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy
bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, đồng chí Hồ Chí Minh và Ban Thường
vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang
trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, đang trong lúc Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
để nhận định tình hình, phân công nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa vụ trang, thì tiếp tục nhận
được thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân
Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi
nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1”. Đến 23 giờ đêm cùng ngày, bản
“Quân lệnh số 1” hoàn thành và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của
Nhật Bản, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào. Hội
nghị đã nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí
Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển
biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận
sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp
thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự
sụp đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế
lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách
mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
“Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt lOMoAR cPSD| 46090862
Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không
tuyên bố độc lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính
quyền cũng phải bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau
khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước chính là nhằm
ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản
động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh.
Tóm lại, Cách mạng Tháng Tám và Lễ Độc lập chỉ có thể thực hiện thành công trong
khoảng thời gian 22 ngày ấy. Nếu Tổng khởi nghĩa diễn ra trước ngày 12/8/1945 sẽ không
được vì khi ấy phát xít Nhật vẫn còn khá mạnh, chưa chịu ngừng bắn và đầu hàng quân Đồng
minh. Còn nếu Lễ Độc lập tuyên bố và khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa diễn ra muộn hơn sau ngày 2/9/1945 cũng không được vì khi ấy quân Anh và quân
Tưởng đã vào nước ta giải giáp, tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật.
TẠI SAO NÓI TRONG CHỈ THỊ KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC, ĐẢNG LẠI
CHO RẰNG THỰC DÂN PHÁP LÀ ĐỐI THỦ CHỦ YẾU LÚC BẤY GIỜ CỦA TA
- Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành trung ương Đảng đưa ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”,
vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Về mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng,
khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc là trên hết, Tổ quốc là trên hết”, nhưng không phải giành độc
lập mà là giữ vững độc lập.
+ Xác định kẻ thù: Chưa bao giờ cùng một lúc mà cách mạng Việt Nam phải đối phó với
nhiều kẻ thù như lúc này: 6 kẻ thù
.) Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 Đà Nẵng trở ra): Gần 20 vạn quân Tưởng lũ lượt vào miền Bắc.
Sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu chính quyền cách mạng,
đưa bọn tay sai lập chính quyền bù nhìn và thực hiện chính sách cứơp bóc nhân dân Việt
Nam. Quân Tưởng vào Việt nam với mục đích cao nhất là về kinh tế, chúng thực hiện vơ vét
bóc lột của cải của nhân dân. Chúng cho rằng ở trên đất nước ta được ngày nào hay ngày đó,
vì chúng có thể phải trở về bất kì lúc nào nếu cục diện chiến tranh giữa quân đội của Mao
Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch có sự chuyển biến nghiên về phía kia.
.) Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào): Trên một vạn quân Anh cũng mượn tiếng là vào tước
vũ khí của Nhật, nhưng kỳ thực là chúng mở đường cho thực dân Pháp cướp lại nước ta. Ngày
23/9/1945 dưới sự yểm trở của 2 sư đoàn thiết giáp Anh, Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn,
chính thức xâm lược nước ta lần thứ 2.
.) Trên đất nước ta lúc này có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải giáp. Nhật là nước
vừa bại trận tại cuộc chiến tranh TGT2
.) Quân Mỹ đứng sau giật dây cho Tưởng, đặt Đông Dương trong chế độ chính trị. Mỹ thực
hiện chấp nhận cho Pháp vào đánh chiếm Việt Nam lOMoAR cPSD| 46090862
.) Kiến quốc Việt cách: những phần tử phản động, đưa ra mục tiêu Diệt Cộng, Cầm Hồ, những
phần tử này chỉ gây ra sự khó khăn tại những nơi mà lực lượng ta còn non yếu, không phải là
kẻ thù chính của cả dân tộc Việt nam.
=> Xác định kẻ thù: Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Ban chấp hành
trung ương nêu rõ: Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy phải lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất
mặt trận Việt Minh Lào chống Pháp xâm lược; kiên quyết giành độc lập tự do hạnh phúc dân tộc,…
SÁCH LƯỢC HÒA HOÃN VỚI QUÂN TƯỞNG VÀ QUÂN PHÁP?
Tại sao ta phải hòa với Pháp? Ý nghĩa của việc hòa hoãn với Pháp?
Ngày 28 – 2 – 1946, Pháp và Tưởng kí Hiệp ước Trùng Khánh, thỏa thuận mua bán
quyền lợi với nhau. Tưởng đã đồng ý cho Pháp kéo quân ra miền Bắc Việt Nam thay thế quân
Tưởng để tước khí giới của quân đội phát xít. Việc làm này nhằm hợp pháp hóa việc Pháp
quay trở lại Đông Dương lần thứ 2.
Hiệp ước đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn: hoặc là cầm vũ khí kháng chiến
chống Pháp; hoặc là hòa hoãn với Pháp để đuổi Tưởng và tranh thủ thời gian củng cố lực lượng.
Đứng trước thời khắc gay go, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch sử,
sáng suốt “Hòa để tiến”. Ngày 6/3/1946, ta kí với Pháp “Hiệp định sơ bộ”, hòa hoãn với Pháp.
Ta phải hòa với Pháp vì:
+ So sánh lực lượng không cân sức, đằng sau Pháp có cả phe đồng minh và nhất là
quân Mỹ. Kinh tế còn kém phát triển, chính trị chưa ổn định. Sau năm 1945 ta vẫn trong vòng
vây phong tỏa của các nước đế quốc, chưa nước nào đặt quan hệ ngoại giao với ta. Hòa với
Pháp thì ta tránh được tình thế bất lợi: phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù trong lúc
lực lượng của ta còn non yếu.
+ Hòa với Pháp để dùng bàn tay của Pháp đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc.
Khi có hiệp định pháp lý cho Pháp ra thì Tưởng không còn lý do gì ở lại và đồng thời lực
lượng phản động Việt quốc Việt cách cũng phải về theo. Ta vừa loại bỏ được ngoại xâm và nội phản.
+ Việc nhân nhượng với Pháp, buộc chúng phải công nhận Việt Nam là quốc gia độc
lập, tự do, có Chính phủ tự chủ, có nghị viện, quân đội, tài chính riêng,... làm cơ sở pháp lý để
ta tiếp tục đấu tranh với Pháp.
+ Ta có thêm thời gian hòa hoãn cần thiết để tiếp tục xây dựng lực lượng, củng cố
chính quyền, chuẩn bị chu đáo mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài về sau.
+ Để tỏ thiện chí hòa bình, đáp ứng mong muốn của nhân dân Pháp và nhân dân thế
giới ưa chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh xảy ra, do đó ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ.
Việc hòa Pháp là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh ta vừa giành được chính
quyền, lực lượng còn non trẻ, công tác chuẩn bị còn yếu, ta cần thời gian để xây dựng, củng lOMoAR cPSD| 46090862
cố mọi mặt cho cuộc kháng chiến tất yếu sau này. Nó thể hiện sự sáng suốt của Đảng và chủ
tịch HCM trong việc nhân nhượng nhưng có nguyên tắc.
Ý nghĩa của việc hòa hoãn với Pháp:
Mặc dù thực dân Pháp bội ước nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh việc ký Hiệp định
sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 là một chủ trương sách lược đúng đắn của Đảng, Chính phủ và
chủ tịch HCM. Đó là một mẫu mực tuyệt vời về việc lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ
thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc. Nhờ đó chúng ta đã loại trừ được một kẻ thù nguy hiểm
là quân đội Tưởng. Tranh thủ thời gian hòa hoãn Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tích cực đẩy
mạnh sản xuất ổn định đời sống, tích trữ lương thực phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng
các chiến khu, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc chính quyền nhân dân,
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân pháp, đồng thời làm cho dư
luận quốc tế chú ý ủng hộ nguyện vọng hòa bình, tự do của dân tộc VN.
Thực tiễn lịch sử của thời kỳ này đã đem lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý báu:
¢ Thứ nhất, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù Đảng rút vào hoạt động bí mật,
nhưng vẫn không ngừng củng cố và phát triển. Trong điều kiện có nhiều đảng phái tham gia
chính quyền, Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo nhà nước một cách khéo léo. Vai trò lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm việc giữ vững bản chất cách mạng của chính quyền nhân dân.
¢ Thứ hai, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, dựa vào dân. Phát huy độ sức mạnh của
nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chính quyền. Chính quyền được xây dựng sau
Cách mạng Tháng Tám thực sự của dân, do dân và vì dân. Chính phủ đã thực hiện những
chính sách thiết thực như: bầu cử dân chủ, chính sách ruộng đất, xoá nạn mù chữ... để nhân
dân có thể hưởng những quyền lợi do chế độ mới đem lại, từ đó ủng hộ, tin tưởng tuyệt đối
vào chính quyền, vào Đảng.
¢ Thứ ba, lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào
kẻ thù chính, nguy hiểm nhất. Giai đoạn này, chúng ta đã lợi dụng mâu thuẫn (Anh - Pháp,
Mỹ -Tưởng, mâu thuẫn giữa các nhóm trong chính quyền và quân đội Tưởng, mâu thuẫn
trong nội bộ thực dân Pháp) để phân hoá, làm suy yếu các kẻ thù, tranh thủ xây dựng lực
lượng và bảo vệ được chính quyền nhân dân.
Phân tích cơ sở của chủ trương hòa với Tưởng. - Cơ sở lý luận :
Áp dụng chủ trương của Lênin về hòa hoãn sau CMT10 khi nước Nga có thù trong
giặc ngoài thì Nga đã kí hoàn hoãn với 14 nước đế quốc bên ngoài để tập trung lực lượng
chống phản động trong nước. Năm 1920, Nga đã thành công chống thù trong giặc ngoại =>
Lênin kết luận : Trong tình thế đối đầu với nhiều kẻ thù thì phải thực hiện hòa hoãn và chọn
hòa với kẻ thù ít nguy hiểm trước. Để có lợi cho cách mạng thì dù có phải hòa với kẻ cướp ta cũng phải hòa.
- Cơ sở thực tiễn:
+ So sánh lực lượng lúc này không cho phép ta đối phó với cả Tưởng và Pháp. Hơn
nữa, Tưởng trong phe Đồng minh đến tước vũ khí của phát xít Nhật nên ta không được phép
đánh Tưởng. Tránh nguy cơ đối đầu với nhiều kẻ thù, Đảng ta chủ trương hòa với Tưởng, kiên
trì thực hiện nguyên tắc “thêm bạn bớt thù”.