Đề cương Pháp luật đại cương | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Hình thức nhà nước được hình thành từ các yếu tố nào? Hãy làm rõ các yếu tố đó. Kiểu nhà nước là gì? Nêu đặc trưng của các kiểu nhà nước và sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử. Nhà nước là gì? Trình bày bản chất và đặc trưng của nhà nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
46 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương Pháp luật đại cương | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Hình thức nhà nước được hình thành từ các yếu tố nào? Hãy làm rõ các yếu tố đó. Kiểu nhà nước là gì? Nêu đặc trưng của các kiểu nhà nước và sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử. Nhà nước là gì? Trình bày bản chất và đặc trưng của nhà nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

24 12 lượt tải Tải xuống
CHƯƠNG 1
1. Hình thức nhà nước được hình thành từ các yếu tố nào? Hãy làm rõ các yếu tố đó.
Hình thức nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản phản ánh cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước của mỗi kiểu nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Hình thức nhà nước được hình thành từ ba yếu tố: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà
nước và chế độ chính trị.
- : Đây là cách tổ chức, cơ cấu, trình tự thành lập các cơ quan nhà nước cao Hình thức chính thể
nhất và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân dân về việc thiết lập
các cơ quan này.
+ : Là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung Chính thể quân chủ (Vua)
toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước (vua, hoàng đế, ...) theo nguyên tắc
thừa kế.
Chính thể quân chủ lại được chia thành (người đứng đầu như vua, chính thể quân chủ tuyệt đối
hoàng đế, ... có quyền lực vô hạn) và (người đứng đầu nhà nước chỉ chính thể quân chủ hạn chế
nắm 1 phần quyền lực tối cao và bên cạnh đó còn có 1 cơ quan quyền lực khác nữa).
+ : Là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc vào một cơ Chính thể cộng hòa
quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
Chính thể cộng hòa cũng có hai hình thức chính là ( PL quy định quyền của cộng hòa dân chủ
công dân tham gia để bầu cử thành lập các cơ quan đại diện (quyền lực) của nhà nước ) và cộng
hòa quý tộc ( (dưới chế độ nô lệ) Quyền tham gia bầu cử chỉ dành riêng cho giới quý tộc và
quyền đó đc quy định cụ thể trong luật pháp ).
Hiện nay trong nhà nước tư sản, chính thể cộng hòa có 2 biến dạng chính là cộng hòa tổng thống
(Vai trò của nguyên thủ quốc gia rất quan trọng. Tổng thống đc cử tri bầu ra, vừa là nguyên thủ
quốc gia, vừa đúng đầu Chính phủ. Hình thức này tồn tại ở Mỹ và 1 số nước Mỹ La tinh) và
cộng hòa đại nghị (Được đặc trưng bởi việc nghị viện thành lập ra chính phủ và khả năng của
nghị viện kiểm tra hoạt động của chính phủ. Tổng thống do nghị viện bầu ra và có vai trò không
lớn. Hình thức này đc áp dụng ở Đức, Áo, Phần Lan, Italia, ...)
- : Đây là sự tổ chức nhà nước theo các đơn vị hành chính lãnh thổ Hình thức cấu trúc nhà nước
và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương.
+ Là nhà nước có chủ quyền chung, các bộ phận hợp thành nhà Hình thức nhà nước đơn nhất:
nước là các đơn vị hành chính - lãnh thổ không có chủ quyền quốc gia, đồng thời có hệ thống cơ
quan nhà nước thống nhất từ trung ương xuống địa phương, trong nước chỉ có một hệ thống pháp
luật.
+ Là nhà nước có hai hay nhiều nước thành viên hợp lại. Nhà Hình thức nhà nước liên bang:
nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý: Một hệ thống chung cho toàn liên
bang và một hệ thống trong mỗi nước thành viên. Nhà nước liên bang có hai hệ thống pháp luật
của bang và của liên bang. Công dân của nhà nước liên bang mang hai quốc tịch. Các nhà nước
liên bang như: Mỹ, Nga, Đức, Ấn Độ, ...)
- Là tổng thể các phương pháp, cách thức mà các cơ quan nhà nước sử dụng đểChế độ chính trị:
thực hiện quyền lực nhà nước. Nội dung chủ đạo trong khái niệm chế độ chính trị là phương
pháp cai trị và quản lý xã hội của giai cấp cầm quyền. PP thực hiện quyền lực nhà nước của các
nhà nước trong lịch sử rất đa dạng, nhưng tựu chung lại gồm hai phương pháp chính:
+ Có nhiều loại, thể hiện dưới các hình thức khác nhau như dân chủ thực Phương pháp dân chủ:
sự và dân chủ giả hiệu, dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián
tiếp.
+ Thể hiện tính độc tài, đáng chú ý nhất là khi phươngPhương pháp phản dân chủ (Tính độc tài):
pháp cai trị và quản lý xã hội này phát triển đến mức độ cao sẽ trở thành những phương pháp tàn
bạo, quân phiệt và phát xít.
2. Kiểu nhà nước là gì? Nêu đặc trưng của các kiểu nhà nước và sự thay thế các kiểu nhà
nước trong lịch sử. (tr22)
Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ bản của nhà nước - thể hiện bản chất giai cấp, vai
trò xã hội và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã
hội có giai cấp nhất định.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã hội: Chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với bốn kiểu quan hệ sản xuất ấy là bốn kiểu
nhà nước:
- Kiểu nhà nước chủ nô.
- Kiểu nhà nước phong kiến.
- Kiểu nhà nước tư sản.
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản có chung bản chất vì đều được xây dựng trên cơ sở
tư hữu về tư liệu sản xuất, đều là những công cụ bạo lực, bộ máy chuyên chính của các giai cấp
bóc lột chống lại nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước tiến bộ nhất và
cuối cùng trong lịch sử nhân loại có bản chất khác hẳn ba kiểu nhà nước trước đó vì được xây
dựng trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ thân thiện giữa những người lao động,
do nhân dân thiết lập và hoạt động vì nhân dân.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu.
Quy luật về sự thay thế các kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của
các hình thái kinh tế - xã hội. Một kiểu nhà nước mới xuất hiện trong quá trình cách mạng khi
giai cấp cầm quyền cũ bị lật đổ và giai cấp thống trị mới giành được chính quyền. Các cuộc cách
mạng khác nhau diễn ra trong lịch sử đều tuân theo quy luật đó:
- Nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô.
- Nhà nước tư sản thay thế nhà nước phong kiến.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nước tư sản.
Tuy nhiên, quá trình thay thế kiểu nhà nước trong các xã hội khác nhau diễn ra không giống
nhau và trên thực tế không phải xã hội nào cũng đều trải qua tuần tự bốn kiểu nhà nước trên.
3. Nhà nước là gì? Trình bày bản chất và đặc trưng của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được”. Vì vậy, nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có
giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Cho nên nhà nước trước hết là bộ
máy cưỡng chế đặc biệt trong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất duy trì sự thống trị
giai cấp.
Bản chất: Tính giai cấp và tính xã hội.
: - Nhà nước ra đời khi xã hội có giai cấp. Tính giai cấp
- Quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị. Sự thống trị giai cấp xét về
nội dung được thể hiện ở ba mặt: Kinh tế, chính trị, tư tưởng.
- Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp thống trị
- Nhà nước bảo vệ lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị là chủ yếu.
Tính xã hội: - Nhà nước ghi nhận và bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác ở một chừng
mực nhất định.
- Nhà nước sẽ quan tâm, giải quyết những công việc vì lợi ích chung của toàn xã
hội.
Song, nhà nước không chỉ có tính giai cấp mà còn có vai trò xã hội, bởi lẽ nhà nước được sinh ra
không chỉ do nhu cầu thống trị giai cấp mà còn do nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội. Một nhà
nước sẽ không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi
ích, nguyện vọng và ý chí của các giai tầng khác trong xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước phải bảo
đảm các giá trị xã hội đã đạt được, bảo đảm xã hội trật tự, ổn định và phát triển, thực hiện chức
năng này hay chức năng khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Điều đó nói lên rằng nhà nước là
một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa mang giá trị xã hội.
=> Mức độ và biểu hiện của tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước ở các kiểu nhà nước khác
nhau, không giống nhau.
=> : Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên KN nhà nước
làm nhiệm vụ cưởng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì, bảo vệ trật tự xã hội,
bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
So với tổ chức của xã hội thị tộc – bộ lạc và với các tổ chức chính trị - xã hội khác mà giai cấp
thống trị thiết lập và sử dụng để quản lý xã hội, thì nhà nước có một số dấu hiệu đặc trưng sau
đây:
- Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hòa nhập với dân cư.
- Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và thực hiện sự quản lý đối với dân
cư theo các đơn vị ấy chứ không tập hợp dân cư theo chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc
giới tính.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân.
- Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
4. Phân biệt nhà nước với các tổ chức khác nhà nước.
Tiêu chí Nhà nước Các tổ chức khác nhà
nước
Về quyền
lực
- Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội
Nhà nước là tổ chức quyền lực chung của toàn xã hội,
quyền lực của nhà nước có tác động bao trùm lên toàn
xã hội, tới mọi tổ chức, cá nhân, mọi khu vực lãnh thổ
quốc gia và các lĩnh vực cơ bản của đời sống: kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục... Mọi cá nhân và tổ chức
đang sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia đều phải phục tùng quyền lực và ý chí của nhà
nước. Do đó, nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và
phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc gia.
- Nhà nước có một lớp người tách ra khỏi lao động sản
xuất để chuyên thực thi quyền lực nhà nước, họ tham
gia vào bộ máy nhà nước để làm hình thành nên một hệ
thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa
phương, trong đó có các cơ quan bạo lực, cưỡng chế
như quân đội, cảnh sát, tòa án... Nhờ có quyền lực và
bộ máy chuyên thực thi quyền lực đó mà nhà nước có
thể điều hành và quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật
tự xã hội, phục vụ và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã
hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
- Các tổ chức xã hội
khác cũng có quyền lực
chung song quyền lực đó
chỉ có tác động tới các
hội viên trong tổ chức đó
và không một tổ chức
nào có bộ máy riêng để
chuyên thực thi quyền
lực như nhà nước. Cơ sở
xã hội và phạm vi tác
động của các tổ chức xã
hội khác đều hẹp hơn
nhà nước, chỉ tới một bộ
phận của dân cư.
Về quản lý
dân cư/
thành viên
- Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ
Nhà nước luôn lấy việc quản lý dân cư theo lãnh thổ
làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết
thống, dân tộc, giới tính... cứ sống trên một khu vực
lãnh thổ nhất định thì chịu sự quản lý của một nhà nước
nhất định và do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ
đối với nhà nước ở nơi mà họ cư trú. Nhà nước thực
hiện việc quản lý dân cư trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia của mình cũng theo địa bàn cư trú của họ hay theo
các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Nó phân chia lãnh thổ
thành các đơn vị hành chính và quản lý dân cư theo các
đơn vị đó.
- Các tổ chức xã hội
khác thường tập hợp và
quản lý dân cư theo mục
đích, chính kiến, lý
tưởng, nghề nghiệp, độ
tuổi hoặc giới tính...
Về tham
gia đối
nội, đối
ngoại
- Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là khái niệm chỉ quyền quyết định
tối cao của quốc gia trong quan hệ đối nội và quyền độc
lập tự quyết trong quan hệ đối ngoại. Nhà nước là đại
diện chính thức cho toàn quốc gia, dân tộc trong các
quan hệ đối nội và đối ngoại. Trong quan hệ đối nội,
quy định của nhà nước có giá trị bắt buộc phải tôn
trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có
liên quan; nhà nước có thể cho phép các tổ chức xã hội
khác được thành lập và hoạt động hoặc nhà nước công
nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp của các tổ chức
xã hội khác. Trong quan hệ đối ngoại, nhà nước có toàn
quyền xác định và thực hiện các đường lối, chính sách
đối ngoại của mình.
- Các tổ chức xã hội
khác chỉ được thành lập,
tồn tại và hoạt động một
cách hợp pháp khi được
nhà nước cho phép hoặc
công nhận, đồng thời chỉ
có thể nhân danh chính
tổ chức đó khi tham gia
vào các quan hệ đối nội,
đối ngoại và chỉ dược
tham gia vào quan hệ đối
ngoại nào mà nhà nước
cho phép.
- Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm - Các tổ chức xã hội
Về ban
hành văn
bản pháp
công cụ quản lý xã hội.
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung có giá
trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ
chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia. Nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện bằng nhiều biện pháp: tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục, thuyết phục, tổ chức thực hiện, động viên, khen
thưởng, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Nhà nước sử dụng pháp luật đế quản lý xã hội, điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước
và pháp luật là một trong những công cụ quản lý có
hiệu quả nhất của nhà nước.
khác chỉ có quyền ban
hành các quy định dưới
dạng điều lệ, chỉ thị,
nghị quyết có giá trị bắt
buộc phải tôn trọng và
thực hiện với các hội
viên trong tổ chức; đồng
thời bảo đảm cho các
quy định đó được thực
hiện bằng sự tự giác của
các hội viên và bằng các
hình thức kỷ luật của tổ
chức.
Về thu
thuế, phí
- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc
phải nộp cho nhà nước theo quy định của pháp luật.
Nhà nước là một bộ máy được tách ra khỏi lao động
sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản
lý xã hội nên nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn của cải
do dân cư đóng góp, không có thuế bộ máy nhà nước
không thể tồn tại được và thuế luôn là quốc sách của
mọi nhà nước. Thuế còn là nguồn của cải quan trọng
phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống.
Ngoài thuế, nhà nước còn có quyền phát hành tiền,
công trái, vì thế, nhà nước có lực lượng vật chất to lớn,
không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của nó,
những hoạt động cơ bản của xã hội, mà còn có thể hỗ
trợ một phần kinh phí hoạt động cho một số tổ chức
khác.
- Các tổ chức xã hội
khác hoạt động trên cơ
sở nguồn kinh phí do các
hội viên đóng góp.
5. Phân tích bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (tr33 – 5
bản chất)
Ở góc độ chung nhất, bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thể thống
nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội.
Theo Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ...
Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được cụ thể bằng những đặc trưng sau đây:
- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và thực hiện nó bằng nhiều hình
thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra cơ quan đại diện
quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của nhà nước”. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà
nước thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc trực
tiếp thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của mình với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ...
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi.
Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể nhận
thấy rõ trong quá trình hình thành và phát triển của một chế độ dân chủ mới. Các hình thức Quốc
dân đại hội để bầu ra Chính phủ lâm thời tổng tuyển cử để bầu ra đại biểu Quốc hội và Chủ tịch
nước những năm đầu tiên sau khi CMT8 thành công; sự ghi nhận chính thức trong các bản Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 về xác định quyền lực tối cao thuộc về nhân dân đã
khẳng định rõ mục tiêu những bước phát triển của chế độ dân chủ nước ta.
Bản chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và xã hội.
- Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Chính sách đại đoàn kết dân tộc của nước ta thể hiện dưới 4 hình thức cơ bản:
+ Một là, nhà nước đã xây dựng cơ sở pháp lý vững vàng trong việc thiết lập và củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện cho mỗi dân tộc đều có thể tham gia vào việc thiết lập, củng cố và
phát huy sức mạnh của nhà nước.
+ Hai là, tất cả các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận, Công đoàn, Đoàn thanh niên, ... đều coi
việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thống nhất là mục tiêu chung, là nguyên tắc hoạt động của tổ chức mình.
+ Ba là, bên cạnh việc thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, nhà nước luôn chú trọng việc ưu
tiên đối với dân tộc thiểu st, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các dân tộc tương trợ
giúp đở lẫn nhau, cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở hòa hợp, đoàn kết vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Bốn là, chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, tôn trọng các
giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng nền văn hóa của nhà nước Việt
Nam với đầy đủ bản sắc, phong phú, đa dạng mà vẫn đảm bảo sự nhất quán và thống nhất.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng rãi.
Với mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo, bảo đảm công bằng xã hội, nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quan tâm đặc biệt và toàn diện tới việc giải quyết các
vấn đề xã hội như: Xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, đầu tư cho việc phòng chống thiên
tai, giải quyết các vấn đề bức xúc như xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải
quyết việc làm, chống thất nghiệp, giúp đở người già cô đơn, trẻ mồ côi, phòng, chống tệ nạn xã
hội.
- Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác, hữu nghị.
Chính sách đường lối và cụ thể là các hoạt động đối ngoại của nhà nước ta thể hiện khát vọng
hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia. Phương châm: Việt Nam sẳn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và
phát triển, thể hiện một đường lối đối ngoại cởi mở của Nhà nước ta. Điều 12 Hiến pháp năm
2013 đã khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế ...”.
6. Phân tích nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ( 5 nguyên tắc – Tr49 )
Bộ máy nhà nước Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được
tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ
đạo đúng đắn, khách quan và khoa học phù hợp với bản chất của nhà nước, tạo cơ sở cho tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước. Ở nước ta, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp, đạo luật cao nhất của nhà nước
bao gồm những nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân:
Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước chủ nghĩa quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân.
Thứ nhất, bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức bộ máy nhà
nước.
Thứ hai, vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo
vào việc quản lý công việc và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Thứ ba, nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước.
- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước:
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định phương hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước là nguyên tắc hiến định. Điều 4 Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam ... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội”. Đảng đề ra đường lối chính trị, những chủ trương, phương hướng lớn, quyết định những
vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước.
Để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo đối với nhà nước, các đảng viên phải thể hiện vai trò tiên
phong, gương mẫu, đặc biệt, thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên làm việc trong bộ máy
nhà nước. Đảng phải thường xuyên củng cố, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật ... thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện trên ba mặt chủ yếu là: Tổ chức bộ
máy, cơ chế hoạt động, chế độ thông tin và báo cáo, kiểm tra, xử lý các vấn đề trong quá trình tổ
chức và thực hiện quyền nhà nước.
Về mặt tổ chức, nguyên tắc này thể hiện ở chế độ bầu cử, cơ cấu bộ máy, chế độ công vụ.
Về mặt hoạt động, các cơ quan nhà nước ở trung ương có quyền quyết định các vấn đề cơ bản,
quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại trên phạm vi toàn
quốc.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần
chú trọng xây dựng và thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo kiểm tra và xử lý các vấn đề kịp
thời, đúng đắn, khách quan và khoa học.
- Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc:
Đối với Đảng, nhà nước và nhân dân ta, đại đoàn kết dân tộc là một chính sách lớn và được
khẳng định trong điều 5 Hiến pháp năm 2013:
“1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi
hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản
sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số
phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Nguyên tắc pháp chế được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật ...”.
Để thực hiện chủ trương củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải đẩy mạnh
hơn nữa công tác xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức
hoạt động của bộ máy nhà nước, tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật, đồng thời phải tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
- Ngoài 5 nguyên tắc trên trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có
những nguyên tắc khác như: Nguyên tắc tổ chức lao động khoa học, nguyên tắc bảo đảm tính
kinh tế, nguyên tắc công khai khoá, ... chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu để áp dụng cho từng
loại cơ quan trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
7. Thế nào là bộ máy nhà nước? Trình bày các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước ở
Việt Nam hiện nay? (tr43 – 6 cơ quan)
Trong sách báo pháp lí Việt Nam hiện nay, có khá nhiều định nghĩa bộ máy nhà nước. Dưới góc
độ pháp lí có thể hiểu, bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa
phương, được tố chức và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước.
Bộ máy nhà nước Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được
tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Cơ quan nhà nước là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước. Đó là tổ chức có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ, có thẩm quyền và được thành lập theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước
thực hiện nhiệm vụ và chức năng nhà nước bằng những hình thức và phương pháp đặc thù.
- Các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại diện) bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp.
Do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để thể hiện và thực thi quyền lực, phải chịu
trách nhiệm và báo cáo trước nhân dân cử tri về mọi hoạt động của mình.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất;
đây là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề trọng đại nhất
của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao của toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước.
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
- Chủ tịch nước.
Là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc
hội bầu trong số đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Chủ tịch nước
được trao nhiều quyền hạn trong cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp; là người giữ
quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng
và an ninh. Chủ tịch nước xét trên nhiều phương diện là cơ quan có vị trí đặc biệt, giữ vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
- Các cơ quan hành chính nhà nước.
Được gọi là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Ở nước ta hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước gồm có: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính
phủ và UBND các cấp.
Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, là cơ quan có
thẩm quyền chung, thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của nhà nước.
Các bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương, là cơ quan có thẩm
quyền chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành (NN, công nghiệp, ...)
hoặc lĩnh vực (kế họahc, tài chính, ...)
UBND nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, là cơ quan hành chính
có thẩm quyền chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương.
UBND được tổ chức theo ba cấp: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. UBND các cấp được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc trực thuộc hai chiều – trực thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà
nước cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Các cơ quan xét xử.
Là loại cơ quan có chức năng đặc thù của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, hệ
thống cơ quan xét xử gồm có Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, các Tòa án nhân
dân địa phương, các Toà án quân sự và các Tòa án khác do luật định. Khi xét xử có Hội thẩm
tham gia và Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Trong hoạt động xét xử, Tòa án phải dựa theo
nguyên tắc: Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử công khai, xét xử
tập thể và quyết định theo đa số, đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, bảo đảm cho công dân các
dân tộc cùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, bảo đảm quyền giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước đối với hoạt động xét xử.
- Các cơ quan kiểm sát.
Đây là hệ thống cơ quan không chỉ để thực hiện quyền công tố mà còn để kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan, tổ chức và của công dân trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ở nước ta hệ thống cơ quan kiểm soát
gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các Viện kiểm sát nhân
dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự.
- Hội đồng bầu cử và Kiểm toán nhà nước.
Đây là hai thiết chế lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu
Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng
bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các ủy viên.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Tổng kiểm toán nhà nước
là người đứng đầu kiểm toán nhà nước do Quốc hội bầu; chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả
kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách
nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Khác với Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan đầu tiên được quy định trong Hiến pháp, Kiểm
toán nhà nước đã được thành lập theo Nghị định số 70/1994/NĐ-CP ngày 11/7/1994 của Chính
phủ, nay chính thức được hiến định trong Hiến pháp năm 2013.
8. Trình bày bản chất của nhà nước và liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được”. Vì vậy, nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có
giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Cho nên nhà nước trước hết là bộ
máy cưỡng chế đặc biệt biệttrong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất duy trì sự
thống trị giai cấp.
Bản chất: Tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp: - Nhà nước ra đời khi xã hội có giai cấp.
- Quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị. Sự thống trị giai cấp xét về
nội dung được thể hiện ở ba mặt: Kinh tế, chính trị, tư tưởng.
- Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp thống trị
- Nhà nước bảo vệ lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị là chủ yếu.
Tính xã hội: - Nhà nước ghi nhận và bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác ở một chừng
mực nhất định.
- Nhà nước sẽ quan tâm, giải quyết những công việc vì lợi ích chung của toàn xã
hội.
Song, nhà nước không chỉ có tính giai cấp mà còn có vai trò xã hội, bởi lẽ nhà nước được sinh ra
không chỉ do nhu cầu thống trị giai cấp mà còn do nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội. Một nhà
nước sẽ không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi
ích, nguyện vọng và ý chí của các giai tầng khác trong xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước phải bảo
đảm các giá trị xã hội đã đạt được, bảo đảm xã hội trật tự, ổn định và phát triển, thực hiện chức
năng này hay chức năng khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Điều đó nói lên rằng nhà nước là
một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa mang giá trị xã hội.
=> Mức độ và biểu hiện của tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước ở các kiểu nhà nước khác
nhau, không giống nhau.
=> KN nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưởng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì, bảo vệ trật tự xã hội,
bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay: Tương tự như những Nhà nước khác, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng tồn tại bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
Bản chất giai cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện rõ nét
trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cụ thể: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và giới trí
thức”.
- Nhân dân là chủ thể tối cao của Nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do dân mà nòng cốt là liên minh
công – nông – trí thức. Quyền lực của Nhà nước Việt Nam không phụ thuộc vào bất kỳ một tổ
chức hay cá nhân nào mà thuộc về toàn thể nhân dân. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền
lực của mình thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như
trực tiếp trình bày hoặc đưa ra ý kiến, kiến nghị của mình đối với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của các dân tộc trên lãnh thổ Việt
Nam
Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống suốt dọc chiều dài của đất nước.
Các dân tộc anh em đoàn kết một lòng, đó là truyền thống lâu dài, là nguồn sức mạnh to lớn của
đất nước mỗi khi có ngoại xâm. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại càng được thể hiện rõ nét, giúp đỡ,
hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày và trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc bình
đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
Thực vậy, công dân có đầy đủ các quyền trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước. Công
dân có quyền tự do, dân chủ trong việc quyết định những vấn đề sống còn của đất nước. Tuy
nhiên, song song với quyền lợi thì công dân cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà
nước. Đó là mối quan hệ được xác lập trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của nhau.
- Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế - xã hội
Về chính trị, nhà nước tạo ra cơ sở pháp lý, cụ thể là pháp luật để đảm bảo quyền tự do, dân chủ
của công dân.
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Nền kinh tế thị trường
là phương tiện để Nhà nước và xã hội thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Đối với vấn đề văn hóa – xã hội, Nhà nước chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội như bệnh tật,
giáo dục, thiên tai, tệ nạn xã hội, nghèo đói… Nhà nước cũng kiên quyết trừng trị các hành vi
phá hoại, xâm hại đến an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các
hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, giao lưu và hợp tác với tất cả các
nước trên thế giới
Nhà nước mở rộng giao lưu văn hóa, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau trên cơ sở đôi bên cùng có lợi đồng thời ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân trên toàn
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
9. Trình bày các đặc điểm cơ bản của Nhà nước. (tr20) (5 đặc điểm)
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ địa vị
của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
Nhà nước có một số dấu hiệu đặc trưng sau đây:
- Nhà nước thiết lập . Để thực một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hòa nhập với dân cư
hiện quyền lực và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người chỉ chuyên hoặc hầu như chỉ
làm nhiệm vụ quản lý và cưỡng chế. Họ tham gia vào bộ máy nhà nước để hình thành nên một
hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
- Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và thực hiện sự quản lý đối với dân
cư theo các đơn vị ấy chứ không tập hợp dân cư theo chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc
giới tính . Nhà nước thực thi quyền lực chính trị trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ. Mỗi nhà nước có
lãnh thổ riêng, trên lãnh thổ ấy lại phân thành các đơn vị hành chính nhỏ như tỉnh, huyện, ...
- Nhà nước . Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị, pháp lý, nó đã có chủ quyền quốc gia
thể hiện quyền độc lập, tự quyết định những vấn đề đối nội, đối ngoại của mình, không phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngoài.
- Nhà nước . Nhà ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân
nước là tổ chức duy nhất trong xã hội được quyền ban hành pháp luật. Và cũng chính nhà nước
bảo đảm cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống.
- Nhà nước . Bộ máy nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc
bao gồm một bộ phận đặc biệt, tách ra khỏi sản xuất làm công tác quản lý. Bộ phận này sẽ không
thể tồn tại nếu không có nguồn nuôi dưỡng. Đồng thời, việc xây dựng và duy trì các cơ sở vật
chất kỹ thuật cho bộ máy nhà nước cũng rất cần thiết. Thiếu thuế thì bộ máy nhà nước không tồn
tại được. Chỉ có nhà nước mới có quyền đặt ra thuế và thu thuế.
10. Trình bày phương hướng xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thiết lập từ sau Cách mạng tháng
tám năm 1945. Sau hơn nửa thế kỷ, bộ máy nhà nước ta đã được củng cố, phát triển, hoàn thành
nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ và xây dựng chế độ xã hội mới. Tuy nhiên trong tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước ta
còn bộc lộ một số khuyết điểm và yếu kém.
Bộ máy nhà nước cần được cải cách theo những phương hướng chủ yếu sau:
- Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và chính quyền địa phương để làm đúng chức năng
theo luật định.
- Cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất, thông
suốt, có hiệu lực và hiệu quả, đủ năng lực thực thi các nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tiến hành sắp xếp tổ chức phân định rõ
chức năng, thẩm quyền giữa các cấp, thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý ngành và quản lý lãnh
thổ. Tăng cường công tác tổ chức và hoạt động thanh ta; kiện toàn tổ chức chính quyền địa
phương, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành
công việc trong bộ máy nhà nước. Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng một nền hành chính nhà
nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa”.
- Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân, bảo đảm các điều kiện của phương tiện cần
thiết để các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện đúng chức năng và quyền hạn của mình.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm giữ
vững bản chất của nhà nước, bảo đảm quyền lực nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy
nhà nước bảo đảm chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy trách nhiệm, tính
chủ động và hiệu lực cao trong quản lý, điều hành bộ máy nhà nước.
- Tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xử lý
nghiêm minh những người có hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời tăng cường công tác xây
dựng pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật và củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà nước.
11. Trình bày quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế -
xã hội đầu tiên của xã hội loài người, trong đó không tồn tại giai cấp và nhà nước chưa xuất hiện.
Nhưng chính từ những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước lại bắt nguồn từ xã hội đó. Vì vậy,
việc nghiên cứu về xã hội cộng sản nguyên thủy sẽ là cơ sở để giải thích nguyên nhân làm xuất
hiện nhà nước.
* Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc bộ lạc
- Cơ sở kinh tế: + Sở hữu chung về TLSX và sản phẩm lao động.
+ Phân phối sản phẩm lao động theo nguyên tắc bình quân.
+ Phân công lao động mang tính tự nhiên.
- Cơ sở xã hội: + Tổ chức xã hội giản đơn. Thị tộc là tế bào, cấu thành xã hội.
+ Đã xuất hiện nhu cầu quản lý.
* Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước:
- Cơ sở kinh tế + Cơ sở xã hội => Nhà nước ra đời.
* Hai nguyên nhân khiến nhà nước ra đời:
- : LLSX phát triển:Cơ sở kinh tế (Xã hội tư hữu)
+ Con người nâng cao thể lực, trí lực, kinh nghiệm lao động.
+ Công cụ lao động cải tiến.
+ Phân công lao động xuất hiện: Lần 1 (Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt) / Lần 2 (Thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp) / Lần 3 (Thương nghiệp xuất hiện).
+ Năng suất lao động tăng => Dư thừa => TƯ HỮU
- Cơ sở xã hội (Xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn giai cấp):
+ Hoạt động sản xuất phát triển: Không đòi hỏi phải lao động tập thể. Gia đình hình thành trở
thành đơn vị sản xuất độc lập.
+ Phân hóa giàu nghèo => 2 bộ phận đối lập: Số ít giàu có, chiếm giữ nhiều TLSX => Giai cấp
bóc lột => Đại đa số nghèo khó => Giai cấp bị bóc lột.
+ xuất hiện và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa hơn. GIAI CẤP
=> TÓM LẠI: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước ra đời do hai nguyên
nhân chính là kinh tế và xã hội. Nguyên nhân kinh tế là sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn
đến sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của nền kinh tế sản xuất và trao đối, của sở
hữu tư nhân. Nguyên nhân xã hội là sự phân hoá con người trong xã hội thành kẻ giàu, người
nghèo, thành người tự do và nô lệ, thành các giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội có khả năng
kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Đồng thời có sự tích tụ
của cải và tập trung quyền lực vào tay một nhóm người, một lực lượng xã hội nhất định.
CHƯƠNG 2
12. Áp dụng pháp luật là gì? Theo pháp luật Việt Nam, trường hợp nào cần phải áp
dụng pháp luật?
- Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan
có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp
luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ
thể.
Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Trong
những trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật thì cơ quan, tổ chức, xã hội cũng có thể
thực hiện hoạt động này.
- Theo pháp luật Việt Nam, áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành trong những trường hợp
sau:
+ Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc áp dụng các chế tài pháp luật đối với
những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
+ Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
+ Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ
pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Trong trường hợp này, dù quan hệ pháp luật
đã phát sinh nhưng quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể quan hệ pháp luật đó không được thực
hiện và có sự tranh chấp.
+ Trong một số quan hệ pháp luật, nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát
hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không
tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế.
13. Chỉ ra mối liên hệ giữa pháp luật với kinh tế, pháp luật với chính trị và liên hệ vào điều
kiện Việt Nam hiện nay. (tr67)
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành, thừa nhận và bảo đảm thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
MQH giữa PL với kinh tế MQH giữa PL với chính trị
- Trong mqh với kinh tế, PL có tính độc lập
tương đối. Một mặt, pháp luật do điều kiện
kinh tế quyết định, mặt khác, pháp luật lại có
sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với
kinh tế.
- Chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật, sự thay
đổi của chế độ kinh tế sẽ dẫn đến sự thay đổi
của pháp luật.
- PL phản ánh trình độ phát triển của kinh tế,
nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ
của kinh tế.
- Khi pháp luật phản ánh đúng trình độ phát
triển của kinh tế thì pháp luật có nội dung tiến
bộ và có tác dụng tích cực. Ngược lại, khi pháp
luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi
thời, dùng pháp luật để duy trì các quan hệ
kinh tế lạc hậu thì lúc đó pháp luật tác động
kinh tế theo chiều hướng tiêu cực, kìm hãm sự
phát triển của kinh tế.
- Trong mqh vs chính trị, PL là một trong
những hình thức biểu hiện cụ thể của chính trị.
Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị
luôn giữ vai trò chủ đạo đối với pháp luật.
- Đường lối chính trị thể hiện trước hết ở các
chính sách kinh tế. Các chính sách đó được cụ
thể hóa trong pháp luật thành những quy định
chung, thống nhất trong toàn xã hội.
- Mặt khác, chính trị còn thể hiện mqh giữa các
giai cấp và các lực lượng khác nhau trong xã
hội trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, PL không
chỉ phản ánh các chính sách kinh tế mà còn thể
hiện các quan hệ giai cấp và mức độ của cuộc
đấu tranh giai cấp.
Liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay
Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành
phần kinh tế, các hình thức sở hữu, chính sách
tài chính…, qua đó góp phần vào việc sắp xếp,
cơ cấu các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng
trưởng và ổn định, cân đối nền kinh tế. Với
mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay bị chi phối và
nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đương nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm
định hướng chính trị đối với kinh tế là đường
lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng
Cộng sản cầm quyền.
Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động
của nền kinh tế, chúng phải được thể chế hóa
thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội và được triển
khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước,
dưới sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh
Liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay
• Thứ nhất, hình thành, tổ chức bộ máy nhà
nước Ví dụ: Việc thực hiện pháp luật của cán
bộ công chức trong nhà nước ngày càng được
quan tâm và thực hiện tốt, điều này đã được cụ
thể hóa trong Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của luật cán bộ, công chức và luật viên
chức năm 2008. Những quy định cụ thể trong
luật đã nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm của cán bộ, công chức được làm và
không được làm.
• Thứ hai, trong quan hệ ngoại giao giữa các
quốc gia Những năm qua, chúng ta đã hoàn
thành việc thực hiện phân giới cắm mốc với
Lào và Trung Quốc; đang trong quá trình thúc
đẩy phân giới cắm mốc với Cam-pu-chia, đàm
phán phân định vùng biển và hợp tác cùng phát
triển với Trung Quốc ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ,
đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế
đối với Indonesia, xử lý các vấn đề liên quan
đạo. Thông qua pháp luật, Nhà nước hoạch
định các chính sách kinh tế, trật tự hóa các hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức và
cá nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế
phát triển theo những mục đích mong muốn.
Chính sách kinh tế của nước ta hiện nay được
xác định trong điều 15 Hiến pháp năm 1992
sửa đổi, bổ sung năm 2001: “Nhà nước xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở
phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với
các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Chính sách
kinh tế của Nhà nước ta luôn hướng tới mục
đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân.
Thông qua pháp luật, nhà nước ta xác định các
hình thức sở hữu trong xã hội, từ đó tác động
tới quan hệ sở hữu, đặc biệt là sở hữu đối với
các tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản xuất
xã hội. Đối với nền kinh tế thị trường của Việt
Nam hiện nay, pháp luật cũng đã có những
điều chỉnh mang tính định hướng phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế đất nước. Chẳng hạn, việc
quy đinh về các hình thức sở hữu trong xã hội
được thể chế trong chương II Hiến pháp năm
1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Việc thừa
nhận kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài
dưới nhiều hình thức, bên cạnh việc củng cố,
khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể thông qua pháp luật là
một bước đi phù hợp với nền kinh tế nước ta
trong giai đoạn đổi mới. Trước tình hình hội
nhập với quốc tế, việc điều chỉnh trong pháp
luật đã giúp nước ta phá bỏ được nhiều trở ngại
trong tiến trình phát triển nền kinh tế của đất
nước cũng như trong các quan hệ hợp tác kinh
tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới.
đến thềm lục địa mở rộng đối với Malaysia.
Đặc biệt, đối với vấn đề phức tạp trên Biển
Đông hiện nay, chúng ta luôn hợp tác và giải
quyết mọi vấn đề tranh chấp bằng biện pháp
hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó
có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
1982, Tuyên bố giữa các bên về ứng xử trên
Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc, trên
tất cả các diễn đàn song phương và đa phương.
• Thứ ba, pháp luật với đường lối chính sách
của giai cấp thống trị Quan điểm đường lối của
Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, trong đó có các thành phần kinh
tế cạnh tranh tự do và bình đẳng đã xác định cơ
sở chính trị cho việc xây dựng Hiến pháp năm
2013 cũng như các đạo luật quan trọng trên
lĩnh vực kinh tế như Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp… khi đất nước ta đang trong giai đoạn
phát triển nền kinh tế thị trường.
14. Chỉ ra mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước, pháp luật với đạo đức và liên hệ thực
tiễn Việt Nam hiện nay. (tr68)
MQH giữa pháp luật với đạo đức MQH giữa pháp luật với nhà nước
- Đạo đức là những quan điểm, quan niệm của
con người (một cộng đồng, một giai cấp) về cái
thiện, cái ác, về sự công bằng. Những quan
điểm, quan niệm này rất khác nhau, do những
điều kiện của đời sống vật chất xã hội quyết
định.
- Những quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội
cũng rất khác nhau. Giai cấp thống trị xã hội có
điều kiện thể hiện qua quan điểm, quan niệm
của mình thành pháp luật. Do vậy, pháp luật
luôn phản ánh đạo đức của giai cấp cầm quyền.
- Tuy nhiên, do có nhiều quan niệm khác nhau
trong xã hội, cho nên khi xây dựng và thực
hiện pháp luật, giai cấp cầm quyền cũng phải
tính đến yếu tố đạo đức để tạo cho pháp luật có
một khả năng “thích ứng”, làm cho nó “tựa hồ”
như thể hiện ý chí của mọi tầng lớp trong xã
hội.
- PL và nhà nước là hai hiện tượng thượng tầng
chính trị - pháp lý, luôn có mối quan hệ chặt
chẽ, bổ sung cho nhau. . Nhà nước và pháp luật
cùng có chung nguồn gốc hình thành và phát
triển.
- Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền
lực chính trị, nhưng quyền lực chính trị đó chỉ
có thể được thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở
pháp luật. Còn pháp luật do nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện.
- Pháp luật có khả năng triển khai đường lối
chính trị của giai cấp cầm quyền trên quy mô
toàn xã hội một cách nhanh nhất, tức là nhà
nước không thể phát huy được quyền lực của
mình nếu thiếu pháp luật và ngược lại pháp
luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi
dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà
nước.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, vị trí cũng như vai trò
mối quan hệ của pháp luật và đạo đức ngày
càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực.
Thứ nhất, do được nhà nước xây dựng dựa trên
các quan diểm đạo đức của nhân dân, pháp luật
không những thể hiện được tư tưởng cách
mạng, đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức
tiến bộ mà còn thể hiện được ý chí, nguyện
vọng và hướng tới lợi ích của nhân dân lao
động. Cụ thể là được thể hiện trong Hiến pháp
năm 1992 sửa đổi bổ sung 2001, Điều 2 quy
định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân”. Hệ thống pháp luật Việt nam hiện hành
được xây dựng trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ
phẩm giá con người, coi việc phục vụ con
người là mục đích cao nhất của nó. Hiến pháp
1992 quy định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được
quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam phản
ánh khá rõ nét tư tưởng nhân đạo, một tư tưởng
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Như chúng ta đã phân tích cụ thể ở bên trên,
nhà nước và pháp luật Việt Nam cùng ra đời và
chúng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
Nhà nước sẽ có chức năng bảo vệ pháp luật
thực thi hiệu quả nhất. Nhà nước cũng có một
bộ máy cưỡng chế đặc biệt nhằm mục đích để
đảm bảo cho việc thực thi pháp luật được diễn
ra một cách chính xác.
Pháp luật thì sẽ lại được nhà nước ban hành và
được thừa nhận. Cũng chính bởi vì thế, nhà
nước ta vẫn luôn đảm bảo cho pháp luật được
thực thi một cách nhanh chóng, hữu hiệu nhất
trong cuộc sống con người. Pháp luật sẽ do nhà
nước ban hành, pháp luật sẽ được truyền bá và
sẽ được phổ biến tới mỗi người bằng nhiều con
đường khác nhau và chính thức thông qua các
hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Pháp luât cũng sẽ có khả năng có những tác
động đến mọi chủ thể là những cá nhân hay là
các tổ chức trong xã hội. Không những thế,
pháp luật cũng sẽ điều chỉnh hầu hết đối với
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhà nước ta cũng đã ban hành, thay đổi, hủy
bỏ, hoàn thiện pháp luật, cùng với đó là tiến
hành bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm, bảo
đảm pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống của
đạo đức cơ bản của nhân dân ta. Tính nhân đạo
trong hệ thống pháp luật Việt Nam được thể
hiện rất rõ trong các quy định về các chính
sách xã hội của nhà nước. Nhà nước Việt Nam
đã có nhiều chính sách ưu đãi, quan tâm đặc
biệt tới các thương binh, liệt sĩ, người có công
với cách mạng, người già, trẻ em không nơi
nương tựa, người tàn tật…Tính nhân đạo trong
hệ thống pháp luật Việt Nam còn được thể hiện
ngay cả trong các quy định về xử lý người có
hành vi vi phạm pháp luật.Chẳng hạn các quy
định của Bộ luật hình sự, quy định về các tình
tiết giảm nhẹ hình sự; quyết định hình phạt nhẹ
hơn quyết định của bộ luật (Điều 46, điều 47);
miễn hình phạt (điều 54); miễn chấp hành hình
phạt (điều 57); ...
Thứ ba, đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ,
bổ sung, hoàn thiện cho pháp luật, tạo điều
kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh
trong đời sống. Khi pháp luật chưa được ban
hành kịp thời, không đầy đủ, đạo đức giữ vai
trò bổ sung, thay thế cho pháp luật. Nhà nước
ta thừa nhận tập quán có thể thay thế pháp luật
trong những trường hợp pháp luật chưa quy
định và nội dung tập quán không trái với quy
định của pháp luật.Đạo đức còn tạo điều kiện
để pháp luật được thực hiện nghiêm minh trong
đời sống xã hội. Gia đình, nhà trường, các thiết
chế xã hội đã thực sự phát huy vai trò tích cực
của mình trong vấn đề giáo dục nhân cách, lối
sống. Chính vì vậy, về cơ bản, tuyệt đại đa số
các thành viên trong xã hội đều có ý thức đạo
đức tốt, có lối sống lành mạnh, tôn trọng mọi
người,tôn trọng các quy tắc sống chung của
cộng đồng.
Thứ tư, pháp luật đã góp phần quan trọng trong
việc giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo
đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng đạo
đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hoá xuống cấp
của đạo đức, loại trừ những tư tưởng đạo đức
cũ, lạc hậu. Để giữ gìn và phát huy các quan
niệm đạo đức của dân tộc, Hiến pháp 1992 quy
định:“Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị
của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi
tài năng sáng tạo trong nhân dân” (điều 30).
Pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng trong
người dân một cách rất rõ ràng. Trước đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta cũng đã thực hiê n chính
sách ngoại giao khép kín. Hê thống pháp luâ t
của nước ta giai đoạn này thực chất cũng đã
ngăn cấm các hoạt đô ng đầu tư của tư bản
nước ngoài vào. Nhưng, ta thấy được rằng, từ
khi mở cửa và hội nhập nền kinh tế thì Đảng
và Nhà nước ta cũng đã đă t quan hê ngoại giao
với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới.
Trước tình hình đó thì ta thấy được rằng, pháp
luâ t của Việt Nam về cơ bản cũng đã có những
thay đổi nhằm mục đích để sao cho có thể phù
hợp với xu thế chung. Không những thế thì
Nhà nước ta đã có nhiều chính sách được ban
hành nhằm mục đích để có thể thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài như tạo môi trường đầu
tư thông thoáng đối với các quốc gia và các
nhà đầu tư. Những chính sách đó về cơ bản
cũng đã được thể hiê n tâp trung trong pháp luâ t
Viê t Nam giai đoạn hiê n hành.
việc góp phần loại bỏ những tư tưởng đạo đức
phong kiến khác, chẳng hạn tư tưởng “sống lâu
lên lão làng”, pháp luật quy định về các chính
sách trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, các
quy định về bố trí, sắp xếp cán bộ…
Bên cạnh những mặt tích cực trong mối quan
hệ giữa pháp luật với đạo đức, thực tế Việt
Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Một là,
trong một số trường hợp thì ranh giới điều
chỉnh giữa đạo đức và pháp luật chưa rõ ràng
hay sự pháp luật hoá các quy tắc các quan niệm
đạo đức không cụ thể dẫn đến khó ứng dụng
vào cuộc sống. Hai là, trong xã hội nhiều quan
niệm, tư tưởng đạo đức cổ hủ, lạc hậu vẫn còn
tồn tại mà chưa bị ngăn chặn đúng mức cần
thiết. Ví dụ như tư tưởng gia trưởng, thói cá
nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp,
trọng nam khinh nữ,…vẫn có ảnh hưởng không
nhỏ trong đại bộ phận dân cư.Cuối cùng, đạo
đức trong xã hội xuống cấp là nguyên nhân
chính làm gia tăng các vi phạm pháp luật.
Nguyên nhân cơ bản là sự nhận thức không
đúng đắn về vai trò của đạo đức, nhất là đạo
đức truyền thống. Để khắc phục được những
hạn chế nói trên, nhà nước ta cần phải nâng cao
ý thức đạo đức nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ
– tương lại của đất nước, nâng cao giáo dục,
giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc.
15. Hệ thống pháp luật Việt Nam gồm bao nhiêu bộ phận cấu thành? Trình bày các bộ
phận cấu thành đó.
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với
nhau, được phân định thành các bộ phận cấu thành (ngành, chế định khác nhau, phù hợp với đặc
điểm, tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh).
Thông thường, chúng ta giới hạn xem xét pháp luật với tư cách là hệ thống quy phạm pháp luật
với các cấp độ cấu trúc là: Quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật.
- Quy phạm pháp luật: Là thành tố nhỏ nhất, là “tế bào”, “viên gạch” trong hệ thống cấu trúc
pháp luật. Trong quy phạm pháp luật đã thể hiện đầy đủ đặc điểm của pháp luật – đó là tính
khuôn mẫu, tính chặt chẽ về mặt hình thức, tính cưỡng chế nhà nước. Mỗi quy phạm pháp luật
được thực hiện vai trò điều chỉnh đối với một quan hệ xã hội nhất định.
- Chế định pháp luật: Gồm một nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã
hội liên quan mật thiết với nhau và có chung tính chất. Chế định pháp luật mang tính chất nhóm,
mỗi chế định có đặc điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau,
chúng không tồn tại biệt lập. Việc xác định ranh rới giữa các chế định nhằm tạo ra khả năng xây
dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn đời sống.
- Ngành luật: Bao gồm tổng hợp những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội
cùng loại thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội, bằng những phương pháp riêng của
mình.
Để xác định một ngành luật, người ta thường dựa vào hai căn cứ là đối tượng điều chỉnh và
phương pháp điều chỉnh.
+ Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những quan hệ xã hội có chung tính chất, phát sinh
trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
+ Phương pháp điều chỉnh pháp luật là cách thức, biện pháp mà nhà nước sử dụng trong pháp
luật để tác động cách xử sự của chủ thể tham gia các quan hệ xã hội.
16. Nêu các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật. Lấy ví dụ minh họa?
Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các quy phạm
pháp luật điều chỉnh.
1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm: Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác theo quy định
của pháp luật.
- Chủ thể là cá nhân bao gồm công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch. Cá nhân
muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Chủ thể là pháp nhân. Mặc dù pháp nhân là chủ thể phổ biến của các quan hệ pháp luật nhưng
không có nghĩa là pháp nhân có thể trở thành chủ thể của tất cả các quan hệ pháp luật.
- Ngoài cá nhân và pháp nhân, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn là chủ thể đặc biệt của quan hệ
pháp luật. Ngoài ra, trong một số nhóm quan hệ pháp luật còn thừa nhận một số chủ thể khác
như hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư nhân.
2. Khách thể quan hệ pháp luật
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, tinh thần hoặc những lợi ích xã hội
khác mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
Khách thể của quan hệ pháp luật có thể là các tài sản vật chất như tiền, vàng, bạc, nhà ở, ...; các
hành vi xử sự của con người như vận chuyển hàng hóa, khám chữa bệnh, ... và các lợi ích phi vật
chất như quyền tác giả, danh dự, nhân phẩm, ...
Khách thể của quan hệ pháp luật phản ánh lợi ích của chủ thể.
3. Nội dung quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
- Quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật là khả năng xử sự của những người tham gia quan hệ
pháp luật được quy phạm pháp luật xác định trước và được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước.
- Nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc chủ thể phải thực hiện nhằm đáp ứng
việc hưởng quyền của chủ thể khác.
Ví dụ minh họa: Ngày 19/7/2017, bà Vũ Thanh Hoa đến UBND phường Văn Miếu, quận Đống
Đa xin cấp giấy khai tử cho bố đẻ.
1. Chủ thể: Bà Vũ Thanh Hoa và UBND phường Văn Miếu
| 1/46

Preview text:

CHƯƠNG 1
1. Hình thức nhà nước được hình thành từ các yếu tố nào? Hãy làm rõ các yếu tố đó.
Hình thức nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản phản ánh cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước của mỗi kiểu nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Hình thức nhà nước được hình thành từ ba yếu tố: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà
nước và chế độ chính trị.
- Hình thức chính thể: Đây là cách tổ chức, cơ cấu, trình tự thành lập các cơ quan nhà nước cao
nhất và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân dân về việc thiết lập các cơ quan này.
+ Chính thể quân chủ (Vua): Là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung
toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước (vua, hoàng đế, ...) theo nguyên tắc thừa kế.
Chính thể quân chủ lại được chia thành chính thể quân chủ tuyệt đối (người đứng đầu như vua,
hoàng đế, ... có quyền lực vô hạn) và chính thể quân chủ hạn chế (người đứng đầu nhà nước chỉ
nắm 1 phần quyền lực tối cao và bên cạnh đó còn có 1 cơ quan quyền lực khác nữa).
+ Chính thể cộng hòa: Là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc vào một cơ
quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
Chính thể cộng hòa cũng có hai hình thức chính là cộng hòa dân chủ ( PL quy định quyền của
công dân tham gia để bầu cử thành lập các cơ quan đại diện (quyền lực) của nhà nước ) và cộng
hòa quý tộc
( (dưới chế độ nô lệ) Quyền tham gia bầu cử chỉ dành riêng cho giới quý tộc và
quyền đó đc quy định cụ thể trong luật pháp ).
Hiện nay trong nhà nước tư sản, chính thể cộng hòa có 2 biến dạng chính là cộng hòa tổng thống
(Vai trò của nguyên thủ quốc gia rất quan trọng. Tổng thống đc cử tri bầu ra, vừa là nguyên thủ
quốc gia, vừa đúng đầu Chính phủ. Hình thức này tồn tại ở Mỹ và 1 số nước Mỹ La tinh) và
cộng hòa đại nghị (Được đặc trưng bởi việc nghị viện thành lập ra chính phủ và khả năng của
nghị viện kiểm tra hoạt động của chính phủ. Tổng thống do nghị viện bầu ra và có vai trò không
lớn. Hình thức này đc áp dụng ở Đức, Áo, Phần Lan, Italia, ...)
- Hình thức cấu trúc nhà nước: Đây là sự tổ chức nhà nước theo các đơn vị hành chính lãnh thổ
và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương.
+ Hình thức nhà nước đơn nhất: Là nhà nước có chủ quyền chung, các bộ phận hợp thành nhà
nước là các đơn vị hành chính - lãnh thổ không có chủ quyền quốc gia, đồng thời có hệ thống cơ
quan nhà nước thống nhất từ trung ương xuống địa phương, trong nước chỉ có một hệ thống pháp luật. +
Là nhà nước có hai hay nhiều nước thành viên hợp lại. Nhà
Hình thức nhà nước liên bang:
nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý: Một hệ thống chung cho toàn liên
bang và một hệ thống trong mỗi nước thành viên. Nhà nước liên bang có hai hệ thống pháp luật
của bang và của liên bang. Công dân của nhà nước liên bang mang hai quốc tịch. Các nhà nước
liên bang như: Mỹ, Nga, Đức, Ấn Độ, ...)
- Chế độ chính trị: Là tổng thể các phương pháp, cách thức mà các cơ quan nhà nước sử dụng để
thực hiện quyền lực nhà nước. Nội dung chủ đạo trong khái niệm chế độ chính trị là phương
pháp cai trị và quản lý xã hội của giai cấp cầm quyền. PP thực hiện quyền lực nhà nước của các
nhà nước trong lịch sử rất đa dạng, nhưng tựu chung lại gồm hai phương pháp chính: +
Có nhiều loại, thể hiện dưới các hình thức khác nhau như dân chủ thực Phương pháp dân chủ:
sự và dân chủ giả hiệu, dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
+ Phương pháp phản dân chủ (Tính độc tài): Thể hiện tính độc tài, đáng chú ý nhất là khi phương
pháp cai trị và quản lý xã hội này phát triển đến mức độ cao sẽ trở thành những phương pháp tàn
bạo, quân phiệt và phát xít.
2. Kiểu nhà nước là gì? Nêu đặc trưng của các kiểu nhà nước và sự thay thế các kiểu nhà
nước trong lịch sử. (tr22)
Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ bản của nhà nước - thể hiện bản chất giai cấp, vai
trò xã hội và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã
hội có giai cấp nhất định.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã hội: Chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với bốn kiểu quan hệ sản xuất ấy là bốn kiểu nhà nước:
- Kiểu nhà nước chủ nô.
- Kiểu nhà nước phong kiến.
- Kiểu nhà nước tư sản.
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản có chung bản chất vì đều được xây dựng trên cơ sở
tư hữu về tư liệu sản xuất, đều là những công cụ bạo lực, bộ máy chuyên chính của các giai cấp
bóc lột chống lại nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước tiến bộ nhất và
cuối cùng trong lịch sử nhân loại có bản chất khác hẳn ba kiểu nhà nước trước đó vì được xây
dựng trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ thân thiện giữa những người lao động,
do nhân dân thiết lập và hoạt động vì nhân dân.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu.
Quy luật về sự thay thế các kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của
các hình thái kinh tế - xã hội. Một kiểu nhà nước mới xuất hiện trong quá trình cách mạng khi
giai cấp cầm quyền cũ bị lật đổ và giai cấp thống trị mới giành được chính quyền. Các cuộc cách
mạng khác nhau diễn ra trong lịch sử đều tuân theo quy luật đó:
- Nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô.
- Nhà nước tư sản thay thế nhà nước phong kiến.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nước tư sản.
Tuy nhiên, quá trình thay thế kiểu nhà nước trong các xã hội khác nhau diễn ra không giống
nhau và trên thực tế không phải xã hội nào cũng đều trải qua tuần tự bốn kiểu nhà nước trên.
3. Nhà nước là gì? Trình bày bản chất và đặc trưng của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được
”. Vì vậy, nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có
giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Cho nên nhà nước trước hết là bộ
máy cưỡng chế đặc biệt trong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất duy trì sự thống trị giai cấp.
Bản chất: Tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp: - Nhà nước ra đời khi xã hội có giai cấp.
- Quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị. Sự thống trị giai cấp xét về
nội dung được thể hiện ở ba mặt: Kinh tế, chính trị, tư tưởng.
- Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp thống trị
- Nhà nước bảo vệ lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị là chủ yếu.
Tính xã hội: - Nhà nước ghi nhận và bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác ở một chừng mực nhất định.
- Nhà nước sẽ quan tâm, giải quyết những công việc vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Song, nhà nước không chỉ có tính giai cấp mà còn có vai trò xã hội, bởi lẽ nhà nước được sinh ra
không chỉ do nhu cầu thống trị giai cấp mà còn do nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội. Một nhà
nước sẽ không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi
ích, nguyện vọng và ý chí của các giai tầng khác trong xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước phải bảo
đảm các giá trị xã hội đã đạt được, bảo đảm xã hội trật tự, ổn định và phát triển, thực hiện chức
năng này hay chức năng khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Điều đó nói lên rằng nhà nước là
một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa mang giá trị xã hội.
=> Mức độ và biểu hiện của tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước ở các kiểu nhà nước khác nhau, không giống nhau.
=> KN nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưởng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì, bảo vệ trật tự xã hội,
bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
So với tổ chức của xã hội thị tộc – bộ lạc và với các tổ chức chính trị - xã hội khác mà giai cấp
thống trị thiết lập và sử dụng để quản lý xã hội, thì nhà nước có một số dấu hiệu đặc trưng sau đây:
- Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hòa nhập với dân cư.
- Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và thực hiện sự quản lý đối với dân
cư theo các đơn vị ấy chứ không tập hợp dân cư theo chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân.
- Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
4. Phân biệt nhà nước với các tổ chức khác nhà nước. Tiêu chí Nhà nước
Các tổ chức khác nhà nước
- Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội - Các tổ chức xã hội
Nhà nước là tổ chức quyền lực chung của toàn xã hội, khác cũng có quyền lực
quyền lực của nhà nước có tác động bao trùm lên toàn chung song quyền lực đó
xã hội, tới mọi tổ chức, cá nhân, mọi khu vực lãnh thổ
chỉ có tác động tới các
quốc gia và các lĩnh vực cơ bản của đời sống: kinh tế,
hội viên trong tổ chức đó
chính trị, văn hóa, giáo dục... Mọi cá nhân và tổ chức và không một tổ chức
đang sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc
nào có bộ máy riêng để
gia đều phải phục tùng quyền lực và ý chí của nhà chuyên thực thi quyền
nước. Do đó, nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và
lực như nhà nước. Cơ sở
phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc gia. xã hội và phạm vi tác Về quyền
- Nhà nước có một lớp người tách ra khỏi lao động sản
động của các tổ chức xã lực
xuất để chuyên thực thi quyền lực nhà nước, họ tham hội khác đều hẹp hơn
gia vào bộ máy nhà nước để làm hình thành nên một hệ
nhà nước, chỉ tới một bộ
thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phận của dân cư.
phương, trong đó có các cơ quan bạo lực, cưỡng chế
như quân đội, cảnh sát, tòa án... Nhờ có quyền lực và
bộ máy chuyên thực thi quyền lực đó mà nhà nước có
thể điều hành và quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật
tự xã hội, phục vụ và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã
hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
- Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ - Các tổ chức xã hội
Nhà nước luôn lấy việc quản lý dân cư theo lãnh thổ
khác thường tập hợp và
làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết
quản lý dân cư theo mục
thống, dân tộc, giới tính... cứ sống trên một khu vực đích, chính kiến, lý
lãnh thổ nhất định thì chịu sự quản lý của một nhà nước tưởng, nghề nghiệp, độ Về quản lý
nhất định và do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tuổi hoặc giới tính... dân cư/
đối với nhà nước ở nơi mà họ cư trú. Nhà nước thực thành viên
hiện việc quản lý dân cư trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia của mình cũng theo địa bàn cư trú của họ hay theo
các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Nó phân chia lãnh thổ
thành các đơn vị hành chính và quản lý dân cư theo các đơn vị đó.
- Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia - Các tổ chức xã hội
Chủ quyền quốc gia là khái niệm chỉ quyền quyết định
khác chỉ được thành lập,
tối cao của quốc gia trong quan hệ đối nội và quyền độc tồn tại và hoạt động một
lập tự quyết trong quan hệ đối ngoại. Nhà nước là đại
cách hợp pháp khi được
diện chính thức cho toàn quốc gia, dân tộc trong các nhà nước cho phép hoặc
quan hệ đối nội và đối ngoại. Trong quan hệ đối nội,
công nhận, đồng thời chỉ
quy định của nhà nước có giá trị bắt buộc phải tôn có thể nhân danh chính Về tham
trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có tổ chức đó khi tham gia gia đối
liên quan; nhà nước có thể cho phép các tổ chức xã hội vào các quan hệ đối nội, nội, đối
khác được thành lập và hoạt động hoặc nhà nước công
đối ngoại và chỉ dược ngoại
nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp của các tổ chức tham gia vào quan hệ đối
xã hội khác. Trong quan hệ đối ngoại, nhà nước có toàn ngoại nào mà nhà nước
quyền xác định và thực hiện các đường lối, chính sách cho phép. đối ngoại của mình.
- Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm - Các tổ chức xã hội
công cụ quản lý xã hội. khác chỉ có quyền ban
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung có giá
hành các quy định dưới
trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ
dạng điều lệ, chỉ thị,
chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ
nghị quyết có giá trị bắt Về ban
quốc gia. Nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực
buộc phải tôn trọng và hành văn
hiện bằng nhiều biện pháp: tuyên truyền, phổ biến, giáo thực hiện với các hội bản pháp
dục, thuyết phục, tổ chức thực hiện, động viên, khen
viên trong tổ chức; đồng
thưởng, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. thời bảo đảm cho các
Nhà nước sử dụng pháp luật đế quản lý xã hội, điều
quy định đó được thực
chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước
hiện bằng sự tự giác của
và pháp luật là một trong những công cụ quản lý có
các hội viên và bằng các
hiệu quả nhất của nhà nước.
hình thức kỷ luật của tổ chức.
- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế - Các tổ chức xã hội
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc
khác hoạt động trên cơ
phải nộp cho nhà nước theo quy định của pháp luật. sở nguồn kinh phí do các Về thu
Nhà nước là một bộ máy được tách ra khỏi lao động hội viên đóng góp. thuế, phí
sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản
lý xã hội nên nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn của cải
do dân cư đóng góp, không có thuế bộ máy nhà nước
không thể tồn tại được và thuế luôn là quốc sách của
mọi nhà nước. Thuế còn là nguồn của cải quan trọng
phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống.
Ngoài thuế, nhà nước còn có quyền phát hành tiền,
công trái, vì thế, nhà nước có lực lượng vật chất to lớn,
không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của nó,
những hoạt động cơ bản của xã hội, mà còn có thể hỗ
trợ một phần kinh phí hoạt động cho một số tổ chức khác.
5. Phân tích bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (tr33 – 5 bản chất)
Ở góc độ chung nhất, bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thể thống
nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội.
Theo Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ...

Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được cụ thể bằng những đặc trưng sau đây:
- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và thực hiện nó bằng nhiều hình
thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra cơ quan đại diện
quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của nhà nước
”. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà
nước thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc trực
tiếp thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của mình với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ...
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi.
Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể nhận
thấy rõ trong quá trình hình thành và phát triển của một chế độ dân chủ mới. Các hình thức Quốc
dân đại hội để bầu ra Chính phủ lâm thời tổng tuyển cử để bầu ra đại biểu Quốc hội và Chủ tịch
nước những năm đầu tiên sau khi CMT8 thành công; sự ghi nhận chính thức trong các bản Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 về xác định quyền lực tối cao thuộc về nhân dân đã
khẳng định rõ mục tiêu những bước phát triển của chế độ dân chủ nước ta.
Bản chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và xã hội.
- Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Chính sách đại đoàn kết dân tộc của nước ta thể hiện dưới 4 hình thức cơ bản:
+ Một là, nhà nước đã xây dựng cơ sở pháp lý vững vàng trong việc thiết lập và củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện cho mỗi dân tộc đều có thể tham gia vào việc thiết lập, củng cố và
phát huy sức mạnh của nhà nước.
+ Hai là, tất cả các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận, Công đoàn, Đoàn thanh niên, ... đều coi
việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thống nhất là mục tiêu chung, là nguyên tắc hoạt động của tổ chức mình.
+ Ba là, bên cạnh việc thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, nhà nước luôn chú trọng việc ưu
tiên đối với dân tộc thiểu st, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các dân tộc tương trợ
giúp đở lẫn nhau, cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở hòa hợp, đoàn kết vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Bốn là, chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, tôn trọng các
giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng nền văn hóa của nhà nước Việt
Nam với đầy đủ bản sắc, phong phú, đa dạng mà vẫn đảm bảo sự nhất quán và thống nhất.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng rãi.
Với mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo, bảo đảm công bằng xã hội, nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quan tâm đặc biệt và toàn diện tới việc giải quyết các
vấn đề xã hội như: Xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, đầu tư cho việc phòng chống thiên
tai, giải quyết các vấn đề bức xúc như xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải
quyết việc làm, chống thất nghiệp, giúp đở người già cô đơn, trẻ mồ côi, phòng, chống tệ nạn xã hội.
- Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác, hữu nghị.
Chính sách đường lối và cụ thể là các hoạt động đối ngoại của nhà nước ta thể hiện khát vọng
hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia. Phương châm: Việt Nam sẳn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và
phát triển,
thể hiện một đường lối đối ngoại cởi mở của Nhà nước ta. Điều 12 Hiến pháp năm
2013 đã khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế ...
”.
6. Phân tích nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ( 5 nguyên tắc – Tr49 )
Bộ máy nhà nước Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được
tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ
đạo đúng đắn, khách quan và khoa học phù hợp với bản chất của nhà nước, tạo cơ sở cho tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước. Ở nước ta, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp, đạo luật cao nhất của nhà nước
bao gồm những nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân:
Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước chủ nghĩa quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thứ nhất, bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức bộ máy nhà nước.
Thứ hai, vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo
vào việc quản lý công việc và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Thứ ba, nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước.
- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước:
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định phương hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước là nguyên tắc hiến định. Điều 4 Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam ... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội
”. Đảng đề ra đường lối chính trị, những chủ trương, phương hướng lớn, quyết định những
vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước.
Để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo đối với nhà nước, các đảng viên phải thể hiện vai trò tiên
phong, gương mẫu, đặc biệt, thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên làm việc trong bộ máy
nhà nước. Đảng phải thường xuyên củng cố, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật ... thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
”.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện trên ba mặt chủ yếu là: Tổ chức bộ
máy, cơ chế hoạt động, chế độ thông tin và báo cáo, kiểm tra, xử lý các vấn đề trong quá trình tổ
chức và thực hiện quyền nhà nước.
Về mặt tổ chức, nguyên tắc này thể hiện ở chế độ bầu cử, cơ cấu bộ máy, chế độ công vụ.
Về mặt hoạt động, các cơ quan nhà nước ở trung ương có quyền quyết định các vấn đề cơ bản,
quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại trên phạm vi toàn quốc.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần
chú trọng xây dựng và thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo kiểm tra và xử lý các vấn đề kịp
thời, đúng đắn, khách quan và khoa học.
- Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc:
Đối với Đảng, nhà nước và nhân dân ta, đại đoàn kết dân tộc là một chính sách lớn và được
khẳng định trong điều 5 Hiến pháp năm 2013:
“1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam.

2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi
hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản
sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.

4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số
phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.

- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Nguyên tắc pháp chế được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật ...”.

Để thực hiện chủ trương củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải đẩy mạnh
hơn nữa công tác xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức
hoạt động của bộ máy nhà nước, tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật, đồng thời phải tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
- Ngoài 5 nguyên tắc trên trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có
những nguyên tắc khác như: Nguyên tắc tổ chức lao động khoa học, nguyên tắc bảo đảm tính
kinh tế, nguyên tắc công khai khoá, ... chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu để áp dụng cho từng
loại cơ quan trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
7. Thế nào là bộ máy nhà nước? Trình bày các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước ở
Việt Nam hiện nay? (tr43 – 6 cơ quan)
Trong sách báo pháp lí Việt Nam hiện nay, có khá nhiều định nghĩa bộ máy nhà nước. Dưới góc
độ pháp lí có thể hiểu, bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa
phương, được tố chức và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước.

Bộ máy nhà nước Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được
tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Cơ quan nhà nước là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước. Đó là tổ chức có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ, có thẩm quyền và được thành lập theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước
thực hiện nhiệm vụ và chức năng nhà nước bằng những hình thức và phương pháp đặc thù.
- Các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại diện) bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để thể hiện và thực thi quyền lực, phải chịu
trách nhiệm và báo cáo trước nhân dân cử tri về mọi hoạt động của mình.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất;
đây là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề trọng đại nhất
của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao của toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước.
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
- Chủ tịch nước.
Là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc
hội bầu trong số đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Chủ tịch nước
được trao nhiều quyền hạn trong cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp; là người giữ
quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng
và an ninh. Chủ tịch nước xét trên nhiều phương diện là cơ quan có vị trí đặc biệt, giữ vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Các cơ quan hành chính nhà nước.
Được gọi là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Ở nước ta hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước gồm có: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp.
Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, là cơ quan có
thẩm quyền chung, thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của nhà nước.
Các bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương, là cơ quan có thẩm
quyền chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành (NN, công nghiệp, ...)
hoặc lĩnh vực (kế họahc, tài chính, ...)
UBND nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, là cơ quan hành chính
có thẩm quyền chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương.
UBND được tổ chức theo ba cấp: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. UBND các cấp được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc trực thuộc hai chiều – trực thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà
nước cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Các cơ quan xét xử.
Là loại cơ quan có chức năng đặc thù của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, hệ
thống cơ quan xét xử gồm có Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, các Tòa án nhân
dân địa phương, các Toà án quân sự và các Tòa án khác do luật định. Khi xét xử có Hội thẩm
tham gia và Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Trong hoạt động xét xử, Tòa án phải dựa theo
nguyên tắc: Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử công khai, xét xử
tập thể và quyết định theo đa số, đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, bảo đảm cho công dân các
dân tộc cùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, bảo đảm quyền giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước đối với hoạt động xét xử.
- Các cơ quan kiểm sát.
Đây là hệ thống cơ quan không chỉ để thực hiện quyền công tố mà còn để kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan, tổ chức và của công dân trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ở nước ta hệ thống cơ quan kiểm soát
gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các Viện kiểm sát nhân
dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự.
- Hội đồng bầu cử và Kiểm toán nhà nước.
Đây là hai thiết chế lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu
Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng
bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các ủy viên.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Tổng kiểm toán nhà nước
là người đứng đầu kiểm toán nhà nước do Quốc hội bầu; chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả
kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách
nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Khác với Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan đầu tiên được quy định trong Hiến pháp, Kiểm
toán nhà nước đã được thành lập theo Nghị định số 70/1994/NĐ-CP ngày 11/7/1994 của Chính
phủ, nay chính thức được hiến định trong Hiến pháp năm 2013.
8. Trình bày bản chất của nhà nước và liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được
”. Vì vậy, nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có
giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Cho nên nhà nước trước hết là bộ
máy cưỡng chế đặc biệt biệttrong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất duy trì sự thống trị giai cấp.
Bản chất: Tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp: - Nhà nước ra đời khi xã hội có giai cấp.
- Quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị. Sự thống trị giai cấp xét về
nội dung được thể hiện ở ba mặt: Kinh tế, chính trị, tư tưởng.
- Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp thống trị
- Nhà nước bảo vệ lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị là chủ yếu.
Tính xã hội: - Nhà nước ghi nhận và bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác ở một chừng mực nhất định.
- Nhà nước sẽ quan tâm, giải quyết những công việc vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Song, nhà nước không chỉ có tính giai cấp mà còn có vai trò xã hội, bởi lẽ nhà nước được sinh ra
không chỉ do nhu cầu thống trị giai cấp mà còn do nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội. Một nhà
nước sẽ không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi
ích, nguyện vọng và ý chí của các giai tầng khác trong xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước phải bảo
đảm các giá trị xã hội đã đạt được, bảo đảm xã hội trật tự, ổn định và phát triển, thực hiện chức
năng này hay chức năng khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Điều đó nói lên rằng nhà nước là
một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa mang giá trị xã hội.
=> Mức độ và biểu hiện của tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước ở các kiểu nhà nước khác nhau, không giống nhau.
=> KN nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưởng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì, bảo vệ trật tự xã hội,
bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay: Tương tự như những Nhà nước khác, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng tồn tại bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
Bản chất giai cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện rõ nét
trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cụ thể: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và giới trí thức
”.
- Nhân dân là chủ thể tối cao của Nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do dân mà nòng cốt là liên minh
công – nông – trí thức. Quyền lực của Nhà nước Việt Nam không phụ thuộc vào bất kỳ một tổ
chức hay cá nhân nào mà thuộc về toàn thể nhân dân. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền
lực của mình thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như
trực tiếp trình bày hoặc đưa ra ý kiến, kiến nghị của mình đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống suốt dọc chiều dài của đất nước.
Các dân tộc anh em đoàn kết một lòng, đó là truyền thống lâu dài, là nguồn sức mạnh to lớn của
đất nước mỗi khi có ngoại xâm. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại càng được thể hiện rõ nét, giúp đỡ,
hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày và trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc bình
đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
Thực vậy, công dân có đầy đủ các quyền trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước. Công
dân có quyền tự do, dân chủ trong việc quyết định những vấn đề sống còn của đất nước. Tuy
nhiên, song song với quyền lợi thì công dân cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà
nước. Đó là mối quan hệ được xác lập trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của nhau.
- Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội
Về chính trị, nhà nước tạo ra cơ sở pháp lý, cụ thể là pháp luật để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân.
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Nền kinh tế thị trường
là phương tiện để Nhà nước và xã hội thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Đối với vấn đề văn hóa – xã hội, Nhà nước chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội như bệnh tật,
giáo dục, thiên tai, tệ nạn xã hội, nghèo đói… Nhà nước cũng kiên quyết trừng trị các hành vi
phá hoại, xâm hại đến an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các
hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới
Nhà nước mở rộng giao lưu văn hóa, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau trên cơ sở đôi bên cùng có lợi đồng thời ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân trên toàn
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
9. Trình bày các đặc điểm cơ bản của Nhà nước. (tr20) (5 đặc điểm)
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ địa vị
của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
Nhà nước có một số dấu hiệu đặc trưng sau đây:
- Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hòa nhập với dân cư. Để thực
hiện quyền lực và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người chỉ chuyên hoặc hầu như chỉ
làm nhiệm vụ quản lý và cưỡng chế. Họ tham gia vào bộ máy nhà nước để hình thành nên một
hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
- Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và thực hiện sự quản lý đối với dân
cư theo các đơn vị ấy chứ không tập hợp dân cư theo chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc
giới tính
. Nhà nước thực thi quyền lực chính trị trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ. Mỗi nhà nước có
lãnh thổ riêng, trên lãnh thổ ấy lại phân thành các đơn vị hành chính nhỏ như tỉnh, huyện, ...
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị, pháp lý, nó đã
thể hiện quyền độc lập, tự quyết định những vấn đề đối nội, đối ngoại của mình, không phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngoài.
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân. Nhà
nước là tổ chức duy nhất trong xã hội được quyền ban hành pháp luật. Và cũng chính nhà nước
bảo đảm cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống.
- Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc. Bộ máy nhà nước
bao gồm một bộ phận đặc biệt, tách ra khỏi sản xuất làm công tác quản lý. Bộ phận này sẽ không
thể tồn tại nếu không có nguồn nuôi dưỡng. Đồng thời, việc xây dựng và duy trì các cơ sở vật
chất kỹ thuật cho bộ máy nhà nước cũng rất cần thiết. Thiếu thuế thì bộ máy nhà nước không tồn
tại được. Chỉ có nhà nước mới có quyền đặt ra thuế và thu thuế.
10. Trình bày phương hướng xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thiết lập từ sau Cách mạng tháng
tám năm 1945. Sau hơn nửa thế kỷ, bộ máy nhà nước ta đã được củng cố, phát triển, hoàn thành
nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ và xây dựng chế độ xã hội mới. Tuy nhiên trong tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước ta
còn bộc lộ một số khuyết điểm và yếu kém.
Bộ máy nhà nước cần được cải cách theo những phương hướng chủ yếu sau:
- Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và chính quyền địa phương để làm đúng chức năng theo luật định.
- Cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất, thông
suốt, có hiệu lực và hiệu quả, đủ năng lực thực thi các nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tiến hành sắp xếp tổ chức phân định rõ
chức năng, thẩm quyền giữa các cấp, thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý ngành và quản lý lãnh
thổ. Tăng cường công tác tổ chức và hoạt động thanh ta; kiện toàn tổ chức chính quyền địa
phương, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành
công việc trong bộ máy nhà nước. Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng một nền hành chính nhà
nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa”
.
- Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân, bảo đảm các điều kiện của phương tiện cần
thiết để các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện đúng chức năng và quyền hạn của mình.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm giữ
vững bản chất của nhà nước, bảo đảm quyền lực nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy
nhà nước bảo đảm chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy trách nhiệm, tính
chủ động và hiệu lực cao trong quản lý, điều hành bộ máy nhà nước.
- Tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xử lý
nghiêm minh những người có hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời tăng cường công tác xây
dựng pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật và củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà nước.
11. Trình bày quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế -
xã hội đầu tiên của xã hội loài người, trong đó không tồn tại giai cấp và nhà nước chưa xuất hiện.
Nhưng chính từ những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước lại bắt nguồn từ xã hội đó. Vì vậy,
việc nghiên cứu về xã hội cộng sản nguyên thủy sẽ là cơ sở để giải thích nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước.
* Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc bộ lạc
- Cơ sở kinh tế: + Sở hữu chung về TLSX và sản phẩm lao động.
+ Phân phối sản phẩm lao động theo nguyên tắc bình quân.
+ Phân công lao động mang tính tự nhiên.
- Cơ sở xã hội: + Tổ chức xã hội giản đơn. Thị tộc là tế bào, cấu thành xã hội.
+ Đã xuất hiện nhu cầu quản lý.
* Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước:
- Cơ sở kinh tế + Cơ sở xã hội => Nhà nước ra đời.
* Hai nguyên nhân khiến nhà nước ra đời:
- Cơ sở kinh tế (Xã hội tư hữu): LLSX phát triển:
+ Con người nâng cao thể lực, trí lực, kinh nghiệm lao động.
+ Công cụ lao động cải tiến.
+ Phân công lao động xuất hiện: Lần 1 (Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt) / Lần 2 (Thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp) / Lần 3 (Thương nghiệp xuất hiện).
+ Năng suất lao động tăng => Dư thừa => TƯ HỮU
- Cơ sở xã hội (Xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn giai cấp):
+ Hoạt động sản xuất phát triển: Không đòi hỏi phải lao động tập thể. Gia đình hình thành trở
thành đơn vị sản xuất độc lập.
+ Phân hóa giàu nghèo => 2 bộ phận đối lập: Số ít giàu có, chiếm giữ nhiều TLSX => Giai cấp
bóc lột => Đại đa số nghèo khó => Giai cấp bị bóc lột.
+ GIAI CẤP xuất hiện và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa hơn.
=> TÓM LẠI: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước ra đời do hai nguyên
nhân chính là kinh tế và xã hội. Nguyên nhân kinh tế là sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn
đến sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của nền kinh tế sản xuất và trao đối, của sở
hữu tư nhân. Nguyên nhân xã hội là sự phân hoá con người trong xã hội thành kẻ giàu, người
nghèo, thành người tự do và nô lệ, thành các giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội có khả năng
kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Đồng thời có sự tích tụ
của cải và tập trung quyền lực vào tay một nhóm người, một lực lượng xã hội nhất định. CHƯƠNG 2
12. Áp dụng pháp luật là gì? Theo pháp luật Việt Nam, trường hợp nào cần phải áp dụng pháp luật?
- Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan
có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp
luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Trong
những trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật thì cơ quan, tổ chức, xã hội cũng có thể
thực hiện hoạt động này.
- Theo pháp luật Việt Nam, áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành trong những trường hợp sau:
+ Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc áp dụng các chế tài pháp luật đối với
những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
+ Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
+ Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ
pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Trong trường hợp này, dù quan hệ pháp luật
đã phát sinh nhưng quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể quan hệ pháp luật đó không được thực
hiện và có sự tranh chấp.
+ Trong một số quan hệ pháp luật, nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát
hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không
tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế.
13. Chỉ ra mối liên hệ giữa pháp luật với kinh tế, pháp luật với chính trị và liên hệ vào điều
kiện Việt Nam hiện nay. (tr67)
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành, thừa nhận và bảo đảm thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
MQH giữa PL với kinh tế
MQH giữa PL với chính trị
- Trong mqh với kinh tế, PL có tính độc lập
- Trong mqh vs chính trị, PL là một trong
tương đối. Một mặt, pháp luật do điều kiện
những hình thức biểu hiện cụ thể của chính trị.
kinh tế quyết định, mặt khác, pháp luật lại có
Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị
sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với
luôn giữ vai trò chủ đạo đối với pháp luật. kinh tế.
- Đường lối chính trị thể hiện trước hết ở các
- Chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật, sự thay
chính sách kinh tế. Các chính sách đó được cụ
đổi của chế độ kinh tế sẽ dẫn đến sự thay đổi
thể hóa trong pháp luật thành những quy định của pháp luật.
chung, thống nhất trong toàn xã hội.
- PL phản ánh trình độ phát triển của kinh tế,
- Mặt khác, chính trị còn thể hiện mqh giữa các
nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ
giai cấp và các lực lượng khác nhau trong xã của kinh tế.
hội trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, PL không
- Khi pháp luật phản ánh đúng trình độ phát
chỉ phản ánh các chính sách kinh tế mà còn thể
triển của kinh tế thì pháp luật có nội dung tiến
hiện các quan hệ giai cấp và mức độ của cuộc
bộ và có tác dụng tích cực. Ngược lại, khi pháp đấu tranh giai cấp.
luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi
thời, dùng pháp luật để duy trì các quan hệ
kinh tế lạc hậu thì lúc đó pháp luật tác động
kinh tế theo chiều hướng tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
Liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay
Liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay
Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành • Thứ nhất, hình thành, tổ chức bộ máy nhà
phần kinh tế, các hình thức sở hữu, chính sách
nước Ví dụ: Việc thực hiện pháp luật của cán
tài chính…, qua đó góp phần vào việc sắp xếp, bộ công chức trong nhà nước ngày càng được
cơ cấu các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng quan tâm và thực hiện tốt, điều này đã được cụ
trưởng và ổn định, cân đối nền kinh tế. Với
thể hóa trong Luật sửa đổi, bổ sung một số
mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị
điều của luật cán bộ, công chức và luật viên
trường ở Việt Nam hiện nay bị chi phối và
chức năm 2008. Những quy định cụ thể trong
nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ
luật đã nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, trách
nghĩa. Đương nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm
nhiệm của cán bộ, công chức được làm và
định hướng chính trị đối với kinh tế là đường không được làm.
lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.
• Thứ hai, trong quan hệ ngoại giao giữa các
quốc gia Những năm qua, chúng ta đã hoàn
Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ
thành việc thực hiện phân giới cắm mốc với
đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động
Lào và Trung Quốc; đang trong quá trình thúc
của nền kinh tế, chúng phải được thể chế hóa
đẩy phân giới cắm mốc với Cam-pu-chia, đàm
thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế
phán phân định vùng biển và hợp tác cùng phát
hoạch phát triển kinh tế – xã hội và được triển
triển với Trung Quốc ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ,
khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước,
đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế
dưới sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh
đối với Indonesia, xử lý các vấn đề liên quan
đạo. Thông qua pháp luật, Nhà nước hoạch
đến thềm lục địa mở rộng đối với Malaysia.
định các chính sách kinh tế, trật tự hóa các hoạt Đặc biệt, đối với vấn đề phức tạp trên Biển
động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức và
Đông hiện nay, chúng ta luôn hợp tác và giải
cá nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế
quyết mọi vấn đề tranh chấp bằng biện pháp
phát triển theo những mục đích mong muốn.
hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó
Chính sách kinh tế của nước ta hiện nay được
có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
xác định trong điều 15 Hiến pháp năm 1992
1982, Tuyên bố giữa các bên về ứng xử trên
sửa đổi, bổ sung năm 2001: “Nhà nước xây
Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc, trên
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở
tất cả các diễn đàn song phương và đa phương.
phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
• Thứ ba, pháp luật với đường lối chính sách hóa đất nước”.
của giai cấp thống trị Quan điểm đường lối của
Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát
hướng XHCN, trong đó có các thành phần kinh
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
tế cạnh tranh tự do và bình đẳng đã xác định cơ
chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với sở chính trị cho việc xây dựng Hiến pháp năm
các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
2013 cũng như các đạo luật quan trọng trên
dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu
lĩnh vực kinh tế như Luật Đầu tư, Luật Doanh
tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn
nghiệp… khi đất nước ta đang trong giai đoạn
dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Chính sách
phát triển nền kinh tế thị trường.
kinh tế của Nhà nước ta luôn hướng tới mục
đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thông qua pháp luật, nhà nước ta xác định các
hình thức sở hữu trong xã hội, từ đó tác động
tới quan hệ sở hữu, đặc biệt là sở hữu đối với
các tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản xuất
xã hội. Đối với nền kinh tế thị trường của Việt
Nam hiện nay, pháp luật cũng đã có những
điều chỉnh mang tính định hướng phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế đất nước. Chẳng hạn, việc
quy đinh về các hình thức sở hữu trong xã hội
được thể chế trong chương II Hiến pháp năm
1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Việc thừa
nhận kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài
dưới nhiều hình thức, bên cạnh việc củng cố,
khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể thông qua pháp luật là
một bước đi phù hợp với nền kinh tế nước ta
trong giai đoạn đổi mới. Trước tình hình hội
nhập với quốc tế, việc điều chỉnh trong pháp
luật đã giúp nước ta phá bỏ được nhiều trở ngại
trong tiến trình phát triển nền kinh tế của đất
nước cũng như trong các quan hệ hợp tác kinh
tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
14. Chỉ ra mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước, pháp luật với đạo đức và liên hệ thực
tiễn Việt Nam hiện nay. (tr68)
MQH giữa pháp luật với đạo đức
MQH giữa pháp luật với nhà nước
- Đạo đức là những quan điểm, quan niệm của
- PL và nhà nước là hai hiện tượng thượng tầng
con người (một cộng đồng, một giai cấp) về cái chính trị - pháp lý, luôn có mối quan hệ chặt
thiện, cái ác, về sự công bằng. Những quan
chẽ, bổ sung cho nhau. . Nhà nước và pháp luật
điểm, quan niệm này rất khác nhau, do những
cùng có chung nguồn gốc hình thành và phát
điều kiện của đời sống vật chất xã hội quyết triển. định.
- Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền
- Những quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội lực chính trị, nhưng quyền lực chính trị đó chỉ
cũng rất khác nhau. Giai cấp thống trị xã hội có có thể được thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở
điều kiện thể hiện qua quan điểm, quan niệm
pháp luật. Còn pháp luật do nhà nước ban hành
của mình thành pháp luật. Do vậy, pháp luật
và đảm bảo thực hiện.
luôn phản ánh đạo đức của giai cấp cầm quyền. - Pháp luật có khả năng triển khai đường lối
- Tuy nhiên, do có nhiều quan niệm khác nhau chính trị của giai cấp cầm quyền trên quy mô
trong xã hội, cho nên khi xây dựng và thực
toàn xã hội một cách nhanh nhất, tức là nhà
hiện pháp luật, giai cấp cầm quyền cũng phải
nước không thể phát huy được quyền lực của
tính đến yếu tố đạo đức để tạo cho pháp luật có mình nếu thiếu pháp luật và ngược lại pháp
một khả năng “thích ứng”, làm cho nó “tựa hồ” luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi
như thể hiện ý chí của mọi tầng lớp trong xã
dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà hội. nước.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, vị trí cũng như vai trò
Như chúng ta đã phân tích cụ thể ở bên trên,
mối quan hệ của pháp luật và đạo đức ngày
nhà nước và pháp luật Việt Nam cùng ra đời và
càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực.
chúng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
Nhà nước sẽ có chức năng bảo vệ pháp luật
Thứ nhất, do được nhà nước xây dựng dựa trên thực thi hiệu quả nhất. Nhà nước cũng có một
các quan diểm đạo đức của nhân dân, pháp luật bộ máy cưỡng chế đặc biệt nhằm mục đích để
không những thể hiện được tư tưởng cách
đảm bảo cho việc thực thi pháp luật được diễn
mạng, đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức ra một cách chính xác.
tiến bộ mà còn thể hiện được ý chí, nguyện
vọng và hướng tới lợi ích của nhân dân lao
Pháp luật thì sẽ lại được nhà nước ban hành và
động. Cụ thể là được thể hiện trong Hiến pháp
được thừa nhận. Cũng chính bởi vì thế, nhà
năm 1992 sửa đổi bổ sung 2001, Điều 2 quy
nước ta vẫn luôn đảm bảo cho pháp luật được
định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
thực thi một cách nhanh chóng, hữu hiệu nhất
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
trong cuộc sống con người. Pháp luật sẽ do nhà
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
nước ban hành, pháp luật sẽ được truyền bá và
dân”. Hệ thống pháp luật Việt nam hiện hành
sẽ được phổ biến tới mỗi người bằng nhiều con
được xây dựng trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ
đường khác nhau và chính thức thông qua các
phẩm giá con người, coi việc phục vụ con
hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
người là mục đích cao nhất của nó. Hiến pháp
Pháp luât cũng sẽ có khả năng có những tác
1992 quy định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ
động đến mọi chủ thể là những cá nhân hay là
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính các tổ chức trong xã hội. Không những thế,
trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn pháp luật cũng sẽ điều chỉnh hầu hết đối với
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).
Nhà nước ta cũng đã ban hành, thay đổi, hủy
bỏ, hoàn thiện pháp luật, cùng với đó là tiến
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam phản
hành bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm, bảo
ánh khá rõ nét tư tưởng nhân đạo, một tư tưởng đảm pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống của
đạo đức cơ bản của nhân dân ta. Tính nhân đạo người dân một cách rất rõ ràng. Trước đổi mới,
trong hệ thống pháp luật Việt Nam được thể
Đảng và Nhà nước ta cũng đã thực hiê ‘n chính
hiện rất rõ trong các quy định về các chính
sách ngoại giao khép kín. Hê ‘ thống pháp luâ ‘t
sách xã hội của nhà nước. Nhà nước Việt Nam của nước ta giai đoạn này thực chất cũng đã
đã có nhiều chính sách ưu đãi, quan tâm đặc
ngăn cấm các hoạt đô ‘ng đầu tư của tư bản
biệt tới các thương binh, liệt sĩ, người có công
nước ngoài vào. Nhưng, ta thấy được rằng, từ
với cách mạng, người già, trẻ em không nơi
khi mở cửa và hội nhập nền kinh tế thì Đảng
nương tựa, người tàn tật…Tính nhân đạo trong và Nhà nước ta cũng đã đă ‘t quan hê ‘ ngoại giao
hệ thống pháp luật Việt Nam còn được thể hiện với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
ngay cả trong các quy định về xử lý người có giới.
hành vi vi phạm pháp luật.Chẳng hạn các quy
định của Bộ luật hình sự, quy định về các tình
Trước tình hình đó thì ta thấy được rằng, pháp
tiết giảm nhẹ hình sự; quyết định hình phạt nhẹ luâ ‘t của Việt Nam về cơ bản cũng đã có những
hơn quyết định của bộ luật (Điều 46, điều 47);
thay đổi nhằm mục đích để sao cho có thể phù
miễn hình phạt (điều 54); miễn chấp hành hình hợp với xu thế chung. Không những thế thì phạt (điều 57); ...
Nhà nước ta đã có nhiều chính sách được ban
hành nhằm mục đích để có thể thu hút nguồn
Thứ ba, đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, vốn đầu tư nước ngoài như tạo môi trường đầu
bổ sung, hoàn thiện cho pháp luật, tạo điều
tư thông thoáng đối với các quốc gia và các
kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh nhà đầu tư. Những chính sách đó về cơ bản
trong đời sống. Khi pháp luật chưa được ban
cũng đã được thể hiê ‘n tâ ‘p trung trong pháp luâ ‘t
hành kịp thời, không đầy đủ, đạo đức giữ vai
Viê ‘t Nam giai đoạn hiê ‘n hành.
trò bổ sung, thay thế cho pháp luật. Nhà nước
ta thừa nhận tập quán có thể thay thế pháp luật
trong những trường hợp pháp luật chưa quy
định và nội dung tập quán không trái với quy
định của pháp luật.Đạo đức còn tạo điều kiện
để pháp luật được thực hiện nghiêm minh trong
đời sống xã hội. Gia đình, nhà trường, các thiết
chế xã hội đã thực sự phát huy vai trò tích cực
của mình trong vấn đề giáo dục nhân cách, lối
sống. Chính vì vậy, về cơ bản, tuyệt đại đa số
các thành viên trong xã hội đều có ý thức đạo
đức tốt, có lối sống lành mạnh, tôn trọng mọi
người,tôn trọng các quy tắc sống chung của cộng đồng.
Thứ tư, pháp luật đã góp phần quan trọng trong
việc giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo
đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng đạo
đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hoá xuống cấp
của đạo đức, loại trừ những tư tưởng đạo đức
cũ, lạc hậu. Để giữ gìn và phát huy các quan
niệm đạo đức của dân tộc, Hiến pháp 1992 quy
định:“Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị
của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi
tài năng sáng tạo trong nhân dân
” (điều 30).
Pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc góp phần loại bỏ những tư tưởng đạo đức
phong kiến khác, chẳng hạn tư tưởng “sống lâu
lên lão làng”, pháp luật quy định về các chính
sách trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, các
quy định về bố trí, sắp xếp cán bộ…
Bên cạnh những mặt tích cực trong mối quan
hệ giữa pháp luật với đạo đức, thực tế Việt
Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Một là,
trong một số trường hợp thì ranh giới điều
chỉnh giữa đạo đức và pháp luật chưa rõ ràng
hay sự pháp luật hoá các quy tắc các quan niệm
đạo đức không cụ thể dẫn đến khó ứng dụng
vào cuộc sống. Hai là, trong xã hội nhiều quan
niệm, tư tưởng đạo đức cổ hủ, lạc hậu vẫn còn
tồn tại mà chưa bị ngăn chặn đúng mức cần
thiết. Ví dụ như tư tưởng gia trưởng, thói cá
nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp,
trọng nam khinh nữ,…vẫn có ảnh hưởng không
nhỏ trong đại bộ phận dân cư.Cuối cùng, đạo
đức trong xã hội xuống cấp là nguyên nhân
chính làm gia tăng các vi phạm pháp luật.
Nguyên nhân cơ bản là sự nhận thức không
đúng đắn về vai trò của đạo đức, nhất là đạo
đức truyền thống. Để khắc phục được những
hạn chế nói trên, nhà nước ta cần phải nâng cao
ý thức đạo đức nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ
– tương lại của đất nước, nâng cao giáo dục,
giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc.
15. Hệ thống pháp luật Việt Nam gồm bao nhiêu bộ phận cấu thành? Trình bày các bộ
phận cấu thành đó.
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với
nhau, được phân định thành các bộ phận cấu thành (ngành, chế định khác nhau, phù hợp với đặc
điểm, tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh).
Thông thường, chúng ta giới hạn xem xét pháp luật với tư cách là hệ thống quy phạm pháp luật
với các cấp độ cấu trúc là: Quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật.
- Quy phạm pháp luật: Là thành tố nhỏ nhất, là “tế bào”, “viên gạch” trong hệ thống cấu trúc
pháp luật. Trong quy phạm pháp luật đã thể hiện đầy đủ đặc điểm của pháp luật – đó là tính
khuôn mẫu, tính chặt chẽ về mặt hình thức, tính cưỡng chế nhà nước. Mỗi quy phạm pháp luật
được thực hiện vai trò điều chỉnh đối với một quan hệ xã hội nhất định.
- Chế định pháp luật: Gồm một nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã
hội liên quan mật thiết với nhau và có chung tính chất. Chế định pháp luật mang tính chất nhóm,
mỗi chế định có đặc điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau,
chúng không tồn tại biệt lập. Việc xác định ranh rới giữa các chế định nhằm tạo ra khả năng xây
dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn đời sống.
- Ngành luật: Bao gồm tổng hợp những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội
cùng loại thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội, bằng những phương pháp riêng của mình.
Để xác định một ngành luật, người ta thường dựa vào hai căn cứ là đối tượng điều chỉnh và
phương pháp điều chỉnh.
+ Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những quan hệ xã hội có chung tính chất, phát sinh
trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
+ Phương pháp điều chỉnh pháp luật là cách thức, biện pháp mà nhà nước sử dụng trong pháp
luật để tác động cách xử sự của chủ thể tham gia các quan hệ xã hội.
16. Nêu các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật. Lấy ví dụ minh họa?
Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm: Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật.
- Chủ thể là cá nhân bao gồm công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch. Cá nhân
muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Chủ thể là pháp nhân. Mặc dù pháp nhân là chủ thể phổ biến của các quan hệ pháp luật nhưng
không có nghĩa là pháp nhân có thể trở thành chủ thể của tất cả các quan hệ pháp luật.
- Ngoài cá nhân và pháp nhân, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn là chủ thể đặc biệt của quan hệ
pháp luật. Ngoài ra, trong một số nhóm quan hệ pháp luật còn thừa nhận một số chủ thể khác
như hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư nhân.
2. Khách thể quan hệ pháp luật
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, tinh thần hoặc những lợi ích xã hội
khác mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
Khách thể của quan hệ pháp luật có thể là các tài sản vật chất như tiền, vàng, bạc, nhà ở, ...; các
hành vi xử sự của con người như vận chuyển hàng hóa, khám chữa bệnh, ... và các lợi ích phi vật
chất như quyền tác giả, danh dự, nhân phẩm, ...
Khách thể của quan hệ pháp luật phản ánh lợi ích của chủ thể.
3. Nội dung quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
- Quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật là khả năng xử sự của những người tham gia quan hệ
pháp luật được quy phạm pháp luật xác định trước và được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước.
- Nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc chủ thể phải thực hiện nhằm đáp ứng
việc hưởng quyền của chủ thể khác.
Ví dụ minh họa: Ngày 19/7/2017, bà Vũ Thanh Hoa đến UBND phường Văn Miếu, quận Đống
Đa xin cấp giấy khai tử cho bố đẻ.
1. Chủ thể: Bà Vũ Thanh Hoa và UBND phường Văn Miếu