Đề cương thi cuối kỳ - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Vật chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho conngười trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại và tồn tại không lệthuộc vào cảm giác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG THI CUỐI KÌ TRIẾT MÁC LENIN 7/1/2021 Đề: Câu 1:
1. Mối quan hệ vật chất và ý thức:
* Vật chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Vật chất là toàn bộ thứ tồn tại bên ngoài ý nghĩ, gồm tất cả những thứ thấy được, cầm
được, hữu hình, vô hình mà chỉ có thể cảm nhận thông qua cảm giác, não bộ. Vật chất
vừa có sẵn trong tự nhiên, vừa do con người tạo ra.
- Vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động thể hiện sự tồn tại của mình.
Không có vật chất không vận động, cũng không có vận động nằm ngoài vật chất. Thuộc
tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể là tồn tại, vận động trong không gian và thời gian.
Ví dụ : Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, nền kinh tế, nền văn hóa
* Ý thức: Là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách qua não người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
- Ý thức là những gì sinh ra trong não bộ, là tri thức, tình cảm, tư tưởng, niềm tin của con
người. Ý thức ra đời từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc lịch sử - xã hội, nó phản ánh
tích cực, sáng tạo gắn với thực tiễn xã hội . Ý thức trao đổi thông tin giữa các chủ thể và
đối tượng phản ánh, vận dụng để cải tạo hoạt động thực tiễn, xây dựng các học thuyết khoa học.
Ví dụ cục đá dưới nắng chảy thành nước, đó là phản ánh thụ động. Còn con người luôn
phản ánh chủ động, đơn cử là việc đi học, lấy kiến thức áp dụng vào thực tiễn.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì:
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức,
song ý thức có thể tác động tích cực trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
- Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
* Vật chất quyết định ý thức:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Các thành tựu của khoa học tự nhiên
hiện đại đã chứng minh rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật chất
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là
phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết
quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính
không tách rời trong bản chất của ý thức. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có
tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức,
trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo
và sáng tạo trong phản ánh.
- Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức: ý thức là sự phản ánh vật chất vào
trong não nên mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức gắn liền với quá trình biến đôi của vật chất
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
- Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập
tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi
phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện
thực; ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
- Trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
ví dụ một số dân tộc thiểu số sống trong điều kiện cực khổ, tư duy lạc hậu sẽ có dân trí
thấp, ít hiểu biết về thế giới xung quanh. Ở đây vật chất là nguồn gốc phát triển ý thức .
Còn dân trí thấp dẫn tới trình độ lao động kém, năng suất kiếm tiền thấp, hệ quả đời sống
càng cực khổ hơn, ở đây ý thức tác động lại vật chất
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động
chủ quan. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu
quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc
bôi đen đối tượng. Nhận thức nhìn chung phải xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện tượng, tránh
chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng.
- Vì YT có tính độc tương đối và sự tác động trở lại VC nên phải phát huy tính năng động tích cực,
sáng tạo, chống tư tưởng, thái độ bảo thủ, thụ động, trì trệ. Phải giáo dục và nâng cao trình độ tri
thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình ý chí cách mạng, nhất là trong điều kiện nền văn
minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa. Coi trọng việc giữ gìn và rèn luyện phẩm chất đạo đức,
bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
- Để thực hiện nguyên tắc khách quan và phát huy tính năng động của nhân tố con người, chúng ta
phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải có động cơ trong sáng, thái độ thật
sự khách quan, khoa học không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
- Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong cuộc sống:
+ Trong kinh tế và chính trị: Vận dụng của ĐCS Việt Nam vào sự nghiệp đổi mới – Từ lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm những thành công và thất bại trong quá trình
lãnh đạo cách mạng. “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan”.
+ Trong việc xây dựng nền kinh tế mới: Áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Nó là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua những nhận thức cụ thể.
Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có sự cải tạo của con người mới có ích cho nhiều việc. + Cho VD:
o Trước khi thực hiện một trận đánh chúng ta làm quyết tâm thư; thực hiện tự phê
bình và phê bình; rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực.
Thực hiện giáo dục nhận thức thông qua các phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ
địa phương và đạo đức giả.
o Thực hiện giáo dục chính trị tư tưởng gắn với đề cao lợi ích vật chất như: Đạt danh
hiệu thi đua; khen thưởng.
=> LIÊN HỆ BẢN THÂN: không tô hồng, bôi đen đối tượng.
2. Nguyên lí mối liên hệ phổ biến:
- “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định
và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối
tượng với nhau, giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ : Quá trình cung - cầu trên thị trường
- Tính chất của mối liên hệ phổ biến: Mối liên hệ phổ biến gồm có ba tính chất, đó
là tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú:
+ Tính khách quan: là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; không phụ thuộc vào ý
thức của con người. Con người nhận thức được sự vật thông qua các mối liên hệ vốn có của
nó rồi phát hiện ra những quy luật và nguyên lý hoạt động của thế giới khách quan. Thế giới
này là thế giới vật chất, mọi sự vật hiện tượng đều thống nhất với nhau ở tính vật chất.
Ví dụ : Một cái cây muốn tồn tại cần có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài. Mối
liên hệ bên ngoài là đất, nước, ánh sáng,..., mối liên hệ bên trong là sự chuyển đổi chất nội
bộ. Những mối liên hệ này là cái vốn có của cái cây chứ không phải được tạo ra từ ý muốn
của con ngườI, không có những mối liên hệ này nó sẽ chết.
+ Tính phổ biến: của mối liên hệ phổ biến chỉ ra rằng, mối liên hệ tồn tại ở trong mỗi sự vật
hiện tượng, trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó thể hiện mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng và thể hiện mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính đặc trưng của sự vật
hiện tượng. Không có sự vật hiện tượng nào tồn tại độc lập không có mối liên hệ, cũng
không có sự vật hiện tượng nào không phải một hệ thống.
Ví dụ : Trong một gia đình, bố mẹ dạy dỗ con cái, anh chị em yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, không có ai tồn tại độc lập riêng rẽ. Nếu một thành viên có vấn đề gì đều sẽ gây ảnh
hưởng, tác động lên thành viên khác . Nên có câu “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” .
+ Tính đa dạng, phong phú: sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau
thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối
liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu,... Các
mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện
tượng và sự phân cấp chỉ mang tính tương đối.
Ví dụ : Một mối quan hệ ở không gian, thời gian, hoàn cảnh khác thì nó cũng sẽ khác. Ví dụ
tình bạn giữa hai người khi còn ở lứa tuổi học sinh và khi trưởng thành, đi làm, lập gia đình sẽ khác nhau.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng và mang tính khách quan, phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
+ Khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất tất cả
các mặt, các bộ phận, yếu tố, thuộc tính, các mối quan hệ của chỉnh thể đó
Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ liên quan, phải rút ra
được các mặt, mối liên hệ tất yếu, chỉ như vậy mới nhận thức đúng sự vật, hiện tượng.
+ Cần xem xét đối tượng trong mối liên hệ với đối tượng khác và môi trường xung quanh,
kể cả các mặt của mối liên hệ trung gian; trong không gian thời gian nhất định, cần nghiên
cứu cả những mối liên hệ trong quá khứ, hiện đại và phán đoán tương lai. Không được
phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt
nhưng lại không thấy mặt bản chất của sự vật, hiện tượng.
Vận dụng vào thực tiễn, Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác lênin cũng như vận
dụng đúng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để đổi mới đất nước toàn diện trên mọi lĩnh
vực mà trọng tâm là đổi mới kinh tế . Xây dựng nền kinh tế thị trường nhằm tạo động lực
phát huy nền kinh tế trong nhân dân, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao trình độ, áp
dụng khoa học công nghệ tiên tiến,... Hiện nay Việt Nam đã gia nhập WTO, tạo tiền đề cho
việc hội nhập toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
LIÊN HỆ BẢN THÂN: Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên
hệ liên quan, phải rút ra được các mặt, mối liên hệ tất yếu, chỉ như vậy mới nhận thức đúng sự vật, hiện tượng.
Khi đánh giá vấn đề, phải nhìn nhiều mặt,....
3. Nguyên lý sự phát triển:
- Phát triển theo quan điểm biện chứng là một hình thức vận động, nó khái quát hóa quá trình
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Ví dụ : Sự tiến hóa từ vượn, vượn người sang người
- Tính chất của sự phát triển: Nguyên lý về sự phát triển gồm có bốn tính chất, đó là tính
khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng phong phú và tính kế thừa.
+ Tính khách quan của sự phát triển: chỉ ra rằng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong sự vật hiện tượng, nó không do bất kì ai sáng tạo ra, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người. Sự phát triển mang tính khách quan, chúng phát triển được là do giải
thuyết mâu thuẫn bên trong chính sự vật hiện tượng.
Ví dụ : Một quốc gia muốn phát triển cần giải thuyết vô vàn mâu thuẫn bên trong, như mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất lỗi thời, hay mâu thuẫn kinh tế
với hàng loạt vấn đề như công ăn việc làm, bình đẳng, ô nhiễm môi trường,...
+ Tính phổ biến của sự phát triển được diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở
bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù
phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự
phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản
ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển. Phát triển có tính kế thừa, cái sau ra đời
từ cái trước chứ không đoạn tuyệt với cái cũ.
Ví dụ : Khả năng thích nghi trước môi trường mới của giới động thực vật, sự tiến hóa từ
đơn giản tới phức tạp, từ đơn bào tới đa bào, ngày càng xuất hiện nhiều loài động thực vật
với mức độ tiến hóa cao hơn.
+ Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển chỉ ra rằng, vì mỗi sự vật hiện tượng tồn tại
trong khoảng thời gian khác nhau, chịu sự tác động, phát triển khác nhau. Chính vì vậy mà
nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vật phát triển.
Ví dụ : Hai cây ổi cùng một giống nhưng thời gian ra quả , chất lượng quả khác nhau do
điều kiện sống và được chăm sóc của hai cây là chênh lệch nhau. Hay như các bạn sinh viên
trong cùng một khóa, mỗi bạn có năng lực tư duy khác nhau, hình thể khác nhau,... có bạn
thi đại học một lần là đỗ, có bạn quyết tâm thi lại nhiều lần mới đậu.
+ Tính kế thừa của sự phát triển chỉ ra rằng, một sự vật hiện tượng không bao giờ ra đời trên
một mảnh đất trống. Phát triển là quá trình đấu tranh giữa các mặt với nhau bên trong sự vật
hiện tượng và hướng tới hình thành cái mới, cái tốt thay thế cái lạc hậu rồi phát triển hơn
chứ không phải là triệt tiêu hoàn toàn cái cũ .
Ví dụ : Mác và Lênin không thể sáng tạo ra chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói
riêng nếu không có sự kế thừa, bổ sung và phát triển từ ba nguồn gốc lý luận : Triết học cổ
điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tự phát . Từ đó xây dựng
nên ba bộ phận xã hội của chủ nghĩa Mác.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
- Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển gồm quan điểm phát triển và
quan điểm lịch sử - cụ thể:
-Theo quan điểm phát triển, thứ nhất vì phát triển là khuynh hướng chung, phải trải nhiều
giai đoạn khác nhau nên khi xem xét cần đặt đối tượng vào sự vận động và phát triển để
thấy nó ở hiện tại và dự báo được xu hướng phát triển của nó trong tương lai. Sau đó tìm ra
phương pháp phù hợp tác động, có thái độ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nó. Thứ
hai, phải hiểu rằng tính quanh co, phức tạp xảy trong quá trình phát triển là điều bình
thường . Thiếu quan điểm này người ta dễ rơi vào bi quan, trắc trở khi gặp khó khăn trong cuộc sống .
⇨ Vì vậy cần sớm phát hiện ra cái mới kế thừa những yếu tố tích cực thay thế cái cái cũ,
chống lại quan điểm trì trệ, bảo thủ định kiến. Thấu đạt cả nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến lẫn nguyên lý về sự phát triển sẽ cho ta khả năng “nhìn xa trông rộng”
- Theo quan điểm lịch sử - cụ thể, muốn nắm được bản chất sự việc hiện tượng nào đó thì
cần phải xem xét sự hình thành, quá trình tồn tại và phát triển của nó trong từng điều kiện,
hoàn cảnh, quá trình lịch sử và các giai đoạn cụ thể của quá trình ấy.
Vận dụng sáng tạo và đúng đắn nguyên lý về sự phát triển vào trong học tập. Trong
học tập cần phải biết phân biệt, chú ý tới những mối liên hệ quan trọng và sự chuyển hóa
nhau giữa chúng trong từng điều kiện xác định để hiểu rõ bản chất sự vật hiện tượng, đưa ra
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại kết quả cao trong học tập. Cần nắm rõ chương
trình mình đang theo học, yêu cầu xã hội, dự đoán xu hướng phát triển ngành nghề trong
tương lai. Từ đó không ngừng hoàn thiện, phát triển năng lực và tư duy của bản thân.
LIÊN HỆ BẢN THÂN: hiểu rằng tính quanh co, phức tạp xảy trong quá trình phát triển là
điều bình thường . Thiếu quan điểm này người ta dễ rơi vào bi quan, trắc trở khi gặp khó khăn trong cuộc sống .
4. Quy luật lượng chất:
* Chất dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính cấu thành nó làm cho sự vật đó là nó chứ không phải là cái khác . Chất của sự
vật hiện tượng được xác định bởi các thuộc tính khách quan vốn có và cấu trúc của nó .
Ví dụ : Ớt thì cay, chanh thì chua
* Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng và tổng hợp những thuộc tính
quy định sự vật về mặt số lượng, quy mô, kích thước, trình độ, nhịp điệu, tốc độ vận động và
phát triển của sự vật. Lượng mang tính rộng và khách quan, lượng có nhiều biểu hiện khác
nhau ( thông qua đại lượng, con số,...)
Ví dụ : Việc đi học tích lũy kiến thức của học sinh
*Nội dung “ Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi chất
và ngược lại ” là quy luật về phương thức cơ bản của mọi sự vận động, phát triển.
Chất và lượng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng. Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là một
thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất. Hai mặt này không thể tách rời mà tác động lẫn
nhau. Sự thay đổi tất yếu về lượng sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất. Tuy nhiên, không phải mọi sự
thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay đổi về chất.
Lượng thay đổi làm chất thay đổi:
- Lượng là yếu tố năng động, luôn thay đổi tăng hoặc giảm. Lượng biến đổi dần dần và tuần tự,
biến đổi về lượng có xu hướng tích lũy để đạt tới điểm nút. Tại điểm nút diễn ra sự nhảy vọt
làm biến đổi về chất dẫn đến cái cũ mất đi, cái mới ra đời thay thế cho nó .
* Độ dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó chất và lượng thống nhất với nhau, sự thay đổi
về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật . Ví dụ : Sinh viên năm 3, năm 4 vẫn gọi là sinh viên .
* Điểm nút dùng để chỉ thời điểm mà lại có sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của
sự vật . Ví dụ : Thời điểm sinh viên hoàn thành hết nghĩa vụ với nhà trường
* Bước nhảy là sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là sự kết thúc
một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới . Bước
nhảy rất đa dạng (bước nhảy nhanh và chậm, lớn và nhỏ,...) Ví dụ : Bước nhảy từ chất học sinh sang chất sinh viên
Chất thay đổi làm lượng thay đổi:
- Chất là yếu tố ổn định, ít thay đổi, khi lượng đổi trong phạm vi độ thì chất chưa có biến đổi.
Chất đổi làm nhảy vọt tại điểm nút, biến đổi về chất diễn ra nhanh chóng đột ngột, làm cho chất
cũ mất đi hình thành chất mới. Cùng với những tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào cũng có
những tính quy định về lượng. Chất mới ra đời luôn đòi hỏi một lượng phù hợp cho sự tồn tại của chính chất đó.
Như vậy, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về lượng trong độ nhất
định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
* Ví dụ: Nước nguyên chất ở trạng thái lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ
0°C đến 100°C (độ). Khi nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn ấy (điểm nút) thì sẽ
xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ lỏng sang rắn hoặc khí (bước nhảy).
Như vậy, quan hệ lượng – chất là quan hệ biện chứng. Những thay đổi về lượng chuyển thành
những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn.
Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới hình thành lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến
đổi. Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên tục. Tùy vào
sự vật hiện tượng, mâu thuẫn vốn có và điều kiện, có nhiều hình thức bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ, có bước nhảy toàn bộ ( làm tất cả các mặt, bộ phận, yếu tố,… thay
đổi) và bước nhảy cục bộ (làm thay đổi một số yếu tố)
Căn cứ vào thời gian sự thay đổi và dựa trên cơ chế sự thay đổi có bước nhảy tức thời (làm chất
của sự vật hiện tượng biến đổi mau chóng) và bước nhảy dần dần (thay đổi bằng cách tích lũy dần)
- Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng
để làm biến đổi về chất theo quy luật. Khi đã tích lũy đủ về số lượng thì thực hiện bước
nhảy là yêu cầu khách quan của sự vận động. Không nên có tư tưởng nôn nóng thực hiện
bước nhảy khi chưa tích đủ lượng hoặc bảo thủ không dám thực hiện bước nhảy
- Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy.
Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và
những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể.
LIÊN HỆ BẢN THÂN Liên hệ thực tiễn về tình yêu, Khi hai người mới biết nhau thì chỉ
có một chút mến cảm. Thông qua việc hoạt động và giao tiếp cùng nhau mà họ dần hiểu về
con người, cá tính và những nét duyên dáng của nhau, họ bắt đầu yêu đối phương vì thấy
đối phương là người tốt ở nhiều khía cạnh và hợp với mình. Việc tích lũy về những hiểu
biết, tình cảm, cảm xúc là việc tích lũy về lượng. Nhưng để chính thức là người yêu thường
phải thông qua bước tỏ tình và nhận lời yêu. Đây là "bước nhảy" chuyển từ chất này (tình
bạn) qua chất khác (tình yêu). Cần xác định xem lượng đã đủ chưa để thực hiện bước nhảy,
vì nếu tích chưa đủ lượng mà thực hiện bước nhảy thì sẽ thất bại, nhưng nếu đã đủ lượng rồi
mà không thực hiện bước nhảy thì sẽ không biến đổi được về chất. Đối với tình yêu cũng
vậy, nếu đã đủ tình cảm rồi mà không dám tỏ bày thì thật đáng tiếc.
5. Quy luật các mặt đối lập: (Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập)
- Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Ví dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau.
Ví dụ : Nông dân đấu tranh chống lại địa chủ, địa chủ tìm cách bóc lột nông dân.
- Mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối
lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Ví dụ, mối liên hệ thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa giữa đồng hóa và dị hóa trong cơ thể sinh vật
- Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh giữa các mặt đối lập
- Thống nhất: là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau. Các mặt đối
lập tác động ngang nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa
mất hẳn. Giữa các mặt đối lập có sự tương đồng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện: các mặt đối
lập cần nhau, nương tựa lẫn nhau, tiền đề cho nhau tồn tại; các mặt đối lập tác động ngang
nhau; giữa các mặt đối lập có sự tương đồng do tồn tại những yếu tố giống nhau.
Vị trí của quy luật: Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó
phản ánh về mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt,
khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật,
hiện tượng đó. Và sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguồn gốc tạo
nên sự vận động và phát triển, dẫn đến cái mới ra đời thay thế cái cũ.
Nội dung của quy luật:
- Sự thống nhất của các mặt đối lập:
+ Các mặt đối lập nương tựa và làm tiền đề cho nhau tồn tại, tác động ngang nhau,
cân bằng thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn.
Giữa các mặt đối lập có sự tương đồng.
- Đấu tranh của các mặt đối lập:
+ Chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là tự thân.
- Sự thống nhất đấu tranh: nguyên nhân dẫn tới sự vận động và phát triển, làm cho cái
cũ mất đi và cái mới ra đời.
Phân loại: Dựa vào các yếu tố khác nhau mà người ta chia mâu thuẫn thành nhiều loại (mâu
thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và thứ
yếu, mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản :
- Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả
các giai đoạn phát triển của sự vật, nó quyết định sự nảy sinh của các mâu thuẫn khác . Ví dụ :
Mâu thuẫn của một nước trong việc lựa chọn tiến lên XHCN hoặc là TBCN.
- Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đỏ của sự vật, nó
quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật. Ví dụ : Mâu thuẫn về vấn đề
ruộng đất giữa nông dân và địa chủ phong kiến.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
- Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng, có
tác dụng quy định đối với các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn đó của quá trình phát triển.
Ví dụ : Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mâu thuẫn chủ yếu giữa Việt Nam với thực dân Pháp
- Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự
vật, nhưng không đóng vai trò chi phối sự vật. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu góp phần vào việc
giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
- Mâu thuẫn bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập bên trong một sự vật hiện
tượng. Nó giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật. Ví dụ : Sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, mâu thuẫn ở từng nước Đông Âu trong việc lựa chọn phương hướng phát triển của
đất nước : XHCN hoặc TBCN.
- Mâu thuẫn bên ngoài (Có vai trò quan trọng trong sự vận động phát triển của sự vật) là sự tác
động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập thuộc các sự vật khác nhau.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã
hội,... có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hòa được. Ví dụ : Sự đối lập của hai cực
Ianta sau Chiến tranh thế giới thứ 2 giữa 2 phe TBCN và XHCN.
- Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp có lợi ích cơ bản không
đối lập nhau . Ví dụ: Mâu thuẫn giữa các chủ xí nghiệp, chủ nhà máy -> Mâu thuẫn biện chứng
chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập Quan điểm siêu
hình phủ nhận mâu thuẫn khách quan, coi mâu thuẫn là thủ phí logic chỉ trong tư duy không thể chuyển hóa.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng mang tính khách quan, phổ biến nên phải tôn trọng mâu thuẫn…
- Phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn để tìm ra cách giải quyết phù hợp; xem xét vai
trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng,
tránh rập khuôn, máy móc…
- Nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập,
không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ.
Liên hệ thực tiễn : Hoạt động chính của ngân hàng là nhận gửi và cho vay với mục đích lợi
nhuận. Mối quan hệ mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro là một mâu thuẫn biện chứng. Lãi càng
cao thì rủi ro càng lớn và và ngược lại. Ngân hàng thu hút vốn trong dân cư dưới các hình thức
tiền gửi tiết kiệm, bán chứng khoán, mở tài khoản,... Rồi dùng vốn huy động đó để cho vay và
hưởng chênh lệch lợi tức. Ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận sau khi đã trừ đi lợi tức, hoặc sẽ
gặp phải rủi ro nếu khách hàng mất khả năng thanh toán. Vậy ngân hàng làm gì để hạn chế rủi
ro ? Họ hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn cao. Trước khi cho
vay tiến hành thẩm định dự án một cách cẩn thận, trong và sau khi cho vay thường xuyên cử
cán bộ tín dụng trực tiếp xuống cơ sở giám sát quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng,...
Tăng được lợi nhuận cho ngân hàng cũng có nghĩa là giải quyết tốt được mâu thuẫn giữa lợi
nhuận và rủi ro, điều này phù hợp với quy luật khách quan “mâu thuẫn là nguồn gốc động lực
của sự phát triển”. Tuy nhiên, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại xuất tiền, nó lại tiếp
tục là động lực để cho ngân hàng phát triển.
LIÊN HỆ BẢN THÂN: Phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn để tìm ra cách giải quyết
phù hợp; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện
chuyển hóa giữa chúng, tránh rập khuôn, máy móc…
Khi gặp vấn đề làm việc nhóm, phân tích ở nhiều góc độ, xem xét vai trò, các mqh của mâu thuẫn,...
6. Quy luật phủ định của phủ định
* Phủ định là phạm trù triết học, dùng chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình
vận động và phát triển. Ví dụ : Công nghệ cũ, lạc hậu được thay thế bởi công nghệ hiện đại hơn.
- Có hai quan điểm khác nhau về phủ định, là phủ định siêu hình và phủ định biện chứng :
+ Phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn, không có tính kế thừa, nguồn gốc của phủ định nằm bên ngoài sự vật.
Ví dụ : “không ai tắm hai lần trên một dòng sông” .
+ Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật
hiện tượng. Phủ định có tính khách quan, nó chọn lọc và kế thừa những yếu tố thích hợp để chuyển
sang cái mới, gạt bỏ cái tiêu cực lạc hậu, không phù hợp gây cản trở cho sự phát triển. Nguồn gốc
của phủ định nằm bên trong sự vật, cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay trong sự vật.
Ví dụ : Các giống gạo được nghiên cứu và nâng cấp không ngừng, mầm gạo ra đời từ hạt, sự ra đời
của mầm gạo là sự phủ định biện chứng đối với cái hạt, nhờ đó giống loài này tiếp tục quá trình tổn
tại và phát triển. Nó vừa thay thế những khuyết điểm, vừa kế thừa ưu điểm của giống gạo cũ.
*Tính chất của phủ định biện chứng:
- Phủ định biện chứng mang tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong
bản thân sự vật. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên
trong của bản thân nó, tạo ra khả năng cái mới ra đời thay thế cái cũ. Vì thế phủ định biện
chứng là sự tự thân phủ định.
- Phủ định biện chứng mang tính kế thừa vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển
tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ.
- Ngoài ra, phủ định còn có tính phổ biến và đa dạng, phong phú: Phủ định biện chứng có ở
mọi sự vật, hiện tượng, lĩnh vực của thế giới, thể hiện ở nội dung, hình thức của phủ định.
- Phủ định biện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và phát triển.
*Phủ định của phủ định:
- Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật mâu thuẫn là do mâu thuẫn bên trong
của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa giữa những mặt
đối lập trong sự vật hiện tượng. Về hình thức, sự vật hiện tượng mới (ra đời do phủ định của phủ
định) sẽ trở về sự vật hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần nào), nhưng về nội dung, không
giống như cũ, mà chỉ dường như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ sở cao hơn.
- Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển. Số lượng các lần phủ định
trong một chu kỳ phát triển tùy theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng
phải qua hai lần mới dẫn đến sự ra đời sự vật hiện tượng mới. Sự phát triển thông qua những lần
phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển không ngừng.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự
vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà
diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau.
Theo quy luật này, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái
lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do đó,
trong hoạt động của mình, con người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn
Trong hoạt động của mình, cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn để đạt chất lượng và
hiệu quả cao, con người phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu sắc,
năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể.
Ví dụ : Trong quá trình đấu tranh cách mạng, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
cũng trải qua nhiều bước quanh co, thậm chí thụt lùi nhưng cuối cùng đã thắng lợi vẻ vang ...
- Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo nguyên
tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu
cực và trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển theo hướng tiến bộ .
Liên hệ thực tiễn: Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước: Quy luật phủ định
của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật, quá trình đổi
mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa dưới tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp, đặt nền móng cho
xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai, đó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên mỗi mô hình
đều có đặc điểm riêng, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có tác động phù hợp với sự phát
triển thực tiễn,đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng
không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ. Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung,
biết kế thừa và sử dụng đặc trưng tiến bộ của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh
tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy mới có kết quả đáng
mừng của 20 năm đổi mới.
⇨ LIÊN HỆ BẢN THÂN: mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến
bộ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố
tích cực của cái cũ, do đó, trong hoạt động của mình, con người phải biết kế thừa tinh
hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn
Đọc báo giấy với đọc báo internet.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nội dung chính của quan điểm toàn diện
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều
mối quan hệ của nó. Thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc hạn chế
được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc
giải quyết các tình huống thực tiễn, nhờ đó tạo ra khả năng nhận thức đúng được sự vật
như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.
Nội dung chính của quan điểm phát triển
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng
thay đổi về chất ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái
xác định, nhờ đó giúp cho chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không
ngừng phát triển của nó. Cũng từ đó có thể dự báo được giai đoạn, hình thái phát triển trong tương lai của nó.
Nội dung chính của quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật
hay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ khách quan đến chủ quan có
liên quan đến sự vật. trong các mối quan hệ và tình huống xác định, các giai đoạn vận
động, phát triển xác định; cũng tức là: khi nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải tránh quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ thể; tránh chiết trung, nguỵ biện.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan
điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển
trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau. Điều kiện không gian và
thời gian này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất, đặc điểm của sự vật đó.
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật. CHUYỆN ĐI DU HỌC.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ phổ biến gồm quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn chúng ta phải biết xác định vai trò, vị
trí, biết được đâu là mối liên hệ cơ bản, mối liên hệ chủ yếu,...
- Khi xem xét một sự vật hiện tượng nào đó, ta cần phải đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại
giữa các bộ phận và mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác , kể cả các mặt, các yếu tố,
khâu trung gian và gián tiếp,...
Việc chọn trường đi du học, cần phải xác định vai trò của việc đi du học là gì, vị trí của bản
thân mình đến đâu và các mối liên hệ cơ bản, chủ yếu với vấn đề đi du học là gì?Xem xét tất cả
các mặt, các yếu tố như kinh tế gia đình, trường học, đất nước, chính sách hỗ trợ cho du học
sinh, nơi ở, chi tiêu, các công việc làm, học gì khi đi du học, hạn chế về ngôn ngữ, các nếp sống
khác nhau, sinh hoạt khác nhau, văn hóa khác nhau, thời tiết khác nhau và cả con người cũng
khác nhau. Phải nhìn nhiều mặt, đa chiều, xem trường đào tạo như thế nào, có thật sự phù hợp
với những điều mình muốn đạt được hay không?Khi đi du học mình sẽ đạt được những gì,
mình sẽ ở trong bao lâu, cơ hội việc làm sau khi đi du học là gì? Mọi thứ đều có sự liên kết, có
quan hệ tác động qua lại với nhau, nên khi quyết định việc du học, nên đặt nó trong các mối
liên hệ với các yếu tố khác như nơi ở, trường học, đất nước, văn hóa, cách sống để đưa ra quyết định.
Đòi hỏi chúng ta phải biết sử dụng nhiều biện pháp, nhìn nhận ở nhiều phương diện khác nhau,
thay đổi các mối liên hệ tương ứng. Mối liên hệ phải được đặt trong một chỉnh thể thống nhất và
thực tiễn để tránh quan điểm phiến diện, siêu hình, chiết trung, ngụy biện . Quan điểm toàn diện
không thống nhất với quan điểm dàn trải vì nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái bản chất quan trọng
nhất của sự vật hiện tượng. Vì thế, chúng ta cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách có trọng điểm.
Phải nhìn nhận ở nhiều chiều, đa chiều, nhìn nhận một cách toàn diện về những vấn đề liên
quan đến việc du học. Phải có những nhìn nhận riêng cho bản thân chứ không phụ thuộc hoàn
toàn vào những suy luận, ý kiến phiến diện, siêu hình của người khác. Đưa ra ví dụ, muốn đi
Hàn Quốc du học, người khác cho rằng không nên, vì Hàn Quốc không mạnh về đào tạo kinh
tế .... không tin mà phải tìm hiểu kĩ hơn để có nhận định riêng, vì bản thân mình mới biết mình
muốn gì, cần gì, muốn đạt những gì và trau dồi cái gì?
- Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn khi xem xét một sự vật hiện
tượng ta phải chú ý tới không gian, thời gian, sự ra đời và phát triển cụ thể đã làm này sinh ra vấn
đề ấy để thấy được tính đặc thù của sự vật hiện tượng trong những bối cảnh khác nhau rồi đưa ra
tình huống cần giải quyết . Quan điểm lịch sử - cụ thể giúp ta tránh khỏi thái độ cào bằng, dàn trải,
đánh đồng,.. Vận dụng vào thực tiễn, Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác lênin cũng như
vận dụng đúng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để đổi mới đất nước toàn diện trên mọi lĩnh vực
mà trọng tâm là đổi mới kinh tế . Xây dựng nền kinh tế thị trường nhằm tạo động lực phát huy nền
kinh tế trong nhân dân, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao trình độ, áp dụng khoa học công
nghệ tiên tiến,... Hiện nay Việt Nam đã gia nhập WTO, tạo tiền đề cho việc hội nhập toàn cầu hóa kinh tế thế giới .
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển gồm quan điểm phát triển và quan
điểm lịch sử - cụ thể
-Theo quan điểm phát triển, thứ nhất vì phát triển là khuynh hướng chung, phải trải nhiều giai
đoạn khác nhau nên khi xem xét cần đặt đối tượng vào sự vận động và phát triển để thấy nó ở hiện
tại và dự báo được xu hướng phát triển của nó trong tương lai. Sau đó tìm ra phương pháp phù hợp
tác động, có thái độ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nó. Thứ hai, phải hiểu rằng tính
quanh co, phức tạp xảy trong quá trình phát triển là điều bình thường . Thiếu quan điểm này người
ta dễ rơi vào bi quan, trắc trở khi gặp khó khăn trong cuộc sống . Vì vậy cần sớm phát hiện ra cái
mới kế thừa những yếu tố tích cực thay thế cái cái cũ, chống lại quan điểm trì trệ, bảo thủ định
kiến. Thấu đạt cả nguyên lý về mối liên hệ phổ biến lẫn nguyên lý về sự phát triển sẽ cho ta khả
năng “nhìn xa trông rộng” Ví dụ : Muốn xây dựng chiến lược kinh tế đòi hỏi phải dự đoán được xu
hướng kinh tế đi trước hiện tại nhiều năm.
- Theo quan điểm lịch sử - cụ thể, muốn nắm được bản chất sự việc hiện tượng nào đó thì cần
phải xem xét sự hình thành, quá trình tồn tại và phát triển của nó trong từng điều kiện, hoàn cảnh,
quá trình lịch sử và các giai đoạn cụ thể của quá trình ấy. Vận dụng sáng tạo và đúng đắn nguyên
lý về sự phát triển vào trong học tập . Trong học tập cần phải biết phân biệt, chú ý tới những mối
liên hệ quan trọng và sự chuyển hóa nhau giữa chúng trong từng điều kiện xác định để hiểu rõ bản
chất sự vật hiện tượng, đưa ra phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại kết quả cao trong học
tập. Cần nắm rõ chương trình mình đang theo học, yêu cầu xã hội, dự đoán xu hướng phát triển
ngành nghề trong tương lai. Từ đó không ngừng hoàn thiện, phát triển năng lực và tư duy của bản thân.
Như vậy, khi thực hiện quan điểm toàn diện và phát triển cần phải luôn luôn gắn với quan điểm
lịch sử cụ thể thì mới có thể thực sự nhận thức chính xác được sự vật và giải quyết đúng đắn, có
hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------