Đề cương Triết học Mac-Lenin | Đại học Văn hóa Hà Nội

Đề cương Triết học Mac-Lenin | Đại học Văn hóa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 11 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
11 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương Triết học Mac-Lenin | Đại học Văn hóa Hà Nội

Đề cương Triết học Mac-Lenin | Đại học Văn hóa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 11 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

30 15 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|42676072
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT
Câu 1. Trình bày quan điểm của triết học Mác- Lênin về vấn đề cơ bản của
triết học? Chức năng của triết học Mác- Lênin ?
Quan điểm của triết học Mác- Lênin
Chúng ta biết rằng triết học khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi
giải quyết các vấn đề cụ thể nó buộc phải giải quyết vấn đề có ý nghĩa nền tảng
làm điểm xuất phát để giải quyết tất cả các vấn đề, đó là vấn đề giữa vật chất
ý thức. Ăngghen viết:” Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức hay giữa tồn tại và tư
duy”.
2. hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học:
Vấn đề cơ bản của triết học được chia thành 2 mặt trả lời cho 2 câu hỏi lớn:
- Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào cósau, cái
nào quyết định cái nào? ( bản thể luận). Nói cách khác, khi truy tìm nguyên
nhân cuối cùng của sự vật hiện tượng hay sự vận động đang cần giải thích thì
nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết
định.Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học dựa trên
3 cách sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
2. Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
3. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhauHai
cách giải quyết đầu tiên tuy có đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm
chung của hai cách giải quyết này đều thừa nhận một trong hai nguyên thể (ý
thức hoặc vật chất) là nguồn gốc của thế giới. Cách giải quyết một và hai
thuộc về triết học nhất nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái: trường phái triết học nhất
nguyên duy vật và trường phái triết học nhất nguyên duy tâm.
Cách thứ ba thừa nhận ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, cả hai
nguyên thể (ý thức và vật chất) đều là nguồn gốc của thế giới. Cách giải thích
này thuộc về triết học nhị nguyên.
- Mặt thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? (Nhận thức luận)
lOMoARcPSD|42676072
Nói cách khác, khi khám phá sự vật hiện tượng con người có dám tin
rằng mình nhận thức được sự vật hiện tượng hay không
Đại đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm cũng như duy vật đều cho
rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên: Các nhà triết
học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới( khả tri luận).
Song do vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức nên
sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Một số
nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế
giới, nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy. Một số
nhà triết học duy tâm khác theo “Bất khả tri luận” lại phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới của con người. 3.Chức năng cơ bản của Triết học Mác –
Lênin
Cũng như mọi khoa học triết học có thể cùng một lúc có thể thực hiện nhiều
chức năng khác nhau. Đó là các chức năng thế giới quan và phương pháp luận,
chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng phê phán… Tuy nhiên, chức năng
thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết
học nói chung, đặc biệt là triết học Mác – Lênin nói riêng.
3.1. Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác -
Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng
sản.
* Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng:
- Nó có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức
đúngđắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận
thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc
sống.
lOMoARcPSD|42676072
- Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hình thành quan điểm
khoahọc định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và
cả cách thức hoạt động của mình.
- Nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng
đắnchính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế
giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng
đồng xã hội nhất định.
- Nó là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn
giáo,phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật
biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng
tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản
cách mạng, phản khoa học.
3.2. Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là
lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
* Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng là phương pháp chung của toàn bộ
nhậnthức khoa học trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương
pháp luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Triết học Mác - nin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư
duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Câu 5. Phân tích định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin ? Nêu ý nghĩa
phương pháp luận của định nghĩa này.
lOMoARcPSD|42676072
• Phân tích - "Vật chất là phạm trù triết học được dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác" Ý nghĩa -
Định nghĩa về vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù của
vật chất với sự phát hiện ra vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn
gốc của ý thức và là nguồn gốc khách quan của cảm giác.
Câu 8. Trình bày quan điểm của CNDVBC về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.
Câu 10. Trình bày nguyên lý mối liên hệ phổ biến của PBCDV. Ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý này?
Mối liên hệ phổ biến là sự ràng buộc, liên hệ chặt chẽ với nhau giữa các sự vật,
hiện tượng trong đời sống xã hội, hoặc trong chính bản thân sự vật hiện tượng
đó. Nội dung của nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật
luôn khẳng định rằng sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới không
phải là sự tồn tại tách rời và cô lập lẫn nhau, mà chúng là một thể thống nhất.
Tức các sự vật, sự việc trong đời sống xã hội luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với
nhau, không thể tách rời. Không có sự vật, hiện tượng nào hoạt động, vận vận
động một cách riêng lẻ cả. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là hình thức công
nhận và khai thác sự vận động của quy luật này trong bản thân sự vật, hiện
tượng của phép duy vật biện chứng: Ràng buộc, gắn bó, tác động qua lại và phụ
thuộc vào nhau. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến muốn khẳng định,
liên hệ là bản chất khách quan của sự vật hiện tượng. Thực tế, xã hội chỉ là hình
thái hoạt động của giới tự nhiên. Sự xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội một mặt, phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên. Song thực tế, các quy
luật tự nhiên cũng có sự ràng buộc nhất định vào các mặt trong đời sống xã hội.
Nếu không có mối liên hệ phổ biến tồn tại trong bản thân từng sự vật hiện
tượng, cũng như thế giới khách quan rộng lớn này, thì thế giới duy vật biện
chứng sẽ không thể vận động một cách hài hòa. Điều kỳ diệu nhất của thế giới
tự nhiên, là các sự vật, hiện tương riêng rẽ nhau, nhưng lại có sự ràng buộc nhất
định với nhau, tạo nên khuôn mẫu vận động rõ ràng, khách quan nhất. Nó tạo
nên quy luật sống của thế giới con người. Mọi việc luôn biến đổi, song sự biến
đổi đó luôn nằm trong khuôn khổ ràng buộc với các sự vật hiện tượng khác. G
trị con người cũng phát triển từ những nền tảng, giá trị mang tính chất cốt lõi,
căn bản này.
Nội dung chính của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên lý này khẳng
định sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau của các sự vật, sự việc trong đời sống xã
hội. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan này đều không tồn tại
riêng lẻ mà chúng liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong bản thân của một sự vật, sự
việc, hiện tượng bất kỳ cũng chứa đựng những sự ràng buộc, gắn bó chặt chẽ với
lOMoARcPSD|42676072
nhau về hình thức cấu tạo, đặc điểm, tính chất. Những đặc tính bên trong bản
thân thân sự vật hiện tượng tạo nên một sự vật hiện tượng hoàn chỉnh. Các sự
vật, sự việc trong đời sống xã hội đều liên hệ với nhau để xây dựng, tạo lập nên
hình thái xã hội, thế giới khách quan toàn vẹn và thống nhất nhất.
Câu 11. Trình bày nguyên lý về sự phát triển của PBCDV. Ý nghĩa phương
pháp luận của nguyên lý này?
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
- Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới,
theo đó,các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, khác nhau đến thế nào
đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế
giới vật chất duy nhất. Ngay cả ý thức của con người cũng chỉ là thuộc tính của
dạng vật chất có tổ chức cao và nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả của sự
phản ánh hiện thực khách quan vào não người.
- Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng, các sự vật, hiện
tượng hay các mặt, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối quan
hệ quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và bản chất của sự vật, hiện
tượng thể hiện qua mối liên hệ đó. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các
sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan, tính có hạn của
sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ
phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác
nhau.
- Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các
tính chất đó của mối liên hệ phổ biến phản ánh tính chất của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới đa dạng.
- Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra
nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn (xem nguyên tắc toàn diện ở
cuối chương).
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
- Khái niệm sự phát triển: Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp
đến cao,từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; nguồn
gốc của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng và giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển; phát triển vừa
diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại sự vật,
hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể
có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
lOMoARcPSD|42676072
- Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên
tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn Ý nghĩa nguyên lý về sự phát triển
như sau:
Đây chính là cơ sở lý luận khoa học để có thể định hướng được việc nhận
thứcthế giới và cải tạo thế giới.
Theo như nguyên lý này thì trong mọi nhận thức và trong thực tiễn cần phải có
quan điểm về sự phát triển. Để có thể phát triển được thì cần phải khắc phục
được những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, định kiến, đối lập với sự phát triển.
Để nhận thức và giải quyết được bất cứ những vấn đề gì trong thực tiễn
thì một mặt cần phải đặt sự vật theo khuynh hướng đi lên của nó. Vì vậy đòi hỏi
phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá
trình phát triển của nó.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn của con người cần phải tôn trong quan điểm phát triển phát
triển. Quan điểm này đòi hỏi khi nhận thức cũng như khi giải quyết một vấn đề
nào đó thì con người cần phải đặt chúng ở trạng thái động và nằm trong khuynh
hướng chung của sự phát triển.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, là quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiễn cải tạo chính bản thân của con người.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia thành
các quá trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn. Trên cơ sở này tìm ra
phương pháp nhận thức và những cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật
tiến triển nhanh hơn hoặc là kìm hãm sự phát triển của nó tùy thuộc vào sự phát
triển đó có lợi hay là có hại đối với đời sống của con người.
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm mục
đích thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúg như quy luật vốn có của nó đòi hỏi
chúng ta cần phải tìm ra được những mâu thuẫn của sự vật qua hoạt động thực
tiễn từ đó giải quyết được mâu thuẫn và tìm ra được sự phát triển.
Câu 17. Trình bày quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về
chất và ngược lại. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự
phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được
tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn
bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
lOMoARcPSD|42676072
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện
tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn định. Do đó sự
phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ
kìm hãm thì qua đó nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ
mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì
chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể
hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới.
Nội dung quy luật này được phát biểu như sau
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng,
lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì
diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất
cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng
mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của
sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy
sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát
triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng
Câu 20. Trình y quan điểm của triết học Mác- Lênin về thực tiễn (Khái
niệm, hình thức và vai trò của thực tiễn).
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật
chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội”. Quan điểm thực tiễn là quan điểm cơ bản và quan trọng nhất trong
triết học Mác. Toàn bộ hệ thống lý luận của triết học Mác đã được xây dựng trên
hòn đá tảng thực tiễn. Theo quan điểm của Lenin: “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”. Chỉ khi
có quan điểm thực tiễn khoa học mới có thể hình thành nên thế giới quan,
phương pháp luận, nhận thức luận, giá trị quan của triết học Mác. Thực tiễn,
theo quan niệm của C.Mác, là hoạt động cảm tính của con người, hoạt động có
tính đối tượng và là sự thống nhất giữa hoạt động cải tạo hoàn cảnh với hoạt
động của con người hoặc với hoạt động tự cải tạo của con người. Do vậy, thực
tiễn là quá trình tác động tương hỗ lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể, quá trình
trao đổi qua lại của vật chất, năng lượng và thông tin. Hoạt động thực tiễn là
lOMoARcPSD|42676072
hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng
nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người hoạt
động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình,
thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới. Trong
quá trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một thiên nhiên thứ hai
của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới
cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì
vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn
tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người
xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế
giới.Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối
quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực
tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định
“chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự
nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy
con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biên
tự nhiên”. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà
nhận thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực
tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bị lộ ra những thuộc tính,
những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức
đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưng nó phát triển vì thế không thể
đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật sẽ không có khoa
học, không có lý luận. Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người
cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con
người làm cho chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con
người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó,
làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra
những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế
luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.Thực tiễn là cơ sở để chế tạo
công cụ,phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức,
khám phá, chinh phục thế giới. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể
hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Theo Mác và Ăngghen thì “Vấn
để tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay
không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thực tiễn
có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong
nhận thức, nó còn bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn
thiện nhận thức. Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai
trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, cũng là nơi
nhận thức luôn hướng đến để kiểm nghiệm tính đúng đắn. Nói tóm lại, quan
lOMoARcPSD|42676072
điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn.
Ví dụ:
+ Nghiên cứu cây lúa phải bám sát quá trình gieo mạ và tiến trình sinh trưởng,
phát triển của cây lúa trực tiếp trên cánh đồng, đồng thời kết hợp với những tri
thức đã có về cây lúa trong những tài liệu chuyên ngành. Ta không thể nghiên
cứu về cây lúa chỉ bằng việc đọc sách, báo, tài liệu.
+ Nghiên cứu về cách mạng xã hội thì cũng không thể chỉ dựa vào sách, báo, tài
liệu, mà cần phải có cả quá trình tiếp xúc, tìm hiểu đời sống của các giai cấp,
tầng lớp…
+ Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa
rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan
liêu.
+ Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các vật
liệu mới, nguồn năng lượng mới, vắc-xin phòng ngừa dịch bệnh mới. Chẳng hạn
như qua hàng nghìn lần miệt mài thử nghiệm đúng và sai của Edison mà ta mới
có bóng đèn như hiện nay, hay nhờ những nhà khoa học ngày đêm nghiên cứu
để điều chế ra vacxin ngừa Covid,...
+ Để bảo vệ môi trường, nhiều người đã nghĩ ra các vật liệu thân thiện với môi
trường như cốc tái chế, ống hút giấy... Việc tạo ra những vật liệu, đồ dùng này
chính là nhằm phục vụ cho mục đích bảo vệ môi trường
Câu 23. Trình bày QL QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Liên hệ thực tiễn quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành
của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy
quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội
chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí,
muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. V
mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối
quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước chuyên chính vô sản có
khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất”.Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ
động” không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện, con người không thể tự do
lOMoARcPSD|42676072
tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại
quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của
lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải
quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con
người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm
cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao
động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất
không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm
thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìmm thậm chí phá hoại lực
lượng sản xuất và ngược lại.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản
xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi
đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất
và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng
sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.Nếu lạc hậu so với
lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìmm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý
sản xuất vàquản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít
hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả
quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự
phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất
hợp tác phân công lao động quốc tế.
Liên hệ thực tiễn:
Câu 25. Trình bày phạm trù Hình thái kinh tế-xh của CNDVLS? Liên hệ
thực tiễn
Câu 32. Trình bày quan điểm Triết học Mác về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
lOMoARcPSD|42676072
Câu 34. Trình bày quan điểm của triết học Mác về con người và bản chất
con người
| 1/11

Preview text:

lOMoARcPSD| 42676072 ĐỀ CƯƠNG TRIẾT
Câu 1. Trình bày quan điểm của triết học Mác- Lênin về vấn đề cơ bản của
triết học? Chức năng của triết học Mác- Lênin ?
Quan điểm của triết học Mác- Lênin
Chúng ta biết rằng triết học khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi
giải quyết các vấn đề cụ thể nó buộc phải giải quyết vấn đề có ý nghĩa nền tảng
làm điểm xuất phát để giải quyết tất cả các vấn đề, đó là vấn đề giữa vật chất và
ý thức. Ăngghen viết:” Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức hay giữa tồn tại và tư duy”.
2. hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học:
Vấn đề cơ bản của triết học được chia thành 2 mặt trả lời cho 2 câu hỏi lớn:
- Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào cósau, cái
nào quyết định cái nào? ( bản thể luận). Nói cách khác, khi truy tìm nguyên
nhân cuối cùng của sự vật hiện tượng hay sự vận động đang cần giải thích thì
nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết
định.Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học dựa trên 3 cách sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
2. Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
3. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhauHai
cách giải quyết đầu tiên tuy có đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm
chung của hai cách giải quyết này đều thừa nhận một trong hai nguyên thể (ý
thức hoặc vật chất) là nguồn gốc của thế giới. Cách giải quyết một và hai
thuộc về triết học nhất nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái: trường phái triết học nhất
nguyên duy vật và trường phái triết học nhất nguyên duy tâm.
Cách thứ ba thừa nhận ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, cả hai
nguyên thể (ý thức và vật chất) đều là nguồn gốc của thế giới. Cách giải thích
này thuộc về triết học nhị nguyên.
- Mặt thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? (Nhận thức luận) lOMoARcPSD| 42676072
Nói cách khác, khi khám phá sự vật hiện tượng con người có dám tin
rằng mình nhận thức được sự vật hiện tượng hay không
Đại đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm cũng như duy vật đều cho
rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên: Các nhà triết
học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới( khả tri luận).
Song do vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức nên
sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Một số
nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế
giới, nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy. Một số
nhà triết học duy tâm khác theo “Bất khả tri luận” lại phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới của con người. 3.Chức năng cơ bản của Triết học Mác – Lênin
Cũng như mọi khoa học triết học có thể cùng một lúc có thể thực hiện nhiều
chức năng khác nhau. Đó là các chức năng thế giới quan và phương pháp luận,
chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng phê phán… Tuy nhiên, chức năng
thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết
học nói chung, đặc biệt là triết học Mác – Lênin nói riêng.
3.1. Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác -
Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
* Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng: -
Nó có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức
đúngđắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận
thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống. lOMoARcPSD| 42676072 -
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hình thành quan điểm
khoahọc định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và
cả cách thức hoạt động của mình. -
Nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng
đắnchính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế
giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng
đồng xã hội nhất định. -
Nó là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn
giáo,phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật
biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng
tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản
cách mạng, phản khoa học.
3.2. Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là
lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
* Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng: -
Phương pháp luận duy vật biện chứng là phương pháp chung của toàn bộ
nhậnthức khoa học trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương
pháp luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. -
Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư
duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Câu 5. Phân tích định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin ? Nêu ý nghĩa
phương pháp luận của định nghĩa này. lOMoARcPSD| 42676072
• Phân tích - "Vật chất là phạm trù triết học được dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác" Ý nghĩa -
Định nghĩa về vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù của
vật chất với sự phát hiện ra vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn
gốc của ý thức và là nguồn gốc khách quan của cảm giác.
Câu 8. Trình bày quan điểm của CNDVBC về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.
Câu 10. Trình bày nguyên lý mối liên hệ phổ biến của PBCDV. Ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý này?
Mối liên hệ phổ biến là sự ràng buộc, liên hệ chặt chẽ với nhau giữa các sự vật,
hiện tượng trong đời sống xã hội, hoặc trong chính bản thân sự vật hiện tượng
đó. Nội dung của nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật
luôn khẳng định rằng sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới không
phải là sự tồn tại tách rời và cô lập lẫn nhau, mà chúng là một thể thống nhất.
Tức các sự vật, sự việc trong đời sống xã hội luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với
nhau, không thể tách rời. Không có sự vật, hiện tượng nào hoạt động, vận vận
động một cách riêng lẻ cả. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là hình thức công
nhận và khai thác sự vận động của quy luật này trong bản thân sự vật, hiện
tượng của phép duy vật biện chứng: Ràng buộc, gắn bó, tác động qua lại và phụ
thuộc vào nhau. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến muốn khẳng định,
liên hệ là bản chất khách quan của sự vật hiện tượng. Thực tế, xã hội chỉ là hình
thái hoạt động của giới tự nhiên. Sự xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội một mặt, phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên. Song thực tế, các quy
luật tự nhiên cũng có sự ràng buộc nhất định vào các mặt trong đời sống xã hội.
Nếu không có mối liên hệ phổ biến tồn tại trong bản thân từng sự vật hiện
tượng, cũng như thế giới khách quan rộng lớn này, thì thế giới duy vật biện
chứng sẽ không thể vận động một cách hài hòa. Điều kỳ diệu nhất của thế giới
tự nhiên, là các sự vật, hiện tương riêng rẽ nhau, nhưng lại có sự ràng buộc nhất
định với nhau, tạo nên khuôn mẫu vận động rõ ràng, khách quan nhất. Nó tạo
nên quy luật sống của thế giới con người. Mọi việc luôn biến đổi, song sự biến
đổi đó luôn nằm trong khuôn khổ ràng buộc với các sự vật hiện tượng khác. Giá
trị con người cũng phát triển từ những nền tảng, giá trị mang tính chất cốt lõi, căn bản này.
Nội dung chính của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên lý này khẳng
định sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau của các sự vật, sự việc trong đời sống xã
hội. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan này đều không tồn tại
riêng lẻ mà chúng liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong bản thân của một sự vật, sự
việc, hiện tượng bất kỳ cũng chứa đựng những sự ràng buộc, gắn bó chặt chẽ với lOMoARcPSD| 42676072
nhau về hình thức cấu tạo, đặc điểm, tính chất. Những đặc tính bên trong bản
thân thân sự vật hiện tượng tạo nên một sự vật hiện tượng hoàn chỉnh. Các sự
vật, sự việc trong đời sống xã hội đều liên hệ với nhau để xây dựng, tạo lập nên
hình thái xã hội, thế giới khách quan toàn vẹn và thống nhất nhất.
Câu 11. Trình bày nguyên lý về sự phát triển của PBCDV. Ý nghĩa phương
pháp luận của nguyên lý này?
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật -
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới,
theo đó,các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, khác nhau đến thế nào
đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế
giới vật chất duy nhất. Ngay cả ý thức của con người cũng chỉ là thuộc tính của
dạng vật chất có tổ chức cao và nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả của sự
phản ánh hiện thực khách quan vào não người. -
Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng, các sự vật, hiện
tượng hay các mặt, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối quan
hệ quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và bản chất của sự vật, hiện
tượng thể hiện qua mối liên hệ đó. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các
sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan, tính có hạn của
sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ
phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. -
Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các
tính chất đó của mối liên hệ phổ biến phản ánh tính chất của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới đa dạng. -
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra
nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn (xem nguyên tắc toàn diện ở cuối chương).
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. -
Khái niệm sự phát triển: Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp
đến cao,từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; nguồn
gốc của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng và giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển; phát triển vừa
diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại sự vật,
hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể
có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển. lOMoARcPSD| 42676072 -
Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên
tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn Ý nghĩa nguyên lý về sự phát triển như sau: –
Đây chính là cơ sở lý luận khoa học để có thể định hướng được việc nhận
thứcthế giới và cải tạo thế giới.
Theo như nguyên lý này thì trong mọi nhận thức và trong thực tiễn cần phải có
quan điểm về sự phát triển. Để có thể phát triển được thì cần phải khắc phục
được những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, định kiến, đối lập với sự phát triển. –
Để nhận thức và giải quyết được bất cứ những vấn đề gì trong thực tiễn
thì một mặt cần phải đặt sự vật theo khuynh hướng đi lên của nó. Vì vậy đòi hỏi
phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá
trình phát triển của nó. –
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn của con người cần phải tôn trong quan điểm phát triển phát
triển. Quan điểm này đòi hỏi khi nhận thức cũng như khi giải quyết một vấn đề
nào đó thì con người cần phải đặt chúng ở trạng thái động và nằm trong khuynh
hướng chung của sự phát triển. –
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, là quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiễn cải tạo chính bản thân của con người. –
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia thành
các quá trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn. Trên cơ sở này tìm ra
phương pháp nhận thức và những cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật
tiến triển nhanh hơn hoặc là kìm hãm sự phát triển của nó tùy thuộc vào sự phát
triển đó có lợi hay là có hại đối với đời sống của con người. –
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm mục
đích thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúg như quy luật vốn có của nó đòi hỏi
chúng ta cần phải tìm ra được những mâu thuẫn của sự vật qua hoạt động thực
tiễn từ đó giải quyết được mâu thuẫn và tìm ra được sự phát triển.
Câu 17. Trình bày quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về
chất và ngược lại. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự
phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được
tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn
bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. lOMoARcPSD| 42676072
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện
tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn định. Do đó sự
phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ
kìm hãm thì qua đó nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ
mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì
chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể
hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới.
Nội dung quy luật này được phát biểu như sau
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng,
lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì
diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất
cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng
mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của
sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy
sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát
triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng
Câu 20. Trình bày quan điểm của triết học Mác- Lênin về thực tiễn (Khái
niệm, hình thức và vai trò của thực tiễn).
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật
chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội”. Quan điểm thực tiễn là quan điểm cơ bản và quan trọng nhất trong
triết học Mác. Toàn bộ hệ thống lý luận của triết học Mác đã được xây dựng trên
hòn đá tảng thực tiễn. Theo quan điểm của Lenin: “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”. Chỉ khi
có quan điểm thực tiễn khoa học mới có thể hình thành nên thế giới quan,
phương pháp luận, nhận thức luận, giá trị quan của triết học Mác. Thực tiễn,
theo quan niệm của C.Mác, là hoạt động cảm tính của con người, hoạt động có
tính đối tượng và là sự thống nhất giữa hoạt động cải tạo hoàn cảnh với hoạt
động của con người hoặc với hoạt động tự cải tạo của con người. Do vậy, thực
tiễn là quá trình tác động tương hỗ lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể, quá trình
trao đổi qua lại của vật chất, năng lượng và thông tin. Hoạt động thực tiễn là lOMoARcPSD| 42676072
hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng
nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người hoạt
động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình,
thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới. Trong
quá trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một thiên nhiên thứ hai
của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới
cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì
vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn
tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và
xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế
giới.Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối
quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực
tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định
“chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự
nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy
con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biên
tự nhiên”. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà
nhận thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực
tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bị lộ ra những thuộc tính,
những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức
đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể
đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật sẽ không có khoa
học, không có lý luận. Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người
cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con
người làm cho chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con
người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó,
làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra
những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó
luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.Thực tiễn là cơ sở để chế tạo
công cụ,phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức,
khám phá, chinh phục thế giới. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể
hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Theo Mác và Ăngghen thì “Vấn
để tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay
không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thực tiễn
có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong
nhận thức, nó còn bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn
thiện nhận thức. Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai
trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, cũng là nơi
nhận thức luôn hướng đến để kiểm nghiệm tính đúng đắn. Nói tóm lại, quan lOMoARcPSD| 42676072
điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn. Ví dụ:
+ Nghiên cứu cây lúa phải bám sát quá trình gieo mạ và tiến trình sinh trưởng,
phát triển của cây lúa trực tiếp trên cánh đồng, đồng thời kết hợp với những tri
thức đã có về cây lúa trong những tài liệu chuyên ngành. Ta không thể nghiên
cứu về cây lúa chỉ bằng việc đọc sách, báo, tài liệu.
+ Nghiên cứu về cách mạng xã hội thì cũng không thể chỉ dựa vào sách, báo, tài
liệu, mà cần phải có cả quá trình tiếp xúc, tìm hiểu đời sống của các giai cấp, tầng lớp…
+ Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa
rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
+ Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các vật
liệu mới, nguồn năng lượng mới, vắc-xin phòng ngừa dịch bệnh mới. Chẳng hạn
như qua hàng nghìn lần miệt mài thử nghiệm đúng và sai của Edison mà ta mới
có bóng đèn như hiện nay, hay nhờ những nhà khoa học ngày đêm nghiên cứu
để điều chế ra vacxin ngừa Covid,...
+ Để bảo vệ môi trường, nhiều người đã nghĩ ra các vật liệu thân thiện với môi
trường như cốc tái chế, ống hút giấy... Việc tạo ra những vật liệu, đồ dùng này
chính là nhằm phục vụ cho mục đích bảo vệ môi trường
Câu 23. Trình bày QL QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Liên hệ thực tiễn quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành
của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy
quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội
chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí,
muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về
mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối
quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước chuyên chính vô sản có
khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất”.Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ
động” không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện, con người không thể tự do lOMoARcPSD| 42676072
tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại
quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của
lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải
quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con
người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm
cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao
động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất
không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm
thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực
lượng sản xuất và ngược lại.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản
xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi
đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất
và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng
sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.Nếu lạc hậu so với
lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý
sản xuất vàquản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít
hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả
quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự
phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất
hợp tác phân công lao động quốc tế.
Liên hệ thực tiễn:
Câu 25. Trình bày phạm trù Hình thái kinh tế-xh của CNDVLS? Liên hệ thực tiễn
Câu 32. Trình bày quan điểm Triết học Mác về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội lOMoARcPSD| 42676072
Câu 34. Trình bày quan điểm của triết học Mác về con người và bản chất con người