Đề tài: Chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Đề tài: Chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

Trường:

Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu

Thông tin:
24 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề tài: Chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Đề tài: Chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

105 53 lượt tải Tải xuống
BÀI THU HOẠCH ĐI BẢO TÀNG
CHỨNG TÍCH CHIẾN TRANH
Đề tài: Chất độc màu da cam trong chiến
tranh Việt Nam
NHÓM SỐ: 3
Sinh viên thực hiện: Mã số:
Dương Nguyễn Như Quỳnh
Nguyễn Ngọc Trà My
Mai Lê Thúy Anh
Lê Đỗ Thúy Quyên
Ngọc Hân
Phạm Minh Khôi
Hoàng
Mã môn học : 1194
Giảng viên
hướng dẫn
: Nguyễn Minh Quang
Tp. HCM, tháng …. năm 202...
1
BNG PHÂN CÔNG CÔNG VIC VÀ TRNG S ĐÓNG GÓP CA TỪNG
THÀNH VIÊN
Sinh viên thực
hiện:
số:
Nhiệm vụ
được phân công
Trọng
số đóng
góp thực
tế theo kết
quả
Chữ
ký xác
nhận
2
TABLE OF CONTENTS
TABLE OF CONTENTS..............................................................................................3
1. Giới thiệu sơ lược về bảo tàng chứng tích chiến tranh..............................................7
2. Tổng quan về cuộc kháng chiến chống Mĩ................................................................8
2.1 Nguyên nhân của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam...............................8
2.2 Những chiến công tiêu biểu của quân dân giải phóng:.................................9
2.3 Kết quả thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:...............10
2.4 Hậu quả......................................................................................................10
3. Chất độc màu da cam trong chiến tranh ở Việt Nam...............................................10
3.1 Chất độc màu da cam là gì?........................................................................10
3.2 Chất độc màu da cam tác động lên con người bằng cách nào?...................11
3.3 Mỹ đã sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam như thế
nào?...........................................................................................................................12
3.3.1 Những khu vực bị phun rải nặng nhất ở Nam Việt Nam..................12
3.3.2 Cách thức thực hiện..........................................................................13
3.4 Hậu quả của chất độc màu da cam..............................................................13
3.4.1 Môi trường.......................................................................................13
3.4.2 Con người.........................................................................................14
3.5 Cách khắc phục của Đảng và Nhà nước.....................................................15
3
LI CM ƠN
4
DANH M`C BẢNG BIaU
DANH M`C HbNH NH
DANH M`C T VIT TcT
5
PHdN Me ĐdU
Trên nền đen của cuộc kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam, một cơn ác mộng lằng
lặng nhưng đau đớn tiếp tục hiện hữu: chất độc màu da cam. Không chỉ một "vũ
khí" trong tay quân đội Mỹ, chất độc này còn một biểu tượng của sự tàn ác
những đau thương không lường trước đối với con người và thiên nhiên.
Khám phá hành trình này, chúng ta sẽ tìm hiểu những nguyên nhân gốc rễ, sự tác
động toàn diện và hậu quả không ngờ của thảm họa chất độc màu da cam - biểu tượng
của sự tàn nhẫn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam. Sự đau khổ không
chỉ là những cơn đau về thể chất, mà còn là những vết thương vô hình đối với tâm hồn
và tình thần, để lại những hậu quả không lường trước sau những năm chiến tranh khốc
liệt.
Từ những nguyên nhân gốc rễ của sự xuất hiện của chất độc màu da cam trong
chiến lược chiến tranh, đến những tác động tận lan truyền đến thế hệ sau, bài
báo cáo này sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện về cơn ác mộng này. Chúng ta cũng sẽ đặt
ra câu hỏi về sự đạo đức của việc sử dụng chất độc trong chiến tranh, đồng thời xem
xét những bài học mà chúng ta có thể học từ những sai lầm đắng ngắt trong quá khứ.
Hãy cùng nhau chiêm nghiệm những hồi ức đau lòng những hậu quả tận của
chất độc màu da cam, một cái tên gắn liền với cảm xúc những nỗi đau không thể
nào phai mờ trong lòng những người dân Việt Nam.
6
PHdN NI DUNG
1. Giới thiệu sơ lược về bảo tàng chứng tích chiến tranh
Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (War Remnants Museum) một bảo tàng hòa
bình số 28 đường Văn Tần, Phường Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh. Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố
Hồ Chí Minh, thành viên của hệ thống Bảo tàng hòa bình thế giới Hội đồng
các bảo tàng thế giới (ICOM). Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là Bảo tàng chuyên đề
nghiên cứu, sưu tầm, lưu trữ, bảo quản trưng bày những liệu, hình ảnh, hiện vật
về những chứng tích tội ác hậu quả của các cuộc chiến tranh các thế lực xâm
lược đã gây ra đối với Việt Nam. Qua đó, Bảo tàng tuyên truyền về tinh thần đấu tranh
bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, về ý thức chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa
bình tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Bảo tàng lưu giữ
hơn 20.000 tài liệu, hiện vật phim ảnh, trong đó hơn 1.500 tài liệu, hiện vật, phim
ảnh đã được đưa vào giới thiệu ở 9 chuyên đề trưng bày thường xuyên.
Từ nhiều năm qua, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là một trong những điểm tham
quan thu hút lượng khách đông nhất ở TPHCM và cả nước. Qua 48 năm hình thành
phát triển (1975 - 2023), Bảo tàng đã đón tiếp hơn 23 triệu lượt khách tham quan,
trong đó hơn 11 triệu lượt khách quốc tế hơn 2 triệu lượt khách tham quan triển
lãm lưu động. Hiện nay Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh thu hút trên 1 triệu lượt
khách tham quan mỗi năm.
Nội dung trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh không đi theo niên đại mà
được trình bày chủ yếu theo trình tự vấn đề; hướng các nội dung trưng bày về cộng
đồng cộng đồng; xây dựng câu chuyện trong trưng bày gắn kết từ quá khứ đến
tương lai; tổ chức các hình thức giao lưu gắn với nội dung trưng bày,… Qua những lần
bổ sung, chỉnh lý, nâng cấp trưng bày đến nay, Bảo tàng đã có một hệ thống trưng bày
bao gồm:
- Chuyên đề "Những sự thật lịch sử"
- Chuyên đề "Hồi Niệm - Bộ sưu tập ảnh về chiến tranh xâm lược của Mỹ Việt
Nam"
- Triển lãm lưu động chuyên đề “Người chiến hôm nay” tại Nhà truyền thống
chiến khu An Phú Đông
7
- Chuyên đề "Việt Nam - Chiến tranh và hòa bình"
- Chuyên đề "Tội ác chiến tranh xâm lược"
- Chuyên đề "Hậu quả chất độc da cam/dioxin trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam"
- Chuyên đề "Chế độ lao tù trong chiến tranh xâm lược Việt Nam"
- Chuyên đề "Thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến"
- Chuyên đề "Hiện vật vũ khí trưng bày ngoài trời"
- Phòng trải nghiệm dành cho thiếu nhi: "Bồ Câu Trắng"
Việc sử dụng đồ họa trong trưng bày, kết hợp âm thanh, ánh sáng, các công nghệ
trình chiếu đã được ứng dụng. Trong thời gian gần đây, Bảo tàng đã đưa vào sử dụng
công nghệ quét tem QR code trên các đai vách trưng bày Audio guide với 6
ngôn ngữ (Việt - Anh - Pháp - Nga - Nhật - Hoa) giúp du khách có thể truy xuất thông
tin liên quan đến hình ảnh, hiện vật trưng bày tại Bảo tàng một cách dễ dàng thông qua
các ngôn ngữ tự chọn. Các thiết bị máy tính hiện đại (như màn hình cảm ứng) cũng
được lắp đặt tại các gian trưng bày giúp khách tra cứu thêm thông tin
Trong 45 năm hoạt động (1975 - 2020), Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đã được
Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng Ba (1996), Huân chương lao động
hạng Hai (2001) và Cờ thi đua xuất sắc của Bộ Văn hóa Thông tin (2004)
2. Tổng quan về cuộc kháng chiến chống Mĩ
2.1 Nguyên nhân của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
- Chiến tranh Việt Nam một phần của cuộc đối đầu lớn giữa Mỹ Liên
trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh.
- Chính trị "Domino Theory" (lý thuyết domino) giả định rằng nếu một quốc gia
châu Á rơi vào tay cộng sản, các quốc gia xung quanh cũng sẽ bị ảnh hưởng.
- Mỹ hỗ trợ chính quyền Ngô Đình Diệm miền Nam Việt Nam từ những năm
1950, nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa.
- Mỹ nhìn nhận Việt Nam một vùng quan trọng về chiến lược, đặc biệt sau khi
thấy sự tăng cường của Trung Quốc và Liên Xô ở khu vực.
- Một số nguồn tài nguyênvị trí chiến lược tại Việt Nam cũngdo mỹ thuật
lợi kinh tế và quân sự.
8
2.2 Những chiến công tiêu biểu của quân dân giải phóng:
- Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963) tại Mỹ Tho, đập tan chiến thuật “trực thăng vận”,
“thiết xạ vận” 2000 tên địch, báo hiệu sự thất bại của “chiến tranh đặc biệt”.
- Chiến thắng Bình Giã (5-1-1965) (Bà Rịa, miền Đông Nam Bộ) tiêu diệt binh
đoàn dự bị chiến lược của địch. Cùng với chiến thắng Ba Gia (31-5-1965)
Đồng Xoài (12-6-1965) quân dân miền đã đánh bại hoàn toàn chiến lược
“chiến tranh cục bộ”, ào ạt đưa quân Mỹ vào miền Nam, nhưng quân Mỹ vào lại
càng không thể cứu vãn được tình thế, bị đánh tơi bời.
- Chiến thắng Núi Thành (28-5-1965) Quảng Nam do đại đội 2 tiểu đoàn 70 bộ
đội địa phương tỉnh Quảng Nam đã tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ trên điểm
cao, lập nên truyền thống “Quảng Nam trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.
- Chiến thắng Vạn Tường (18-8-1965, Quảng Ngãi) đánh bại cuộc hành quân xâm
lược lớn của một vạn quân xâm lược Mỹ, tiêu diệt gần 1.000 tên.
- Chiến thắng Đông Xuân (11/1965 - 3/1966) đánh bại cuộc phản công chiến lược
lần thứ nhất của 25 vạn quân Mỹ, 3 vạn quân chư hầu và 50 vạn quân ngụy.
- Chiến dịch Plâyme (19/10 - 26/11/1965), đã tiến công vây điểm, diệt viện, nhằm
mở rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh chiến tranh giải phóng.
- Chiến thắng Đông Xuân (10/1966 - 4/1967) đánh bại cuộc phản công chiến lược
lần thứ 2 của 45 vạn quân Mỹ, 50 vạn ngụy, mà tiêu biểu là cuộc hành quân Giôn-
xơn-xi-ti, tiêu diệt 11.000 tên địch, làm thất bại âm mưu của chúng, hòng tiêu diệt
bộ chỉ huy Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
- Cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân Mậu Thân (30-1-1968) đã đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Trong 55 ngày đêm, quân và dân
ta đã tiêu diệt 20 vạn tên địch, 7 vạn tên Mỹ, phá hủy 3400 máy bay các loại,
500 xe quân sự, 4000 khẩu pháo, giải phóng 160 vạn dân thoát khỏi bộ máy kìm
kẹp của Mỹ, ngụy, vùng giải phóng được mở rộng.
- Chiến thắng đường 9 Nam Lào (31-3-1971) Đông Bắc Campuchia đã đánh bại
2 cuộc hành quân “Lam Sơn 719” “Toàn Thắng” (1-1971), làm thất bại một
bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.
- Cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1972, loại khỏi vòng chiến đấu 50 vạn tên
địch, giải phóng một vùng rộng lớn với 6 triệu dân.
9
- Trận “Điện Biên Phủ trên không” (18 - 29/12/1972), 12 ngày đêm đập tan cuộc
tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền
Bắc. Chúng ta đã bắn rơi 81 máy bay các loại trong đó 34 máy bay B52 5
chiếc F.111, làm cho đế quốc Mỹ khiếp vía, kinh hoàng.
- Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử trong suốt 55 ngày đêm quân vàn ta đã tiêu diệtlàm tan
toàn bộ quân ngụy Sài Gòn, gồm 1 triệu 351.000 tên, với đầy đủ những trang bị
hiện đại của Mỹ, làm sụp đổ toàn bộ hệ thống ngụy quyền, chấm dứt ách thống trị
117 năm của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta, nhân dân ta thoát khỏi
cảnh lầm than nô lệ.
2.3 Kết quả thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
- Ở miền Nam: Đã đập tan 4 chiến lược chiến tranh xâm lược của 5 đời Tổng thống
Mỹ: Diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 triệu quân ngụy, giết và làm bị thương
905.537 quân Mỹ chư hầu. Thu phá hủy hơn 46.500 máy bay các loại, hơn
13.000 khẩu pháo, 38.000 xe tăng, xe bọc thép, 10.000 tàu, xuồng chiến đấu.
- miền Bắc: Đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (thời Giôn-xơn
8/1964 - 11/1968 thời Ních-xơn 4/1972 - 1/1973). Bắn rơi 4.181 máy bay gồm
48 kiểu hiện đại nhất, trong đó 68 B52; 13 F111, diệt bắt sống hàng ngàn
giặc lái, 271 lần bắn cháy và bắn chìm tàu chiến, tàu biệt kích địch.
2.4 Hậu quả
- Hàng triệu người lính và dân thường thiệt mạng.
- Tổn thất kinh tế và hậu quả môi trường do sử dụng chất độc hại như dioxin (chất
chống cây cỏ dạng chất độc hại Agent Orange).
- Việt Nam chia cắt và đối diện với nhiều thách thức trong việc hòa nhập sau chiến
tranh.
- Mỹ trải qua một giai đoạn khá đau đớn của chia rẽ tranh cãi nội bộ về chiến
tranh Việt Nam.
3. Chất độc màu da cam trong chiến tranh ở Việt Nam
3.1 Chất độc màu da cam là gì?
Chất độc da cam (viết tắt: CĐDC, tiếng Anh: Agent Orange—Tác nhân da cam),
tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏm rụng cây được quân đội Hoa Kỳ sử
10
dụng tại Việt Nam trong Chiến dịch Ranch Hand, một phần của chiến tranh hóa học
của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chất này không màu được
chứa trong các thùng màu da cam (do vậy trong vụ kiện hậu quả của được gọi
nhầm là chất độc màu da cam).
Chất này đã được Hoa Kỳ sử dụng quy mô lớn trong những năm từ 1961 đến 1971,
khiến nhiều vùng Việt Nam bị nhiễm độc nghiêm trọng. Các quan y tế Việt
Nam ước tính khoảng 400.000 người đã bị giết hoặc tàn tật, khoảng 500.000 trẻ em
sinh ra bị dị dạng, dị tật bởi chất độc hóa học này. Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam ước
lượng khoảng 1 triệu nạn nhân Việt Nam đã bị tàn phế hoặc bệnh tật chất độc da
cam.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, mục đích quân sự chính thức của chất độc da
cam làm rụng cây rừng để quân đội du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam Việt Nam không còn nơi ẩn náu. Chất độc da cam thực ramột chất lỏng trong
suốt, nó được gọi "chất da cam" những thùng phuy dùng để vận chuyển được
vẽ các sọc màu da cam. Quân đội Hoa Kỳ còn một số danh khác để chỉ đến
các chất diệt cỏ được dùng trong thời kỳ này: "chất xanh" (Agent Blue, cacodylic
acid), "chất trắng" (Agent White, hỗn hợp 4:1 của 2,4-D picloram), "chất tím"
(Agent Purple) và "chất hồng" (Agent Pink).
Đến năm 1971, CĐDC không còn được dùng để làm rụng nữa; 2,4-D vẫn còn
được sử dụng để làm diệt cỏ. 2,4,5-T đã bị cấm dùng tại Hoa Kỳ nhiều quốc gia
khác do sự độc hại của nó tới môi trường và sinh vật.
3.2 Chất độc màu da cam tác động lên con người bằng cách nào?
Chất độc màu da cam, chủ yếu dioxin TCDD, xâm nhập vào thể con người
thông qua nhiều con đường khác nhau. Dưới đây một số cách chất độc màu da cam
có thể xâm nhập vào con người:
- Tiếp xúc qua da: Chất độc màu da cam có thể hấp thụ qua da khi người ta tiếp xúc
trực tiếp với nó, dụ như khi người dân gần khu vực đã bị phun chất độc màu
da cam trong quá khứ.
- Tiếp xúc qua đường hấp: Dioxin thể tồn tại trong không khí dưới dạng hạt
bám vào bụi, hạt bụi, hoặc hạt nhỏ khác. Người thể hít phải chúng khi họ hít
thở không khí chứa dioxin.
11
- Qua thức ăn: Chất độc màu da cam thể bám vào đất nước, từ đó thể
được hấp thụ vào cây trồng động vật. Con người sau đó tiêu thụ chúng qua
thức ăn như rau củ, thịt, cá và sữa.
- Qua thức uống: Nước chất độc màu da cam đã bị ô nhiễm cũng nguồn lây
nhiễm. Dioxin thể tan vào nước bám vào các hạt bùn, từ đó thể được
cung cấp vào cơ thể khi người ta uống nước ô nhiễm.
- Chuyển giao từ mẹ sang thai nhi: Thai nhi thể phải đối mặt với chất độc màu
da cam thông qua chuyển giao từ mẹ sang thai nhi. Chất độc màu da cam thể
tồn tại trong cơ thể người mẹ và chuyển giao qua dòng máu hoặc sữa mẹ.
Một khi đã m nhập vào thể, dioxin tích tụ trong bắp, gây ra nhiều
vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như ung thư, vấn đề về hệ thần kinh, tác động đến hệ
thống miễn dịch sinh sản. Hậu quả của chất độc màu da cam thể xuất hiện ngay
sau tiếp xúc hoặc có thể lộ rõ sau một thời gian dài.
3.3 Mỹ đã sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam như thế nào?
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã dùng chất độc da
cam/dioxin nhằm phá rừng, tìm diệt căn cứ cách mạng, ngăn chặn các cuộc hành
quân của bộ đội và hủy hoại hoa màu.
3.3.1 Những khu vực bị phun rải nặng nhất ở Nam Việt Nam.
Trong thời gian chiến tranh, Mỹ - Ngụy chia Nam Việt Nam ra các vùng chiến
thuật: I, II, III, IV.Trong đó vùng chiến thuật III bị phun rải nặng nhất, đâykhu vực
xung quanh Sài Gòn, đầu não của Mỹ - Ngụy. Các tỉnhkhu vực trọng điểm là: Tây
Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Thừa Thiên -Huế, Quảng Trị, chiến khu
D, chiến khu Dương Minh Châu, đặc khu rừng Sác,mật khu Bời Lời.
12
3.3.2 Cách thức thực hiện
Đối với các chất diệt cỏ, quân đội Mỹ sử dụng các phương tiện: máy bay (vận tải,
trực thăng), xe phun, bình phun, nhưng chủ yếu máy bay vận tài C-123,phun rải
bằng máy bay tạo được khu vực nhiễm độc rộng lớn. Mỗi phi xuất C-123 tạo được
một vệt các chất diệt cỏ rộng 80 - 100 m, dài 15 - 18 km chỉ trong vòng 5-7 phút.
Tại hội thảo "Đánh giá tác hại của chất độc da cam/dioxin được Mỹ sử dụng trong
chiến tranh Việt Nam" diễn ra tại Nội vào tháng 8/2016, 100 nhà khoa học Việt
Nam quốc tế lần đầu tiên thống nhất rằng, chỉ trong vòng hơn 10 năm (1961 -
1971), Mỹ đã thực hiện 19.905 vụ phun, rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học với
61% trong số đó chất độc da cam, xuống 26.000 thôn, bản của Việt Nam, với tổng
diện tích 3,06 triệu héc-ta. Trong đó, 86% số diện tích bị rải chất độc 2 lần 11% bị
rải tới 10 lần.
3.4 Hậu quả của chất độc màu da cam
3.4.1 Môi trường
Từ năm 1961 đến m 1971, chỉ trong vòng 10 năm, quân đội Mỹ đã tiến hành
19.905 phi vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó chất da
cam chứa 366 kg dioxin xuống gần 26.000 thôn bản, với diện tích hơn 3,06 triệu ha;
trong đó có 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần.
Gần 25% tổng diện tích miền Nam Việt Nam, bao gồm hầu hết các hệ sinh thái từ
vùng thấp ven biển đến vùng đồi núi cao thuộc 5 vùng sinh thái: Bắc Trung Bộ, duyên
hải Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ đều bị ảnh hưởng, trong đó,
Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất (56% diện tích tự nhiên bị phun rải).
Khoảng 86% lượng chất độc đã được phun rải lên các vùng rừng rậm; 14% còn lại
được dùng để phá hủy ruộng vườn, hoa màu, chủ yếu đồng lúa nương rẫy các
vùng đồi núi. Diện tích rừng ngập mặn bị ảnh hưởng chất độc hóa học 150.000 ha,
điển hình là khu rừng ngập mặn ở Cà Mau.
Với một lượng khổng lồ chất độc hóa học phun rải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một
thời gian dài, môi trường bị ô nhiễm nặng nề, các hệ sinh thái bị đảo lộn, nhiều loài
thực vật động vật bị tiêu diệt. Do rừng bị tàn phá nặng nề nên chức năng bảo vệ
môi trường của rừng phòng hộ đầu nguồn của 28 lưu vực sông cũng bị phá vỡ, gây
nhiều thiệt hại rất lớn đến nền kinh tế.
13
Rừng Mã Đà (tỉnh Đồng Nai) trước và sau khi bị rải chất khai hoang.
3.4.2 Con người
Viện Y học thuộc viện Hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ cho rằng có một mối liên hệ
giữa chất độc màu da cam và sự hình thành một số loại ung thư trên con người. Một số
khác, các công ty hóa chất phải đối mặt với các vụ kiện thì phản bác, họ cho rằng
không bằng chứng rệt nào cho thấy các vấn đề sức khỏe ảnh hưởng bởi chất
độc màu da cam hay dioxin. Thực tế cho thấy một số khu vực tại Việt Nam chịu sự
ảnh hưởng của chất độc màu da cam tỷ lệ cao các loại bệnh tật, di tật bẩm sinh
cả ung thư.
Những tác động và biến chứng của chất độc da cam thường thấy là:
- Gây kích ứng da và các bệnh ngoài da.
- Rối loạn thần kinh.
- Gây sẩy thai.
- Bệnh tiểu đường type 2.
- Dị tật bẩm sinh cho đời sau.
- Gây các bệnh ung thư, bện Hodgkin, bệnh bạch cầu.
Theo số liệu thống của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, Việt
Nam có 4,8 triệu người bị nhiễm chất độc hóa học, bao gồm cả những người tham gia
kháng chiến và người dân sinh sống trên địa bàn bị rải chất độc hóa học. Chỉ tính riêng
14
tỉnh Bình Thuận, theo số liệu khảo sát của tỉnh, quân đội Mỹ đã phun rải trực tiếp
xuống 65.473 ha, chiếm 8,4% diện tích đất đai toàn tỉnh; gây phơi nhiễm chất độc da
cam cho gần 6.000 người. Hầu hết những người bị nhiễm chất độc da cam của tỉnh
Bình Thuận là cán bộ kháng chiến, bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến
nhân dân sống trong vùng bị rải chất độc; một số những người từng phục vụ
trong chính quyền Sài Gòn cũng bị nhiễm chất độc da cam.
3
Đả hảo sát,
thu g nhiệm
vụ độc tồn
lưu s óa học.
Quán học đã
tích c về tình
hình với các
đơn v lý chất
độc C
Từ iệm vụ
điều tra, thu gom, xử lý CĐHH tồn lưu sau chiến tranh; đã điều tra, xác định các vị trí
còn tồn lưu chất độc ở 293 huyện, thị xã thuộc 34 tỉnh, thành phố thuộc các Quân khu:
4, 5, 7, 9 các kho thuộc Tổng cục Kỹ thuật; thu gom, xử gần 400 tấn chất độc
CS, khoảng 200 tấn đạn dược chứa chất độc CS và hàng trăm mét khối đất nhiễm chất
độc CS; xử khoảng 150.000m3 đất nhiễm chất độc da cam/dioxin tại sân bay Biên
Hòa thuộc các dự án XĐ-1, XĐ-2 bằng phương pháp chôn lấp lập; vấn thiết kế
kỹ thuật-tổng dự toán xử lý, chôn lấp lập 7.500m3 đất nhiễm chất độc da
cam/dioxin tại sân bay Phù Cát; giám sát công nghệ xử lý đất nhiễm dioxin tại sân bay
Đà Nẵng...
Kết quả này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp
phần quan trọng vào việc đánh giá tổng thể tình hình ô nhiễm CĐHH trên các địa bàn;
cung cấp số liệu điều tra, khảo sát độ tin cậy, làm sở xây dựng dự án xử khu
15
vực bị nhiễm chất độc. vậy, công tác khắc phục hậu quả chất độc da cam/dioxin
hiện nay mới chỉ đáp ứng được một phần so với hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh
hóa học do quân đội Mỹ gây ra. Khối lượng CĐHH Mỹ rải xuống Việt Namrất
lớn nên quá trình điều tra, khảo sát, thu gom, xử rất khó khăn tốn kém. Việc xử
triệt để các khu vực nhiễm chất độc da cam/dioxin kiểm soát, giảm thiểu nguồn
gốc phát sinh dioxin một nhiệm vụ cấp thiết, cần có sự chung tay, góp sức của các
cấp, các ngành, của hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó bộ đội hóa học giữ vai trò
làm nòng cốt.
Chúng ta cần triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp cả trước mắt
lâu dài, trong đó tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây: Làm tốt công tác
quán triệt, tuyên truyền, giáo dục cho bộ đội về các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, Bộ Quốc phòng về công tác khắc phục hậu quả CĐHH tồn lưu sau chiến
tranh. Trong đó, tập trung vào các chỉ thị, nghị quyết, quyết định như: Quyết định số
651/QĐ-TTg ngày 1-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành
động quốc gia khắc phục bản hậu quả CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh
Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến năm 2020”; Chỉ thị số 05/CT-BQP ngày
3-2-2017 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng “Về việc tổ chức thực hiện các dự án, chương
trình khắc phục, xử CĐHH/dioxin trong quân đội”... Làm cho mọi cấp ủy, chỉ huy,
cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của việc khắc phục hậu quả CĐHH
tồn lưu sau chiến tranh đối với sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước. Tập trung
đầu tư xây dựng lực lượng, trang thiết bị công nghệ và các nguồn lực khác nhằm nâng
cao khả năng xử lý CĐHH tồn lưu sau chiến tranh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là vấn đề tính chất quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác khắc phục
hậu quả CĐHH tồn lưu trong thời gian tới. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, làm chủ
công nghệ xử CĐHH chứa dioxin. Xử dioxin vấn đề rất phức tạp, thế giới đã
có nhiều công nghệ xửcác chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, nhưng chưa có công
nghệ xử dioxin triệt để cũng chưa nơi nào những khu vực ô nhiễm dioxin
với tính chất hết sức phức tạp như Việt Nam: Hàm lượng dioxin tồn lưu cao, diện
tích đất trầm tích bị ô nhiễm rất lớn, phân bố không theo quy luật. Do đó, việc
nghiên cứu, lựa chọn công nghệ khả thi để xửdioxin rất khó khăn, phức tạp. Để xử
triệt để chất độc da cam/dioxin, nhất tại các “điểm nóng”, cần tiếp tục nghiên
16
cứu, lựa chọn công nghệ khả thi để vừa bảo đảm xử lý triệt để, vừa tiết kiệm được chi
phí, không để môi trường không khí, đất, nước bị ô nhiễm thứ cấp. Tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc giải quyết hậu quả chất độc hoá học do Mỹ
sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
Công tác khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh
Việt Nam đối với môi trường sức khoẻ con người vấn đề vừa cấp bách vừa lâu
dài, là trách nhiệm của mỗi cấp uỷ đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên và các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Cần xác định nhiệm vụ xử lý dứt điểm về ô nhiễm môi
trường trong khu vực còn tồn đọng chất độc hoá học chương trình chăm sóc, giúp
đỡ người dân vùng phơi nhiễm chất độc da cam vào chương trình an sinh hội
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của địa phương, đơn vị. Đồng thời, tăng
cường kiểm tra, giám sát, tập trung giải quyết dứt điểm từng vấn đề; trong đó phải coi
trọng việc thực hiện chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam, không để xảy ra
tiêu cực khi thực hiện chính sách này. Các cấp uỷ đảng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt
Nam các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường công tác
tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân trong nước người Việt Nam nước
ngoài, các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới hiểu rõ thảm hoạ chất độc hoá học
do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; tích cực hưởng ứng các phong trào, các
cuộc vận động giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam ủng hộ cuộc đấu tranh đòi công
lý cho nạn nhân chất độc da cam.
17
PHdN KẾT LUN
Bài báo cáo này đã làm sáng tỏ một khía cạnh đen tối đau lòng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ tại Việt Nam - thảm họa chất độc màu da cam. Nếu chiến tranh mang
đến những thương tích về thể xác, thì chất độc màu da cam lại làm nhơ bẩn tâm hồn
của những người dân vô tội và môi trường thiên nhiên tươi đẹp.
Chúng ta đã chứng kiến những cảnh đau đớn khi những người sống sót thế hệ
sau đều phải đối mặt với những vấn đề sức khỏe nặng nề, từ các bệnh ung thư đến
những tác động đặc biệt đau lòng đối với trẻ em. Điều này không chỉ là một thách thức
y tế, còn một thách thức đạo đức nhân quyền cộng đồng quốc tế cần
chung tay giải quyết.
Chất độc màu da cam không chỉ là vấn đề của quá khứ, mà còn là một lời nhắc nhở
về tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình công lý. Việc hỗ trợ những người bị
ảnh hưởng và đầu tư vào các dự án phục hồi môi trường không chỉ là nghĩa vụ đạo đức
còn đầu vào tương lai, để đảm bảo rằng thế hệ mai sau sẽ không phải chịu
gánh nặng của những quyết định chiến lược đau lòng trong quá khứ.
Chất độc màu da cam không chỉ một vết thương trên bản đồ lịch sử, còn
hồi chuông cảnh báo về những hậu quả không lường trước của chiến tranh sự cần
thiết của việc xây dựng thế giới dựa trên nền tảng của hòa bình, công bằng và sự nhân
đạo.
Nhìn chung, chất độc màu da cam không chỉ một biểu tượng của cuộc chiến
tranh, còn biểu tượng của sự đau khổ sự cần thiết phải tìm kiếm công
giúp đỡ cho những người đã đang phải chịu đựng hậu quả không lường trước của
một quyết định chiến lược đã để lại trong lịch sử khó quên của chúng ta.
18
CM NGHĨ BN THÂN
Cảm nghĩ của bạn Hoàng
Chuyến đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh là một trải nghiệm đáng nhớ
sâu sắc. Bảo tàng chứng tích chiến tranh nơi lưu giữ những di tích lịch sử trực
tiếp chứng minh tình hình chiến tranh của Việt Nam. Đây một nguồn thông tin
quan trọng về cuộc chiến chống lại sự xâm lược của người Pháp.
Bảo tàng chứng tích chiến tranh một điểm đến đặc biệt, nơi lưu giữ các liệu
lịch sử, hình ảnh và hiện vật về cuộc chiến tranh. Đây là nơi mà học sinh, sinh viên
thể tìm hiểu thêm về quá trình chiến đấu đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Sau
chuyến tham quan, các em được khuyến khích viết bài cảm nhận về trải nghiệm của
mình.
Chuyến đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh đã để lại trong tôi nhiều ấn
tượng mạnh mẽ. Tôi đã được chứng kiến những hình ảnh, vật phẩm liên quan đến các
cuộc chiến tranh Việt Nam cảm nhận được sự khốc liệt, tàn khốc hậu quả của
chiến tranh đối với người n Việt Nam. Tôi cảm nhận được sự đau đớn, nỗi ám ảnh
và tinh thần lớn của những người đã hy sinh trong cuộc chiến tranh. Điều này đã khơi
dậy trong tôi lòng khát khao hòa bình, sự biết ơn tôn trọng đối với những người đã
đánh đổi tất cả để bảo vệ đất nước
Chuyến đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh là một trải nghiệm đáng nhớ
ý nghĩa. Đây hội để hiểu hơn về lịch sử hậu quả của cuộc chiến tranh.
Tôi khuyến khích mọi người tham quan bảo tàng này để tìm hiểu cảm nhận sự hy
sinh và tinh thần chiến đấu của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh.
Cảm nghĩ của bạn Phạm Minh Khôi
Đây là một trải nghiệm đầy cảm xúc và sâu sắc. Chuyến đi đến bảo tàng chứng tích
chiến tranh không chỉ đem lại cho em những kiến thức lịch sử còn mở ra một cửa
sổ tâm hồn về những đau thương và hy vọng. Những hiện vật, hình ảnh và câu chuyện
tại bảo tàng đã đánh thức trong em những cảm xúc mạnh mẽ về những hậu quả của
chiến tranh đối với con người.
Việc nhìn thấy những vết thương của chiến tranh thông qua những hiện vật cụ thể,
những tấm hình đẫm máu những câu chuyện đau lòng đã khiến em suy cảm
thấy sâu sắc về giá trị của hòa bình sự hy vọngo tương lai. Em không thể không
19
bị rung động trước những gì mà con người có thể gây ra cho nhau trong những thời kỳ
khủng hoảng.
Tuy nhiên, chuyến đi cũng mở ra một cửa sổ hy vọng khi em thấy những nỗ lực hòa
bình sự kiên trì của con người trong việc xây dựng lại sau chiến tranh. Em rút ra
được bài học về sự quý trọng của hòa bình và ý chí mạnh mẽ của con người trong việc
vượt qua những thử thách đau thương.
Em hy vọng rằng mọi người sẽ hội trải nghiệm những điều tương tự, để hiểu
hơn về những hậu quả của chiến tranh đồng thời nuôi lên trong mình tình yêu
thương và hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Cảm nghĩ của bạn Hân
Nhìn nhận về chất độc màu da cam, tôi không thể không cảm thấy sự đau lòng
tiếc nuối trước những hậu quả nặng nề đã mang lại cho con người môi
trường. Chiến tranh không chỉ gây ra những tổn thất về vật chất còn để lại những
vết thương tinh thần và hậu quả sức khỏe kéo dài cho nhiều thế hệ.
Tôi tin rằng việc sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh một sai lầm
đáng kể đã làm tan nát cuộc sống của hàng triệu người dân tội. Các vấn đề sức
khỏe nghiêm trọng, như ung thư, vấn đề sinh sản, tác động đối với hệ thần kinh,
một biểu hiện rõ ràng về những ảnh hưởng tiêu cực của chất độc màu da cam.
Ngoài ra, tôi cũng nhìn nhận sự quan trọng của việc chấp nhận trách nhiệm hội
và quốc tế trong việc giảm thiểu ảnh hưởng dài hạn của chất độc màu da cam. Công ty
sản xuất chất độc màu da cam nên chịu trách nhiệm và tham gia vào các nỗ lực hỗ trợ
những người bị ảnh hưởng và phục hồi môi trường.
Cuối cùng, tôi hy vọng rằng sự cố này sẽ một bài học lớn cho thế giới về tầm
quan trọng của việc bảo vệ môi trường sức khỏe con người khỏi những c động
tiêu cực của các chất hóa học độc hại. Chúng ta cần phải học bài từ quá khứ để tạo ra
một tương lai lành mạnh hơn và bền vững hơn.
Cảm nghĩ của bạn Lê Đỗ Thúy Quyên
Khi được đến tham quan Bảo tàng chứng tích chiến tranh đã để lại cho em vô vàng
những cảm xúc về một quá khứ nhiều nỗi đau để lại của cuộc chiến tranh mà nhân dân
Việt Nam phải trải qua. Bảo tàng chứng tích chiến tranh như một cầu nối đưa những
con người may mắn sống ở thời bình có cơ hội tìm hiểu về sự tàn ác, khốc liệt của một
20
| 1/24

Preview text:

BÀI THU HOẠCH ĐI BẢO TÀNG
CHỨNG TÍCH CHIẾN TRANH
Đề tài: Chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam NHÓM SỐ: 3
Sinh viên thực hiện: Mã số:
Dương Nguyễn Như Quỳnh Nguyễn Ngọc Trà My Mai Lê Thúy Anh Lê Đỗ Thúy Quyên Ngọc Hân Phạm Minh Khôi Hoàng Mã môn học : 1194 Giảng viên : Nguyễn Minh Quang hướng dẫn
Tp. HCM, tháng …. năm 202... 1
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC VÀ TRỌNG SỐ ĐÓNG GÓP CỦA TỪNG THÀNH VIÊN Sinh viên thực Nhiệm vụ Trọng Chữ hiện: số: được phân công số đóng ký xác góp thực nhận tế theo kết quả 2 TABLE OF CONTENTS
TABLE OF CONTENTS..............................................................................................3
1. Giới thiệu sơ lược về bảo tàng chứng tích chiến tranh..............................................7
2. Tổng quan về cuộc kháng chiến chống Mĩ................................................................8
2.1 Nguyên nhân của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam...............................8
2.2 Những chiến công tiêu biểu của quân dân giải phóng:.................................9
2.3 Kết quả thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:...............10
2.4 Hậu quả......................................................................................................10
3. Chất độc màu da cam trong chiến tranh ở Việt Nam...............................................10
3.1 Chất độc màu da cam là gì?........................................................................10
3.2 Chất độc màu da cam tác động lên con người bằng cách nào?...................11
3.3 Mỹ đã sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam như thế
nào?...........................................................................................................................12 3.3.1
Những khu vực bị phun rải nặng nhất ở Nam Việt Nam..................12 3.3.2
Cách thức thực hiện..........................................................................13
3.4 Hậu quả của chất độc màu da cam..............................................................13 3.4.1
Môi trường.......................................................................................13 3.4.2
Con người.........................................................................................14
3.5 Cách khắc phục của Đảng và Nhà nước.....................................................15 3 LỜI CẢM ƠN 4 DANH M`C BẢNG BIaU DANH M`C HbNH ẢNH
DANH M`C TỪ VIẾT TcT 5 PHdN Me ĐdU
Trên nền đen của cuộc kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam, một cơn ác mộng lằng
lặng nhưng đau đớn tiếp tục hiện hữu: chất độc màu da cam. Không chỉ là một "vũ
khí" trong tay quân đội Mỹ, mà chất độc này còn là một biểu tượng của sự tàn ác và
những đau thương không lường trước đối với con người và thiên nhiên.
Khám phá hành trình này, chúng ta sẽ tìm hiểu những nguyên nhân gốc rễ, sự tác
động toàn diện và hậu quả không ngờ của thảm họa chất độc màu da cam - biểu tượng
của sự tàn nhẫn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam. Sự đau khổ không
chỉ là những cơn đau về thể chất, mà còn là những vết thương vô hình đối với tâm hồn
và tình thần, để lại những hậu quả không lường trước sau những năm chiến tranh khốc liệt.
Từ những nguyên nhân gốc rễ của sự xuất hiện của chất độc màu da cam trong
chiến lược chiến tranh, đến những tác động vô tận và lan truyền đến thế hệ sau, bài
báo cáo này sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện về cơn ác mộng này. Chúng ta cũng sẽ đặt
ra câu hỏi về sự đạo đức của việc sử dụng chất độc trong chiến tranh, đồng thời xem
xét những bài học mà chúng ta có thể học từ những sai lầm đắng ngắt trong quá khứ.
Hãy cùng nhau chiêm nghiệm những hồi ức đau lòng và những hậu quả vô tận của
chất độc màu da cam, một cái tên gắn liền với cảm xúc và những nỗi đau không thể
nào phai mờ trong lòng những người dân Việt Nam. 6 PHdN NỘI DUNG
1. Giới thiệu sơ lược về bảo tàng chứng tích chiến tranh
Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa
bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh. Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố
Hồ Chí Minh, là thành viên của hệ thống Bảo tàng vì hòa bình thế giới và Hội đồng
các bảo tàng thế giới (ICOM). Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là Bảo tàng chuyên đề
nghiên cứu, sưu tầm, lưu trữ, bảo quản và trưng bày những tư liệu, hình ảnh, hiện vật
về những chứng tích tội ác và hậu quả của các cuộc chiến tranh mà các thế lực xâm
lược đã gây ra đối với Việt Nam. Qua đó, Bảo tàng tuyên truyền về tinh thần đấu tranh
bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, về ý thức chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa
bình và tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Bảo tàng lưu giữ
hơn 20.000 tài liệu, hiện vật và phim ảnh, trong đó hơn 1.500 tài liệu, hiện vật, phim
ảnh đã được đưa vào giới thiệu ở 9 chuyên đề trưng bày thường xuyên.
Từ nhiều năm qua, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là một trong những điểm tham
quan thu hút lượng khách đông nhất ở TPHCM và cả nước. Qua 48 năm hình thành và
phát triển (1975 - 2023), Bảo tàng đã đón tiếp hơn 23 triệu lượt khách tham quan,
trong đó có hơn 11 triệu lượt khách quốc tế và hơn 2 triệu lượt khách tham quan triển
lãm lưu động. Hiện nay Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh thu hút trên 1 triệu lượt khách tham quan mỗi năm.
Nội dung trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh không đi theo niên đại mà
được trình bày chủ yếu theo trình tự vấn đề; hướng các nội dung trưng bày về cộng
đồng và vì cộng đồng; xây dựng câu chuyện trong trưng bày gắn kết từ quá khứ đến
tương lai; tổ chức các hình thức giao lưu gắn với nội dung trưng bày,… Qua những lần
bổ sung, chỉnh lý, nâng cấp trưng bày đến nay, Bảo tàng đã có một hệ thống trưng bày bao gồm:
- Chuyên đề "Những sự thật lịch sử"
- Chuyên đề "Hồi Niệm - Bộ sưu tập ảnh về chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam"
- Triển lãm lưu động chuyên đề “Người chiến sĩ hôm nay” tại Nhà truyền thống chiến khu An Phú Đông 7
- Chuyên đề "Việt Nam - Chiến tranh và hòa bình"
- Chuyên đề "Tội ác chiến tranh xâm lược"
- Chuyên đề "Hậu quả chất độc da cam/dioxin trong chiến tranh xâm lược Việt Nam"
- Chuyên đề "Chế độ lao tù trong chiến tranh xâm lược Việt Nam"
- Chuyên đề "Thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến"
- Chuyên đề "Hiện vật vũ khí trưng bày ngoài trời"
- Phòng trải nghiệm dành cho thiếu nhi: "Bồ Câu Trắng"
Việc sử dụng đồ họa trong trưng bày, kết hợp âm thanh, ánh sáng, các công nghệ
trình chiếu đã được ứng dụng. Trong thời gian gần đây, Bảo tàng đã đưa vào sử dụng
công nghệ quét mã tem QR code trên các đai vách trưng bày và Audio guide với 6
ngôn ngữ (Việt - Anh - Pháp - Nga - Nhật - Hoa) giúp du khách có thể truy xuất thông
tin liên quan đến hình ảnh, hiện vật trưng bày tại Bảo tàng một cách dễ dàng thông qua
các ngôn ngữ tự chọn. Các thiết bị máy tính hiện đại (như màn hình cảm ứng) cũng
được lắp đặt tại các gian trưng bày giúp khách tra cứu thêm thông tin
Trong 45 năm hoạt động (1975 - 2020), Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đã được
Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng Ba (1996), Huân chương lao động
hạng Hai (2001) và Cờ thi đua xuất sắc của Bộ Văn hóa Thông tin (2004)
2. Tổng quan về cuộc kháng chiến chống Mĩ
2.1 Nguyên nhân của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
- Chiến tranh Việt Nam là một phần của cuộc đối đầu lớn giữa Mỹ và Liên Xô
trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh.
- Chính trị "Domino Theory" (lý thuyết domino) giả định rằng nếu một quốc gia
châu Á rơi vào tay cộng sản, các quốc gia xung quanh cũng sẽ bị ảnh hưởng.
- Mỹ hỗ trợ chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam từ những năm
1950, nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa.
- Mỹ nhìn nhận Việt Nam là một vùng quan trọng về chiến lược, đặc biệt sau khi
thấy sự tăng cường của Trung Quốc và Liên Xô ở khu vực.
- Một số nguồn tài nguyên và vị trí chiến lược tại Việt Nam cũng là lý do mỹ thuật
lợi kinh tế và quân sự. 8
2.2 Những chiến công tiêu biểu của quân dân giải phóng:
- Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963) tại Mỹ Tho, đập tan chiến thuật “trực thăng vận”,
“thiết xạ vận” 2000 tên địch, báo hiệu sự thất bại của “chiến tranh đặc biệt”.
- Chiến thắng Bình Giã (5-1-1965) (Bà Rịa, miền Đông Nam Bộ) tiêu diệt binh
đoàn dự bị chiến lược của địch. Cùng với chiến thắng Ba Gia (31-5-1965) và
Đồng Xoài (12-6-1965) quân và dân miền đã đánh bại hoàn toàn chiến lược
“chiến tranh cục bộ”, ào ạt đưa quân Mỹ vào miền Nam, nhưng quân Mỹ vào lại
càng không thể cứu vãn được tình thế, bị đánh tơi bời.
- Chiến thắng Núi Thành (28-5-1965) ở Quảng Nam do đại đội 2 tiểu đoàn 70 bộ
đội địa phương tỉnh Quảng Nam đã tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ trên điểm
cao, lập nên truyền thống “Quảng Nam trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.
- Chiến thắng Vạn Tường (18-8-1965, Quảng Ngãi) đánh bại cuộc hành quân xâm
lược lớn của một vạn quân xâm lược Mỹ, tiêu diệt gần 1.000 tên.
- Chiến thắng Đông Xuân (11/1965 - 3/1966) đánh bại cuộc phản công chiến lược
lần thứ nhất của 25 vạn quân Mỹ, 3 vạn quân chư hầu và 50 vạn quân ngụy.
- Chiến dịch Plâyme (19/10 - 26/11/1965), đã tiến công vây điểm, diệt viện, nhằm
mở rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh chiến tranh giải phóng.
- Chiến thắng Đông Xuân (10/1966 - 4/1967) đánh bại cuộc phản công chiến lược
lần thứ 2 của 45 vạn quân Mỹ, 50 vạn ngụy, mà tiêu biểu là cuộc hành quân Giôn-
xơn-xi-ti, tiêu diệt 11.000 tên địch, làm thất bại âm mưu của chúng, hòng tiêu diệt
bộ chỉ huy Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
- Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân (30-1-1968) đã đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Trong 55 ngày đêm, quân và dân
ta đã tiêu diệt 20 vạn tên địch, có 7 vạn tên Mỹ, phá hủy 3400 máy bay các loại,
500 xe quân sự, 4000 khẩu pháo, giải phóng 160 vạn dân thoát khỏi bộ máy kìm
kẹp của Mỹ, ngụy, vùng giải phóng được mở rộng.
- Chiến thắng đường 9 Nam Lào (31-3-1971) và Đông Bắc Campuchia đã đánh bại
2 cuộc hành quân “Lam Sơn 719” và “Toàn Thắng” (1-1971), làm thất bại một
bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.
- Cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1972, loại khỏi vòng chiến đấu 50 vạn tên
địch, giải phóng một vùng rộng lớn với 6 triệu dân. 9
- Trận “Điện Biên Phủ trên không” (18 - 29/12/1972), 12 ngày đêm đập tan cuộc
tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền
Bắc. Chúng ta đã bắn rơi 81 máy bay các loại trong đó có 34 máy bay B52 và 5
chiếc F.111, làm cho đế quốc Mỹ khiếp vía, kinh hoàng.
- Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử trong suốt 55 ngày đêm quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã
toàn bộ quân ngụy Sài Gòn, gồm 1 triệu 351.000 tên, với đầy đủ những trang bị
hiện đại của Mỹ, làm sụp đổ toàn bộ hệ thống ngụy quyền, chấm dứt ách thống trị
117 năm của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta, nhân dân ta thoát khỏi cảnh lầm than nô lệ.
2.3 Kết quả thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
- Ở miền Nam: Đã đập tan 4 chiến lược chiến tranh xâm lược của 5 đời Tổng thống
Mỹ: Diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 triệu quân ngụy, giết và làm bị thương
905.537 quân Mỹ và chư hầu. Thu và phá hủy hơn 46.500 máy bay các loại, hơn
13.000 khẩu pháo, 38.000 xe tăng, xe bọc thép, 10.000 tàu, xuồng chiến đấu.
- Ở miền Bắc: Đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (thời Giôn-xơn
8/1964 - 11/1968 và thời Ních-xơn 4/1972 - 1/1973). Bắn rơi 4.181 máy bay gồm
48 kiểu hiện đại nhất, trong đó có 68 B52; 13 F111, diệt và bắt sống hàng ngàn
giặc lái, 271 lần bắn cháy và bắn chìm tàu chiến, tàu biệt kích địch. 2.4 Hậu quả
- Hàng triệu người lính và dân thường thiệt mạng.
- Tổn thất kinh tế và hậu quả môi trường do sử dụng chất độc hại như dioxin (chất
chống cây cỏ dạng chất độc hại Agent Orange).
- Việt Nam chia cắt và đối diện với nhiều thách thức trong việc hòa nhập sau chiến tranh.
- Mỹ trải qua một giai đoạn khá đau đớn của chia rẽ và tranh cãi nội bộ về chiến tranh Việt Nam.
3. Chất độc màu da cam trong chiến tranh ở Việt Nam
3.1 Chất độc màu da cam là gì?
Chất độc da cam (viết tắt: CĐDC, tiếng Anh: Agent Orange—Tác nhân da cam), là
tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử 10
dụng tại Việt Nam trong Chiến dịch Ranch Hand, một phần của chiến tranh hóa học
của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chất này không có màu và được
chứa trong các thùng màu da cam (do vậy trong vụ kiện hậu quả của nó được gọi
nhầm là chất độc màu da cam).
Chất này đã được Hoa Kỳ sử dụng quy mô lớn trong những năm từ 1961 đến 1971,
khiến nhiều vùng ở Việt Nam bị nhiễm độc nghiêm trọng. Các cơ quan y tế ở Việt
Nam ước tính khoảng 400.000 người đã bị giết hoặc tàn tật, khoảng 500.000 trẻ em
sinh ra bị dị dạng, dị tật bởi chất độc hóa học này. Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam ước
lượng khoảng 1 triệu nạn nhân Việt Nam đã bị tàn phế hoặc bệnh tật vì chất độc da cam.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, mục đích quân sự chính thức của chất độc da
cam là làm rụng lá cây rừng để quân đội du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam Việt Nam không còn nơi ẩn náu. Chất độc da cam thực ra là một chất lỏng trong
suốt, nó được gọi là "chất da cam" vì những thùng phuy dùng để vận chuyển nó được
vẽ các sọc có màu da cam. Quân đội Hoa Kỳ còn có một số mã danh khác để chỉ đến
các chất diệt cỏ được dùng trong thời kỳ này: "chất xanh" (Agent Blue, cacodylic
acid), "chất trắng" (Agent White, hỗn hợp 4:1 của 2,4-D và picloram), "chất tím"
(Agent Purple) và "chất hồng" (Agent Pink).
Đến năm 1971, CĐDC không còn được dùng để làm rụng lá nữa; 2,4-D vẫn còn
được sử dụng để làm diệt cỏ. 2,4,5-T đã bị cấm dùng tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia
khác do sự độc hại của nó tới môi trường và sinh vật.
3.2 Chất độc màu da cam tác động lên con người bằng cách nào?
Chất độc màu da cam, chủ yếu là dioxin TCDD, xâm nhập vào cơ thể con người
thông qua nhiều con đường khác nhau. Dưới đây là một số cách chất độc màu da cam
có thể xâm nhập vào con người:
- Tiếp xúc qua da: Chất độc màu da cam có thể hấp thụ qua da khi người ta tiếp xúc
trực tiếp với nó, ví dụ như khi người dân ở gần khu vực đã bị phun chất độc màu da cam trong quá khứ.
- Tiếp xúc qua đường hô hấp: Dioxin có thể tồn tại trong không khí dưới dạng hạt
bám vào bụi, hạt bụi, hoặc hạt nhỏ khác. Người có thể hít phải chúng khi họ hít
thở không khí chứa dioxin. 11
- Qua thức ăn: Chất độc màu da cam có thể bám vào đất và nước, từ đó nó có thể
được hấp thụ vào cây trồng và động vật. Con người sau đó tiêu thụ chúng qua
thức ăn như rau củ, thịt, cá và sữa.
- Qua thức uống: Nước mà chất độc màu da cam đã bị ô nhiễm cũng là nguồn lây
nhiễm. Dioxin có thể tan vào nước và bám vào các hạt bùn, từ đó nó có thể được
cung cấp vào cơ thể khi người ta uống nước ô nhiễm.
- Chuyển giao từ mẹ sang thai nhi: Thai nhi có thể phải đối mặt với chất độc màu
da cam thông qua chuyển giao từ mẹ sang thai nhi. Chất độc màu da cam có thể
tồn tại trong cơ thể người mẹ và chuyển giao qua dòng máu hoặc sữa mẹ.
Một khi đã xâm nhập vào cơ thể, dioxin tích tụ trong mô và cơ bắp, gây ra nhiều
vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như ung thư, vấn đề về hệ thần kinh, tác động đến hệ
thống miễn dịch và sinh sản. Hậu quả của chất độc màu da cam có thể xuất hiện ngay
sau tiếp xúc hoặc có thể lộ rõ sau một thời gian dài.
3.3 Mỹ đã sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam như thế nào?
Trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, quân đội Mỹ đã dùng chất độc da
cam/dioxin nhằm phá rừng, tìm và diệt căn cứ cách mạng, ngăn chặn các cuộc hành
quân của bộ đội và hủy hoại hoa màu.
3.3.1 Những khu vực bị phun rải nặng nhất ở Nam Việt Nam.
Trong thời gian chiến tranh, Mỹ - Ngụy chia Nam Việt Nam ra các vùng chiến
thuật: I, II, III, IV.Trong đó vùng chiến thuật III bị phun rải nặng nhất, đây là khu vực
xung quanh Sài Gòn, đầu não của Mỹ - Ngụy. Các tỉnh và khu vực trọng điểm là: Tây
Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Thừa Thiên -Huế, Quảng Trị, chiến khu
D, chiến khu Dương Minh Châu, đặc khu rừng Sác,mật khu Bời Lời. 12
3.3.2 Cách thức thực hiện
Đối với các chất diệt cỏ, quân đội Mỹ sử dụng các phương tiện: máy bay (vận tải,
trực thăng), xe phun, bình phun, nhưng chủ yếu là máy bay vận tài C-123, vì phun rải
bằng máy bay tạo được khu vực nhiễm độc rộng lớn. Mỗi phi xuất C-123 tạo được
một vệt các chất diệt cỏ rộng 80 - 100 m, dài 15 - 18 km chỉ trong vòng 5-7 phút.
Tại hội thảo "Đánh giá tác hại của chất độc da cam/dioxin được Mỹ sử dụng trong
chiến tranh ở Việt Nam" diễn ra tại Hà Nội vào tháng 8/2016, 100 nhà khoa học Việt
Nam và quốc tế lần đầu tiên thống nhất rằng, chỉ trong vòng hơn 10 năm (1961 -
1971), Mỹ đã thực hiện 19.905 vụ phun, rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học với
61% trong số đó là chất độc da cam, xuống 26.000 thôn, bản của Việt Nam, với tổng
diện tích 3,06 triệu héc-ta. Trong đó, 86% số diện tích bị rải chất độc 2 lần và 11% bị rải tới 10 lần.
3.4 Hậu quả của chất độc màu da cam 3.4.1 Môi trường
Từ năm 1961 đến năm 1971, chỉ trong vòng 10 năm, quân đội Mỹ đã tiến hành
19.905 phi vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó là chất da
cam chứa 366 kg dioxin xuống gần 26.000 thôn bản, với diện tích hơn 3,06 triệu ha;
trong đó có 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần.
Gần 25% tổng diện tích miền Nam Việt Nam, bao gồm hầu hết các hệ sinh thái từ
vùng thấp ven biển đến vùng đồi núi cao thuộc 5 vùng sinh thái: Bắc Trung Bộ, duyên
hải Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ đều bị ảnh hưởng, trong đó,
Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất (56% diện tích tự nhiên bị phun rải).
Khoảng 86% lượng chất độc đã được phun rải lên các vùng rừng rậm; 14% còn lại
được dùng để phá hủy ruộng vườn, hoa màu, chủ yếu là đồng lúa và nương rẫy ở các
vùng đồi núi. Diện tích rừng ngập mặn bị ảnh hưởng chất độc hóa học là 150.000 ha,
điển hình là khu rừng ngập mặn ở Cà Mau.
Với một lượng khổng lồ chất độc hóa học phun rải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một
thời gian dài, môi trường bị ô nhiễm nặng nề, các hệ sinh thái bị đảo lộn, nhiều loài
thực vật và động vật bị tiêu diệt. Do rừng bị tàn phá nặng nề nên chức năng bảo vệ
môi trường của rừng phòng hộ đầu nguồn của 28 lưu vực sông cũng bị phá vỡ, gây
nhiều thiệt hại rất lớn đến nền kinh tế. 13
Rừng Mã Đà (tỉnh Đồng Nai) trước và sau khi bị rải chất khai hoang. 3.4.2 Con người
Viện Y học thuộc viện Hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ cho rằng có một mối liên hệ
giữa chất độc màu da cam và sự hình thành một số loại ung thư trên con người. Một số
khác, các công ty hóa chất phải đối mặt với các vụ kiện thì phản bác, họ cho rằng
không có bằng chứng rõ rệt nào cho thấy các vấn đề sức khỏe có ảnh hưởng bởi chất
độc màu da cam hay dioxin. Thực tế cho thấy một số khu vực tại Việt Nam chịu sự
ảnh hưởng của chất độc màu da cam có tỷ lệ cao các loại bệnh tật, di tật bẩm sinh và cả ung thư.
Những tác động và biến chứng của chất độc da cam thường thấy là:
- Gây kích ứng da và các bệnh ngoài da. - Rối loạn thần kinh. - Gây sẩy thai.
- Bệnh tiểu đường type 2.
- Dị tật bẩm sinh cho đời sau.
- Gây các bệnh ung thư, bện Hodgkin, bệnh bạch cầu.
Theo số liệu thống kê của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, ở Việt
Nam có 4,8 triệu người bị nhiễm chất độc hóa học, bao gồm cả những người tham gia
kháng chiến và người dân sinh sống trên địa bàn bị rải chất độc hóa học. Chỉ tính riêng 14
tỉnh Bình Thuận, theo số liệu khảo sát của tỉnh, quân đội Mỹ đã phun rải trực tiếp
xuống 65.473 ha, chiếm 8,4% diện tích đất đai toàn tỉnh; gây phơi nhiễm chất độc da
cam cho gần 6.000 người. Hầu hết những người bị nhiễm chất độc da cam của tỉnh
Bình Thuận là cán bộ kháng chiến, bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến
và nhân dân sống trong vùng bị rải chất độc; một số là những người từng phục vụ
trong chính quyền Sài Gòn cũng bị nhiễm chất độc da cam. 3 Đả hảo sát, thu g nhiệm vụ là độc tồn lưu s óa học. Quán học đã tích c về tình hình với các đơn v lý chất độc C Từ iệm vụ
điều tra, thu gom, xử lý CĐHH tồn lưu sau chiến tranh; đã điều tra, xác định các vị trí
còn tồn lưu chất độc ở 293 huyện, thị xã thuộc 34 tỉnh, thành phố thuộc các Quân khu:
4, 5, 7, 9 và các kho thuộc Tổng cục Kỹ thuật; thu gom, xử lý gần 400 tấn chất độc
CS, khoảng 200 tấn đạn dược chứa chất độc CS và hàng trăm mét khối đất nhiễm chất
độc CS; xử lý khoảng 150.000m3 đất nhiễm chất độc da cam/dioxin tại sân bay Biên
Hòa thuộc các dự án XĐ-1, XĐ-2 bằng phương pháp chôn lấp cô lập; tư vấn thiết kế
kỹ thuật-tổng dự toán xử lý, chôn lấp cô lập 7.500m3 đất nhiễm chất độc da
cam/dioxin tại sân bay Phù Cát; giám sát công nghệ xử lý đất nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng...
Kết quả này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp
phần quan trọng vào việc đánh giá tổng thể tình hình ô nhiễm CĐHH trên các địa bàn;
cung cấp số liệu điều tra, khảo sát có độ tin cậy, làm cơ sở xây dựng dự án xử lý khu 15
vực bị nhiễm chất độc. Dù vậy, công tác khắc phục hậu quả chất độc da cam/dioxin
hiện nay mới chỉ đáp ứng được một phần so với hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh
hóa học do quân đội Mỹ gây ra. Khối lượng CĐHH mà Mỹ rải xuống Việt Nam là rất
lớn nên quá trình điều tra, khảo sát, thu gom, xử lý rất khó khăn và tốn kém. Việc xử
lý triệt để các khu vực nhiễm chất độc da cam/dioxin và kiểm soát, giảm thiểu nguồn
gốc phát sinh dioxin là một nhiệm vụ cấp thiết, cần có sự chung tay, góp sức của các
cấp, các ngành, của hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó bộ đội hóa học giữ vai trò làm nòng cốt.
Chúng ta cần triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp cả trước mắt
và lâu dài, trong đó tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây: Làm tốt công tác
quán triệt, tuyên truyền, giáo dục cho bộ đội về các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, Bộ Quốc phòng về công tác khắc phục hậu quả CĐHH tồn lưu sau chiến
tranh. Trong đó, tập trung vào các chỉ thị, nghị quyết, quyết định như: Quyết định số
651/QĐ-TTg ngày 1-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành
động quốc gia khắc phục cơ bản hậu quả CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở
Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020”; Chỉ thị số 05/CT-BQP ngày
3-2-2017 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng “Về việc tổ chức thực hiện các dự án, chương
trình khắc phục, xử lý CĐHH/dioxin trong quân đội”... Làm cho mọi cấp ủy, chỉ huy,
cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của việc khắc phục hậu quả CĐHH
tồn lưu sau chiến tranh đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tập trung
đầu tư xây dựng lực lượng, trang thiết bị công nghệ và các nguồn lực khác nhằm nâng
cao khả năng xử lý CĐHH tồn lưu sau chiến tranh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là vấn đề có tính chất quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác khắc phục
hậu quả CĐHH tồn lưu trong thời gian tới. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, làm chủ
công nghệ xử lý CĐHH chứa dioxin. Xử lý dioxin là vấn đề rất phức tạp, thế giới đã
có nhiều công nghệ xử lý các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, nhưng chưa có công
nghệ xử lý dioxin triệt để và cũng chưa có nơi nào có những khu vực ô nhiễm dioxin
với tính chất hết sức phức tạp như ở Việt Nam: Hàm lượng dioxin tồn lưu cao, diện
tích đất và trầm tích bị ô nhiễm rất lớn, phân bố không theo quy luật. Do đó, việc
nghiên cứu, lựa chọn công nghệ khả thi để xử lý dioxin rất khó khăn, phức tạp. Để xử
lý triệt để chất độc da cam/dioxin, nhất là tại các “điểm nóng”, cần tiếp tục nghiên 16
cứu, lựa chọn công nghệ khả thi để vừa bảo đảm xử lý triệt để, vừa tiết kiệm được chi
phí, không để môi trường không khí, đất, nước bị ô nhiễm thứ cấp. Tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc giải quyết hậu quả chất độc hoá học do Mỹ
sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
Công tác khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở
Việt Nam đối với môi trường và sức khoẻ con người là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu
dài, là trách nhiệm của mỗi cấp uỷ đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên và các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Cần xác định nhiệm vụ xử lý dứt điểm về ô nhiễm môi
trường trong khu vực còn tồn đọng chất độc hoá học và chương trình chăm sóc, giúp
đỡ người dân vùng phơi nhiễm chất độc da cam vào chương trình an sinh xã hội và
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của địa phương, đơn vị. Đồng thời, tăng
cường kiểm tra, giám sát, tập trung giải quyết dứt điểm từng vấn đề; trong đó phải coi
trọng việc thực hiện chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam, không để xảy ra
tiêu cực khi thực hiện chính sách này. Các cấp uỷ đảng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt
Nam các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường công tác
tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước
ngoài, các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới hiểu rõ thảm hoạ chất độc hoá học
do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; tích cực hưởng ứng các phong trào, các
cuộc vận động giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam và ủng hộ cuộc đấu tranh đòi công
lý cho nạn nhân chất độc da cam. 17 PHdN KẾT LUẬN
Bài báo cáo này đã làm sáng tỏ một khía cạnh đen tối và đau lòng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ tại Việt Nam - thảm họa chất độc màu da cam. Nếu chiến tranh mang
đến những thương tích về thể xác, thì chất độc màu da cam lại làm nhơ bẩn tâm hồn
của những người dân vô tội và môi trường thiên nhiên tươi đẹp.
Chúng ta đã chứng kiến những cảnh đau đớn khi những người sống sót và thế hệ
sau đều phải đối mặt với những vấn đề sức khỏe nặng nề, từ các bệnh lý ung thư đến
những tác động đặc biệt đau lòng đối với trẻ em. Điều này không chỉ là một thách thức
y tế, mà còn là một thách thức đạo đức và nhân quyền mà cộng đồng quốc tế cần chung tay giải quyết.
Chất độc màu da cam không chỉ là vấn đề của quá khứ, mà còn là một lời nhắc nhở
về tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và công lý. Việc hỗ trợ những người bị
ảnh hưởng và đầu tư vào các dự án phục hồi môi trường không chỉ là nghĩa vụ đạo đức
mà còn là đầu tư vào tương lai, để đảm bảo rằng thế hệ mai sau sẽ không phải chịu
gánh nặng của những quyết định chiến lược đau lòng trong quá khứ.
Chất độc màu da cam không chỉ là một vết thương trên bản đồ lịch sử, mà còn là
hồi chuông cảnh báo về những hậu quả không lường trước của chiến tranh và sự cần
thiết của việc xây dựng thế giới dựa trên nền tảng của hòa bình, công bằng và sự nhân đạo.
Nhìn chung, chất độc màu da cam không chỉ là một biểu tượng của cuộc chiến
tranh, mà còn là biểu tượng của sự đau khổ và sự cần thiết phải tìm kiếm công lý và
giúp đỡ cho những người đã và đang phải chịu đựng hậu quả không lường trước của
một quyết định chiến lược đã để lại trong lịch sử khó quên của chúng ta. 18 CẢM NGHĨ BẢN THÂN
Cảm nghĩ của bạn Hoàng
Chuyến đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh là một trải nghiệm đáng nhớ
và sâu sắc. Bảo tàng chứng tích chiến tranh là nơi lưu giữ những di tích lịch sử trực
tiếp và chứng minh tình hình chiến tranh của Việt Nam. Đây là một nguồn thông tin
quan trọng về cuộc chiến chống lại sự xâm lược của người Pháp.
Bảo tàng chứng tích chiến tranh là một điểm đến đặc biệt, nơi lưu giữ các tư liệu
lịch sử, hình ảnh và hiện vật về cuộc chiến tranh. Đây là nơi mà học sinh, sinh viên có
thể tìm hiểu thêm về quá trình chiến đấu và đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Sau
chuyến tham quan, các em được khuyến khích viết bài cảm nhận về trải nghiệm của mình.
Chuyến đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh đã để lại trong tôi nhiều ấn
tượng mạnh mẽ. Tôi đã được chứng kiến những hình ảnh, vật phẩm liên quan đến các
cuộc chiến tranh Việt Nam và cảm nhận được sự khốc liệt, tàn khốc và hậu quả của
chiến tranh đối với người dân Việt Nam. Tôi cảm nhận được sự đau đớn, nỗi ám ảnh
và tinh thần lớn của những người đã hy sinh trong cuộc chiến tranh. Điều này đã khơi
dậy trong tôi lòng khát khao hòa bình, sự biết ơn và tôn trọng đối với những người đã
đánh đổi tất cả để bảo vệ đất nước
Chuyến đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh là một trải nghiệm đáng nhớ
và ý nghĩa. Đây là cơ hội để hiểu rõ hơn về lịch sử và hậu quả của cuộc chiến tranh.
Tôi khuyến khích mọi người tham quan bảo tàng này để tìm hiểu và cảm nhận sự hy
sinh và tinh thần chiến đấu của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh.
Cảm nghĩ của bạn Phạm Minh Khôi
Đây là một trải nghiệm đầy cảm xúc và sâu sắc. Chuyến đi đến bảo tàng chứng tích
chiến tranh không chỉ đem lại cho em những kiến thức lịch sử mà còn mở ra một cửa
sổ tâm hồn về những đau thương và hy vọng. Những hiện vật, hình ảnh và câu chuyện
tại bảo tàng đã đánh thức trong em những cảm xúc mạnh mẽ về những hậu quả của
chiến tranh đối với con người.
Việc nhìn thấy những vết thương của chiến tranh thông qua những hiện vật cụ thể,
những tấm hình đẫm máu và những câu chuyện đau lòng đã khiến em suy tư và cảm
thấy sâu sắc về giá trị của hòa bình và sự hy vọng vào tương lai. Em không thể không 19
bị rung động trước những gì mà con người có thể gây ra cho nhau trong những thời kỳ khủng hoảng.
Tuy nhiên, chuyến đi cũng mở ra một cửa sổ hy vọng khi em thấy những nỗ lực hòa
bình và sự kiên trì của con người trong việc xây dựng lại sau chiến tranh. Em rút ra
được bài học về sự quý trọng của hòa bình và ý chí mạnh mẽ của con người trong việc
vượt qua những thử thách đau thương.
Em hy vọng rằng mọi người sẽ có cơ hội trải nghiệm những điều tương tự, để hiểu
rõ hơn về những hậu quả của chiến tranh và đồng thời nuôi lên trong mình tình yêu
thương và hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Cảm nghĩ của bạn Hân
Nhìn nhận về chất độc màu da cam, tôi không thể không cảm thấy sự đau lòng và
tiếc nuối trước những hậu quả nặng nề mà nó đã mang lại cho con người và môi
trường. Chiến tranh không chỉ gây ra những tổn thất về vật chất mà còn để lại những
vết thương tinh thần và hậu quả sức khỏe kéo dài cho nhiều thế hệ.
Tôi tin rằng việc sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh là một sai lầm
đáng kể và đã làm tan nát cuộc sống của hàng triệu người dân vô tội. Các vấn đề sức
khỏe nghiêm trọng, như ung thư, vấn đề sinh sản, và tác động đối với hệ thần kinh, là
một biểu hiện rõ ràng về những ảnh hưởng tiêu cực của chất độc màu da cam.
Ngoài ra, tôi cũng nhìn nhận sự quan trọng của việc chấp nhận trách nhiệm xã hội
và quốc tế trong việc giảm thiểu ảnh hưởng dài hạn của chất độc màu da cam. Công ty
sản xuất chất độc màu da cam nên chịu trách nhiệm và tham gia vào các nỗ lực hỗ trợ
những người bị ảnh hưởng và phục hồi môi trường.
Cuối cùng, tôi hy vọng rằng sự cố này sẽ là một bài học lớn cho thế giới về tầm
quan trọng của việc bảo vệ môi trường và sức khỏe con người khỏi những tác động
tiêu cực của các chất hóa học độc hại. Chúng ta cần phải học bài từ quá khứ để tạo ra
một tương lai lành mạnh hơn và bền vững hơn.
Cảm nghĩ của bạn Lê Đỗ Thúy Quyên
Khi được đến tham quan Bảo tàng chứng tích chiến tranh đã để lại cho em vô vàng
những cảm xúc về một quá khứ nhiều nỗi đau để lại của cuộc chiến tranh mà nhân dân
Việt Nam phải trải qua. Bảo tàng chứng tích chiến tranh như một cầu nối đưa những
con người may mắn sống ở thời bình có cơ hội tìm hiểu về sự tàn ác, khốc liệt của một 20