lOMoARcPSD| 59943509
lOMoARcPSD| 59943509
MỞ ĐẦU
Hiện nay, nhu cầu về đa dạng hoá nguồn tài chính và thúc đẩy sự tham gia của khu
vực tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đang là một tất yếu của các nền kinh tế trên
thế giới. Tại Việt Nam thông qua hình thức đối tác công - đã huy động được khoảng
80 t USD cho việc đầu phát triển sở hạ tầng. Như vậy ta đã thấy được sự tác
động mạnh mẽ của đầu theo hình thức hợp đồng đối tác công - đến đầu phát
triển sở hạ tầng tại Việt Nam. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng toàn diện là một trong
những trọng tâm của Việt Nam để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững và tăng cường
tính cạnh tranh của đất nước theo hướng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - hội. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu từ ngân sách nhà nước hạn chế thách
thức khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong điều kiện đó, chủ trương của Việt Nam
huy động tối đa nguồn lực cho đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua chính sách xã hội hoá đầu
với một trong những hình thức chủ yếu hình thức đầu theo hợp đồng đối tác
công - hay còn gọi là hình thức PPP. Để thực hiện chủ trương đó, nước ta đã thực
hiện ban hành nhiều cơ chế, chính sách về huy động, quản lý đầu tư theo hình thức này.
Trong quá trình thực hiện, Việt Nam cũng đã thu được một số kết quả nhất định nhưng
tuy nhiên còn nhiều những bất cập, hạn chế cần phải hoàn thiện. Vậy trong phạm vi đề
tài, em sẽ làm rõ đặc điểm hợp đồng đối tác ng - tư theo pháp luật hiện hành cùng với
những thực tiễn về đầu tư theo hợp đồng đối tác công - tư tại nước ta.
LỚP LQT-K
19
Ngành: Luậ
t qu
ốc tế
Mã sinh viên: 19A52010053
Hà Nội,
10/2021
lOMoARcPSD| 59943509
Theo yêu cầu của bộ môn, sau thời gian tìm tòi, nghiên cứu làm bài kế thừa những
nội dung trong “Luật đầu tư, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư , Giáo trình
luật đầu tư, tập bài giảngcùng với những n bản pháp luật liên quan cũng như những
tư liệu trên các trang mạng uy tín, em đã hoàn thành bài tập lớn học kỳ này để phục vụ
trong quá trình học bô môn. Tuy nhiên trong lúc làm bài có những hạn chế khách quan
chủ quan nên tập bài vẫn cần hoàn thiện chỉnh sửa hơn nữa, em sẽ tích cực nhận
lời góp ý từ thầy cô và chỉnh sửa bài tập một cách hoàn hảo nhất.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tháng 10 năm 2021
Sinh viên Phạm Vũ Quang
lOMoARcPSD| 59943509
I. KHÁI QUÁT MÔ HÌNH ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ THEO PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH TẠI VIỆT NAM
1.1 Khái niệm đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Đầu tư theo hợp đồng đối tác công - hay theo nghĩa tiếng Anh là Public Private
Partnership, viết tắt PPP được bắt nguồn từ Hoa K trong thập niên 1950 khi một số
chương trình phát triển thuộc lĩnh vực giáo dục được cả khu vực công khu vực
cùng tài trợ. Tiếp đó, thuật ngữ “PPP” y được sử dụng rộng rãi để nói đến liên kết
giữa chính quyền thành phố và nhà đầu tư tư nhân trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng tại
quốc gia này trong thập niên 1960. Kể từ thập niên 1980, thuật ngữ “PPP” dần phổ biến
nhiều nước được hiểu là sự hợp tác giữa nhà nước nhân đcùng phát triển,
xây dựng cơ sở hạ tầng hay cung cấp các dịch vụ công cộng. Hiện nay trên thế giới vẫn
chưa có một định nghĩa thống nhất về thuật ngữ “hợp tác công - tư”, mỗi quốc gia, mỗi
tổ chức quốc tế đều có một cách hiểu riêng phù hợp với quá trình áp dụng của mình.
Tại Việt Nam từ trước đến nay, mô hình đầu tư PPP đã bắt đầu được thực hiện từ đầu
thập niên 90 của thế kỷ trước. Cụ thể năm 1997, Chính phủ lần đầu ban hành nghị
định số 77/CP về quy chế đầu theo hình thức hợp đồng BOT với nhà đầu trong
nước qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi thông qua các nghị định để từng bước tiếp cận
với thông lệ quốc tế, quy định về PPP của Việt Nam đã tương đối hoàn thiện. Đặc biệt
mới đây, ngày 18/6/2020, Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu theo phương
thức đối tác công tư (PPP) số 64/2020/QH14, Luật bao gồm 11 chương và 101 điều. So
với các Nghị định trước đây như Nghị định 63/2018 /CP, Nghị định 15/2015 NĐ/CP
hay một số điều khoản tại Luật đầu 2014 thì đây Luật thống nhất điều chỉnh hoạt
động đầu tư, thu hút khu vực nhân tham gia đầu một số lĩnh vực hạ tầng quan trọng,
thiết yếu theo phương thức đối tác công - tư.
Khái niệm đầu theo phương thức hợp đồng đối tác công - tư hiện tại được quy định
tại khoản 10 điều 3 Luật đầu theo phương thức đối tác công - 2020 thì: Đầu
theo phương thức đối tác công (Public Private Partnership - sau đây gọi đầu
theo phương thức PPP) là phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp tác có thời
lOMoARcPSD| 59943509
hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng
dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP.”
Như vậy, từ khái niệm ta thấy “Hợp đồng đầu theo phương thức đối tác công - tư”
là sự thoả thuận thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư nhân để cùng thực hiện một
dự án xây dựng sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm… hay cung cấp dịch vụ
công như Y tế, khám chữa bệnh… Với việc ngân sách nhà ớc ngày càng hạn chế thì
thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân là rất cần thiết, việc kêu gọi này sẽ có lợi
ích cho cả Nhà nước các nhà đầu nhân. Trong điều luật trên ta cũng thấy nếu
Doanh nghiệp Nhà nước với 100% vốn nhà ớc nếu với cách chủ thể độc lập tham
gia vào đầu tư thì cũng không thể là một bên chủ thể của hợp đồng PPP này vì vốn đầu
tư trong mô hình này là phải từ những nhà đầu tư tư nhân, Doanh nghiệp Nhà nước nếu
muốn đầu theo phương thức PPP thì cần phải liên doanh, liên kết với nhà đầu
nhân để đầu tư. Thời hạn trong hợp đồng PPP sẽ phụ thuộc vào từng loại hợp đồng, nội
dung hợp đồng PPP như hợp đồng cung cấp dịch vụ công, hợp đồng xây dựng cơ sở hạ
tầng…, mỗi hợp đồng sẽ một thời hạn nhất định khác nhau, không thời hạn vĩnh
viễn. Việc đưa những Nghị định về đầu tư theo phương thức đối tác công - tư trở thành
Luật riêng đã tạo nên một sở pháp vững chắc cho các nhà đầu tư, giúp Nhà nước
huy động được nhiều vốn đầu tư tư nhân của các nhà đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội cho Quốc gia.
1.2 Đặc điểm của mô hình đầu tư theo phương thức đối tác công tư
hình đối tác công - cần một hợp đồng dài hạn hoặc ngắn hạn giữa bên
nhân bên Nhà nước. Tại Việt Nam, hợp đồng dài hạn sẽ áp dụng cho những công
trình, dự án có nguồn vốn lớn cùng với thời gian xây dựng cơ sở hạ tầng kéo dài chẳng
hạn như các tuyến đường cao tốc… Còn hợp đồng ngắn hạn sẽ thể áp dụng cho những
dự án cung cấp dịch vụ công…
hình đối tác công sự phân chia rủi ro giữa các bên của hợp đồng, gồm: rủi
ro trong quá trình xây dựng, rủi ro về thị trường, rủi ro về tài chính, rủi ro trong quá trình
vận hành và bảo trì, rủi ro về mặt pháp lý.
lOMoARcPSD| 59943509
Cụ thể, khu vực nhân sẽ tự chịu trách nhiệm toàn bộ phần tài chính của mình đối
với dự án , đảm nhiệm các giai đoạn khác nhau của dự án bao gồm việc thiết kế, xây
dựng, đầu tư tài chính và vận hành công trình, hạ tầng đồng thời phân phối từng loại rủi
ro khác nhau tuỳ từng mô hình PPP áp dụng mà nhà đầu tư đã kết với bên Nhà nước.
Trong khi đó, Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm giám sát tiến độ, hiệu quả công trình, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan, định hướng chiến lược, hỗ trợ khu vực
nhân khi cần thiết,…
Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có cơ chế pháp lý về rủi ro cũng như lợi ích của
các bên tham gia trong hợp đồng. Khi thực hiện đầu tư, nguy cơ rủi ro xảy ra có thể rất
cao, không thể tránh khỏi chẳng hạn như rủi ro về vốn hay thời gian thu hồi vốn,…
vậy n hình thành cơ chế pháp lý về phân chia rủi ro là rất cần thiết. Hiện tại, Luật đầu
tư theo phương thức hợp đồng PPP 2020 đã có cơ chế y, cụ thể đã được quy định tại
điều 82 Luật đầu tư theo phương thức hợp đồng PPP 2020 về cơ chế chia sẻ phần tăng,
giảm doanh thu thực tế so với dự định của nhà đầu tư.
Trong mô hình đối tác công tư, bên tư nhân sẽ được thanh toán trực tiếp từ phía Nhà
nước hoặc từ người dân, người tham gia sử dụng sở hạ tầng hoặc sử dụng dịch vụ
công. Hạ tầng sẽ được chuyển giao quyền sở hữu về phía Nnước, khi kết thúc, hợp
đồng PPP hoặc một khoảng thời gian sau đó tuỳ thuộc vào loại hợp đồng PPP tho
thuận giữa các bên.
II. HỢP ĐỒNG ĐẦU TƯ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
2.1 Khái niệm hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Theo khoản 16 điều 3 Luật PPP, Hợp đồng dán PPP thỏa thuận bằng văn bản
giữa cơ quan kết hợp đồng với nhà đầu , doanh nghiệp dự án PPP về việc Nhà nước
nhượng quyền cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP thực hiện dự án PPP theo quy
định của Luật này, bao gồm các loại hợp đồng sau đây:
a) Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (Build - Operate - Transfer,
sau đây gọi là hợp đồng BOT);
lOMoARcPSD| 59943509
b) Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (Build - Transfer - Operate,
sau đây gọi là hợp đồng BTO);
e) Hợp đồng y dựng - Sở hữu - Kinh doanh (Build - Own - Operate, sau đây gọi là
hợp đồng BOO);
d) Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (Operate - Manage, sau đây gọi là hợp đồng
O&M);
đ) Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ ( Build - Transfer - Lease, sau
đây gọi là hợp đồng BTL);
e) Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (Build - Lease - Transfer,
sau đây gọi là hợp đồng BLT);
g) Hợp đồng hỗn hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 45 của Luật này.
17. Lựa chọn nhà đầu quá trình xác định nđầu đủ năng lực, kinh
nghiệm, giải pháp khả thi để thực hiện dự án PPP trên nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh,
công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
18. Nhà đầu PPP (sau đây gọi nhà đầu tư) một pháp nhân độc lập được
thành lập theo quy định của pháp luật hoặc liên danh giữa nhiều pháp nhân tham gia
hoạt động đầu tư theo phương thức PPP.
19. Vốn nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn từ nguồn thu hợp pháp
dành để chi đầu tư, chi thường xuyên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước.
Luật Đầu tư 2014, tại khoản 8 điều 3 quy định: Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối
tác công tư (sau đây gọi là hợp đồng PPP) là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan n
nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án đầu tư xây
dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ
tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.
Trước đây, hợp đồng PPP quy định 1 phần trong Luật Đầu 2014, đến nay hợp đồng
PPP đã được quy định tại một văn bản pháp luật riêng. So với Luật đầu 2014, Hợp
đồng PPP quy định tại Luật Đầu tư 2014 chỉ mang tính khái quát, không chi tiết, cụ thể
như quy định tại Luật PPP và Luật PPP 2020 đã liệt chi tiết các loại hợp đồng trong
hợp đồng PPP. Tuy nhiên, trong tương lai, các hình thức hợp đồng mới có thể phát sinh
nên khi các hình thức hợp đồng đó phát sinh thì cần phải sửa đổi, bổ sung quy định
của Luật cho phù hợp với tình hình.
lOMoARcPSD| 59943509
2.2 Đặc điểm hợp đồng theo phương thức đối tác công tư
2.2.1 Loại hợp đồng:
Hợp đồng đối tác công (Hợp đồng PPP) một loại hợp đồng trong lĩnh vực đầu
tư, theo đó hợp đồng ghi nhận quyền, nghãi vụ của các bên trong việc bỏ vố; triển khai
dự án đầu tư; quyết toán tài chính cho dự án; chuyển giao quyền sở hữu, kinh doanh,
quản lý, vận hành dự án đầu tư tuỳ từng trường hợp cụ thể.
2.2.2 Chủ thể hợp đồng :
Hợp đồng PPP được kết giữa Nhà nước nhà đầu trong những lĩnh vực luật
định. Cụ thể, một bên chủ thể hợp đồng PPP luôn là Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh: Các cơ
quan được uquyền của Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, đại diện quan nhà nước
thẩm quyền; và một bên là nhà đầu tư.
Trong chủ thể hợp đồng, bên nhà đầu thể là nhà đầutrong ớc, nhà đầu
nước ngoài, các nhà đầu đó sẽ thể nhà đầu độc lập hay có thể nhiều nhà
đầu liên doanh với nhau để trở thành một bên chủ thể hợp đồng để cùng thực hiện
nghĩa vụ được thoả thuận trong hợp đồng. Với việc cho phép nhiều doanh nghiệp hợp
tác cùng thực hiện công việc trong hợp đồng thì sẽ giúp giảm gánh nặng so với một nhà
đầu tư thực hiện. Về bên Nhà nước, Nhà nước sẽ tham gia hợp đồng với tư cách là một
bên chủ thể tham gia của hợp đồng, có tư cách bình đẳng với bên n lại tham gia trong
hợp đồng - bên nhân. Điều y khác với đầu theo hợp đồng hợp tác kinh doanh
(Hợp đồng BCC) khi trong hợp đồng BCC, Nhà nước hợp đồng với cách
quan quản lý Nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành, không hạn chế pháp lý
của các nhà đầu trong ớc hay nước ngoài tham gia vào dự án, nhà đầu trong
nước hay nhà đầu nước ngoài đều thể tham gia đấu thầu dự án nếu trúng thầu
sẽ được tham gia đàm phán, kết hợp đồng dự án với quan nhà ớc thẩm quyền.
Các cơ quan nhà nước tham gia vào quan hệ hợp đồng dự án sẽ giảm bớt gánh nặng tài
chính của việc đầu phát triển hạ tầng để tập trung nguồn vốn ngân sách vào các nhiệm
vụ phát triển đất nước.
lOMoARcPSD| 59943509
2.2.3 Đối tượng và phạm vi ký kết của hợp đồng PPP
Không giống như hợp đồng hợp đồng BCC, các hợp đồng PPP nói chung đều có đối
tượng quyền xây dựng, quyền shữu, quyền kinh doanh/vận hành/chuyển giao các
công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công với mục đích nhằm đáp ứng các
nhu cầu, lợi ích công cộng; đáp ứng nhu cầu, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng dân
và xã hội nói chung.
Cụ thể, theo khoản 1 điều 4 Luật PPP: Lĩnh vực đầu theo phương thức PPP bao
gồm:
+ Giao thông vận tải
+ Lưới điện, nhà máy điện, trừ nhà máy thuđiện các trường hợp Nhà nước độc
quyền của Luật Điện lực
+ Thuỷ lợi; cung cấp nước sạch; thoát nước và xử lý nước thải; xử lý chất thải
+ Y tế; giáo dục - đào tạo
+ Hạ tầng công nghệ thông tin.
Trước đó, các lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP cũng đã được quy định tại điều
4 Nghị định 63/2018/-CP. Tại nghị định 63/2018 NĐ/CP, các lĩnh vực được liệt kê
cụ thể hơn so với Luật PPP 2020. Quy định của Luật PPP 2020 mang tính khái quát, bao
hàm hơn, chia làm 2 nhóm gồm công trình hạ tầng và cung cấp dịch vụ công.
2.2.4 Mục đích của các bên khi ký hợp đồng PPP
Như trên đã phân tích, đối tượng của hợp đồng PPP là các công trình kết cấu hạ tầng
hoặc cung cấp dịch vụ công vốn do nhà nước phải đảm nhận trực tiếp đầu nhà
nước tham gia hợp đồng dự án nhằm đưa ra những bảo đảm cho nhà đầu đồng thời
theo dõi, quản lý hoạt động đầu tư và các cam kết của nhà đầu tư đối với việc phát triển
sở hạ tầng. Mục đích của nhà nước khi tham gia hợp đồng PPP nhằm đạt được
những mục tiêu kinh tế xã hội, một chức năng quản lý của nhà nước.
Trong khi đó Nhà đầu tham gia Hợp đồng PPP không nhằm mục đích nào khác
ngoài kinh doanh kiếm lời. Họ không quan tâm tới yếu tố ng của Hợp đồng PPP mà
lOMoARcPSD| 59943509
chỉ đơn thuần tiến hành hoạt động kinh doanh như tất cả các công việc kinh doanh khác.
Theo đó, giống như các hợp đồng thông thường khác, Hợp đồng PPP thể hiện ý chí, tự
do, tự nguyện của nhà đầu tư. Chính hạt nhân kinh doanh này đã quyết định và chi phối
yếu tố đầu tư của hợp đồng PPP, xác định tính chất bình đẳng về địa vị pháp lý của các
chủ thể Hợp đồng PPP.
2.2.5 Nội dung hợp đồng PPP
Về nội dung, hợp đồng PPP một văn bản ghi nhận các thông tin, quyền nghĩa
vụ của các bên trong qtrình thực hiện dự án đầu như hoạt động y dựng, kinh
doanh và chuyển giao các công trình kết cấu hạ tầng hoặc liên quan đến nội dung cung
cấp dịch vụ ng. Chẳng hạn nhợp đồng: BOT (xây dựng vận hành – chuyển giao),
BTO (xây dựng chuyển giao vận hành), BT (xây dựng chuyển giao), BOO (xây
dựng sở hữu vận hành), BTL (xây dựng chuyển giao thuê dịch vụ),… thì nội
dung quan trọng của các hợp đồng này là quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư và cơ quan
nhà ớc thẩm quyền liên quan đến việc xây dựng, kinh doanh chuyển giao các
công trình kết cấu hạ tầng. Theo đó, để triển khai hoạt động đầu để triển khai hoạt động
đầu tư theo hợp đồng PPP, Nhà nước phải tổ chức lập kế hoạch dự án; tổ chức đấu thầu,
lựa chọn nthầu kết hợp đồng PPP cụ thể, có các quyền, nghĩa vụ như: y dựng
công trình kết cấu hạ tầng, kinh doanh, vận hành, sở hữu… công trình kết cấu đó; chuyn
giao công trình đó cho Nhà nước hoặc cung cấp dịch vụ công. So với hợp đồng BCC thì
hợp đồng PPP nội dung phức tạp hơn bởi nội dung hợp đồng này không chỉ mỗi
yếu tố pháp luật n cạnh đó có thể liên quan đến các yếu tố như kinh tế, kỹ thuật,…
điều này đòi hỏi người làm nội dung hợp đồng PPP phải có nhiều kinh nghiệm thực tiễn
mới thể đánh giá được tính khả thi về pháp luật để thể y dựng được nội dung
của hợp đồng.
2.2.6 Các loại hợp đồng PPP
Theo quy định tại điều 45 Luật PPP thì 6 loại hợp đồng PPP thuộc 2 nhóm hợp
đồng như sau:
lOMoARcPSD| 59943509
Một là, nhóm hợp đồng dự án áp dụng cơ chế thu phí trực tiếp từ người sử dụng hoặc
tổ chức bao tiêu sản phẩm, dịch vụ công (khoản 1 điều 45 Luật PPP):
- Hợp đồng BOT hợp đồng nhà đầu , doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để y dựng, kinh doanh, vận hành công trình, hệ thống sở hạ tầng
trong thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chuyển giao
công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó cho Nhà nước;
- Hợp đồng BTO hợp đồng nhà đầu , doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng; sau khi hoàn thành xây
dựng, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chuyển giao ng trình, hệ thống sở hạ
tầng cho Nhà nước được quyền kinh doanh, vận hành công trình, hệ thống sở hạ
tầng đó trong thời hạn nhất định;
- Hợp đồng BOO hợp đồng nhà đầu , doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng, sở hữu, kinh doanh, vận hành công trình, hệ thống cơ sở hạ
tầng trong thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chấm
dứt hợp đồng;
- Hợp đồng O&M hợp đồng nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để kinh doanh, quản lý một phần hoặc toàn bộ công trình, hệ thống cơ sở
hạ tầng sẵn trong thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dán
PPP chấm dứt hợp đồng.
Hai là, Nhóm hợp đồng dự án áp dụng chế Nhà nước thanh toán trên sở chất
lượng sản phẩm, dịch vụ công, bao gồm:
- Hợp đồng BTL hợp đồng nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng và chuyển giao cho Nhà
nước sau khi hoàn thành; được quyền cung cấp sản phẩm, dịch vụ ng trên sở vận
hành, khai thác công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó trong thời hạn nhất định; cơ quan
ký kết hợp đồng thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP;
lOMoARcPSD| 59943509
- Hợp đồng BLT hợp đồng nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng công trình, hệ thống sở hạ tầng cung cấp sản phẩm,
dịch vụ công trên cơ sở vận hành, khai thác công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó trong
thời hạn nhất định; cơ quan ký kết hợp đồng thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư,
doanh nghiệp dự án PPP; hết thời hạn, nđầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chuyển giao
công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó cho Nhà nước.
Theo đó, mỗi loại hợp đồng những ưu thế riêng phụ thuộc vào tính chất của từng
dự án cụ thể, lĩnh vực đầu tư, quá trình đàm phán dự án và mục tiêu yêu cầu của dự án
đặt ra. Trước đó, Nghị định 63/2018/NĐ-CP còn có thêm một hình thức hợp đồng BT (
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) tuy nhiên đến nay trong Luật PPP 2020 đã tạm thời
lược bỏ đi hình thức này.
III. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG
ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM
Việc huy động vốn từ các nguồn ngoài Nhà nước trong các dự án PPP đã thực sự giúp
cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nước ta. Chẳng hạn
như trong những năm gần đây, việc giao kết và thực hiện hợp đồng BOT tại Việt Nam
đã đạt được những bước tiến vượt bậc cả về số lượng và chất lượng các dự án. Có được
điều y, một phần do chế pháp luật về hợp đồng BOT ngày càng hoàn thiện, đạt
được những thành tựu cơ bản, tiếp thu những nguyên tắc, thông lệ quốc tế về hợp đồng
BOT, đồng thời hòa cùng sự vận động phát triển chung của các quy định pháp luật
về đầu tư để cùng hướng tới một mặt bằng pháp lý chung, đáp ứng những đòi hỏi khách
quan từ những thay đổi của các quan hệ kinh tế, xã hội. Các quy định về hợp đồng BOT
cũng khá thông thoáng, ưu đãi, hấp dẫn đối với các nđầu tư, thể hiện vị thế cạnh tranh
trong việc thu hút vốn từ nhà đầu tư trong nước và nước ngoài của Việt Nam. Điều này
hoàn toàn phù hợp với đặc trưng của một quốc gia đang trong giai đoạn tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể những thành tựu trong việc giao kết thực
hiện hợp đồng BOT trong thời gian qua thể kể ra như số lượng hợp đồng được giao
lOMoARcPSD| 59943509
kết thực hiện theo hình thức BOT trên c lĩnh vực điện, nước, giao thông… phát
triển không ngừng:
+ Trong lĩnh vực điện, sự thành công của các dự án BOT nHiệp Phước, Phú M
2-2, Phú Mỹ 3, đã cung cấp 25% lượng điện tiêu thụ cho toàn quốc, làm giảm tình
trạng khan hiếm ng lượng đang trở thành vấn đề nhức nhối của Chính Phủ hiện
nay. Trong đó phải kể đến dự án điện Phú Mỹ 328, một dự án thủy điện rất lớn với
tong công suất 716,8 megawats, được xây dựng theo hợp đồng BOT giữa Bộ Công
nghiệp và Công ty Điện lực BOT Phú M 3, với thời hạn kinh doanh, vận hành 20
năm (đối tác mua điện là EVN). Sự ra đời của nhà máy điện Phú Msbổ sung cho
lưới điện quốc gia gần 10% tổng sản lượng điện hiện nay của Việt Nam. Trong kế
hoạch từ m 2006 đến 2015, Chính phủ sẽ u gọi 16 dự án xây dựng các nhà máy
thủy điện, nhiệt điện để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng lượng của nước ta hiện nay
+ Bên cạnh đó, phải kể đến các cơ sở hạ tầng giao thông thường đòi hỏi nguồn vốn
rất lớn, trong khi số lượng xe giới tại nước ta lại phát triển theo tốc độ chóng
mặt. Chính vì vậy, việc phát triển sở hạ tầng giao thông phải đáp ng được những
nhu cầu cấp thiết này. Thực tế cho thấy các cơ sở giao thông chiếm 70% các dự án
thực hiện theo hình thức BOT. Các dự án BOT lớn trong lĩnh vực giao thông phải
kể như: dự án cầu Phú Mỹ, dự án đường cao tốc Ninh Bình Thanh Hóa, dự án đường
cao tốc Hà Nội - Móng Cái, dự án xây dựng cảng Cái Mép... Dự án BOT xây dựng
cầu Phú M 29 là một ví dụ cho sự thành công của dự án BOT giao thông trong đời
sống kinh tế hội, đây cây cầu quy lớn nhất đẹp nhất TP HCM tính
đến thời điểm hiện nay. Thời gian thu phí khi đưa dự án vào hoạt động 26 năm
và với tổng vốn đầu tư cho toàn bộ công trình là hơn 1.806 tỷ đồng, được xây dựng
bằng sự chung sức của Cty cổ phần BOT cầu Phú Mỹ (BOT PM) là liên doanh đầu
của 5 thành viên, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1998. Sự thành
công của dự án cầu Phú Mỹ sẽ được coi động lực thúc đẩy các dự án đầu nói
chung và các dự án BOT nói riêng.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, hình thức đầu tư này cũng còn tồn tại nhiều bất cập:
lOMoARcPSD| 59943509
Hầu như có rất ít dự án PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông thu hút được nhà đầu
tư nước ngoài. Việc thiếu vắng các nhà đầu tư nước ngoài vào các dự án PPP không chỉ
m hạn chế một nguồn vốn quan trọng, còn khiến Việt Nam không tiếp cận được
những công nghệ tiên tiến phương thức quản hiện đại từ hình thức đầu này mang
lại.
Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều công trình PPP chi phí đầu cao, chưa tương
xứng với chất lượng lợi ích các dự án y mang lại. Mặc dù, chưa số liệu thống
kê, đánh giá chính thức về chi phí và hiệu quả của tất cả các dự án PPP nhưng hầu hết
các dự án PPP bị thanh tra định kỳ và bị thanh tra đột xuất không thuận lợi từ công luận
trong thời gian qua đều cho thấy tỷ suất vốn đầu cao so với các công trình tương
tự ở những nước có điều kiện thi công và khai thác giống với Việt Nam.
Ngoài việc các công trình dự toán cao ngay từ đầu, nhiều công trình chi phí phát
sinh cao, thời gian thi công bị kéo dài m đội tổng kinh phí đầu lên cao hơn so với
dự toán. Điều y kéo theo nhiều vấn đề phát sinh gây ra khó khăn cho vận hành
quản lý dự án.
Một số công trình đầu tư chưa minh bạch, còn hạn chế trong thi công, kiểm tra, giám
sát, chưa nhận được sự đồng thuận trong hội. Theo báo cáo kết quả kiểm toán năm
2017 của Kiểm toán Nớc, thời gian qua, phần lớn các dự án trong lĩnh vực Giao
thông vận tải đều thực hiện theo hình thức chỉ định thầu. Hầu hết các dự án BT đều lựa
chọn nhà đầu theo hình thức chỉ định thầu, điều y m giảm sự cạnh tranh tiềm
ẩn nhiều rủi ro khi chọn nhà đầu tư không đủ năng lực.
IV. KẾT LUẬN
Việc các chế đầu theo phương thức đối tác công nhằm mục đích thu hút
vốn đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân đã làm giảm gánh nặng vốn đầu tư của Nhà nước
so với trước đây đồng thời đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - hội của quốc gia. Tuy
nhiên đi kèm với đó thì Việt Nam cần không ngừng hoàn thiện các quy định pháp lý,
cần triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, đcác nhà đầu dễ dàng tiếp cận đồng thời
cũng cần quản lý chặt chẽ, đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng để thu hút hiệu quả hơn
nữa nguồn vốn cũng như kinh nghiệm của nhà đầu tư thông qua hình thức PPP.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59943509 lOMoAR cPSD| 59943509 LỚP LQT-K 19
Ngành: Luậ t qu ốc tế
Mã sinh viên: 19A52010053
Hà Nội, 10/2021 MỞ ĐẦU
Hiện nay, nhu cầu về đa dạng hoá nguồn tài chính và thúc đẩy sự tham gia của khu
vực tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đang là một tất yếu của các nền kinh tế trên
thế giới. Tại Việt Nam thông qua hình thức đối tác công - tư đã huy động được khoảng
80 tỷ USD cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Như vậy ta đã thấy được sự tác
động mạnh mẽ của đầu tư theo hình thức hợp đồng đối tác công - tư đến đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng toàn diện là một trong
những trọng tâm của Việt Nam để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững và tăng cường
tính cạnh tranh của đất nước theo hướng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hạn chế là thách
thức khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong điều kiện đó, chủ trương của Việt Nam là
huy động tối đa nguồn lực cho đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua chính sách xã hội hoá đầu
tư với một trong những hình thức chủ yếu là hình thức đầu tư theo hợp đồng đối tác
công - tư hay còn gọi là hình thức PPP. Để thực hiện chủ trương đó, nước ta đã thực
hiện ban hành nhiều cơ chế, chính sách về huy động, quản lý đầu tư theo hình thức này.
Trong quá trình thực hiện, Việt Nam cũng đã thu được một số kết quả nhất định nhưng
tuy nhiên còn nhiều những bất cập, hạn chế cần phải hoàn thiện. Vậy trong phạm vi đề
tài, em sẽ làm rõ đặc điểm hợp đồng đối tác công - tư theo pháp luật hiện hành cùng với
những thực tiễn về đầu tư theo hợp đồng đối tác công - tư tại nước ta. lOMoAR cPSD| 59943509
Theo yêu cầu của bộ môn, sau thời gian tìm tòi, nghiên cứu làm bài và kế thừa những
nội dung trong “Luật đầu tư, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư , Giáo trình
luật đầu tư, tập bài giảng” cùng với những văn bản pháp luật liên quan cũng như những
tư liệu trên các trang mạng uy tín, em đã hoàn thành bài tập lớn học kỳ này để phục vụ
trong quá trình học bô môn. Tuy nhiên trong lúc làm bài có những hạn chế khách quan
và chủ quan nên tập bài vẫn cần hoàn thiện và chỉnh sửa hơn nữa, em sẽ tích cực nhận
lời góp ý từ thầy cô và chỉnh sửa bài tập một cách hoàn hảo nhất.
Em xin chân thành cảm ơn! Tháng 10 năm 2021
Sinh viên Phạm Vũ Quang lOMoAR cPSD| 59943509
I. KHÁI QUÁT MÔ HÌNH ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH TẠI VIỆT NAM
1.1 Khái niệm đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Đầu tư theo hợp đồng đối tác công - tư hay theo nghĩa tiếng Anh là Public – Private –
Partnership, viết tắt là PPP được bắt nguồn từ Hoa Kỳ trong thập niên 1950 khi một số
chương trình phát triển thuộc lĩnh vực giáo dục được cả khu vực công và khu vực tư
cùng tài trợ. Tiếp đó, thuật ngữ “PPP” này được sử dụng rộng rãi để nói đến liên kết
giữa chính quyền thành phố và nhà đầu tư tư nhân trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng tại
quốc gia này trong thập niên 1960. Kể từ thập niên 1980, thuật ngữ “PPP” dần phổ biến
ở nhiều nước và được hiểu là sự hợp tác giữa nhà nước và tư nhân để cùng phát triển,
xây dựng cơ sở hạ tầng hay cung cấp các dịch vụ công cộng. Hiện nay trên thế giới vẫn
chưa có một định nghĩa thống nhất về thuật ngữ “hợp tác công - tư”, mỗi quốc gia, mỗi
tổ chức quốc tế đều có một cách hiểu riêng phù hợp với quá trình áp dụng của mình.
Tại Việt Nam từ trước đến nay, mô hình đầu tư PPP đã bắt đầu được thực hiện từ đầu
thập niên 90 của thế kỷ trước. Cụ thể là năm 1997, Chính phủ lần đầu ban hành nghị
định số 77/CP về quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT với nhà đầu tư trong
nước và qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi thông qua các nghị định để từng bước tiếp cận
với thông lệ quốc tế, quy định về PPP của Việt Nam đã tương đối hoàn thiện. Đặc biệt
là mới đây, ngày 18/6/2020, Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu tư theo phương
thức đối tác công tư (PPP) số 64/2020/QH14, Luật bao gồm 11 chương và 101 điều. So
với các Nghị định trước đây như Nghị định 63/2018 NĐ/CP, Nghị định 15/2015 NĐ/CP
hay một số điều khoản tại Luật đầu tư 2014 thì đây là Luật thống nhất điều chỉnh hoạt
động đầu tư, thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư một số lĩnh vực hạ tầng quan trọng,
thiết yếu theo phương thức đối tác công - tư.
Khái niệm đầu tư theo phương thức hợp đồng đối tác công - tư hiện tại được quy định
tại khoản 10 điều 3 Luật đầu tư theo phương thức đối tác công - tư 2020 thì: “Đầu tư
theo phương thức đối tác công tư (Public Private Partnership - sau đây gọi là đầu tư
theo phương thức PPP) là phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp tác có thời lOMoAR cPSD| 59943509
hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng
dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP.”
Như vậy, từ khái niệm ta thấy “Hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác công - tư”
là sự thoả thuận có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân để cùng thực hiện một
dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm… hay cung cấp dịch vụ
công như Y tế, khám chữa bệnh… Với việc ngân sách nhà nước ngày càng hạn chế thì
thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân là rất cần thiết, việc kêu gọi này sẽ có lợi
ích cho cả Nhà nước và các nhà đầu tư tư nhân. Trong điều luật trên ta cũng thấy nếu
Doanh nghiệp Nhà nước với 100% vốn nhà nước nếu với tư cách là chủ thể độc lập tham
gia vào đầu tư thì cũng không thể là một bên chủ thể của hợp đồng PPP này vì vốn đầu
tư trong mô hình này là phải từ những nhà đầu tư tư nhân, Doanh nghiệp Nhà nước nếu
muốn đầu tư theo phương thức PPP thì cần phải liên doanh, liên kết với nhà đầu tư tư
nhân để đầu tư. Thời hạn trong hợp đồng PPP sẽ phụ thuộc vào từng loại hợp đồng, nội
dung hợp đồng PPP như hợp đồng cung cấp dịch vụ công, hợp đồng xây dựng cơ sở hạ
tầng…, mỗi hợp đồng sẽ có một thời hạn nhất định khác nhau, không có thời hạn vĩnh
viễn. Việc đưa những Nghị định về đầu tư theo phương thức đối tác công - tư trở thành
Luật riêng đã tạo nên một cơ sở pháp lý vững chắc cho các nhà đầu tư, giúp Nhà nước
huy động được nhiều vốn đầu tư tư nhân của các nhà đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội cho Quốc gia.
1.2 Đặc điểm của mô hình đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Mô hình đối tác công - tư cần có một hợp đồng dài hạn hoặc ngắn hạn giữa bên tư
nhân và bên Nhà nước. Tại Việt Nam, hợp đồng dài hạn sẽ áp dụng cho những công
trình, dự án có nguồn vốn lớn cùng với thời gian xây dựng cơ sở hạ tầng kéo dài chẳng
hạn như các tuyến đường cao tốc… Còn hợp đồng ngắn hạn sẽ có thể áp dụng cho những
dự án cung cấp dịch vụ công…
Mô hình đối tác công tư có sự phân chia rủi ro giữa các bên của hợp đồng, gồm: rủi
ro trong quá trình xây dựng, rủi ro về thị trường, rủi ro về tài chính, rủi ro trong quá trình
vận hành và bảo trì, rủi ro về mặt pháp lý. lOMoAR cPSD| 59943509
Cụ thể, khu vực tư nhân sẽ tự chịu trách nhiệm toàn bộ phần tài chính của mình đối
với dự án , đảm nhiệm các giai đoạn khác nhau của dự án bao gồm việc thiết kế, xây
dựng, đầu tư tài chính và vận hành công trình, hạ tầng đồng thời phân phối từng loại rủi
ro khác nhau tuỳ từng mô hình PPP áp dụng mà nhà đầu tư đã ký kết với bên Nhà nước.
Trong khi đó, Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm giám sát tiến độ, hiệu quả công trình, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan, định hướng chiến lược, hỗ trợ khu vực tư nhân khi cần thiết,…
Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có cơ chế pháp lý về rủi ro cũng như lợi ích của
các bên tham gia trong hợp đồng. Khi thực hiện đầu tư, nguy cơ rủi ro xảy ra có thể rất
cao, không thể tránh khỏi chẳng hạn như rủi ro về vốn hay thời gian thu hồi vốn,… vì
vậy nên hình thành cơ chế pháp lý về phân chia rủi ro là rất cần thiết. Hiện tại, Luật đầu
tư theo phương thức hợp đồng PPP 2020 đã có cơ chế này, cụ thể đã được quy định tại
điều 82 Luật đầu tư theo phương thức hợp đồng PPP 2020 về cơ chế chia sẻ phần tăng,
giảm doanh thu thực tế so với dự định của nhà đầu tư.
Trong mô hình đối tác công tư, bên tư nhân sẽ được thanh toán trực tiếp từ phía Nhà
nước hoặc từ người dân, người tham gia sử dụng cơ sở hạ tầng hoặc sử dụng dịch vụ
công. Hạ tầng sẽ được chuyển giao quyền sở hữu về phía Nhà nước, khi kết thúc, hợp
đồng PPP hoặc một khoảng thời gian sau đó tuỳ thuộc vào loại hợp đồng PPP và thoả thuận giữa các bên.
II. HỢP ĐỒNG ĐẦU TƯ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
2.1 Khái niệm hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác công tư
Theo khoản 16 điều 3 Luật PPP, Hợp đồng dự án PPP là thỏa thuận bằng văn bản
giữa cơ quan ký kết hợp đồng với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP về việc Nhà nước
nhượng quyền cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP thực hiện dự án PPP theo quy
định của Luật này, bao gồm các loại hợp đồng sau đây: a)
Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (Build - Operate - Transfer,
sau đây gọi là hợp đồng BOT); lOMoAR cPSD| 59943509 b)
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (Build - Transfer - Operate,
sau đây gọi là hợp đồng BTO);
e) Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (Build - Own - Operate, sau đây gọi là hợp đồng BOO); d)
Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (Operate - Manage, sau đây gọi là hợp đồng O&M);
đ) Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ ( Build - Transfer - Lease, sau
đây gọi là hợp đồng BTL); e)
Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (Build - Lease - Transfer,
sau đây gọi là hợp đồng BLT);
g) Hợp đồng hỗn hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 45 của Luật này.
17. Lựa chọn nhà đầu tư là quá trình xác định nhà đầu tư có đủ năng lực, kinh
nghiệm, giải pháp khả thi để thực hiện dự án PPP trên nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh,
công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
18. Nhà đầu tư PPP (sau đây gọi là nhà đầu tư) là một pháp nhân độc lập được
thành lập theo quy định của pháp luật hoặc liên danh giữa nhiều pháp nhân tham gia
hoạt động đầu tư theo phương thức PPP.
19. Vốn nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn từ nguồn thu hợp pháp
dành để chi đầu tư, chi thường xuyên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước.
Luật Đầu tư 2014, tại khoản 8 điều 3 quy định: Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối
tác công tư (sau đây gọi là hợp đồng PPP) là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án đầu tư xây
dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ
tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.
Trước đây, hợp đồng PPP quy định 1 phần trong Luật Đầu tư 2014, đến nay hợp đồng
PPP đã được quy định tại một văn bản pháp luật riêng. So với Luật đầu tư 2014, Hợp
đồng PPP quy định tại Luật Đầu tư 2014 chỉ mang tính khái quát, không chi tiết, cụ thể
như quy định tại Luật PPP và Luật PPP 2020 đã liệt kê chi tiết các loại hợp đồng trong
hợp đồng PPP. Tuy nhiên, trong tương lai, các hình thức hợp đồng mới có thể phát sinh
nên khi có các hình thức hợp đồng đó phát sinh thì cần phải sửa đổi, bổ sung quy định
của Luật cho phù hợp với tình hình. lOMoAR cPSD| 59943509
2.2 Đặc điểm hợp đồng theo phương thức đối tác công tư
2.2.1 Loại hợp đồng:
Hợp đồng đối tác công tư (Hợp đồng PPP) là một loại hợp đồng trong lĩnh vực đầu
tư, theo đó hợp đồng ghi nhận quyền, nghãi vụ của các bên trong việc bỏ vố; triển khai
dự án đầu tư; quyết toán tài chính cho dự án; chuyển giao quyền sở hữu, kinh doanh,
quản lý, vận hành dự án đầu tư tuỳ từng trường hợp cụ thể.
2.2.2 Chủ thể hợp đồng :
Hợp đồng PPP được ký kết giữa Nhà nước và nhà đầu tư trong những lĩnh vực luật
định. Cụ thể, một bên chủ thể hợp đồng PPP luôn là Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh: Các cơ
quan được uỷ quyền của Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, đại diện là cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; và một bên là nhà đầu tư.
Trong chủ thể hợp đồng, bên nhà đầu tư có thể là nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư
nước ngoài, các nhà đầu tư đó sẽ có thể là nhà đầu tư độc lập hay có thể là nhiều nhà
đầu tư liên doanh với nhau để trở thành một bên chủ thể hợp đồng để cùng thực hiện
nghĩa vụ được thoả thuận trong hợp đồng. Với việc cho phép nhiều doanh nghiệp hợp
tác cùng thực hiện công việc trong hợp đồng thì sẽ giúp giảm gánh nặng so với một nhà
đầu tư thực hiện. Về bên Nhà nước, Nhà nước sẽ tham gia hợp đồng với tư cách là một
bên chủ thể tham gia của hợp đồng, có tư cách bình đẳng với bên còn lại tham gia trong
hợp đồng - bên tư nhân. Điều này khác với đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh
(Hợp đồng BCC) khi trong hợp đồng BCC, Nhà nước ký hợp đồng với tư cách là Cơ
quan quản lý Nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành, không hạn chế pháp lý
của các nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài tham gia vào dự án, nhà đầu tư trong
nước hay nhà đầu tư nước ngoài đều có thể tham gia đấu thầu dự án và nếu trúng thầu
sẽ được tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng dự án với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các cơ quan nhà nước tham gia vào quan hệ hợp đồng dự án sẽ giảm bớt gánh nặng tài
chính của việc đầu tư phát triển hạ tầng để tập trung nguồn vốn ngân sách vào các nhiệm
vụ phát triển đất nước. lOMoAR cPSD| 59943509
2.2.3 Đối tượng và phạm vi ký kết của hợp đồng PPP
Không giống như hợp đồng hợp đồng BCC, các hợp đồng PPP nói chung đều có đối
tượng là quyền xây dựng, quyền sở hữu, quyền kinh doanh/vận hành/chuyển giao các
công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công với mục đích nhằm đáp ứng các
nhu cầu, lợi ích công cộng; đáp ứng nhu cầu, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng dân cư và xã hội nói chung.
Cụ thể, theo khoản 1 điều 4 Luật PPP: Lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP bao gồm: + Giao thông vận tải
+ Lưới điện, nhà máy điện, trừ nhà máy thuỷ điện và các trường hợp Nhà nước độc
quyền của Luật Điện lực
+ Thuỷ lợi; cung cấp nước sạch; thoát nước và xử lý nước thải; xử lý chất thải
+ Y tế; giáo dục - đào tạo
+ Hạ tầng công nghệ thông tin.
Trước đó, các lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP cũng đã được quy định tại điều
4 Nghị định 63/2018/NĐ-CP. Tại nghị định 63/2018 NĐ/CP, các lĩnh vực được liệt kê
cụ thể hơn so với Luật PPP 2020. Quy định của Luật PPP 2020 mang tính khái quát, bao
hàm hơn, chia làm 2 nhóm gồm công trình hạ tầng và cung cấp dịch vụ công.
2.2.4 Mục đích của các bên khi ký hợp đồng PPP
Như trên đã phân tích, đối tượng của hợp đồng PPP là các công trình kết cấu hạ tầng
hoặc cung cấp dịch vụ công vốn do nhà nước phải đảm nhận trực tiếp đầu tư và nhà
nước tham gia hợp đồng dự án nhằm đưa ra những bảo đảm cho nhà đầu tư đồng thời
theo dõi, quản lý hoạt động đầu tư và các cam kết của nhà đầu tư đối với việc phát triển
cơ sở hạ tầng. Mục đích của nhà nước khi tham gia hợp đồng PPP là nhằm đạt được
những mục tiêu kinh tế – xã hội, một chức năng quản lý của nhà nước.
Trong khi đó Nhà đầu tư tham gia Hợp đồng PPP không nhằm mục đích nào khác
ngoài kinh doanh kiếm lời. Họ không quan tâm tới yếu tố công của Hợp đồng PPP mà lOMoAR cPSD| 59943509
chỉ đơn thuần tiến hành hoạt động kinh doanh như tất cả các công việc kinh doanh khác.
Theo đó, giống như các hợp đồng thông thường khác, Hợp đồng PPP thể hiện ý chí, tự
do, tự nguyện của nhà đầu tư. Chính hạt nhân kinh doanh này đã quyết định và chi phối
yếu tố đầu tư của hợp đồng PPP, xác định tính chất bình đẳng về địa vị pháp lý của các
chủ thể Hợp đồng PPP.
2.2.5 Nội dung hợp đồng PPP
Về nội dung, hợp đồng PPP là một văn bản ghi nhận các thông tin, quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quá trình thực hiện dự án đầu tư như hoạt động xây dựng, kinh
doanh và chuyển giao các công trình kết cấu hạ tầng hoặc liên quan đến nội dung cung
cấp dịch vụ công. Chẳng hạn như hợp đồng: BOT (xây dựng – vận hành – chuyển giao),
BTO (xây dựng – chuyển giao – vận hành), BT (xây dựng – chuyển giao), BOO (xây
dựng – sở hữu – vận hành), BTL (xây dựng – chuyển giao – thuê dịch vụ),… thì nội
dung quan trọng của các hợp đồng này là quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư và cơ quan
nhà nước có thẩm quyền liên quan đến việc xây dựng, kinh doanh và chuyển giao các
công trình kết cấu hạ tầng. Theo đó, để triển khai hoạt động đầu để triển khai hoạt động
đầu tư theo hợp đồng PPP, Nhà nước phải tổ chức lập kế hoạch dự án; tổ chức đấu thầu,
lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng PPP cụ thể, có các quyền, nghĩa vụ như: xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng, kinh doanh, vận hành, sở hữu… công trình kết cấu đó; chuyển
giao công trình đó cho Nhà nước hoặc cung cấp dịch vụ công. So với hợp đồng BCC thì
hợp đồng PPP có nội dung phức tạp hơn bởi nội dung hợp đồng này không chỉ có mỗi
yếu tố pháp luật mà bên cạnh đó có thể liên quan đến các yếu tố như kinh tế, kỹ thuật,…
điều này đòi hỏi người làm nội dung hợp đồng PPP phải có nhiều kinh nghiệm thực tiễn
mới có thể đánh giá được tính khả thi về pháp luật để có thể xây dựng được nội dung của hợp đồng.
2.2.6 Các loại hợp đồng PPP
Theo quy định tại điều 45 Luật PPP thì có 6 loại hợp đồng PPP thuộc 2 nhóm hợp đồng như sau: lOMoAR cPSD| 59943509
Một là, nhóm hợp đồng dự án áp dụng cơ chế thu phí trực tiếp từ người sử dụng hoặc
tổ chức bao tiêu sản phẩm, dịch vụ công (khoản 1 điều 45 Luật PPP): -
Hợp đồng BOT là hợp đồng mà nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng, kinh doanh, vận hành công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng
trong thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chuyển giao
công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó cho Nhà nước; -
Hợp đồng BTO là hợp đồng mà nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng; sau khi hoàn thành xây
dựng, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chuyển giao công trình, hệ thống cơ sở hạ
tầng cho Nhà nước và được quyền kinh doanh, vận hành công trình, hệ thống cơ sở hạ
tầng đó trong thời hạn nhất định; -
Hợp đồng BOO là hợp đồng mà nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng, sở hữu, kinh doanh, vận hành công trình, hệ thống cơ sở hạ
tầng trong thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chấm dứt hợp đồng; -
Hợp đồng O&M là hợp đồng mà nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để kinh doanh, quản lý một phần hoặc toàn bộ công trình, hệ thống cơ sở
hạ tầng sẵn có trong thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án
PPP chấm dứt hợp đồng.
Hai là, Nhóm hợp đồng dự án áp dụng cơ chế Nhà nước thanh toán trên cơ sở chất
lượng sản phẩm, dịch vụ công, bao gồm: -
Hợp đồng BTL là hợp đồng mà nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng và chuyển giao cho Nhà
nước sau khi hoàn thành; được quyền cung cấp sản phẩm, dịch vụ công trên cơ sở vận
hành, khai thác công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó trong thời hạn nhất định; cơ quan
ký kết hợp đồng thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP; lOMoAR cPSD| 59943509 -
Hợp đồng BLT là hợp đồng mà nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được
nhượng quyền để xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng và cung cấp sản phẩm,
dịch vụ công trên cơ sở vận hành, khai thác công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó trong
thời hạn nhất định; cơ quan ký kết hợp đồng thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư,
doanh nghiệp dự án PPP; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chuyển giao
công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó cho Nhà nước.
Theo đó, mỗi loại hợp đồng có những ưu thế riêng phụ thuộc vào tính chất của từng
dự án cụ thể, lĩnh vực đầu tư, quá trình đàm phán dự án và mục tiêu yêu cầu của dự án
đặt ra. Trước đó, Nghị định 63/2018/NĐ-CP còn có thêm một hình thức hợp đồng BT (
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) tuy nhiên đến nay trong Luật PPP 2020 đã tạm thời
lược bỏ đi hình thức này.
III. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG
ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM
Việc huy động vốn từ các nguồn ngoài Nhà nước trong các dự án PPP đã thực sự giúp
cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nước ta. Chẳng hạn
như trong những năm gần đây, việc giao kết và thực hiện hợp đồng BOT tại Việt Nam
đã đạt được những bước tiến vượt bậc cả về số lượng và chất lượng các dự án. Có được
điều này, một phần do cơ chế pháp luật về hợp đồng BOT ngày càng hoàn thiện, đạt
được những thành tựu cơ bản, tiếp thu những nguyên tắc, thông lệ quốc tế về hợp đồng
BOT, đồng thời hòa cùng sự vận động và phát triển chung của các quy định pháp luật
về đầu tư để cùng hướng tới một mặt bằng pháp lý chung, đáp ứng những đòi hỏi khách
quan từ những thay đổi của các quan hệ kinh tế, xã hội. Các quy định về hợp đồng BOT
cũng khá thông thoáng, ưu đãi, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, thể hiện vị thế cạnh tranh
trong việc thu hút vốn từ nhà đầu tư trong nước và nước ngoài của Việt Nam. Điều này
hoàn toàn phù hợp với đặc trưng của một quốc gia đang trong giai đoạn tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể những thành tựu trong việc giao kết và thực
hiện hợp đồng BOT trong thời gian qua có thể kể ra như số lượng hợp đồng được giao lOMoAR cPSD| 59943509
kết và thực hiện theo hình thức BOT trên các lĩnh vực điện, nước, giao thông… phát triển không ngừng:
+ Trong lĩnh vực điện, sự thành công của các dự án BOT như Hiệp Phước, Phú Mỹ
2-2, Phú Mỹ 3, đã cung cấp 25% lượng điện tiêu thụ cho toàn quốc, làm giảm tình
trạng khan hiếm năng lượng đang trở thành vấn đề nhức nhối của Chính Phủ hiện
nay. Trong đó phải kể đến dự án điện Phú Mỹ 328, một dự án thủy điện rất lớn với
tong công suất 716,8 megawats, được xây dựng theo hợp đồng BOT giữa Bộ Công
nghiệp và Công ty Điện lực BOT Phú Mỹ 3, với thời hạn kinh doanh, vận hành 20
năm (đối tác mua điện là EVN). Sự ra đời của nhà máy điện Phú Mỹ sẽ bổ sung cho
lưới điện quốc gia gần 10% tổng sản lượng điện hiện nay của Việt Nam. Trong kế
hoạch từ năm 2006 đến 2015, Chính phủ sẽ kêu gọi 16 dự án xây dựng các nhà máy
thủy điện, nhiệt điện để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng lượng của nước ta hiện nay
+ Bên cạnh đó, phải kể đến các cơ sở hạ tầng giao thông thường đòi hỏi nguồn vốn
rất lớn, trong khi số lượng xe cơ giới tại nước ta lại phát triển theo tốc độ chóng
mặt. Chính vì vậy, việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông phải đáp ứng được những
nhu cầu cấp thiết này. Thực tế cho thấy các cơ sở giao thông chiếm 70% các dự án
thực hiện theo hình thức BOT. Các dự án BOT lớn trong lĩnh vực giao thông phải
kể như: dự án cầu Phú Mỹ, dự án đường cao tốc Ninh Bình Thanh Hóa, dự án đường
cao tốc Hà Nội - Móng Cái, dự án xây dựng cảng Cái Mép... Dự án BOT xây dựng
cầu Phú Mỹ 29 là một ví dụ cho sự thành công của dự án BOT giao thông trong đời
sống kinh tế xã hội, đây là cây cầu có quy mô lớn nhất và đẹp nhất TP HCM tính
đến thời điểm hiện nay. Thời gian thu phí khi đưa dự án vào hoạt động là 26 năm
và với tổng vốn đầu tư cho toàn bộ công trình là hơn 1.806 tỷ đồng, được xây dựng
bằng sự chung sức của Cty cổ phần BOT cầu Phú Mỹ (BOT PM) là liên doanh đầu
tư của 5 thành viên, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1998. Sự thành
công của dự án cầu Phú Mỹ sẽ được coi là động lực thúc đẩy các dự án đầu tư nói
chung và các dự án BOT nói riêng.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, hình thức đầu tư này cũng còn tồn tại nhiều bất cập: lOMoAR cPSD| 59943509
Hầu như có rất ít dự án PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông thu hút được nhà đầu
tư nước ngoài. Việc thiếu vắng các nhà đầu tư nước ngoài vào các dự án PPP không chỉ
làm hạn chế một nguồn vốn quan trọng, mà còn khiến Việt Nam không tiếp cận được
những công nghệ tiên tiến và phương thức quản lý hiện đại từ hình thức đầu tư này mang lại.
Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều công trình PPP có chi phí đầu tư cao, chưa tương
xứng với chất lượng và lợi ích mà các dự án này mang lại. Mặc dù, chưa có số liệu thống
kê, đánh giá chính thức về chi phí và hiệu quả của tất cả các dự án PPP nhưng hầu hết
các dự án PPP bị thanh tra định kỳ và bị thanh tra đột xuất không thuận lợi từ công luận
trong thời gian qua đều cho thấy có tỷ suất vốn đầu tư cao so với các công trình tương
tự ở những nước có điều kiện thi công và khai thác giống với Việt Nam.
Ngoài việc các công trình có dự toán cao ngay từ đầu, nhiều công trình có chi phí phát
sinh cao, thời gian thi công bị kéo dài làm đội tổng kinh phí đầu tư lên cao hơn so với
dự toán. Điều này kéo theo nhiều vấn đề phát sinh gây ra khó khăn cho vận hành và quản lý dự án.
Một số công trình đầu tư chưa minh bạch, còn hạn chế trong thi công, kiểm tra, giám
sát, chưa nhận được sự đồng thuận trong xã hội. Theo báo cáo kết quả kiểm toán năm
2017 của Kiểm toán Nhà nước, thời gian qua, phần lớn các dự án trong lĩnh vực Giao
thông vận tải đều thực hiện theo hình thức chỉ định thầu. Hầu hết các dự án BT đều lựa
chọn nhà đầu tư theo hình thức chỉ định thầu, điều này làm giảm sự cạnh tranh và tiềm
ẩn nhiều rủi ro khi chọn nhà đầu tư không đủ năng lực. IV. KẾT LUẬN
Việc có các cơ chế đầu tư theo phương thức đối tác công tư nhằm mục đích thu hút
vốn đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân đã làm giảm gánh nặng vốn đầu tư của Nhà nước
so với trước đây đồng thời đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Tuy
nhiên đi kèm với đó thì Việt Nam cần không ngừng hoàn thiện các quy định pháp lý,
cần triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, để các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận đồng thời
cũng cần quản lý chặt chẽ, đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng để thu hút hiệu quả hơn
nữa nguồn vốn cũng như kinh nghiệm của nhà đầu tư thông qua hình thức PPP.