Đề tài: Tìm hiểu về lễ hội chùa Hương - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Đề tài: Tìm hiểu về lễ hội chùa Hương - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

Đề tài: Tìm hiểu về lễ hội chùa Hương
Bài làm:
Đặt vấn đề:
Khi mùa xuân đến, báo hiệu một sự khởi đầu may mắn, an
lành vì vậy mọi người nô nức đi lễ hội cầu phúc cho bản thân,
gia đình và đất nước. Qua hàng ngàn năm lễ hội truyền thống
vẫn luân được gìn giữ nó in sâu vào đời sống tinh thần văn
hóa của con người Việt Nam. Một trong ngững lễ hội của dân
tộc chúng ta phải nhắc đến đó là lễ hội chùa Hương. Lễ hội
chùa Hương là một lễ hội Việt Nam, nằm ở Mỹ Đức – Hà Nội.
Trong khu thắng cảnh Hương Sơn, được xem như hành trình
về miền đất Phật – nơi Quan Thế Âm Bồ Tát hiện ứng tu
hành. Vì thế khi được nghiên cứu về lễ hội chùa Hương này
tôi càng hiểu sâu hơn những nét đẹp của dân tộc, càng muốn
mọi người cùng tôi tìm hiểu chi tiết về lễ hội này.
2. Nội dung
2.1 Nguồn gốc của lễ hội chùa Hương
Lễ hội chùa Hương gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Chúa
Ba: Theo truyền thuyết thì ở vùng “Linh sơn phúc địa này”
vào thế kỉ đầu tiên đã có công chúa Diệu Thiện còn được gọi
là chúa Ba đã ứng thân vào Quan Thế Âm đã vào đây tu hành
9 năm, đắc đạo thành Phật đi cứu độ chúng sinh. Vào tháng 3
năm Canh Dần (1770) giữa mùa xuân, mùa của trăm hoa đua
nở, cỏ cây xanh tươi khí trời mát mẻ Chúa Trịnh Sâm đã vào
động Hương Tích đề lên vách đá cử động năm chữ “Nam
thiên đệ nhất động” đó cũng có thể coi là chỗ dựa tinh thần
của lòng dân để cầu bình an và mọi điều tốt lành. Có thể nói,
Chúa Trịnh Sâm là người đặt nền móng đầu tiên cho lễ hội
chùa Hương và cũng từ đó thì lễ hội ngày càng được mọi
người biết đến và đông vui hơn. Nhưng mãi đến năm 1896
niên hiệu Thành Thái năm thứ 8, lễ hội chùa Hương mới
chính thức được tổ chức như một lễ hội thực sự, có quy củ và
có nghi thức riêng.
Lễ hội chùa Hương không chỉ là một lễ hội du xuân thông
thường mà còn có ý nghĩa rất lớn, ghi đậm dấu ấn văn hóa, tín
ngưỡng thờ của Bắc Bộ. Phần lễ thể hiện tín ngưỡng thờ cúng
của một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam bao gồm Nho giáo, Đạo
giáo, Phật giáo. Phần hội lại là sự kết hợp những nét đẹp văn
hóa dân tộc độc đáo với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. Khi
chúng ta đến với lễ hội chùa Hương không chỉ là để hướng
đến những bậc siaau nhiên, thần thánh mà còn là để cảm nhận
sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên. Ngoài ra lễ hội
chùa Hương còn thể hiện khát vọng hòa hợp giữa thực và mơ,
tiên và tục trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt
Nam chất phác, nhân ái cảm nhận và trao truyền.
2.2 Quy trình diễn ra lễ hội chùa Hương
Lễ hội chùa Hương được diễn khai hội vào ngày mồng 6
tháng Giêng và kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Đỉnh cao
của lễ hội là từ rằm tháng Giêng đến ngày 18 tháng 12 âm
lịch. Lễ hội chùa Hương gồm hai phần đó là phần lễ và phần
hội.
Trong phần lễ thì được thực hiện rất đơn giản, trước ngày
mở hội một ngày tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói
hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.
Mở đầu lễ hội thì sẽ có đội múa Lân sẽ múa một màn chào du
khách và các Phật tử khắp nơi. Phần Lễ được thực hiện rất
đơn giản, có phần nghiên về thiền. Ở trong chùa có lễ dâng
hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay.
Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi
mới tiến dung đồ lễ lên bàn thờ. Từ ngày mở hội cho đến gõ
mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn
hương khói thì không bao giờ dứt. Ở chùa Ngoài thờ các vị
sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa
Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngổn, là
người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì
nữ túy Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết
Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần Lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như
là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có dự sùng bái tự
nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Những tính chất tôn giáo
có phần bị tình yêu thiên nhiên, tình yêu nam nữ, tình cảm
cộng đồng… vừa thanh cao, trần tục lấn đi. Trẩy hội chùa
Hương, thể xác và tâm hồn của chúng ta được đắm chìm vào
mây cỏ hùng vĩ của núi rừng Hương Sơn. Ngày hội, làng tổ
chức rước thần từ đền ra đình. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát
âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu, ông già bà cả thành
tâm tiễn thần. Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng
khoái. Trong phần lễ không chỉ có phần rước lễ mà còn có
phần rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế,
rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các
bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Trong suốt những ngày hội là sự háo hức của tuổi trẻ, là sự
thành kính của các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ
lão ai ai cũng có phần riêng của mình. Những triền núi, những
rừng cây, rừng mơ là những đoàn người trẩy hội. Kẻ đi ra,
người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng bềnh như những
đám mây nhẹ. Họ gặp nhau, quen hay không quen cũng vui v
chào nhau bằng một lời chào: “Nam mô a di đà Phật” nhẹ
nhàng, đằm thắm và ấm áp. Cảm nhận tinh thần thiên nhiên
của ngày hội lịch sử ấy để từ đó hồi âm về quá khứ của tổ tiên
ở một làng quê ven núi.
Nét độc đáo của phần hội chùa Hương là thú vui ngồi
thuyền vãng cảnh cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy
nói đến chùa Hương là là nghĩ ngay đến con đò – một dạng
của văn hóa truyền thống cư đan Việt Nam thuở xa xưa
| 1/4

Preview text:

Đề tài: Tìm hiểu về lễ hội chùa Hương Bài làm: Đặt vấn đề:
Khi mùa xuân đến, báo hiệu một sự khởi đầu may mắn, an
lành vì vậy mọi người nô nức đi lễ hội cầu phúc cho bản thân,
gia đình và đất nước. Qua hàng ngàn năm lễ hội truyền thống
vẫn luân được gìn giữ nó in sâu vào đời sống tinh thần văn
hóa của con người Việt Nam. Một trong ngững lễ hội của dân
tộc chúng ta phải nhắc đến đó là lễ hội chùa Hương. Lễ hội
chùa Hương là một lễ hội Việt Nam, nằm ở Mỹ Đức – Hà Nội.
Trong khu thắng cảnh Hương Sơn, được xem như hành trình
về miền đất Phật – nơi Quan Thế Âm Bồ Tát hiện ứng tu
hành. Vì thế khi được nghiên cứu về lễ hội chùa Hương này
tôi càng hiểu sâu hơn những nét đẹp của dân tộc, càng muốn
mọi người cùng tôi tìm hiểu chi tiết về lễ hội này. 2. Nội dung
2.1 Nguồn gốc của lễ hội chùa Hương
Lễ hội chùa Hương gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Chúa
Ba: Theo truyền thuyết thì ở vùng “Linh sơn phúc địa này”
vào thế kỉ đầu tiên đã có công chúa Diệu Thiện còn được gọi
là chúa Ba đã ứng thân vào Quan Thế Âm đã vào đây tu hành
9 năm, đắc đạo thành Phật đi cứu độ chúng sinh. Vào tháng 3
năm Canh Dần (1770) giữa mùa xuân, mùa của trăm hoa đua
nở, cỏ cây xanh tươi khí trời mát mẻ Chúa Trịnh Sâm đã vào
động Hương Tích đề lên vách đá cử động năm chữ “Nam
thiên đệ nhất động” đó cũng có thể coi là chỗ dựa tinh thần
của lòng dân để cầu bình an và mọi điều tốt lành. Có thể nói,
Chúa Trịnh Sâm là người đặt nền móng đầu tiên cho lễ hội
chùa Hương và cũng từ đó thì lễ hội ngày càng được mọi
người biết đến và đông vui hơn. Nhưng mãi đến năm 1896
niên hiệu Thành Thái năm thứ 8, lễ hội chùa Hương mới
chính thức được tổ chức như một lễ hội thực sự, có quy củ và có nghi thức riêng.
Lễ hội chùa Hương không chỉ là một lễ hội du xuân thông
thường mà còn có ý nghĩa rất lớn, ghi đậm dấu ấn văn hóa, tín
ngưỡng thờ của Bắc Bộ. Phần lễ thể hiện tín ngưỡng thờ cúng
của một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam bao gồm Nho giáo, Đạo
giáo, Phật giáo. Phần hội lại là sự kết hợp những nét đẹp văn
hóa dân tộc độc đáo với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. Khi
chúng ta đến với lễ hội chùa Hương không chỉ là để hướng
đến những bậc siaau nhiên, thần thánh mà còn là để cảm nhận
sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên. Ngoài ra lễ hội
chùa Hương còn thể hiện khát vọng hòa hợp giữa thực và mơ,
tiên và tục trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt
Nam chất phác, nhân ái cảm nhận và trao truyền.
2.2 Quy trình diễn ra lễ hội chùa Hương
Lễ hội chùa Hương được diễn khai hội vào ngày mồng 6
tháng Giêng và kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Đỉnh cao
của lễ hội là từ rằm tháng Giêng đến ngày 18 tháng 12 âm
lịch. Lễ hội chùa Hương gồm hai phần đó là phần lễ và phần hội.
Trong phần lễ thì được thực hiện rất đơn giản, trước ngày
mở hội một ngày tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói
hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.
Mở đầu lễ hội thì sẽ có đội múa Lân sẽ múa một màn chào du
khách và các Phật tử khắp nơi. Phần Lễ được thực hiện rất
đơn giản, có phần nghiên về thiền. Ở trong chùa có lễ dâng
hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay.
Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi
mới tiến dung đồ lễ lên bàn thờ. Từ ngày mở hội cho đến gõ
mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn
hương khói thì không bao giờ dứt. Ở chùa Ngoài thờ các vị
sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa
Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngổn, là
người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì
nữ túy Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết
Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần Lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như
là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có dự sùng bái tự
nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Những tính chất tôn giáo
có phần bị tình yêu thiên nhiên, tình yêu nam nữ, tình cảm
cộng đồng… vừa thanh cao, trần tục lấn đi. Trẩy hội chùa
Hương, thể xác và tâm hồn của chúng ta được đắm chìm vào
mây cỏ hùng vĩ của núi rừng Hương Sơn. Ngày hội, làng tổ
chức rước thần từ đền ra đình. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát
âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu, ông già bà cả thành
tâm tiễn thần. Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng
khoái. Trong phần lễ không chỉ có phần rước lễ mà còn có
phần rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế,
rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các
bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Trong suốt những ngày hội là sự háo hức của tuổi trẻ, là sự
thành kính của các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ
lão ai ai cũng có phần riêng của mình. Những triền núi, những
rừng cây, rừng mơ là những đoàn người trẩy hội. Kẻ đi ra,
người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng bềnh như những
đám mây nhẹ. Họ gặp nhau, quen hay không quen cũng vui vẻ
chào nhau bằng một lời chào: “Nam mô a di đà Phật” nhẹ
nhàng, đằm thắm và ấm áp. Cảm nhận tinh thần thiên nhiên
của ngày hội lịch sử ấy để từ đó hồi âm về quá khứ của tổ tiên ở một làng quê ven núi.
Nét độc đáo của phần hội chùa Hương là thú vui ngồi
thuyền vãng cảnh cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy
nói đến chùa Hương là là nghĩ ngay đến con đò – một dạng
của văn hóa truyền thống cư đan Việt Nam thuở xa xưa