Địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ | môn luật dân sự | trường Đại học Huế
PHẦN MỞ ĐẦU.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu chuyên đề.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.3. Phạm vi nghiên cứu.4. Bố cục của chuyên đề.CHƯƠNG I THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ CHIA THỪA KẾ.1. Đặc điểm của các vụ án chia thừa kế.2. Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự về chia thừa kế.3. Một số hạn chế, tồn tại.4. Một số kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự về chia thừa kế.Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế.Đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ thực hiện nhiệm vụ kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế.Tăng cường công tác phối hợp giữa VKSND với TAND và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong thực hiện công tác kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lO M oARcPSD| 47110589 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu chuyên đề
Quan hệ thừa kế xuất hiện từ rất sớm, song song với quan hệ sở hữu trong
đời sống xã hội; cùng với sự phát triển của xã hội những vấn đề về pháp luật
thừa kế, tranh chấp thừa kế và giải quyết tranh chấp thừa kế luôn tồn tại, thay
đổi phù hợp từng hình thái xã hội tương ứng, truyền thống, văn hoá ở mỗi quốc
gia. Con người là thực thể xã hội nhưng đồng thời là thực thể sinh học mà sự
sống, chết của con người chịu tác động bởi quy luật sinh học. Cái chết của một
con người làm chấm dứt sự tồn tại con người sinh học đồng thời làm chấm dứt
năng lực chủ thể (đời sống pháp lý) của con người trong xã hội. Tuy nhiên, cái
chết của con người không làm chấm dứt tất cả các quan hệ xã hội mà họ tham
gia, đặc biệt là các quan hệ về tài sản bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của
họ, bởi sự tồn tại của các quan hệ này phụ thuộc vào sự vận động các quy luật
kinh tế trong xã hội. Khác với các quan hệ dân sự khác, quan hệ thừa kế chỉ
phát sinh khi có cá nhân bị chết nên pháp luật quy định rõ, thời điểm mở thừa
kế là thời điểm người có tài sản chết đồng thời kể từ thời điểm mở thừa kế,
những người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Chính sự khác biệt này của quan hệ thừa kế mà một số nội dung trong quan hệ
này cũng có tính chất đặc thù như quy định cho thai nhi được bảo lưu tư cách
hưởng di sản thừa kế, mặc dù chưa có năng lực chủ thể; người thừa kế thực
hiện quyền và nghĩa vụ mà người chết để lại và thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản
của người chết để lại.
Tranh chấp thừa kế ở nước ta được xem là loại án dân sự phổ biến, phức
tạp, có những vụ án tranh chấp thừa kế kéo dài hàng chục năm. Một nguyên
nhân quan trọng làm cho tranh chấp thừa kế phức tạp vì đây là tranh chấp giữa
những người thân thích có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Tính
chất phức tạp của loại án tranh chấp về thừa kế có nhiều nguyên nhân, một
nguyên nhân quan trọng làm cho tranh chấp thừa kế phức tạp vì đây là tranh
chấp giữa những người thân thích có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng; mặt khác di sản thừa kế thường là quyền sử dụng đất và nhà ở vốn đã lO M oARcPSD| 47110589
là những đối tượng tranh chấp có tính chất gay gắt, bức xúc từ sau khi Luật đất
đai năm 1993 có hiệu lực; sự chi phối, ảnh hưởng của các giá trị truyền thống
về văn hoá, đạo lý trong gia đình; và khi giải quyết tranh chấp thừa kế, ngoài
chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự còn liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp
luật như pháp luật về sở hữu, về hôn nhân và gia đình, về đất đai… cần được nghiên cứu áp dụng.
Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung và tranh chấp trong
lĩnh vực thừa kế nói riêng là một trong những công tác thực hiện chức năng
kiểm sát tư pháp đã được quy định trong Hiến pháp của nước CHXHCN Việt
Nam và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần
bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Khi kiểm sát
việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ án về tranh chấp trong
lĩnh vực thừa kế nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn:
Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; kiểm sát việc thụ lý, giải quyết
vụ, việc; thu thập chứng cứ, tài liệu trong trường hợp pháp luật quy định; tham
gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về
việc giải quyết vụ, việc theo quy định của pháp luật; kiểm sát bản án, quyết
định của Tòa án; kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu
cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham
gia tố tụng vi phạm pháp luật; kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của tòa
án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện hoạt động tố tụng; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm
sát việc giải quyết vụ, việc dân sự theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua Viện
kiểm sát nhân dân các cấp nói chung và tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói
riêng đã có nhiều cố gắng trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân
sự về chia thừa kế nên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên,
qua thực tiễn hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án trong lĩnh vực thừa
kế cho thấy một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa đầy đủ, thiếu
rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau… đã trực tiếp ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám
đốc thẩm, từ đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự. Chính vì vậy, việc xây dựng chuyên đề: “Thực trạng và giải
pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự về chia
thừa kế” là vô cùng cần thiết. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục tiêu: 2 lO M oARcPSD| 47110589
Nhằm làm sáng tỏ thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án
dân sự về thừa kế theo thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự như: làm rõ
đặc trưng và tình hình kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế;
kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại của công tác kháng nghị giám đốc thẩm
đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kháng
nghị giám đốc thẩm các vụ án dân sự về thừa kế. * Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp vàkiểm
sát việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thừa kế ở giai đoạn giám đốc thẩm
tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Tìm hiểu thực trạng công tác kháng nghị giám đốc thẩm các vụ ántranh chấp về chia thừa kế.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại của công
táckháng nghị giám đốc thẩm các vụ án tranh chấp về chia thừa kế.
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác kháng nghịgiám đốc thẩm…
3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về loại việc: Chỉ đề cập đến kháng nghị giám đốc thẩm đối với
các vụ án dân sự về thừa kế, không nghiên cứu kháng nghị giám đốc thẩm việc dân sự.
4. Bố cục của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề được chia làm 2 chương:
Chương I: Thực trạng công tác kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế.
Chương II. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công
tác kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế.
CHƯƠNG I THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KHÁNG NGHỊ GIÁM
ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ CHIA THỪA KẾ
1. Đặc điểm của các vụ án chia thừa kế
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với các nước trên thế
giới, cùng với việc toàn cầu hoá, vận hành theo cơ chế thị trường dẫn đến tình lO M oARcPSD| 47110589
hình xã hội có nhiều biến đổi, vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân cũng ngày
càng phong phú, việc thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức
tạp. Những năm gần đây, các loại tranh chấp trong quan hệ dân sự gia tăng,
trong đó tranh chấp về di sản thừa kế và việc giải quyết loại án này luôn là mối
quan tâm của xã hội, thâm chí gây bức xúc khi có những vụ việ c phảị giải
quyết nhiều lần, qua nhiều cấp xét xử do khiếu kiên gay gắt, kéo dài.̣
Cùng với sự gia tăng về số lượng các tranh chấp dân sự nói chung và lĩnh
vực thừa kế nói riêng thì tính chất mức độ tranh chấp cũng phức tạp, gay gắt
hơn. Nhiều vụ việc đã qua hai cấp xét xử nhưng các bên tranh chấp vẫn không
chấp nhận phán quyết của Toà án và tiếp tục khiếu nại theo thủ tục giám đốc
thẩm. Mỗi năm Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp
nhận hàng trăm nghìn đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của
Toà án cấp dưới theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự về thừa kế còn cho thấy không chỉ
các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm có sai lầm mà một
số quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của các Toà chuyên trách thuộc Toà án
nhân dân tối cao (theo luật cũ), thậm chí là cả các quyết định của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng có sai lầm nghiêm trọng. Do đó, tình
trạng khiếu kiện và việc giải quyết khiếu kiện theo thủ tục giám đốc thẩm đang
trở thành vấn đề thách thức gây quá tải cho Toà án và Viện kiểm sát khi thực
hiện chức năng, nhiệm vụ. Hệ quả không mong muốn là có trường hợp đã hết
thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng Toà án, Viện kiểm sát
chưa kịp thời xem xét giải quyết, cũng có những trường hợp gần hết thời hạn
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Tòa án, Viện kiểm sát mới nhận được
đơn khiếu nại của đương sự nên không có đủ thời gian để xem xét. Do đó, có
trường hợp mặc dù phát hiện bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm, vi phạm
nhưng thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không còn, làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của đương sự.
Sự phức tạp của tranh chấp thừa kế do nhiều nguyên nhân, nhưng phải kể
đến hai nguyên nhân chủ yếu, đó là:
Do các chủ thể tham gia quan hê chia thừa kế (cha, mẹ, anh, em,̣ những
người thân thích, ruôt thịt trong gia đình, dòng tộ c…), quan hệ tranḥ chấp thừa
kế có thể liên quan đến môt vài người, song cũng có thể liêṇ quan đến rất nhiều
người trong gia đình, họ tôc, do đó tranh chấp tài sảṇ thừa kế rất dễ phá vỡ tình
cảm gia đình, họ tôc, thậ m chí dẫn đến sự xuống ̣ cấp về đạo đức trong xã hôi
nếu không được giải quyết khách quan, thấụ tình, đạt lý. 4 lO M oARcPSD| 47110589
Do hạn chế của pháp luât nước ta trước đây còn thiếu hoặ c quy địnḥ chưa
đầy đủ về thủ tục đăng ký, quản lý tài sản, thủ tục giao, cấp đất; viêc ̣ thực hiên
không đúng trình tự, thủ tục trong kê khai, đăng ký của ngườị dân, trong giao,
cấp đất của cơ quan có thẩm quyền; viêc giải toả, đền bù,̣ chỉnh trang đô thị…
dẫn đến viêc xác định nguồn gốc của di sản khi giảị quyết tranh chấp trở nên
phức tạp, khó khăn hơn.
Trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự về thừa kế thấy rằng:
Tài sản thực khi chia thường không trùng khớp với di sản để lại, có sự hao mòn
nhất định, cùng sự thất lạc các giấy tờ, đòi hỏi cán bộ giải quyết khi xác định
cần hết sức cẩn thận và chi tiết, về giá cả tài sản ở thời điểm hiện tại, về các
biên bản thẩm định cũng như các khả năng sinh lợi của tài sản (đặc biệt là bất
động sản). Việc xác định, đánh giá đúng đắn được các mối quan hệ tài sản cũng
như phân định tài sản tranh chấp nêu trên là một vấn đề hết sức phức tạp và
nhạy cảm. Thực tiễn cho thấy, nếu xác định và đánh giá đúng thì việc giải quyết
mới đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Việc xác định thời
hiệu thừa kế, hàng thừa kế phải chính xác, ngoài ra đối với trường hợp là con
riêng của vợ hoặc chồng phải xác định mối quan hệ nuôi dưỡng, mức độ chăm
sóc, tình cảm khi chung sống với người để lại di sản để đảm bảo quyền lợi cho
các bên đương sự. Như vậy sẽ giảm tải việc khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Nhìn chung, khi giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế đòi hỏi Kiểm sát
viên ngoài hiểu biết về tâm lý con người, tâm lý xã hôi còn cầṇ phải nắm vững
chế định thừa kế trong Bô luậ t dân sự, các văn bản hướng ̣ dẫn và nghiên cứu
áp dụng các văn bản pháp luât có liên quan như pháp ̣ luât về sở hữu, về hôn
nhân gia đình, về đất đai…nhằm giải quyết đúng ̣ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân đặc biệt cần quan tâm bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của phụ nữ và trẻ em sau khi chia tài sản thừa kế.
2. Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự về chia thừa kế
Sự hình thành phát triển nền kinh tế thị trường trong hơn ba thập kỷ đổi
mới đất nước kéo theo hệ luỵ về sự mở rộng quan hệ dân sự, sự gia tăng tranh
chấp dân sự trong xã hội mà thừa kế không phải là ngoại lệ. Công tác giải quyết
các vụ án dân sự nói chung hay các vụ án về thừa kế nói riêng trong những năm
vừa qua đã trở thành mối quan tâm của xã hội, thậm chí gây bức xúc, bất ổn
khi có không ít các vụ việc tranh chấp phải giải quyết nhiều lần do việc khiếu kiện kéo dài, gay gắt. lO M oARcPSD| 47110589
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án thừa kế là một trong những
hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo quy
định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa
án có căn cứ, đúng pháp luật. Trong những năm qua, đăc biệ t tự̀ khi Bô luậ t
Tố tụng Dân sự năm 2015 có hiệ u lực, phạm vi kiểm sát việ c ̣ giải quyết các
vụ viêc dân sự của Việ n kiểm sát được mở rộ ng, Việ n kiểṃ sát tham gia phiên
toà nhiều hơn. Hầu hết các vụ án tranh chấp di sản thừa kế đều có đối tượng là
bất đông sản nên Kiểm sát viên có trách nhiệm phảị tham gia (trực tiếp nghiên
cứu hồ sơ và tham gia kiểm sát tại phiên toà…). Thông qua công tác kiểm sát,
Viên kiểm sát đã đảm bảo để các vụ việ c dâṇ sự nói chung và án thừa kế nói
riêng được giải quyết nhanh chóng và đúng pháp luât, hơn thế nữa đã kịp thời
phát hiệ n nhiều vi phạm của Toà án trong ̣ quá trình giải quyết các vụ án tranh
chấp di sản thừa kế để thực hiên quyềṇ kháng nghị, kiến nghị theo quy định của pháp luât.̣
Tuy nhiên, theo số liêu báo cáo thống kê hàng năm cho thấy số lượng ̣ án
trong đó có tranh chấp di sản thừa kế sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa, huỷ còn
nhiều (tỷ lê 40 đến 45%) nhưng số vụ, việ c có kháng nghị phúc thẩm,̣ giám
đốc thẩm, tái thẩm của Viên kiểm sát các cấp chưa nhiều. Từ thực ̣ trạng này,
công tác kiểm sát giải quyết các vụ, viêc dân sự nói chung và ̣ kiểm sát giải
quyết án tranh chấp thừa kế nói riêng cần cố gắng, nỗ lực trên nhiều phương
diên, trong đó việ c nâng cao kiến thức pháp luậ t, kỹ năng ̣ nghiêp vụ chuyên
môn, việ c tích luỹ kinh nghiệ m của mỗi Kiểm sát viên là ̣ vấn đề cần thiết và quan trọng hàng đầu.
Viện kiểm sát các cấp mặc dù đã tích cực, chủ động trong công tác kiểm
sát các bản án, quyết định của Toà án nhưng do hoạt động kiểm sát của Viện
kiểm sát mới chỉ chủ yếu thông qua nghiên cứu bản án, quyết định của Toà án
nên hiệu quả công tác kiểm sát còn rất hạn chế, không kịp thời phát hiện các vi
phạm của Toà án trong quá trình giải quyết. Mặc dù có nguyên nhân khách
quan từ việc quy định pháp luật tố tụng chưa bảo đảm cơ sở pháp lý cần thiết
để Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nhưng
trên phương diện là cơ quan có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp để
bảo đảm việc giải quyết tranh chấp dân sự của Toà án đúng pháp luật thì công
tác kiểm sát thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu này.
Hiện nay, báo cáo công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát cũng như báo
cáo công tác xét xử của ngành Toà án không thống kê số liệu riêng cho từng
loại án dân sự, vì vậy khó đánh giá thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ án chia thừa kế trên cở sở thực trạng công tác kiểm sát giải quyết các vụ 6 lO M oARcPSD| 47110589
việc dân sự nói chung và một số vụ án thừa kế có tính chất điển hình về tính
phức tạp, có khiếu kiện gay gắt, kéo dài. Số liệu báo cáo thống kê chung của
ngành về án dân sự trong nhiều năm thể hiện rõ số lượng vụ án sơ thẩm bị cấp
phúc thẩm sửa, huỷ từ khoảng gần 40% đến 45%, tuy nhiên số vụ việc có kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát các
cấp chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Ngành Kiểm sát không thể tự nhận đã làm
tốt chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong khi nhiều Viện kiểm sát
địa phương trong một năm công tác cả hai cấp kiểm sát chỉ kháng nghị phúc
thẩm được một vài vụ án dân sự. Trong bối cảnh chung, công tác kiểm sát giải
quyết án thừa kế còn hạn chế và cần sự cố gắng nỗ lực trên nhiều phương diện
từ việc củng cố đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ nhận thức; bồi dưỡng nâng
cao kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn; chú trọng công tác chỉ
đạo hướng dẫn nghiệp vụ trong toàn ngành…
Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lượng đơn đề nghị, kiến nghị liên quan
đến lĩnh vực thừa kế chiếm tỉ lệ tương đối cao (khoảng 27%) so với tổng số
đơn thụ lý, giải quyết. Tuy lượng đơn gửi đến nhiều nhưng viÖc gi¶i quyÕt ®¬n
®Ò nghÞ, kiÕn nghÞ theo thñ tôc gi¸m ®èc thÈm cha ®¸p øng ®îc yªu cÇu, mới
chỉ xem xét, giải quyết được khoảng 25% đơn đề nghị, kiến nghị; tỉ lệ kháng
nghị so với tỉ lệ đơn được giải quyết ở mức vô cùng khiêm tốn (nhất là từ khi
thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014); cã nh÷ng vô viÖc gi¶i quyÕt ®i gi¶i quyÕt l¹i; nhiÒu vô viÖc cha ®îc
xem xÐt gi¶i quyÕt. Đặc biệt có những vụ án dân sự về thừa kế mặc dù giải
quyết qua nhiều cấp khác nhau nhưng đương sự vẫn khiếu nại gay gắt và một
số trường hợp vẫn phát hiện có sai lầm. Bên cạnh công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án dân sự thông qua đơn đề nghị, kiến nghị của cá nhân, cơ quan,
tổ chức, Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn thực hiện kháng nghị giám đốc
thẩm các vụ án dân sự thông qua báo cáo đề nghị kháng nghị của các Viện kiểm sát địa phương.
Thực tế cho thấy, việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm là rất phức tạp, vì không phải tất cả các bản án, quyết định có hiệu
lực mà phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án đều phải
kháng nghị; mà kháng nghị hay không kháng nghị còn phụ thuộc vào sự đánh
giá có hay không sự vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có
vi phạm thì là nghiêm trọng hay không nghiêm trọng đến mức phải kháng nghị.
Tuy nhiên, theo đánh giá chung thì việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ
tục giám đốc thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong những năm qua đã
đạt được những thành tích đáng khích lệ, công tác kiểm sát việc giải quyết các lO M oARcPSD| 47110589
vụ án dân sự ngày càng được chú trọng nâng cao. Qua đó, góp phần cùng Tòa
án nhân dân tối cao khắc phục được những sai sót, vi phạm của Tòa án nhân
dân các địa phương cũng như các Tòa án nhân dân cấp cao, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, công dân; góp phần phát triển kinh
tế - xã hội; lập lại trật tự kỷ cương; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; đóng
vai trò quan trọng trong việc hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân.
Trước tình hình, đặc điểm và thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ, việc về thừa kế từ khi thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát
chủ yếu kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Tòa án thông qua các bản án,
quyết định mà không kiểm sát hoạt động tố tụng trong toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án nên việc phát hiện vi phạm của Toà án gặp nhiều khó khăn. Bên
cạnh quy định đương sự có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp; việc áp dụng pháp luật nhiều lúc,
nhiều nơi còn chưa thống nhất đôi khi còn mang ý chí chủ quan của Toà án nên
việc ra quyết định, bản án chưa thật sự khách quan và đúng pháp luật, gây thiệt
hại đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Từ đó dẫn đến tình trạng án kéo
dài, xử nhiều lần, đương sự khiếu kiện vượt cấp, đôi khi đương sự do quá bức
xúc làm mất trật tự trị an. Thông qua thực hiện chức năng kiểm sát, Viện kiểm
sát nhân dân đã phát hiện những vi phạm của Tòa án về áp dụng pháp luật tố
tụng, về pháp luật nội dung hay vận dụng Nghị định, Thông tư hướng dẫn…đã
kịp thời kiến nghị để Tòa án khắc phục vi phạm hoặc kháng nghị để Tòa án ra
những bản án đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi của các đương sự.
3. Một số hạn chế, tồn tại
Thực tế cho thấy, công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án thừa kế
theo thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động nghiên
cứu phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật; báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm
sát nhân dân các cấp và đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của đương sự.
Tuy nhiên, việc giải quyết đơn khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm cần có sự
tham gia của nhiều người, qua nhiều khâu, nhiều cấp độ và thực tế hiện nay cả
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Tòa án nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao đều thực hiện nhiệm vụ giải quyết đơn đề
nghị, kiến nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật; hơn nữa Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao đều có quyền kháng nghị giám đốc 8 lO M oARcPSD| 47110589
thẩm nên nhiều khi việc xác định là “có vi phạm pháp luật hay không”, nếu có
vi phạm thì là “nghiêm trọng hay chưa đến mức nghiêm trọng” giữa từng bộ
phận, từng cấp, từng cơ quan, từng cá nhân có thẩm quyền kháng nghị là rất không đồng nhất.
Do đó, trong thực tiễn giải quyết khiếu nại giám đốc thẩm vụ án dân sự
thường xảy ra các trường hợp sau:
Một là, sau khi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh hoặc Tòa án nhân dân cấp cao có hiệu lực pháp luật nhưng có đơn đề, kiến
nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Tòa án nhân dân tối cao xem xét, thấy
không có căn cứ kháng nghị nên đã trả lời đơn đề nghị, kiến nghị, nhưng người
đề nghị, kiến nghị không đồng ý và tiếp tục gửi đơn. Kết quả nghiên cứu lại
xác định đề nghị, kiến nghị là có căn cứ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao lại kháng nghị. Khi xét xử giám
đốc thẩm, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Hai là, khi xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử đã chấp nhận kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc kháng nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định dân sự phúc thẩm,
giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp có thẩm quyền xét xử lại. Khi xét xử lại, Tòa
án cấp có thẩm quyền vẫn quyết định y như đã quyết định tại bản án, quyết định
trước đây đã bị hủy. Sau đó, khi giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị đối với bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc
Tòa án nhân dân tối cao lại trả lời là không có căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.
Ba lµ: Một số trường hợp trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, vụ án chưa
phát hiện được thiếu sót, vi phạm hoặc việc đánh giá chứng cứ không chính xác
nên đã có công văn trả lời đương sự, trả lời báo cáo đề nghị kháng nghị của địa
phương hoặc báo cáo các cơ quan trung ương là xử đúng nhưng sau đó Tòa án
nhân dân tối cao lại kháng nghị và qua nghiên cứu, xem xét lại hồ sơ vụ án cho
thấy kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ.
Thực tế trên đã hình thành trong đội ngũ những người làm công tác kiểm
sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm tâm lý việc giải
quyết một vụ án dân sự là không có điểm dừng; người dân thì không biết đâu
là đúng, đâu là sai. Không những thế, việc này còn gây ra những khó khăn cho
công tác thi hành án dân sự, vì khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
đã được Tòa án cấp giám đốc thẩm khẳng định là có căn cứ, đúng pháp luật thì lO M oARcPSD| 47110589
sẽ dễ dàng được thi hành, nhưng sau khi thi hành án xong, người có thẩm quyền
lại kháng nghị bản án, quyết định đã được thi hành đó.
* Về nguyên nhân của hạn chế, tồn tại:
Các sai sót, tồn tại trên xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
- Đối với nguyên nhân khách quan:
Trong điều kiện xã hội phát triển nhanh như hiện nay, các chế định của
pháp luật về thừa kế đã bắt đầu phát sinh nhiều vấn đề bất cập, không đáp ứng
kịp yêu cầu cấp thiết và tính thực tiễn của xã hội. Nguyên nhân nữa là do số
lượng án nhiều và tính chất phức tạp hơn; khả năng giải quyết các vụ việc về
thừa kế, đặc biệt là quan hệ tài sản (nhà, đất) thực tiễn chưa đáp ứng những đòi
hỏi chung của xã hội. Cụ thể như sau:
Một là, số lượng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm có xu hướng
tăng nhanh trong những năm gần đây, vượt xa khả năng tiếp nhận và giải quyết
của các cơ quan có thẩm quyền. Hầu hết các đơn khiếu nại, kiến nghị của đương
sự hoặc của các cơ quan, tổ chức được gửi tới cả Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân cấp cao. Điều này tạo ra một thực tế là cả hai cơ quan này đều phải nghiên
cứu, giải quyết. Như vậy, sự quá tải lại càng tăng thêm.
Hai là, tình trạng gửi nhiều đơn đề nghị, kiến nghị về cùng một vụ việc
là tương đối phổ biến; kể cả khi đã có trả lời của cấp có thẩm quyền là không
có căn cứ kháng nghị bản án, quyết định đó. Điều này dẫn đến việc các cơ quan
có thẩm quyền giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị giám đốc thẩm phải tốn nhiều
công sức, thời gian và tình trạng quá tải về công việc không những không thể
cải thiện mà còn tiếp tục trầm trọng thêm.
Ba là, tình trạng gửi đơn vượt cấp tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính
phủ, các Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình… ngày một gia tăng. Khi nhận
được công văn chuyển đơn đề nghị của đương sự và yêu cầu thông báo kết quả
giải quyết theo quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao phải xem xét, giải quyết ngay để báo cáo kết quả theo yêu
cầu của các cơ quan có thẩm quyền. Điều này vô hình chung đã khuyến khích
tình trạng gửi đơn không đúng địa chỉ như đã nêu trên.
Bốn là, không thể chỉ căn cứ vào nội dung, kiến nghị để kháng nghị giám
đốc thẩm ngay được, vì còn phải kiểm tra, đối chiếu nội dung đề nghị, kiến nghị
với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Nhiều trường hợp đơn đề nghị của 10 lO M oARcPSD| 47110589
đương sự mang nội dung chung chung, không nêu được căn cứ đề nghị kháng
nghị. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải yêu cầu các Tòa án ra bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ án để nghiên cứu giải
quyết, qua đó mới có thể quyết định kháng nghị hoặc trả lời đơn đề nghị, kiến
nghị. Việc rút hồ sơ thường tốn nhiều thời gian nên càng làm tăng khối lượng
công việc và kéo dài thời gian giải quyết.
- Đối với nguyên nhân chủ quan:
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc
triển khai các quy định của pháp luật và chuyển hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát
nhân dân tối cao xem xét, giải quyết. Qua công tác kiểm sát các vụ, việc dân sự
theo thủ tục giám đốc thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao thấy Viện kiểm
sát yêu cầu Tòa án đã ban hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên, nhiều trường hợp Tòa án đã
ban hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, không chuyển hồ sơ theo
yêu cầu của Viện kiểm sát mà không có lý do hoặc chuyển chậm so với quy
định. Theo Khoản 3, Điều 2 của Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định
của Bộ luật Tố tụng về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
thì Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền yêu cầu Tòa án cùng cấp chuyển
hồ sơ vụ án dân sự để nghiên cứu. Tuy nhiên, Thông tư không hướng dẫn cho
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền yêu cầu Tòa án cùng cấp chuyển hồ
sơ vụ án để nghiên cứu, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm. Điều này dẫn đến tình trạng, tại nhiều địa phương sau khi xét
xử phúc thẩm, quan điểm của Tòa án không đồng nhất với Viện kiểm sát thì
Viện kiểm sát địa phương báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm lên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chỉ căn cứ theo bản án mà không được thẩm định lại
hồ sơ vụ án nên nhiều báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm chất lượng
chưa cao (chỉ khoảng 27,5%). Hơn nữa, theo điểm b, khoản 4, Điều 2 của Thông
tư thì trong thời hạn 03 tháng hoặc 06 tháng (đối với vụ án phức tạp) kể từ ngày
nhận hồ sơ vụ án, nếu Tòa án, Viện kiểm sát không kháng nghị thì phải chuyển
hồ sơ cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã yêu cầu, sau vẫn tiếp tục yêu cầu. Tuy
nhiên, các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối cao thường chuyển chậm
hoặc không chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong số đó có
nhiều hồ sơ Tòa án nhân dân tối cao đang quản lý đã quá thời hạn 03 tháng
hoặc 06 tháng. Có vụ án Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành 3 lượt
công văn yêu cầu (thậm chí có vụ 4, 5 lượt), nhưng Tòa án nhân dân tối cao
vẫn không chuyển hồ sơ. lO M oARcPSD| 47110589
Nguyên nhân chủ quan nữa là do công tác bố trí, sắp xếp lực lượng cán
bộ, kiểm sát viên đảm nhận công việc chưa tương xứng với yêu cầu công việc.
Hàng năm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tập huấn, sơ và tổng kết việc thực
hiện Bộ luật Dân sự; Bộ luật tố tụng dân sự và các Nghị định, Thông tư hướng
dẫn… nhưng chưa đáp ứng kịp thời, đầy đủ những vướng mắc, bất cập trong
thực tiễn giải quyết loại tranh chấp này. Mặt khác, một số cán bộ, kiểm sát viên
chưa được đào tạo chuyên sâu nên nhận thức và vận dụng pháp luật còn nhiều
hạn chế. Chính vì vậy, để thực hiện tốt quyền năng theo luật định cũng như việc
áp dụng pháp luật về thừa kế được thống nhất, đòi hỏi mỗi cán bộ, kiểm sát
viên phải tìm hiểu và nghiên cứu các căn cứ pháp lý một cách có hệ thống, tích
lũy kinh nghiệm một cách sâu sắc, từ đó mới có khả năng thực hiện tốt nhiệm
vụ trong việc phát hiện kịp thời nhưng vi phạm của tòa án để đề xuất, kiến nghị,
kháng nghị và tham gia tốt việc giải quyết án giám đốc thẩm trong lĩnh vực thừa kế.
Qua thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung
và kiểm sát việc giải quyết các vụ án trong lĩnh vực thừa kế nói riêng cho thấy
những dạng vi phạm của Tòa án được Viện kiểm sát nhân dân tối cao khắc phục
thông qua kháng nghị chủ yếu bao gồm:
Vi phạm về tố tụng: Một số dạng vi phạm về tố tụng thường gặp như: -
Tòa án hai cấp không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ
liênquan tham gia giải quyết vụ án hoặc không giải quyết quyền lợi của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Chẳng hạn, một người thuộc hàng thừa kế
trong vụ tranh chấp nhưng không ủy quyền cho người khác, không từ chối tham
gia nhưng nhiều thẩm phán không đưa họ vào vụ án. Thậm chí có trường hợp
người thứ ba trong tranh chấp đã được tặng cho một phần tài sản và đang sử
dụng, quản lý nhưng tòa cũng không đưa họ tham gia tố tụng trong khi trong
bản án vẫn giải quyết cả phần tài sản họ đang quản lý. Ngoài ra trong các tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà có nhiều người đang quản
lý, sử dụng hoặc được cho thuê hay thế chấp ngân hàng, nhiều tòa cũng không
triệu tập hoặc đưa những người này tham gia tố tụng. Trái ngược với nhưng vi
phạm nêu trên thì một số thẩm phán lại giải quyết không đúng hoặc vượt quá
yêu cầu của đương sự. Có vụ người khởi kiện chỉ yêu cầu đòi hoặc chia thừa
kế một phần tài sản nhưng tòa lại buộc bị đơn trả lại toàn bộ tài sản hoặc chia toàn bộ di sản. -
Tòa án hai cấp thực hiện việc tống đạt, thông báo văn bản tố
tụngkhông đúng quy định dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng đương sự
kháng cáo quá hạn đã làm mất quyền lợi của đương sự. Ví dụ như sau khi xử 12 lO M oARcPSD| 47110589
sơ thẩm vắng mặt đương sự, có tòa không làm thủ tục tống đạt bản án khiến họ
không biết, dẫn đến mất quyền kháng cáo. Thậm chí, có trường hợp khi xử sơ
thẩm và thi hành xong thì đương sự bị thi hành án mới biết vì họ vắng mặt tại
tòa và không có mặt tại địa phương. Một lỗi nữa là việc đình chỉ xét xử phúc
thẩm hoặc xử vắng mặt không đúng. Ví dụ tòa triệu tập người kháng cáo hai
lần (họ đều có mặt) nhưng hai lần này tòa đều phải hoãn xử vì cần xác định
thêm chứng cứ. Lần triệu tập thứ ba, người này vắng hoặc bỏ về lúc làm thủ
tục phiên tòa. Nhiều tòa đã đình chỉ xử phúc thẩm hoặc xử vắng mặt bác kháng
cáo của họ vì đã vắng mặt lần ba không lý do. Trường hợp này, cấp phúc thẩm
phải xác định là người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất và phải hoãn phiên tòa.
Các tòa đã nhầm giữa quyền vắng mặt hai lần với việc vắng mặt ở lần tòa triệu tập thứ ba. -
Tòa án hai cấp không tiến hành thủ tục theo quy định đối với yêu
cầuphản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan hoặc vượt quá yêu cầu kháng cáo của đương sự. Điển hình như theo thẩm
quyền, cấp phúc thẩm chỉ được xem xét phần của bản án bị kháng cáo, kháng
nghị. Nhưng khi quyết định tòa lại sửa luôn cả phần không bị kháng cáo, kháng
nghị… Nhiều trường hợp khi xử phúc thẩm, tòa nhận định án sơ thẩm có nhiều
sai sót mà các sai sót này thuộc diện phải hủy án để giải quyết lại. Thế nhưng
cấp này vẫn giữ nguyên bản án, chỉ nhắc nhở cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm. -
Bên cạnh những lỗi cơ bản trên, Tòa án hai cấp còn mắc nhiều
lỗikhác về tố tụng như: Thụ lý giải quyết không đúng thẩm quyền đối với vụ
án có yếu tố nước ngoài. Nhiều tòa xử vắng mặt đương sự không hợp lệ, hoãn
phiên tòa quá 30 ngày, hoãn tuyên án quá năm ngày làm việc. Nhiều bản án xử
lại nhưng HĐXX khác so với quyết định đưa vụ án ra xét xử, hoặc nhiều bản
án đã ban hành nhưng thiếu chữ ký của Hội thẩm nhân dân… Bên cạnh đó cũng
có những lỗi nhỏ như khi ban hành quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ xét xử sơ
thẩm, thẩm phán không làm đúng quy định. Dù không bị kháng nghị nhưng qua
việc giải quyết khiếu nại còn phát hiện nhiều bản án ghi không chính xác họ
tên đương sự, hoặc chỉ ghi tuổi mà không ghi năm sinh, không ghi đầy đủ,
chính xác nơi cư trú của đương sự hoặc người được ủy quyền. Phần nhận định
của một số bản án còn rườm rà, chưa nhận định rõ căn cứ những vấn đề cần
quyết định, cá biệt có khi nội dung nhận định còn mâu thuẫn với quyết định…
Vi phạm về nội dung: Bên cạnh vi phạm về tố tụng như đã nêu trên, trong
quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án về thừa kế Viện kiểm sát nhân dân
tối cao còn phát hiện rất nhiều vi phạm về nội dung như: lO M oARcPSD| 47110589 -
Sai sót thường gặp là không xác định đầy đủ những người trong
diệnđược hưởng thừa kế, nên đã bỏ sót họ, hoặc không xác định đúng những
người được hưởng thừa kế thế vị, dẫn đến phải hủy bỏ bản án để điều tra xét xử lại. -
Chưa thu thập chứng cứ xác định rõ việc cấp giấy chứng nhận
quyềnsử dụng đất trước khi có di chúc để xác định di chúc có hợp pháp hay
không mà đã xác định di chúc hợp pháp để chia thừa kế theo di chúc. Nhất là
trong trường hợp người để lại di sản có nhiều di chúc khác nhau hoặc tuy có
một di chúc nhưng di chúc đó không thực hiện đầy đủ các quy định mà điều
luật đã ghi rõ. Ví dụ như di chúc miệng không có người làm chứng hoặc tuy đủ
hai người làm chứng nhưng họ không ghi chép lại ngay hoặc sau đó mới nói
lại cho người trong hàng thừa kế biết và người trong hàng thừa kế mới ghi chép
lại, cũng có vụ người làm chứng lại là người trong diện được hưởng thừa kế
theo pháp luật còn người kia là người được hưởng thừa kế theo di chúc viết.
Đối với di chúc viết, có bản không ghi đầy đủ các nội dung theo quy định như
không ghi nơi cư trú, thậm chí có trường hợp không ghi rõ nơi có di sản nhưng
vẫn được các tòa án chấp nhận di chúc đó là hợp pháp, nếu có căn cứ kết luận
đó chính là di chúc do người để lại di sản viết ra khi minh mẫn, sáng suốt, không bị ai ép buộc. -
Đối với di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, có
nhiềutrường hợp chưa giám định tài liệu chữ ký và chữ viết trong di chúc theo
yêu cầu của đương sự. Có rất nhiều trường hợp không phải tự tay người để lại
di sản viết mà họ đánh máy, điểm chỉ hay ký rõ ràng, hoặc di chúc có người
làm chứng, nhưng những người làm chứng đều là các thừa kế ký vào bản di
chúc, còn số người không phải trong diện thừa kế tuy họ có chứng kiến nhưng
họ không ký bản di chúc, có trường hợp chỉ có một người ký. Cũng có trường
hợp nội dung di chúc chỉ giao quản lý, sử dụng di sản có điều kiện, nhưng khi
điều kiện thay đổi, tòa án vẫn xét xử theo di chúc; một bên lập di chúc đã định
đoạt toàn bộ tài sản chung của vợ chồng, khi xét xử, tòa án vẫn công nhận toàn bộ di chúc. -
Đối với quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào
nộidung di chúc, đó là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành
niên mà không có khả năng lao động. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp
người để lại di sản khi viết di chúc đã không giành lại “phần di sản bằng 2/3
suất của một thừa kế theo pháp luật” cho các đối tượng nói trên nhưng tòa án
vẫn công nhận toàn bộ di chúc của họ hợp pháp là không đúng. 14 lO M oARcPSD| 47110589 -
Những tranh chấp di sản dùng vào việc thờ cúng khi giải quyết
còngặp nhiều vướng mắc, lúng túng và dẫn đến sai sót. Nguyên nhân là do điều
luật chỉ thiên về việc hướng dẫn cách xử sự của công dân trong một số tình
huống mà chưa dự liệu những trường hợp khác, ví dụ như các thừa kế không
thống nhất được với nhau, tranh chấp gay gắt hoặc họ không dùng di sản đó
vào việc thờ cúng mà phá đi làm nhà ở… -
Ngoài ra còn một số sai sót khá phổ biến khác như: Chưa làm rõ
căncứ xác định còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Xác định thời hiệu
chia thừa kế đã hết không đúng. Xác định sai mối quan hệ pháp luật từ tranh
chấp về di sản thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất sang tranh chấp về
quyền sử dụng đất và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do tranh
chấp quyền sử dụng đất chưa được hòa giải tại UBND xã. Không xem xét giám
định gene để xác định người được hưởng di sản thừa kế. Chưa xác minh lời
khai của nhân chứng để xác định rõ quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng đã xác định
quyền thừa kế tài sản của đương. Xác định di sản thừa kế trước khi chia chưa
đúng. Không xác định nhu cầu sử dụng tài sản của hai bên đương sự để quyết
định phân chia bằng hiện vật hay bằng giá trị cho phù hợp. Xác định không
đúng người để lại tài sản thừa kế. Tòa án cấp phúc thẩm không áp dụng pháp
luật về thừa kế mà căn cứ công sức nuôi dưỡng mẹ liệt sỹ để giao toàn bộ nhà
đất và tài sản cho bị đơn sở hữu, sử dụng. Việc áp dụng quan hệ thừa kế giữa
con riêng và bố dượng, mẹ kế cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng, vướng mắc
khi xác định “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con”, để
cho họ được hưởng di sản thừa kế. Có một điều cũng đáng lưu ý là khi áp dụng
các quy định về thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, có một sai sót
chung và cũng hay gặp vướng mắc, lúng túng nhiều là khi giải quyết thừa kế
quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đó là các di chúc định đoạt
quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản diễn ra trước ngày giải
phóng miền Nam năm 1975, trước khi có Hiến pháp năm 1992; vấn đề định giá
đất theo khung giá hay theo giá thị trường; vấn đề xác định thẩm quyền giải
quyết thừa kế quyền sử dụng đất… Sai sót nhiều nhất khi áp dụng các điều luật
khi giải quyết các vụ án trong lĩnh vực này là trong khi khối di sản có thể chia
đều hiện vật cho các thừa kế, thì có Tòa án lại chỉ chia cho một số người hoặc
một người; nhất là việc định giá không đúng với giá trị thực của di sản, thì việc
khiếu kiện sau khi xét xử càng gay gắt. Các trường hợp như vậy đều bị kháng
nghị sửa án hoặc hủy bản án để xét xử lại. Ngoài ra, các sai sót do điều tra sơ
sài, không tạo dựng đủ các căn cứ cho cho các quyết định trong bản án như:
không đo, vẽ sơ đồ xác định vị trí, diện tích, giá trị di sản, số lượng di sản…
không đầy đủ, cũng có trường hợp sai sót do phần quyết định không rõ ràng, lO M oARcPSD| 47110589
thiếu cụ thể hay chồng chéo lên nhau, nên không thể thi hành án được hoặc bỏ
sót tài sản không phân chia.
Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự của Viện kiểm
sát nhân dân các cấp cho thấy một số quy định của pháp luật về lĩnh vực thừa
kế không phù hợp với thực tiễn, có những quy định mâu thuẫn với các văn bản
quy phạm pháp luật khác, có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn
phù hợp), có những quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách
hiểu khác nhau, có những quy định chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Bộ luật dân sự và các văn bản liên quan còn khá nhiều mâu
thuẫn khi hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất như
quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng; về thời hiệu khởi kiện tranh
chấp thừa kế và tranh chấp tài sản chung; các quy định về sử dụng đất hộ gia
đình; các văn bản hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến nhà, đất rất
nhiều và không ổn định, thường xuyên được sửa đổi, bổ sung. Bên cạnh đó có
một số quy định của pháp luật về nhà ở, đất đai, thừa kế… có sự mâu thuẫn với
nhau và còn quy định rất chung chung nên khi áp dụng trên thực tiễn rất khó
khăn. Vì vậy, khi giải quyết cùng một vụ án lại có nhiều quan điểm khác nhau.
Ví dụ, đối với các tranh chấp về thừa kế và tranh chấp tài sản chung: Bộ
luật Dân sự 2005 quy định thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế là mười năm
kể từ thời điểm mở thừa kế và tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình có quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế khi
kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng
thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó
chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Như vậy, khi đương sự khởi kiện
vụ tranh chấp tài sản chung thì phải xuất trình các chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu khởi kiện theo Điều 5, 6, 7 BLTTDS nhưng khi khởi kiện tài sản chung
các đương sự không xuất trình được sự thống nhất về tài sản chung chưa chia,
khi thụ lý, giải quyết thì dẫn đến bác yêu cầu khởi kiện , nhưng việc giải quyết
tranh chấp kéo dài dẫn đến lượng án tồn đọng và ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của các đương sự. Vì vậy, cần quy định Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án
khi các đương sự phải xuất trình được các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện đúng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, nếu người có tài sản
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng lại bị kê biên, đảm bảo
thi hành án. Khi đó, các đồng thừa kế không tranh chấp về hàng thừa kế và đều
thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia, Toà án căn cứ Nghị Quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để thụ lý chia tài sản chung, việc giải quyết 16 lO M oARcPSD| 47110589
các thủ tục tiếp theo sẽ gây thiệt hại cho người được thi hành đối với bản án có
hiệu lực pháp luật. Do đó, việc giải quyết các vụ án về thừa kế trên thực tiễn là
vô cùng khó khăn và phức tạp.
4. Một số kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án
dân sự về chia thừa kế
Để thực hiên tốt chức năng khi kiểm sát loại án “đặ c biệ t” này, việ c ̣
làm đầu tiên của Kiểm sát viên là nắm vững và áp dụng đúng các văn bản pháp
luât, nghiên cứu và áp dụng các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp ̣ luât liên quan. ̣
Trong lĩnh vực giải quyết án tranh chấp về thừa kế, cần lưu ý những văn
bản chủ yếu sau: Thông tư số 81/TANDTC ngày 24.7.1981 của Toà án nhân
dân Tối cao (TANDTC) hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế được
áp dụng từ ngày 24.7.1981 đến ngày 10.9.1990; Pháp lênh thừa kệ́ được thi
hành từ ngày 10.9.1990 đến ngày 01.7.1996; Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày
19.10.1990 của Hôi đồng thẩm phán TANDTC hướng ̣ dẫn áp dụng môt số quy
định của Pháp lệ nh thừa kế; Bộ luậ t dân sự năṃ 1995 có hiêu lực thi hành từ
ngày 01.7.1996 đến ngày 01.01.2006; Nghị ̣ quyết số 02/NQ-HĐTP ngày
10.8.2004 của Hôi đồng thẩm phán TANDTC̣ hướng dẫn áp dụng pháp luât
trong việ c giải quyết các vụ án dân sự, hôṇ nhân và gia đình; BLDS năm 2005;
BLDS năm 2015. Đồng thời, cần lưu ý đến các văn bản liên quan đến viêc đăng
ký quản lý tài sản nói chung và ̣ bất đông sản nói riêng bởi các đối tượng tranh
chấp trong án thừa kế hầụ hết là bất đông sản.̣
Từ tình hình và đặc điểm trên, muốn thực hiện tốt chức năng kiểm sát
những vụ án dân sự về thừa kế đòi hỏi mỗi cán bộ, kiểm sát viên phải nắm vững
pháp luật, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, quy chế, quy định của
ngành về các thao tác nghiệp vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Viện
kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong
đó bao gồm các bản án, quyết định tranh chấp về chia thừa kế nhằm góp phần
giải quyết các vụ, việc dân sự nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật. Vì vậy,
khi nghiên cứu giải quyết án, cán bộ cần xác định chính xác mối quan hệ tranh
chấp, kiểm tra Tòa án đã đưa đầy đủ những người liên quan (nếu có) vào tham
gia tố tụng không? Các thủ tục pháp lý trong tố tụng có được Tòa án áp dụng
đầy đủ, đúng pháp luật chưa. Trong trường hợp vụ án có vi phạm thì nghiên
cứu để kháng nghị cần được phân tích, làm rõ trong quyết định kháng nghị. Đặc
biệt về nội dung, cần đánh giá chính xác mức độ vi phạm của bản án, quyết
định bị kháng nghị, trích dẫn điều luật áp dụng. Trên cơ sở đó, đề xuất hướng lO M oARcPSD| 47110589
giải quyết vụ án ở trình tự giám đốc thẩm. Quyết định kháng nghị cần phải kiểm
tra kỹ cả về hình thức lần nội dung trước khi ban hành.
Ngoài viêc nghiên cứu, nắm vững các căn cứ pháp luậ t, văn bản,
chínḥ sách của Nhà nước qua từng thời kỳ, khi nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét
xử vụ án tranh chấp thừa kế, Kiểm sát viên cần phải làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định thời điểm mở thừa kế, đây là vấn đề có vai trò rất quan
trọng trong viêc giải quyết loại án này, vì:̣
Thời điểm mở thừa kế cho phép xác định người được hưởng di sản thừa
kế. Theo quy định tại Điều 635 BLDS năm 2005 thì “Người thừa kế là cá nhân
phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoăc sinh ra và ̣ còn sống sau
thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. Như vây, chỉ có ̣ người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế mới được hưởng thừa kế.
Thời điểm mở thừa kế giúp xác định thời điểm người thừa kế có các quyền
và nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại - Điều 636 BLDS năm 2005 (BLDS
năm 2015 còn bổ sung người thừa kế còn có thể được hưởng quyền khác đối
với tài sản như quyền đối với bất đông sản liền kề, quyềṇ hưởng dụng và quyền bề măt).̣
Thời điểm mở thừa kế cũng giúp xác định đúng thời hiêu đối với những ̣
vấn đề của thừa kế như: Thời hiêu khởi kiệ n để người thừa kế yêu cầu chia dị
sản, xác định quyền thừa kế của mình hoăc bác bỏ quyền thừa kế của ngườị
khác là 10 năm (BLDS năm 2015 quy định là 10 năm đối với đông sản, 30 năṃ
đối với bất đông sản), thời hiệ u khởi kiệ n để yêu cầu người thừa kế thực hiệ ṇ
nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, thời hiêu từ chối nhậ n dị
sản là 06 tháng theo quy định của BLDS năm 2005 (BLDS năm 2015 quy định
“viêc từ chối nhận di sản phải được thể hiệ
n trước thời điểm phân chia di sản”).̣
Thời điểm mở thừa kế cũng là thời điểm di chúc của người để lại di sản
có hiêu lực. Trong thực tiễn xét xử có trường hợp người quản lý di sản giả ̣ mạo
giấy chứng tử, khai không đúng ngày chết của người để lại di sản nhằm chứng
minh thời hiêu khởi kiệ n yêu cầu chia di sản thừa kế không còn đệ̉ chiếm đoạt
tài sản mà mình đang quản lý hoăc Toà án xác định ngày chếṭ của người để lại
di sản không thống nhất như trường hợp tuyên bố môṭ người là đã chết thì có
Toà án xác định ngày chết là ngày ra quyết định, có Toà án xác định ngày chết
là ngày quyết định có hiêu lực pháp luậ t, có Toà ̣ án lại xác định ngày chết là 18 lO M oARcPSD| 47110589
ngày sau thời hạn 05 năm kể từ khi biêt tích…̣ Như vây, việ c xác định thời
điểm mở thừa kế không đúng, không thống nhấṭ đã làm ảnh hưởng rất lớn đến
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Thứ hai, xác định đúng, đầy đủ di sản thừa kế.
Để giải quyết vụ án chia thừa kế, Kiểm sát viên cần xác định rõ di sản thừa
kế gồm những gì? Nguồn gốc di sản, quá trình biến đổi, thực trạng từng loại di
sản; nghĩa vụ dân sự của người chết trước khi để lại di sản; khi phân chia di sản
cần xem xét công sức duy trì, bảo quản, phát triển tài sản là di sản của người
trực tiếp quản lý di sản, công sức của người chăm sóc người để lại di sản, viêc
ma chay, giỗ, tết…liên quan đến người để lại dị sản…
Viêc xác định di sản thừa kế trên cơ sở quy định của pháp luậ t baọ
gồm: tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong khối tài
sản chung với người khác. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung
với người khác có thể là phần tài sản nằm trong khối tài sản thuôc sợ̉ hữu chung
hợp nhất của vợ chồng hoăc nằm trong khối tài sản thuộ c sở hữụ chung theo
phần với người khác phụ thuôc vào cách thức và căn cứ xác lậ p ̣ nên các hình thức sở hữu đó.
Xác định được giá trị của tài sản tranh chấp, xác định được thực tế khối
tài sản đó đang được quản lý và sử dụng như thế nào. Thực tiễn xét xử cho thấy,
nhiều vụ án chia thừa kế bị huỷ nhiều lần vì khi giải quyết, toà án không xem
xét kỹ nguồn gốc, sự chuyển dịch theo thời gian, những biến đông của tài sản
là di sản trong quá trình thực hiệ
n các chính sách của nhà ̣ nước trong
từng thời kỳ, thâm chí không xem xét đến những tài sản (không ̣ phải là di sản)
đang tồn tại, hiên hữu trong khối tài sản có tranh chấp hoặ c ̣ phân chia di
sản không phù hợp với thực tế và nhu cầu của đương sự như: tài sản có thể chia
bằng hiên vậ t nhưng chỉ giao cho mộ t bên sở hữu, sự̉ dụng khi người này
không có khả năng trích trả giá trị cho các thừa kế khác trong khi có đương sự
khác cũng có yêu cầu được phân chia hiên vậ t (hiệ ṇ vât có thể chia được mà
không làm mất đi giá trị sử dụng) dẫn đến khó ̣ khăn, vướng mắc khi thi hành án.
Thứ ba, xác định những người thuôc diệ n thừa kế được hưởng di sảṇ theo
pháp luât (các hàng thừa kế), người thừa kế bắt buộc, người bị truấṭ quyền
thừa kế, người từ bỏ quyền thừa kế, thừa kế thế vị, các trường hợp khác như
con nuôi, con riêng, con ngoài giá thú, vợ (chồng) khi áp dụng chính sách cán
bô miền Nam đi tậ p kết… Việ c xác định rõ, đầy đủ ngườị thuôc diệ n thừa kế
là vấn đề quan trọng bởi thực tế có trường hợp khi giảị quyết tranh chấp thừa lO M oARcPSD| 47110589
kế toà án xác định không đầy đủ người thuôc diệ ṇ thừa kế làm ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của những người này.
Thứ tư, giải quyết án thừa kế theo di chúc trước hết phải xem xét tính hợp
pháp của di chúc. Nếu xác định di chúc là hợp pháp, được chấp nhân thì ̣ phải
chú ý đến trường hợp được hưởng thừa kế không phụ thuôc vào di chúc.̣
Đối với người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất, xem xét tính
hợp pháp của di chúc phải dựa trên các quy định của pháp luât về hìnḥ thức của loại di chúc miêng.̣
Thứ năm, xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp; tâm tư, nguyêṇ
vọng, điều kiên, hoàn cảnh của các đương sự để phân chia di sản cho phù ̣ hợp.
Khi phân chia di sản cần lưu ý đến quy định về hạn chế phân chia di sản tại
Điều 686 BLDS năm 2005 (Điều 661 BLDS năm 2015 bổ sung “Hết thời hạn
03 năm mà bên còn sống chứng minh được viêc chia di sản vẫn ảnḥ hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Toà án gia hạn
môt lần nhưng không quá 03 năm”).̣
Thứ sáu, yêu cầu cuối cùng đối với Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ,
giải quyết các vụ, viêc dân sự nói chung và giải quyết tranh chấp di sản thừạ kế
nói riêng là viêc lựa chọn, xác định căn cứ pháp luậ t phù hợp để áp dụng ̣ trong từng vụ án cụ thể.
Như vậy, Tranh chấp di sản thừa kế là loại án luôn được dư luân xã hộ ị
quan tâm bởi tính đăc thù đó là quan hệ tình cảm giữa những người cùng ̣ huyết
thống, giữa vợ chồng, họ hàng dòng tôc vì vậ y kiểm sát viên cần phảị trang bị
cho mình kiến thức về pháp luât, về xã hộ i cùng mộ t bản lĩnh vững ̣ vàng để
có thể kiểm sát, giải quyết tốt loại án này trong thời gian sắp tới. 20