Điều kiện, đặc trưng, ưu thế của nền kinh tế hàng hoá so sánh với nền kinh tế - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Điều kiện, đặc trưng, ưu thế của nền kinh tế hàng hoá so sánh với nền kinh tế - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

1. Điều kiện, đặc trưng, ưu thế của nền kinh tế hàng hoá so sánh với nền
kinh tế tự nhiên
- Kinh tế tự nhiên kiểu sản xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả
mãn nhu cầu của người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền
sản xuất nhỏ, lực lượng lao động phát triển thấp, phân công lao động kém phát
triển.
Sản xuất hàng hóa kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không
phải để đáp ứng nhu cầu của người trực tiếp sản xuất đáp ứng nhu cầu của
hội thông qua trao đổi mua bán.
Do sản xuất hàng hóa dựa trên sự phân công lao động hội, chuyên môn hóa
sản xuất nên khai thác được những lợi thế tự nhiên, hội, kỹ thuật của từng
người, từng sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng
hóa cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động hội, chuyên môn hóa sản
xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở
rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của
xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nguồn lực nhu cầu của mỗi nhân, gia đình, mỗi sở, mỗi vùng được
mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc
ứng dụng những thành tựu KH KT vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển,
chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất lãi, người sản xuất phải
luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầuthị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ
đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh
tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng,
các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất cả đời sống văn hóa, tinh thần
cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực
cá nhân, gia đình, quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển thì sản xuất hàng hóa lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm cho
sản xuất phù hợp với nhu cầu, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
mỗi cá nhân và toàn xã hội.
2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá - lượng giá
trị hàng hoá là gì?
- 3 yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá là: (năng suất lao động,
cường độ lao động, mức độ phức tạp của lao động)
Năng suất lao động:
+ Khái niệm: Năng suất lao động năng lực sản xuất của lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đợn vị thời gian hoặc số lượng thời
gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
+ Khi tất cả các yếu tố khác không đổi:
Năng suất lao động hội tăng > Số lượng hàng hoá được sản xuất ra trong
cùng 1 đơn vị thời gian tăng; nghĩa là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra 1 đơn vị hàng hoá giảm > lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm.
> Ví dụ (BẮT BUỘC): số liệu minh hoạ cụ thể…
> Kết luận:
Sự thay đổi của Năng suất lao động tác động theo tỷ lệ NGHỊCH đến
lượng GT của MỘT đơn vị hàng hóa NHƯNG KHÔNG tác động đến TỔNG
lượng giá trị của TỔNG số hàng hóa được sản xuất ra trong cùng một đơn vị
thời gian.
> Liên hệ:
Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh về giá cả là quan trọng nhất. Để cạnh tranh
về giá cả với nhà sản xuất khác thì phải tăng năng suất lao động biệt làm
giảm lượng giá trị cá biệt của một đơn vị hàng hoá xuống thấp hơn lượng giá trị
hội của > giá cả bán hàng hóa thể rẻ hơn của người khác vẫn thu lợi
nhuận ngang, thậm chí cao hơn.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ, tác động theo chiều THUẬN đến NSLĐ:
Một: Trình độ khéo léo (thành thạo) của người lao động.
Hai: Mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ mức độ ứng
dụng những thành tựu đó vào sản xuất.
Ba: Trình độ tổ chức quản lý sản xuất.
Bốn: Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.
Năm: Các điều kiện tự nhiên.
– Cường độ lao động:
+ Khái niệm: Cường độ lao động mức độ hao phí lao động của người lao
động trong một đơn vị thời gian, được tính bằng số calo hao phí trong 1 đơn vị thời
gian.
+ Khi tất cả các yếu tố khác không đổi: Cường độ lao động tăng > mức độ hao
phí lao động tăng > tổng số hàng hoá được sản xuất ra trong cùng 1 đơn vị thời gian
tăng ĐỒNG THỜI với sự tăng của tổng lượng hao phí > nên lượng hao phí lao
động để sản xuất ra 1 đơn vị hàng hoá không đổi > lượng giá trị của một đơn vị
hàng hoá không đổi. > Ví dụ (BẮT BUỘC): cho số liệu minh hoạ cụ thể… > Kết
luận: Như vậy, sự thay đổi của CĐLĐ KHÔNG tác động đến lượng GT của MỘT
đơn vị hàng hóa NHƯNG NÓ tác động theo tỷ lệ THUẬN đến TỔNG lượng giá trị
của tổng số hàng hóa được sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian. >
Liên hệ: Trong thực tế SX hàng hoá TBCN, việc các nhà bản áp dụng tăng
CĐLĐ đối với người làm thuê (trong khi không trả công tương xứng) KHÔNG
nhằm làm giảm lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hoá, không tạo ra khả năng cạnh
tranh về giá MÀ là NHẰM tăng MỨC ĐỘ BÓC LỘT lao động làm thuê.
+ Cường độ lao động phụ thuộc theo chiều thuận vào: Thể chất, tinh thần, kỹ
năng, tay nghề, ý thức của người lao động. Trình độ tổ chức quản lý. Quy
hiệu suất của liệu sản xuất. Mức độ phức tạp của lao động: Ảnh hưởng theo tỷ
lệ THUẬN đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa TỔNG lượng giá trị của
tổng số hàng hóa đưỡn sản xuất ra trong cùng 1 đơn vị thời gian
3. Phân tích nội dung của quy luật giá trị
Nội dung của quy luật giá trị là: Sản xuất trao đổi hàng hóa dựa trên sở
giá trị của nó, tức dựa trên hao phí lao động hội cần thiết. Trong sản xuất, tác
động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao
động biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động hội cần thiết. như
vậy họ mới thể tồn tại được. Còn trong trao đổi hay lưu thông, phải thực hiện
theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh
một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với
giá cả bằng giá trị.
chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng
giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. đây, giá trị như
cái trục của giá cả.
4. cạnh tranh, hai hình thức cạnh tranh cùng ngành khác ngành -:
rút ra bài học gì?
- Cạnh tranh sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường để
giành giật khách hàng
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản
xuất hoặc tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh
này có sự thôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi
hoạt động của mình trên thị trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp
kinh doanh thậm chí phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp
trong ngành kinh tế khác nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình
cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp luôn say với những ngành đầu lợi
nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lơị nhuận. Sự điều
tiết tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau một thời gian nhất định sẽ hình
thành nên một sự phân phối hợp giữa các ngành sản xuất, để rồi kết quả cuối
cùng là, các chủ doanh nghiệp đầu các ngành khác nhau với số vốn như nhau
thì cũng chỉ thu được như nhau, tức hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa
các ngành.
5. Nghiên cứu tính hai mặt của sản xuất hàng hoá
- Sở hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của
người sản xuất ra hàng hóa tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa. C.Mác người đầu
tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó lao
động cụ thể và lao động trừu tượng. a) Lao động cụ thể Lao động cụ thể là lao động
ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương
pháp riêng và kết quả riêng.
dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích sản xuất cái bàn, cái
ghế, đối tượng lao động gỗ, phương pháp của anh ta các thao tác về cưa, về
bào, khoan, đục: phương tiện được sử dụng cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan;
kết quả lao động tạo ra cái bàn, cái ghế. Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá
trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị
sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động
hội. Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể
ngày càng đa dạng, phong phú, phản ánh trình độ phát triển của phân công lao
động hội. Giá trị sử dụng phạm trù vĩnh viễn, vậy, lao động cụ thể cũng lả
phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, một điều kiện không thể
thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - hội nào. Cần chú ý rằng, hình thức của lao
động cụ thể cũng thể thay đổi. Lao động trừu tượng lao động của người sản
xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó
chính sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản
xuất hàng hóa nói chung. b) Lao động trừu tượng Lao động của người thợ mộc
lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì hoàn toàn khác
nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ
còn một cái chung, đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt sức thần kinh của
con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng nhất của con người.
Lao động bao giờ cũng sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý,
nhưng không phải sự hao phí sức lao dộng nào về mặt sinh lý cũng là lao động trừu
tượng. Lao động trừu tượng chỉ trong nền sản xuất hàng hóa, do nục đích của
sản xuất để trao đổi. Từ đó làm xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ
thể vốn rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động
đồng nhất có thể trao đổi với nhau, tức lao động trừu tượng.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi.
Nếu không sản xuất hàng hóa, không trao đổi thì cũng không cần phải quy
các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. vậy, lao động trừu tượng một
phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa. Cần lưu ý, ở đây không phải có hai
thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa, nhưng lao
động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng. Nếu
lao động cụ thể chỉ một trong hai nhân tố tạo thành giá trị sử dụng thì lao động
trừu tượng là nhân tô duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị của mọi hàng hóa
chỉ sự kết tinh của lao động trừu tượng. Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hỏa ý nghĩa rất to lớn về mặt luận; đem đến cho
thuyết lao động sản xuất một sở khoa học thực sự giúp ta giải thích được hiện
tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng
của cá vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống
hay không thay đổi. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính
chất nhân tính chất hội của người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế
hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là
người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậytính chấtnhân. Đồng thời, lao
động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung,
tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất,
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là biểu hiện
của lao động xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa, lao độngnhân và lao động
hội không phải hai lao động khác nhau, chỉ hai mặt đối lập của một lao
động thống nhất. Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau.
Đó là mâu thuẫn cơ bản của "sản xuất hàng hóa". Mâu thuẫn này biểu hiện ở chỗ: -
Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù
hợp với nhu cầu của hội. - Hao phí lao động biệt của người sản xuất thể
cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận.
Mâu thuẫn giữa lao động nhân lao động hội mầm mống của mọi
mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đósản xuất
hàng hóa vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khùng hoảng "sản xuất
thừa".
6. Nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của giá trị thặng dư, 2 phương pháp
sản xuất ra giá trị thặng dư
- ĐỊNH NGHĨA: Giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhântạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là
quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá cáiđiểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà
tư bản trả được hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
nghĩa bản chất - Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng của C.
Mác, chúng ta thấy ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của
đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế nước ta, trong một chừng mực nào
đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều
và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ,
chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện
của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc cứng
về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như
thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế không
thể thực hiện được. Điều sức thuyết phục hơn cả hiện nay quan hệ phân phối
phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ sở để
điều chỉnh các hành vi hội nói chung, còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai
chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính mức độ bóc lột
được hội chấp nhận, tức làm giàu hợp pháp. Trong quản hội thì phải
kiểm soát chặt chẽ thu nhập nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống
thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước
bằng các “kênh” phân phối lại điều tiết thu nhập hội. Thiết nghĩ, đây
một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo
điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng trong một giai
đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế
và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao
động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật bằng các chế tài thật cụ thể mới
bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá
trình sử dụng lao động một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào
để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay,
thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng,
những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là
một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp quan hệ bóc lột trong điều kiện
hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện
và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nguồn gốc: Để tiến hành sản xuất, nhà bản phải mua sức lao động
liệu sản xuất. Vì liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá
trình sản xuất, người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà bản sản
phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà bản. Sản xuất bản chủ nghĩa quá trình
tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà bản khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất
định – chỉ cẩn một phần của ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo tra giá
trị bằng giá trị sức lao động của chính mình.
Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các liệu sản xuất
chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo
ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng
dư. Giá trị hàng hóa (W) được sản xuất ra gồm hai phần: giá trị những liệu sản
xuất đã hao phí được lao động cụ thể bảo tồn chuyển vào sản phẩm (giá trị cũ,
hiệu c) giá trị mới (v+m) do lao động trìu tượng của công nhân tạo ra (lớn
hơn giá trị hàng hóa sức lao động). Phần giá trị mới do lao động sống tạo thêm ra
ngoài giá trị hàng hóa sức lao động, được nhà bản thu lấy không trả cho
người lao động, được gọi giá trị thặng (m). Như vậy, lao động sống nguồn
gốc tạo ra giá trị thặng dư. *2 pp sản xuất ra giá trị thặng
7. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
- Thứ nhất, người sức lao động phải được tự do vệ thân thể, làm chủ được
sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
- Thứ hai, người sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất
tư liệu sinh hoạt. Họ trở thành người “vô sản”. Để tồn tại buộc họ phải bán sức lao
động của mình để sống. Sức lao động biến thành hàng hoá điều kiện quyết định
để tiển biến thành tư bản.
Tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ
phải phát triển tới một mức độ nhất định. Trong các hình thái hội trước chủ
nghĩa bản chỉ sản phẩm của lao động mới hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất
hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó các hình thái sản xuất xã hội
cũ (sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều
kiện để cho sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức
lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu
sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại của chủ nghĩa tư bản.
8. Đặc điểm của giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động với hàng hoá bình
thường
- Cũng giống như những hàng hóa khác, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động chỉ được thể hiện qua quá tình tiêu dùng nó. Tức là quá trình người công nhân
tiến hành lao động sản xuất. Ngoài ra, giá trị sử dụng sức lao động cũng những
đặc tính riêng: Đặc điểm bản nhất của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động so
với những loại hàng hóa khác là khi tiêu thụ nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân sức lao động, phần lớn đó giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hóa sức
lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Điều này là chìa khóa giải quyết
những mâu thuẫn của hội bản. Tiền chỉ trở thành bản khi sức lao động trở
thành hàng hóa. Con người chủ thể của hàng hóa sức lao động, vậy các đặc
điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động quyết định việc cung ứng sức lao
động ra ngoài thị trường.
| 1/9

Preview text:

1. Điều kiện, đặc trưng, ưu thế của nền kinh tế hàng hoá so sánh với nền kinh tế tự nhiên
- Kinh tế tự nhiên là kiểu sản xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả
mãn nhu cầu của người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền
sản xuất nhỏ, lực lượng lao động phát triển thấp, phân công lao động kém phát triển.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không
phải để đáp ứng nhu cầu của người trực tiếp sản xuất mà đáp ứng nhu cầu của xã
hội thông qua trao đổi mua bán.
Do sản xuất hàng hóa dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa
sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng
hóa cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản
xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở
rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của
xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được
mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc
ứng dụng những thành tựu KH – KT vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển,
chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải
luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ
đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng,
các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần
cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực
cá nhân, gia đình, quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển thì sản xuất hàng hóa lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm cho
sản xuất phù hợp với nhu cầu, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
mỗi cá nhân và toàn xã hội.
2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá - lượng giá
trị hàng hoá là gì?
- Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá là: (năng suất lao động,
cường độ lao động, mức độ phức tạp của lao động)
Năng suất lao động:
+ Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đợn vị thời gian hoặc số lượng thời
gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
+ Khi tất cả các yếu tố khác không đổi:
Năng suất lao động xã hội tăng > Số lượng hàng hoá được sản xuất ra trong
cùng 1 đơn vị thời gian tăng; nghĩa là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra 1 đơn vị hàng hoá giảm > lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm.
> Ví dụ (BẮT BUỘC): số liệu minh hoạ cụ thể… > Kết luận:
Sự thay đổi của Năng suất lao động tác động theo tỷ lệ NGHỊCH đến
lượng GT của MỘT đơn vị hàng hóa NHƯNG KHÔNG tác động đến TỔNG
lượng giá trị của TỔNG số hàng hóa được sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian. > Liên hệ:
Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh về giá cả là quan trọng nhất. Để cạnh tranh
về giá cả với nhà sản xuất khác thì phải tăng năng suất lao động cá biệt vì nó làm
giảm lượng giá trị cá biệt của một đơn vị hàng hoá xuống thấp hơn lượng giá trị xã
hội của nó > giá cả bán hàng hóa có thể rẻ hơn của người khác mà vẫn thu lợi
nhuận ngang, thậm chí cao hơn.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ, tác động theo chiều THUẬN đến NSLĐ:
Một: Trình độ khéo léo (thành thạo) của người lao động.
Hai: Mức độ phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng
dụng những thành tựu đó vào sản xuất.
Ba: Trình độ tổ chức quản lý sản xuất.
Bốn: Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.
Năm: Các điều kiện tự nhiên.
– Cường độ lao động:
+ Khái niệm: Cường độ lao động là mức độ hao phí lao động của người lao
động trong một đơn vị thời gian, được tính bằng số calo hao phí trong 1 đơn vị thời gian.
+ Khi tất cả các yếu tố khác không đổi: Cường độ lao động tăng > mức độ hao
phí lao động tăng > tổng số hàng hoá được sản xuất ra trong cùng 1 đơn vị thời gian
tăng ĐỒNG THỜI với sự tăng của tổng lượng hao phí > nên lượng hao phí lao
động để sản xuất ra 1 đơn vị hàng hoá không đổi > lượng giá trị của một đơn vị
hàng hoá không đổi. > Ví dụ (BẮT BUỘC): cho số liệu minh hoạ cụ thể… > Kết
luận: Như vậy, sự thay đổi của CĐLĐ KHÔNG tác động đến lượng GT của MỘT
đơn vị hàng hóa NHƯNG NÓ tác động theo tỷ lệ THUẬN đến TỔNG lượng giá trị
của tổng số hàng hóa được sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian. >
Liên hệ: Trong thực tế SX hàng hoá TBCN, việc các nhà tư bản áp dụng tăng
CĐLĐ đối với người làm thuê (trong khi không trả công tương xứng) KHÔNG
nhằm làm giảm lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hoá, không tạo ra khả năng cạnh
tranh về giá MÀ là NHẰM tăng MỨC ĐỘ BÓC LỘT lao động làm thuê.
+ Cường độ lao động phụ thuộc theo chiều thuận vào: Thể chất, tinh thần, kỹ
năng, tay nghề, ý thức của người lao động. Trình độ tổ chức quản lý. Quy mô và
hiệu suất của tư liệu sản xuất. – Mức độ phức tạp của lao động: Ảnh hưởng theo tỷ
lệ THUẬN đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa bà TỔNG lượng giá trị của
tổng số hàng hóa đưỡn sản xuất ra trong cùng 1 đơn vị thời gian
3. Phân tích nội dung của quy luật giá trị
Nội dung của quy luật giá trị là: Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở
giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong sản xuất, tác
động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao
động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Có như
vậy họ mới có thể tồn tại được. Còn trong trao đổi hay lưu thông, phải thực hiện
theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh
một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng
giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Ở đây, giá trị như cái trục của giá cả.
4. cạnh tranh, có hai hình thức cạnh tranh: cùng
ngành và khác ngành -
rút ra bài học gì?
- Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường để giành giật khách hàng
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản
xuất hoặc tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh
này có sự thôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi
hoạt động của mình trên thị trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp
kinh doanh thậm chí phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp
trong ngành kinh tế khác nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình
cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có lợi
nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lơị nhuận. Sự điều
tiết tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau một thời gian nhất định sẽ hình
thành nên một sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất, để rồi kết quả cuối
cùng là, các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn như nhau
thì cũng chỉ thu được như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
5. Nghiên cứu tính hai mặt của sản xuất hàng hoá
- Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của
người sản xuất ra hàng hóa có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa. C.Mác là người đầu
tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là lao
động cụ thể và lao động trừu tượng. a) Lao động cụ thể Lao động cụ thể là lao động
có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương
pháp riêng và kết quả riêng.
Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái
ghế, đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về
bào, khoan, đục: phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan;
kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế. Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá
trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị
sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã
hội. Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể
ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao
động xã hội. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, vì vậy, lao động cụ thể cũng lả
phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, nó là một điều kiện không thể
thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. Cần chú ý rằng, hình thức của lao
động cụ thể cũng có thể thay đổi. Lao động trừu tượng là lao động của người sản
xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó
chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản
xuất hàng hóa nói chung. b) Lao động trừu tượng Lao động của người thợ mộc và
lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì hoàn toàn khác
nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ
còn có một cái chung, đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của
con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng nhất của con người.
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý,
nhưng không phải sự hao phí sức lao dộng nào về mặt sinh lý cũng là lao động trừu
tượng. Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hóa, do nục đích của
sản xuất là để trao đổi. Từ đó làm xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ
thể vốn rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động
đồng nhất có thể trao đổi với nhau, tức lao động trừu tượng.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi.
Nếu không có sản xuất hàng hóa, không có trao đổi thì cũng không cần phải quy
các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một
phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa. Cần lưu ý, ở đây không phải có hai
thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa, nhưng lao
động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng. Nếu
lao động cụ thể chỉ là một trong hai nhân tố tạo thành giá trị sử dụng thì lao động
trừu tượng là nhân tô duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị của mọi hàng hóa
chỉ là sự kết tinh của lao động trừu tượng. Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hỏa có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý
thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự giúp ta giải thích được hiện
tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng
của cá vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống
hay không thay đổi. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính
chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế
hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là
người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân. Đồng thời, lao
động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung,
tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất,
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là biểu hiện
của lao động xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã
hội không phải là hai lao động khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao
động thống nhất. Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau.
Đó là mâu thuẫn cơ bản của "sản xuất hàng hóa". Mâu thuẫn này biểu hiện ở chỗ: -
Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù
hợp với nhu cầu của xã hội. - Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể
cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi
mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất
hàng hóa vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khùng hoảng "sản xuất thừa".
6. Nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của giá trị thặng dư, 2 phương pháp
sản xuất ra giá trị thặng dư
- ĐỊNH NGHĨA: Giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhântạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là
quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá cáiđiểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà
tư bản trả được hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
*Ý nghĩa và bản chất - Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C.
Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào
đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều
và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ,
chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng
về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có
thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không
thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối
phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để
điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai
chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột
được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải
kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống
thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước
và bằng các “kênh” phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là
một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo
điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai
đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế
và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao
động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới
bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá
trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào
để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay,
thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng,
những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là
một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện
hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện
và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nguồn gốc: Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư
liệu sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá
trình sản xuất, người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản
phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình
tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất
định – chỉ cẩn một phần của ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo tra giá
trị bằng giá trị sức lao động của chính mình.
Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và
chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo
ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng
dư. Giá trị hàng hóa (W) được sản xuất ra gồm hai phần: giá trị những tư liệu sản
xuất đã hao phí được lao động cụ thể bảo tồn và chuyển vào sản phẩm (giá trị cũ,
ký hiệu c) và giá trị mới (v+m) do lao động trìu tượng của công nhân tạo ra (lớn
hơn giá trị hàng hóa sức lao động). Phần giá trị mới do lao động sống tạo thêm ra
ngoài giá trị hàng hóa sức lao động, được nhà tư bản thu lấy mà không trả cho
người lao động, được gọi là giá trị thặng dư (m). Như vậy, lao động sống là nguồn
gốc tạo ra giá trị thặng dư. *2 pp sản xuất ra giá trị thặng
7. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
- Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do vệ thân thể, làm chủ được
sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
- Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và
tư liệu sinh hoạt. Họ trở thành người “vô sản”. Để tồn tại buộc họ phải bán sức lao
động của mình để sống. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định
để tiển biến thành tư bản.
Tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ
phải phát triển tới một mức độ nhất định. Trong các hình thái xã hội trước chủ
nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất
hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó các hình thái sản xuất xã hội
cũ (sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều
kiện để cho sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức
lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu
sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại của chủ nghĩa tư bản.
8. Đặc điểm của giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động với hàng hoá bình thường
- Cũng giống như những hàng hóa khác, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động chỉ được thể hiện qua quá tình tiêu dùng nó. Tức là quá trình người công nhân
tiến hành lao động sản xuất. Ngoài ra, giá trị sử dụng sức lao động cũng có những
đặc tính riêng: Đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động so
với những loại hàng hóa khác là khi tiêu thụ nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân sức lao động, phần lớn đó là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hóa sức
lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Điều này là chìa khóa giải quyết
những mâu thuẫn của xã hội tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản khi sức lao động trở
thành hàng hóa. Con người là chủ thể của hàng hóa sức lao động, vì vậy các đặc
điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động quyết định việc cung ứng sức lao
động ra ngoài thị trường.