



















Preview text:
Lời nói đầu
Việc chuyển sang nền kinh tế mở vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, cùng với đó là sự phát triển của hàng loạt các
loại hình doanh nghiệp mới: doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.. và kéo theo sự sôi
động của một thị trường tràn ngập hàng hoá. Vì vậy,khó khăn
của các doanh nghiệp Nhà nước là điều không tránh khỏi. Để
tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường mang đầy
tính cạnh tranh thì không có con đường nào khác là phải nâng
cao khả năng cạnh tranh qua việc nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này càng mang tầm
quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thông qua xuất nhập khẩu chúng ta có điều kiện nắm
bắt và tiếp cận những thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế
giới, thúc đẩy sản xuất trong nước ngày càng hiện đại phát
triển, kích thích và mở rộng nhu cầu trong nước, đưa cuộc
sống con người ngày càng văn minh hiện đại, khai thác triệt
để tiềm năng và thế mạnh của đất nước và thế giới trên cơ sở
phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá quốc tế.
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và việc
hội nhập vào các tổ chức tự do hoá mậu dịch AFTA, APEC đã
đưa hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta sang
một giai đoạn phát triển mới có nhiều thuận lợi nhưng cũng
không ít khó khăn. Do đó đòi hỏi phải điều chỉnh lại hoạt động
xuất nhập khẩu để hoạt độngxuất nhập khẩu thực sự mang lại
hiệu quả to lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của
hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của
việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập
khẩu, cùng với kiến thức được trang bị tại nhà trường và
những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuôí khoá tại Công 1
ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ, để đi
sâu nghiên cứu vấn đề hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu
tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu "Một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn -
Dịch vụ Đo đạc Bản đồ ". Đề tài này nhằm mục đích trình
bày những vấn đề cốt lõi của nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập
khẩu, thực trạng của hoạt động xuất nhập khẩu ở Công ty
Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ, từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất
nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Luận văn tốt nghiệp được chia làm ba chương chính:
Chương I : Lý luận chung về hiệu quả hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu.
Chương II : Phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Xuất nhập
khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Chương III : Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty
Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế
về trình độ cũng như thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những khiếm khuyết.
Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thày cô để đề
tài được hoàn thiện hơn. 2
Chương I: Lý luận chung về hiệu
quả hoạt động kinh doanh xuất Nhập khẩu
I. Xuất nhập khẩu và vai trò trong quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1. Bản chất và tính tất yếu khách quan của kinh
doanh xuất nhập khẩu.
1.1 Khái niệm kinh doanh xuất nhập khẩu.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá,
dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi
đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự
phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất
hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự mở rộng của các
quan hệ mua bán trong nước và ngoài nước. Trước đây, khi
chưa có quan hệ trao đổi hàng hoá, cá nhân mỗi con người
cũng như mỗi quốc gia đều tự thoả mãn lấy các nhu cầu của
mình, lúc đó mọi nhu cầu của con người cũng như của quốc
gia bị hạn chế. Quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá xuất hiện
khi có sự ra đời cuả quá trình phân công lao động xã hội và
chuyên môn hoá, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Cùng với
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và tác động của những quy
luật kinh tế khách quan, phạm vi chuyên môn hóa và phân
công lao động xã hội ngày càng rộng, nó vượt ra khỏi một
nước và hình thành nên các mối quan hệ giao dịch quốc tế.
Chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế càng sâu
sắc, các mối quan hệ quốc tế càng được mở rộng, các nước 3
càng có sự phụ thuộc lẫn nhau và hình thành các mối quan hệ buôn bán với nhau.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là quá trình buôn bán
giữa các nước với nhau, là lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá với nước ngoài .
1.2 Tính tất yếu khách quan của kinh doanh xuất nhập khẩu.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là quá trình trao đổi
hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích
kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối
quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt
của các quốc gia. Kinh doanh xuất nhập khẩu là lĩnh vực quan
trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân
công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay, khi quá trình phân công lao động quốc tế
đang diễn ra hết sức sâu sắc, kinh doanh xuất nhập khẩu
được xem như là một điều kiện tiền đề cho sự phát triển kinh
tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một quốc gia
nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập
mình không quan hệ kinh tế với thế giới. Kinh doanh xuất
nhập khẩu đã trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay
đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng cuả dân cư
một quốc gia. Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển
kinh tế của nhiều nước là mở rộng thị trường quốc tế và tăng
nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng kỹ thuật cao. 4
Sự ra đời và phát triển của kinh doanh xuất nhập
khẩu gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Xã
hội càng phát triển, phân công lao động quốc tế diễn ra ngày
càng sâu sắc. Điều đó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh
tế ngày càng tăng lên. Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng vì thế
mà ngày càng mở rộng và phức tạp.
Kinh doanh xuất nhập khẩu xuất hiện từ sự đa dạng
về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia. Chính sự
khác nhau đó nên đều có lợi là mỗi nước chuyên môn hoá sản
xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất
và xuất nhập khẩu hàng hoá của mình để xuất nhập khẩu
những hàng hoá cần thiết khác. Điều quan trọng là mỗi nước
phải xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có
lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự gia tăng của
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xét về kim ngạch cũng
như chủng loại hàng hoá đã làm cho vấn đề lợi ích của mỗi
quốc gia được xem xét một cách đặc biệt chú trọng hơn.
Nhiều câu hỏi đã được đặt ra: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và
xuất lương thực? Tại sao Nhật lại xuất hàng công nghiệp và
chỉ nhập nguyên liệu thô? Tại sao một nền kinh tế kém phát
triển như Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh kinh doanh
xuất nhập khẩu? Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học
David Ricardo (1817 ) đã giải thích một cách căn bản và có hệ
thống những câu hỏi này.
Theo thuyết lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu
quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết
các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào
kinh doanh xuất nhập khẩu để tạo ra lợi ích của mình. Nghĩa
là, nếu quốc gia này tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu
thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia vào
kinh doanh xuất nhập khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong
sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản 5
xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng
có ít bất lợi nhất ( đó là những hàng hóa có lợi thế tương đối )
và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất
lợi lớn nhất ( đó là các hàng hoá không có lợi thế tương đối ).
Khi tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu, các quốc gia
này sẽ thu được lợi ích không nhỏ.
Lý thuyết lợi thế tương đối ( hay so sánh ) của David
Ricardo đã giải thích được cơ chế lợi ích khi kinh doanh xuất
nhập khẩu diễn ra giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất
khác nhau. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng, kinh doanh
xuất nhập khẩu vẫn diễn ra giữa các quốc gia khi giữa chúng
có các điều kiện sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn, sự trao
đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và Nhật; điều
tương tự cũng xảy ra đối với mặt hàng điện tử giữa các nước
Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước
phải buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc
gia hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như
đối tác buôn bán có khả năng đem lại lợi ích cao cho họ.
Những lợi ích mà kinh doanh xuất nhập khẩu đem lại
đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn
lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài,
là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
khoa học công nghệ. Kinh doanh xuất nhập khẩu vừa là cầu
nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên toàn thế
giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn
xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Chính vì vậy, nó được
coi là bộ phận của đời sống hàng ngày.
Nhận thức rõ ràng những điều đó, Đảng và Nhà nước ta
đã có những bước đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của
mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan
hệ kinh tế quốc tế, mở cửa đã làm cho nền kinh tế nước ta
sống dậy, hoạt động ngoại thương trong những năm qua đã 6
thu hút được những thành tựu đáng kể. Chính vì vậy, tại Đại
hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định " Tiếp tục thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác
nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết các vấn
đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng." ( Văn kiện Đại
hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam ).
2.Các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu
2.1 Các hình thức nhập khẩu - Nhập khẩu uỷ thác
- Nhập khẩu trực tiếp - Nhập khẩu đổi hàng - Nhập khẩu tái xuất
2.2 Các hình thức xuất khẩu
- Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng
hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế.
- Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư phụ tùng cho sản xuất.
- Chuyển khẩu- tạm nhập tái xuất.
- Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác cho các tổ chức nước ngoài.
- Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài. 7
3.Nội dung công tác xuất nhập khẩu hàng hoá ở
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu .
3.1 Nội dung hoạt động xuất nhập khẩu .
Thông thường nội dung hoạt động bao gồm các nội dung sau:
3.1.1. Nghiên cứu thị trường
Khác với mua bán trong nước, kinh doanh nhập khẩu
diễn ra trên thị trường thế giới, người kinh doanh thường ở các
nước khác nhau, hàng hoá buôn bán được chuyển qua biên
giới của mỗi nước,mỗi nước lại có một chính sách, thể lệ và
tập quán thương mại khác nhau. Người kinh doanh phải giải
đáp nhiều câu hỏi như: Mua bán hàng hoá gì ? ở đâu ? với ai ?
vào thời điểm nào ? giá cả và chất lượng ra sao ? thanh toán
bằng hình thức gì, đồng tiền nào ? ... Công việc nghiên cứu thị trường bao gồm:
a1. Nghiên cứu thị trường trong nước
Trước hết doanh nghiệp phải nắm chắc tình hình
trong nước về các mặt có liên quan đến việc xuất nhập khẩu
- Nhận biết hàng hoá xuất nhập khẩu
- Doanh nghiệp nắm chắc các chính sách, chế độ tập
quán của nước liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá.
a2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Nghiên cứu thị trường nước ngoài theo các khía cạnh
chủ yếu: đặc tính hàng hoá, thị hiếu của khách hàng, chính
sách tập quán thương mại, tình hình tài chính, tín dụng, điều
kiện chuyên chở và bốc xếp, nắm chắc các điều kiện về phẩm
chất và chủng loại hàng, đặc tính thị trường như dung lượng
thị trường, giá thị trường. 8
a3. Lựa chọn đối tượng giao dịch.
Trên cùng một thị trường, cùng một loại hàng có rất
nhiều nhà kinh doanh khác nhau, vì vậy khi lựa chọn cần tìm
hiểu về: thái độ chính trị của đối tượng giao dịch, khả năng
kinh tế , loại hình doanh nghiệp, phạm vi kinh doanh, vốn và
cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác , uy tín của đối tác trên thị
trường đó. Lựa chọn đối tượng giao dịch nên dùng các phương
pháp như qua sách báo, tài liệu, qua tư vấn của nhà nước ,
qua điều tra trực tiếp hoặc buôn bán thử để tìm hiểu dần.
3.1.2. Lập phương án giao dịch
Lập kế hoạch cụ thể để tiến hành hoạt động giao dịch
gồm nhiều chi tiết trong đó có các vấn đề sau:
- Lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất hoặc nhập khẩu
- Xác định số lượng hàng xuất hoặc nhập khẩu
- Lựa chọn thị trường - khách hàng - phương thức giao dịch .
- Lựa chọn thời điểm, thời gian giao dịch.
- Các biện pháp để đạt mục tiêu lựa chọn trên như chiêu
đãi, mời khách, quảng cáo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất...
- Những tính toán để luận chứng cho các mục tiêu và các
biện pháp trên dự báo kết quả công việc giao dịch phải xác định.
3.1.3. Giao dịch, đàm phán trước khi ký kết hợp đồng.
3.1.4. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá 9
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc
ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Hình thức văn bản
của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu
của nước ta trong quan hệ với nước ngoài
3.1.5. Tổ chức thực hiện hợp đồngxuất nhập khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng, các bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.
3.2 Quy trình xuất nhập khẩu hàng hoá.
Quy trình xuất khẩu hàng hoá được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Tạo nguồn hàng và khách hàng xuất khẩu
Đàm phán ký kết hợp đồng xuất
Những thủ tục cần thiết cho hợp đồng xuất khẩu
Buộc bên nhập khẩu mở L/C nếu thanh Xin giấy phép xuất Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Kiểm tra chất lượng hàng xuất
Thuê tàu lưu cước nếu giá CIF Mua bảo hiểm 10 Làm thủ tục hải quan Giao nhận hàng với tàu Làm thủ tục thanh
Quy trình nhập khẩu hàng hoá được biểu diễn qua sơ đồ sau: Lựa chọn đối tác Ký kết hợp đồng
Những hướng dẫn cần thiết làm giấy Mở tín dụng
Phái tàu đến tiếp nhận vận chuyển hàng hoá
Làm bảo hiểm vận chuyển hàng hoá Hàng đến
Kiểm tra chứng từ và trả 11 Thủ tục hải Khai báo hải Nghiệm thu hàng Làm thủ tục hải Bồi thường nhập
Nếu nhập khẩu uỷ thác thỉ từ bước thủ tục hải quan ta thêm bước: Giao hàng Quyết Tính ra tiền Thời gian cho khách toán bằng trong nước quyêt hàng ngoại tệ (theo nội tệ ) toán
Khách hàng nhận, kiểm tra, xử lý
Nhận tiền hoa hồng ( tiền mặt hoặc chứng từ)
Thời kỳ thanh toán chứng từ
4. Vai trò xuất nhập khẩu trong quá trình công
nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta.
Xuất nhập khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong
lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình
tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu 12
dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ
diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của
toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.
Chính vì vậy, xuất nhập khẩu có vai trò to lớn trong
sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã
hội một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh
vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất nhập khẩu có
thể làm tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán,
tăng thu cho ngân sách nhà nước, kích thích đổi mới công
nghệ, tiếp cận được phương thức quản lý và kinh doanh mới,
cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, tạo sự
cạnh tranh của hàng hoá nội và ngoại, nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế
còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng : tài nguyên
thiên nhiên, lao động. Những yếu tố thiếu hụt : vốn, kỹ thuật,
thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược xuất nhập khẩu có
vai trò quan trọng đối với nước ta, đặc biệt trong quá trình
công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay. Về thực chất chiến
lược này là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn
và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng
trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự
tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng
cách chênh lệch với các nước giàu.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng,
chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và thương mại nói
riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu có tầm quan
trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ
được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát
triển, giải quyết việc làm cho người lao động. 13
I. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu.
1. Quan điểm về hiệu quả.
1.1. Hiệu quả kinh doanh
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên
nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Nếu xét theo hiệu quả
cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về
và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, trong đó kết quả chỉ
phản ánh kết quả kinh tế thu được như doanh thu bán hàng.
Đứng trên góc độ này thì phạm trù hiệu quả đồng nhất với
phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp tuỳ
thuộc vào trình độ tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và
tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp.
Nếu đứng trên góc độ yếu tố riêng lẻ để xem xét thì
hiệu quả thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó
trong quá trình sản xuất và kinh doanh, nó phản ảnh kết quả
kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp
phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố tham gia quá trình sản
xuất, kinh doanh đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với
sản xuất hàng hoá, phản ánh trình độ của nền sản xuất hàng
hoá, sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là do hiệu
quả đạt được cao hay thấp, chỉ tiêu hiệu quả phản ánh cả về
mặt định lượng và cả về mặt định tính. Về mặt định lượng,
hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh phản ánh mối tương
quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Về mặt định tính,
nó phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh
đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế,
những mục tiêu và yêu cầu chính trị - xã hội. 14
Khi đứng trên phạm vi khác nhau để xem xét vấn đề
hiệu quả thì có thể chia hiệu quả ra nhiều loại khác nhau:
- Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế
quốc dân để xem xét thì phạm vi hiệu quả sẽ là hiệu quả kinh
tế xã hội và hiệu quả chính trị. Cả hai hiệu quả này đều có vị
trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Trong thời kỳ bao cấp nước ta quá coi trọng hai hiệu quả này
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện hiện
nay thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp nhà nước bên cạnh việc bảo đảm hiệu quả kinh tế,
hiệu quả kinh doanh cần phải chú ý đến hiệu quả kinh tế xã
hội và hiệu quả chính trị. Đối với các nước tư bản chủ nghĩa,
các doanh nghiệp hoạt động đều nhằm mục đích hiệu quả
kinh tế và hiệu quả kinh doanh, còn một số doanh nghiệp nhà
nước nhằm thực hiện một số chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế xã hội.
- Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố, từng doanh
nghiệp riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế là những lợi ích kinh tế đạt được
sau khi bù đắp các khoản chi về lao động xã hội. Hiệu quả
kinh tế được xác định thông qua so sánh giữa các chỉ tiêu
phản ánh kết quả kinh doanh với chi phí bỏ ra.
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh
những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả lao động
xã hội được xác định bằng việc so sánh giữa lượng lao động
hữu ích cuối cùng thu được với hao phí lao động xã hội.
Như vậy đứng trên các khía cạnh khác nhau người ta
có thể có quan điểm về hiệu quả khác nhau. Tuy nhiên trong
lĩnh vực quản lý khi giải quyết vấn đề hiệu quả cần phải kết 15
hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi
ích trung ương với lợi ích địa phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể với lợi ích quốc gia.
1.2. Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hiện nay ở nước ta kinh doanh thương mại quốc tế có vai
trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy,
Nghị Quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh:" Mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất
nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua
chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch
vụ..."( Văn kiện Đại hội Đảng VIII- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 1996)
Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế
là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động
quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh thương mạI quốc tế còn là yêu cầu tất
yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm.
Kinh doanh thương mại quốc tế chiếm một vị trí quan
trọng trong tái sản xuất xã hội.
Khi sản xuất các hàng hoá để xuất khẩu, các quốc gia bỏ
ra những chi phí nhất định. Các tỷ lệ trao đổi ( mua bán ) được
hình thành trên cơ sở giá cả quốc tế. Mức giá và tương quan
của nó khác với giá trong nội bộ của nước xuất khẩu. Mặt
khác, sản phẩm nhập khẩu tham gia vào lưu thông hàng hoá
trong nước và tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, thực
tế không tái sản xuất tại nước đó.
Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung
bằng cách làm đa dạng hoá hoặc làm tăng khối lượng giá trị
sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và mặt khác làm tăng thu
nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao 16
đổi đối với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá trình tái sản
xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước.
Với đặc thù của kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động
kinh doanh này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường văn hoá của các tác nhân nước
ngoài. Vì vậy, khi thực hiện hoạt động kinh doanh này cần
phải xem xét tổng quan các tác nhân ảnh hưởng đến nó để có
các phương pháp làm việc và giải quyết công việc tối ưu, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh này ngày càng
phát triển phù hợp với xu thế chung của thời đại và định
hướng của Đảng và Nhà nước ta.
Xét về mặt lý luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế
trong kinh doanh thương mại quốc tế là góp phần đắc lực thúc
đẩy nhanh năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập quốc
dân có thể sử dụng, qua đó tạo thêm nguồn tích lũy cho sản
xuất và nâng cao mức sống trong nước.
2. Phương pháp đánh giá hiệu quả
2.1 Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, do
đó khi đánh giá hiệu quả cần quán triệt những quan điểm sau:
- Bảo đảm thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và
nhiệm vụ kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Do đặc điểm của nước ta là phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên đòi hỏi việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Nó
thể hiện trước hết các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp 17
nhà nước phải thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc các đơn
hàng nhà nước giao hoặc các hợp đồng kinh tế nhà nước ký
kết với các doanh nghiệp vì đó là nhu cầu, là điều kiện để
phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế hàng
hoá. Những nhiệm vụ kinh tế và chính trị nhà nước giao cho
doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp trước hết việc sản xuất
kinh doanh cần phải hướng tới đáp ứng được nhu cầu của nền
kinh tế, của thị trường trong nước, lợi ích quốc gia.
- Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể với lợi ích xã hội
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh. trước hết nhằm đáp ứng bảo đảm lợi ích cá
nhân, tập thể người lao động nhưng cũng không phải vì thế
mà gây tổn thương đến lợi ích quốc gia mà cần phải gắn chặt
lợi ích quốc gia khi nâng cao lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể.
Đồng thời cũng không vì lợi ích xã hội mà làm tổn thương đến
lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao động.
- Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh cần phải xuất phát và bảo đảm yêu cầu nâng cao hiệu
quả của nền sản xuất của ngành, của địa phương và cơ sở.
Trong từng đơn vị cơ sở khi đánh giá hiệu quả kinh doanh cần
phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ qua lại, tác động của
các tổ chức , lĩnh vực trong một hệ thống theo những mục tiêu nhất định.
- Bảo đảm tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định các
mục tiêu, biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải
xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của ngành, của địa 18
phương và những khả năng thực tế của doanh nghiệp trong
từng thời kỳ. Có như vậy các chỉ tiêu nâng cao hiệu quả kinh
doanh mà doanh nghiệp đề ra mới có cơ sở khoa học và thực tiễn để thực hiện.
- Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về giá trị và
hiện vật để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá hiệu quả kinh
doanh một mặt cần phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã
tiêu thụ, mặt khác phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã sản
xuất ra, số lượng sản phẩm dở dang, bán thành phẩm để xác
định chỉ tiêu hiệu quả về mặt hiện vật.
2.2 Các mối quan hệ kinh tế chủ yếu cần phải giải
quyết khi nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp,
có liên quan đến tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp do đó chịu tác động của nhiều
nhân tố khác nhau. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong
các doanh nghiệp cần phải thực hiện các mối quan hệ kinh tế chủ yếu sau đây:
- Mối quan hệ giữa các hàng hoá tiêu thụ trên thị
trường với hàng hoá sản xuất ra và tổng sản lượng.Trong đó
phải tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá trên thị trường, giảm hàng
hoá tồn kho, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang.
- Mối quan hệ giữa tốc độ tăng kết quả lao động sống
và chi phí chi ra đểduy trì và phát triển sức lao động.Trong đó
tốc độ tăng năng xuất lao động phải nhanh hơn tốc độ tăng
lương bình quân và tăng tiền công lao động.
- Mối quan hệ giữa tốc độ tăng kết quả sản xuất kinh
doanh và tăng các nguồn chi phí để đạt kết quả đó. Trong đó
tăng kết quả phải nhanh hơn tăng chi phí. 19
- Mối quan hệ giữa kết quả sản xuất kinh doanh và
tăng chi phí sử dụng tài sản lưu động để đạt kết quả đó. Trong
đó tốc độ tăng kết quả nhanh hơn chi phí tài sản cố định để đạt kết quả đó.
- Mối quan hệ giữa tăng vốn đầu tư và tăng năng lực
sản xuất mới.Trong đó tốc độ tăng năng lực sản xuất mới
nhanh hơn tốc độ tăng vốn đầu tư để đạt tăng năng lực mới.
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp cần phải dựa vào hệ thống tiêu chuẩn sau:
- Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường
nhưng phải tuân thủ sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
- Phải kết hợp hài hoà ba lợi ích kinh tế: cá nhân, tập
thể, nhà nước. Tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân làm tổn hại lợi ích tập thể.
- Lợi nhuận doanh nghiệp kiếm được phải dựa trên cơ
sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy luật của nền sản xuất hàng hoá.
- Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp trên lao
động phải thường xuyên tăng lên.
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất
nhập khẩu người ta thường dựa vào nhóm chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu
Công thức xác định
*Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động - Năng xuất lao động
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
- Kết quả sản xuất trên một đồng chi
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ phí tiền lương
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
- Lợi nhuận bình quân tính cho một Lợi nhuận trong kỳ lao động
Tổng số lao động bình quân trong kỳ 20