Đoàn kết quốc tế và 1 số vấn đề đặt ra với Việt Nam - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Đoàn kết quốc tế và 1 số vấn đề đặt ra với Việt Nam - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM HIỆN
NAY
I. Đoàn kết quốc tế
1. Khái niệm và sự hình thành
1.1 Khái niệm quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế-
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết trong phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế đoàn kết trong các nước hội chủ nghĩa anh em. Đoàn
kết quốc tế nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của chủ nghĩa hội cũng như thắng lợi của
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Người khẳng định: “Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định
sẽ đánh bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế
giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ
nghĩa và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản công nhân tất cả các nước ý
nghĩa quan trọng bậc nhất”.
1.2. Sự hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh
tưởng về đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh được hình thành từ sự đồng cảm với
nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ, thêm vào đó, sức mạnh đoàn kết của các
dân tộc thuộc địa.
a) Đồng cảm với nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ
Ra đi từ bến Nhà Rồng tháng 6 1911, 10 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành đã -
tới nhiều nước thuộc địa cũng như nhiều nước bản chủ nghĩa, cả châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ.
Qua những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, chủ nghĩa yêu nước Người
những biến chuyển mới.
Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên thành sự đồng cảm với nhân dân
lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị áp bức như dân tộc mình.
Người đã đưa ra kết luận quan trọng: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối
tình hữu ái là thật thôi: tình hữu ái vô sản". Kết luận trên vô cùng quan trọng, là khởi
đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh đoàn kết với những người lao khổ, cần -
lao trên thế giới.
Cũng từ quá trình 10 năm trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc cũng
rút ra kết luận rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương
Đông, đó là sự biệt lập... họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ
lẫn nhau”. vậy, Người chỉ ra sự cần thiết của việc xây dựng khối đoàn kết chiến đấu
giữa các dân tộc bị đọa đày, đau khổ. Người kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa Pháp
rằng: "Chúng tôi yêu cầu các bạn giúp đỡ chúng tôi trong nhiệm vụ đó, các bạn và chúng
tôi, chúng ta cùng chung một lợi ích… Mối quan hệ giữa chúng tôi với các bạn sẽ là những
mối quan hệ đoàn kết và liên minh".
b. Sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa
người dân từ một ớc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc thấy được khả năng tiềm tàng
của sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu
tranh của họ. vậy, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, một mặt Người nhấn
mạnh tư tưởng phải "lấy sức ta giải phóng cho ta", mặt khác Ngưi kêu gi phi
tăng cường s đoàn kết, giúp đỡ và ph i h p nh p nhàng cu u tranh c a s n ộc đấ chính
quc vi s n a m t con chim. thuộc địa, như hai cái cánh củ Trong lý luận cũng như
trong hoạt động thực tiễn, Người luôn luôn nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít giữa cách
mạng ở thuộc địa cách mạng chính quốc. Người viết: "Chủ nghĩa bản một con
đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai
cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi".
Để thực hiện sự đoàn kết giữa nhân dân lao động chính quốc và nhân dân lao động
thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu các Đảng Cộng sản giai cấp công nhân chính
quốc về thuộc địa và có sự giúp đỡ thiết thực đối với những người phải có hiểu biết đúng
anh em thuộc địa.
Trên tinh thần đó, Người đã nghiêm khắc phê phán một số Đảng Cộng sản chưa có
chính sách và hành động tích cực giúp đỡ các thuộc địa.
Trong thời gian ở nước ngoài, Người đã tham gia tích cực phong trào cách mạng
của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng bước xây dựng nhiều tổ chức quốc
tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông
(1925) là nhà cách mạng hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế III,
các Quốc tế Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ... thường xuyên mở rộng với nhiều chính
khách, các nhà hoạt động xã hội... Tất cả hoạt động nói trên của Người đều hướng vào
mục tiêu tăng cường thêm b ng chí cho cách m ng Vi t Nam.ạn bè, đồ
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, một trong những đóng góp quan trọng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là quan điểm về đoàn kết quốc tế, mà trước hết là
sự cần thiết phải liên minh các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp
giải phóng của chính dân tộc mình.
2. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
2.1. thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh thời đại tạo sức mạnh tổng hợp
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, việc thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng
bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc Việt Nam sự tổng hợp của các yếu tố vật chất tinh thần,
song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc, sức
mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do…
Sức mạnh đó đã giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong quá trình
dựng nước và giữ nước.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định rằng cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người cho rằng, cách mạng Việt Nam
chỉ có thể thành công khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế, tư tưởng
đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy
đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
2.2. thực hiện đoàn kết quốc tế góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, thực hiện
đoàn kết quốc tế không chỉ thắng lợi của cách mạng mỗi nước còn vì sự nghiệp
chung của nhân loại tiến bộ tròn cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc các thế lực
phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Trong quá trình hoạt động chính trị của mình. Hồ Chí Minh đã không ngừng phá
thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Trong quá trình đó Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình còn kiên trì đấu
tranh để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh
cho mục tiêu chung: Hoà bình. Độc lập dân tộc, dân chủ. chủ nghĩa hội. Kiên trì
chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc…những
khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng thế
giới.
3. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
3.1. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
Phong trào cộng sản phong trào công nhân quốc tế: Hồ Chí Minh cho rằng, sự
đoàn kết giữa giai cấp công nhân quốc tế là sự đảm bảo vững chắc cho sự thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế, đoàn kết giữa các đảng
cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp công
nhân trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa bản một lực lượng
phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh
đó, chỉ có đoàn kết sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của
lao động trên toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới thể
chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc:
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy rõ âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc.
Chính vì vậy, Người đã lưu ý Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm làm cho
các dân tộc thuộc địa, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên
minh phương Đông tương lai.
Để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc,
Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi cách phải “làm cho đội quân
tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp sản phương Tây
để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ sự hợp tác y mới bảo
đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”.- Phong trào hòa
bình dân chủ thế giới, trước hết phong trào chống chiến tranh của nhân dân các
nước đang xâm lược Việt Nam.
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và
công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết.
Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa
bình, tự do, công bình đẳng để tập hợp tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới.
Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định: chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng
nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp
bức, mà Đảng đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân
ta đến những thắng lợi vẻ vang.
3.2. Hình thức đoàn kết
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải vấn đề sách lược, một
thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận
thống nhất cử nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh dành sự quan m đặc biệt đối với các dân tộc trên bán đảo Đông
Dương (láng giềng gần gũi và có chung kẻ thù); thành lập Mặt trận Việt Nam đồng minh
(Việt Minh) (năm 1941), giúp Lào Campuchia thành lập mặt trận yêu nước; chỉ đạo hình
thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương.
Hồ Chí Minh củng cố chăm lo mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
với Trung Quốc; thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á châu Phi đấu tranh giành
độc lập.
Với các nước châu Á: Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á độc lập thì nề hòa bình
thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á có quan hệ mật thiết với vận mệnh dân
tộc Việt Nam. Từ những năm 20 của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh tham gia sáng lập Hội Liên
hiệp thuộc địa Pháp, Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức tại TQ; góp phần đặt cơ sở cho
sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các mối quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít nhằm tạo thế
và lực cho CMVN; nâng cao vị thế của nước ta trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ qua
con đường ngoại giao; trang thủ được sự đồng tình sự ủng hộ các các nước xncn, của
bạn quốc tế nhân loại tiến bộ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với
Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Như vậy, tư tưởng đoàn kết thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đã định hướng cho việc hình thành 4 mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc,
Mặt trận đoàn kết Việt Nam Campuchia, Mặt trận nh Phi đoàn kết với Lào - ân dân Á
Việt Nam.
3.3. Nguyên tắc đoàn kết
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc
tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải
tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng
tiến bộ phong trào cách mạng thế giới. Đây vấn đề cốt từ tính nguyên tắc trong
công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này
nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách
mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam
đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Để đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Hồ Chí Minh giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.-
một chiến cách mạng quốc tế kiên định. Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh
cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới,
trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực ợng tiên phong của cách
mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng "là điều kiện quan trọng nhất để bảo
đảm cho phong trào cộng sản công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh đại cho
tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải
đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ
nghĩa quốc tế vô sản.
"Có lý" là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin phải
xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành với chủ
nghĩa Mác Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của -
mỗi nước, mỗi đảng, tránh giáo điều. "Có tình" sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên
tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh:
phải khắc phục tư tưởng sôvanh, "nước lớn", "đảng lớn”, không "áp đặt", "ức chế", nói xấu,
công khai công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... gây sức ép với
nhau. "Có tình" đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức, cùng hành
động lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng phải được tôn trọng,
song lợi ích đó không được phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, của dân -
tộc khác.
lý", "có tình'' vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó tác dụng rất lớn không chỉ
trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân mà còn củng cố tình đoàn
kết trong nhân dân lao động.
Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập,
tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán được Hồ Chí Minh coi là chân
lý, là “lẽ phải không ai chối cãi được". Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho tự
do của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc khác. Trong quan
hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với
các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm tính
nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự
quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia,
dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc
đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hóa sau khi Việt Nam giành được độc
lập. Tháng 9 1947, trả lời nhà báo Mỹ S.ÊIi Mâysi.Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối -
ngoại của nước Việt Nam là "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán
với một ai".
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người không chỉ là nhà
tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các dân tộc vì
các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, người cầm cờ là hiện thân của
những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng
thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế
giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Để đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ hòa bình trong công lý.
Giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược là một trong những nội
dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hòa
hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân
văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình,
đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa bình thật sự cho tất cả các dân tộc - "hòa bình trong
độc lập tự do".
Giương cao ngọn cờ hòa bình đấu tranh bảo vệ hòa bình tưởng bất di bất
dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà là "một
nền hòa bình chân chính xây trên công bình tưởng dân chủ"[2], chống chiến tranh
xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến,
quan điểm hòa bình trong công lý, lòng thiết tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập
thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim
nhân loại. Nó tác dụng cảm hóa lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân
dân Việt Nam đòi chấm dứt chiến tranh, n hóa hòa bình. Trên thực tế, đã hình thành một
Mặt trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt Nam
chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực
lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch Hội đồng
Hòa bình thế giới cho rằng: "Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí
Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý,
ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu
cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao"'.
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng
quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng
đặt ra. Để đoàn kết tốt phải nội lực tốt. Nội lực nhân tố quyết định, còn nguồn lực
ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong
đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: "Tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình chính", "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã".
Trong đấu tranh giành chính quyền. Người chủ trương "đem sức ta mà giải phóng cho ta".
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: "Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập"'. Trong quan
hệ quốc tế. Người nhấn mạnh: phải thực lực, thực lực cái chiêng, ngoại giao là cái
tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn…
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường
lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài. Người nói: "Độc lập
nghĩa chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không sự can thiệp
ngoài vào"[3]. Trong quan hệ giữa các dân thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế
Người xác định: "Các đảng lớn nhỏ đều độc lập bình đẳng, đồng thời đoàn kết
nhất trí giúp đỡ lẫn nhau" ' Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến
chống thực dân Pháp của Việt Nam thắng lợi của đường lối đúng đắn sáng tạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường tới độc
lập, tự chủ, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, kết hợp hài hòa
lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới
đoàn kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước
hội chủ nghĩa, đặc biệt của Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai ớc y đang
những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự
đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ
đã góp phần quan trọng vào việc củng cđoàn kết của các nước hội chủ nghĩa, của
phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt
Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
II. Một số vấn đề đặt ra với Việt Nam hiện nay
1. Tình hình thế giới hiện nay
Từ khi Bác để lại những lời căn dặn cuối cùng trong bản Di chúc năm 1969, Đảng
và Nhà nước ta đã luôn ghi nhớ, không ngừng vận dụng và phát triển tư tưởng của Bác để
tiếp tục sự nghiệp vĩ đại Bác đã để lại. Dù vậy, kể từ nhiều năm trở lại đây, tình hình thế
giới và trong nước đã có những biến chuyển nhanh chóng và sâu sắc:
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, hệ thống hội chủ nghĩa toàn cầu suy
sụp nặng nề. Thiếu đi sự ủng hộ to lớn từ các nước hội chủ nghĩa anh em, nước ta đã
trải qua một thời kỳ khó khăn trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngoại giao.
Tới năm 1991, Liên Xô sụp đổ, kéo theo đó là hệ thống xã hội chủ nghĩa ở phạm vi
toàn cầu. Đây chỉ là thất bại tạm thời của phong trào cách mạng quốc tế song đã đặt ra thử
thách lớn cho Đảng và nhà nước ta nói riêng cũng như phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế nói chung.
Xu hướng toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới, trong đó ghi
nhận sự tham gia tích cực sâu rộng của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới vào các
diễn đàn, tổ chức quốc tế. Theo đó, lực lượng sản xuất trên toàn cầu sẽ có những bước phát
triển nhảy vọt, cấu kinh tế quốc tế sẽ thay đổi hoàn toàn. Chúng ta đứng trước hội
phát triển kinh tế vượt bậc, song đồng thời chúng ta cũng nằm trong một cuộc chạy đua
quyết liệt với các quốc gia khác.
Chiến tranh, xung đột vẫn xảy ra trên phạm vi toàn cầu. Thời kỳ mới còn chứng
kiến sự xuất hiện của chủ nghĩa khủng bố như là một thế lực mới đe dọa nghiêm trọng tới
hòa bình, an ninh chung của toàn thế giới, trong khi các cường quốc lớn trên thế giới vẫn
không ngừng cạnh tranh, gia tăng ảnh hưởng bên ngoài lãnh thổ của mình vì các mục tiêu
chiến lược cá nhân.
2. Một số vấn đề đặt ra với V hiện iệt Nam nay
2.1. Làm mục tiêu đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, xã hội công bằng, văn minh.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ VN luôn tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của Người mà ở Pháp và Mỹ
đã dấy lên phong trào các tầng lớp nhân dân đòi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh xâm
lược Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Thế giới có nhiều biến động với những thời cơ và thách thức
đan xen lẫn nhau, vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
có những thuận lợi và khó khăn mới. Tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế, phát huy sự ủng
hộ quốc tế là cơ sở quan trọng để Đảng cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường
lối đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế.
a) Vận dụng tư tưởng HCM về độc lập dân tộc, tự chủ, dựa vào sức mình là chính làm
nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát
triển bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa
dân tộc.
Năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam,
Hồ Chí Minh nói rõ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng
tôi, không
có sự can thiệp ở ngoài vào”.
1
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình hữu nghị. Chiến tranh,
xung đột cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố những hành vi tàn ác chà đạp quyền
sống của con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan
1
Hồ Chí Minh: , NXb CTQG, HN, 2002, tập 10,Toàn tập tr149.
đã kéo theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác,
bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp ở Biển Đông đã, đang và
tiếp tục gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và các nước trong khu
vực. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng
củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, bình đẳng cùng lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực làm
sâu sắc thêm xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng lợi với các
quốc gia. Đối với các nguy thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán
đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên
tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ
quyền lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng
vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
b) tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế sở luận quan trọng để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khéo léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo về
Chính sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ký ngày 3 1945 thể hiện quan điểm đối ngoại -10-
thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền độc lập
của Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên toàn cầu
thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ.
Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta
được hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6 1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí -
Minh bày tỏ mong muốn của Việt Nam làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt
Nam đã phá được thế bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của
chính quyền cách mạng ở khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng
hợp của đất nước phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc công
cuộc đổi mới đất nước.
c) Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế
hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các
nước lớn để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước
Để xây dựng một thế giới hòanh, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các n
tộc cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau,
cùng nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau,
những dân tộc tự do bình đẳng vẫn thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất”
“Thế giới hòa bình thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước
lớn, đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữ
a các nước bằng thương lượng”.
2
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức
quốc tế, đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX.
Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế
là lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho chiến tranh,
luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc,
giữa các nước trên thế giới.
2
H Chí Minh: , NXb CTQG, HN, 2002, t p 5, tr 136. Toàn tp
Trong bối cảnh thế giới, khu vực đất nước nhiều biến đổi, thời thách
thức đan xen lẫn nhau, tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế sở luận vững
chắc, lâu dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần
đoàn kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi
càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì
tôi càng đau lòng bấy nhiêu sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em” cũng thực
3
hiện sự mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc
khôi phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin chủ -
nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
4
2.2. Mở cửa, hội nhập quốc tế, là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển, đồng thời tham gia những vấn đề toàn cầu hiện nay của quốc tế.
Từ lúc sinh thời, Hồ Chủ tịch đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của
Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để
giữ gìn hoà bình.”
Trước kia, trong điều kiện quốc tế thời Chiến tranh Lạnh, cơ hội của Việt Nam chưa
được rộng mở khi chính phủ của nhiều quốc gia đứng về phe đối lập với khối hội chủ
nghĩa. Song, trong bối cảnh trật tự thế giới mới “đa cực, nhiều trung tâm”, các quốc gia
trên thế giới những mối liên kết, ràng buộc với nhau nhiều hơn chặt chẽ hơn, cũng
như những mối quan hệ cạnh tranh căng thẳng hơn, nước ta cần có sự chủ động trong việc
mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực, cũng như góp phần nâng
cao vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế.
Trên tinh thần đó, chúng ta đã nỗ lực đặt quan hệ chính thức với gần như mọi quốc
gia trên toàn thế giới, tham gia vào nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, ASEM,
3
Hồ Chí Minh: , NXb CTQG, HN, 2002, tập 4, tr 268.Toàn tập
4
Hồ Chí Minh: NXb CTQG, HN, 2011, tập 15, trToàn tập, 613.
APEC, WTO
5
. Chúng ta cũng đã đồng thời đóng góp tích cực với tư cách là một thành viên
của cộng đồng quốc tế Những nỗ lực kể trên , qua đó uy tín của chúng ta được công nhận.
đã kéo nước ta khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi
tiếp trên con đường tới chiến thắng cũng như vào sự nghiệp cách mạng thế giới hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tất nhiên, bên cạnh việc mở rộng hợp tác, chúng ta cũng cần khẳng định rằng, không
có kẻ thù hay đối tác vĩnh viễn. Bên cạnh việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các đối tác
tôn trọng độc lập, chủ quyền, mong muốn phát triển trong hữu nghị, chúng ta cũng kiên
quyết giữ vững sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc trước những đối tượng thù địch.
2.3. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, trong nước và quốc tế để CNH HĐH, góp phần vào sự nghiệp cách mạng -
thế giới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ( vấn đề đại tháng 6/1966 ),
đoàn kết dân tộc lúc này đã được đặt ở một tầm cao mới, với mục đích nhằm phát huy sức
mạnh đoàn kết của toàn dân ta cần Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường cùng
lúc đó kết hợp sức mạnh dân tộc – toàn dân với sức mạnh thời đại để tiến tới Công nghiệp
hóa Hiện đại hóa. Phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc nội dung quan trọng trong tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Quán triệt, vận dụng tốt nội dung này là giải pháp quan trọng, góp phần thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, xây dựng đất nước ngày
càng giàu mạnh.
Đại hội XIII Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc… Trước ta tự lực, tự cường là để giành độc lập, tự do
nay ta tự lực, tự cường để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc để tiếp tục công
cuộc Công nghiệp hóa Hiện đại hóa sánh vai cùng với các ờng quốc năm châu.
5
Vũ Dương Ninh. 2009, Thấ ần tư tưở ập và đoàn kếm nhu ng H Chí Minh v hi nh t quc tế. Tp chí cng sn.
Không tinh thần đó thì đất nước không thể tự lập, càng không thể phồn vinh, hùng cường.
Và để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp
phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tự lực là m việc gì ng phải bằng sức mình, khả năng của mình, không trông cậy
vào ai. Còn tự cường là tự làm cho mình ngày càng mạnh lên, không chịu thua kém người.
Và khi đã “tự lực”, “tự cường” ắt sẽ được “tự chủ”, “tự do” và “tự quyết”. Chính các yếu
tố này đã làm nên bản lĩnh Việt Nam trên trường quốc tế & chúng ta luôn tranh thủ được
sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế cả trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
những năm đổi mới. Bài học về tinh thần tự chủ, tự cường, tự tôn dân tộc luôn vẹn nguyên
giá trị. Đảng bộ, chính quyền, dân quân trong tỉnh sẽ phát huy bài học đó trong khát
vọng phát triển nhanh, mạnh mẽ, từng bước khẳng định vị thế trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, góp phần quan trọng vào tiến trình công nghiệp a, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó ý chí tự lực, tự cường trong công cuộc đổi mới ta phải
được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cập việc xây dựng
thực lực cách mạng Việt Nam tạo ra sức mạnh tổng hợp từ tất cả các nguồn lực, trong tất
cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. a -
Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán tư tưởng này của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất
nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã
hội trung tâm; xây dựng Đảng then chốt; phát triển văn hóa nền tảng tinh thần;
bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” . Nhận thức đó đang biến thành
hành động cách mạng, đang đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả tích cực. Hiện
nay, việc phát huy sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc cần chú trọng đổi mới về kinh tế
từng bước với đổi mới chính trị; giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm
quốc phòng, an ninh vững chắc trên sở xây dựng, củng cố phát triển thế trận lòng
dân; thực thi chính sách đối ngoại đúng đắn trên cơ sở bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc
gia. Đồng thời, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế hòa bình, độc lập, phát triển,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau để tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất
nước, tạo ra thế và lực từ nội tại của tất cả các lĩnh vực, ở tất cả các ngành, các cấp, bồi đắp
năng lực cạnh tranh quốc tế trong môi trường toàn cầu hóa. Chỉ như thế, đất nước ta
mới phát triển nhanh và bền vững trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức tự bảo vệ
mình trước mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Ta luôn luôn phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, ta luôn luôn
nhất quán quan điểm ta phải coi nội lực yếu tố quyết định, ngoại lực yếu tố quan :
trọng. Trong suốt quá trình phát triển của dân tộc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, Việt Nam phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành “một cuộc
chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi”. Trước những thay đổi lớn của cục diện thế giới sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới sụp đổ, tinh thần tự lực, tự cường của đất nước ta càng cần được thể hiện rõ ràng
hơn. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh: “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi
chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”
,
khát vọng không có gì quý
hơn độc lập, tự do và ý chí phải tự lực cánh sinh, phải dựa vào sức mình là chính, nội lực
yếu tố tính chất quyết định, ngoại lực yếu tố quan trọng trong sự phát triển bền
vững, biến ngoại lực thành nội lực.
Tóm lại vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay chính : phải củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa hội. Một
là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của
cách mạng thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách
mạng, các xu hướng trào lưu tiến bộ của thời đại mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ tiến bộ hội. , giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, Hai
chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc… trên sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ
lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ .
2.4. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, làm hạt nhân đoàn kết dân tộc đoàn kết
quốc tế
Để đoàn kết dân tộc, Đảng Nhà nước phải được lòng dân, “được lòng dân là được
tất cả, mất lòng dân là mất tất cả”, thực sự vì lợi ích của nhân dân, dân yên thì chế độ
mới ổn, mới vững bền. Làm sao để người dân coi chế độ chính trị này là của họ chứ không
phải của ai khác, từ đó đoàn kết được dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là vấn đề có tính chiến lược, quyết định mọi
thành công của cách mạng. Đây cũng chính là bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc đối với việc xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong công tác tổ chức và cán bộ của
Đảng, cũng như việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đoàn kết trước hết là đoàn kết nội bộ, đoàn kết trong
Đảng, đoàn kết dân tộc đoàn kết quốc tế, trong đó, đoàn kết nội bộ, đoàn kết trong Đảng
là nền tảng, là bí quyết thành công của sự tồn tại phát triển bền vững của Đảng và của
dân tộc Việt Nam ta.
Theo Hồ Chí Minh “Muốn đoàn kết càng chặt chẽ, tiến bộ càng mau chóng thì mọi
người phải sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Mà muốn được như thế thì không có
cách gì hơn là thật thà tự phê bình và phê bình”. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa
chữa, giúp nhau tiến bộ. Để đoàn kết và thống nhất nội bộ”.
Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. “Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên chưa
bị đẩy lùi, mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vtrong bộ máy nhà
nước”
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra, “làm giảm sút vai trò lãnh
đạo của Đảng; làm tổn thương suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, một
nguy trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng chế độ”. Do vậy, phải ngăn chặn, đẩy
lùi suy thoái trong Đảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tóm lại, giữ ổn định phát triển bền vững chế độ chính trị nước ta, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh để thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
III. Kết luận - bài học
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức về công tác đoàn kết quốc tế qua sự quan sát
thực tiễn của Người. Người cũng sớm xác định rằng sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại là công thức hoàn hảo cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và toàn
thế giới.
Lý luận và thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam chỉ ra rằng, để
phát huy tối đa hiệu quả công tác đoàn kết quốc tế, cần liên kết tốt các lực lượng đồng minh
với hình thức và nguyên tắc cụ thể, phù hợp.
Bối cảnh thế giới đương thời những điểm khác biệt so với thời đại của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, song sứ mệnh của phong trào cộng sản công nhân quốc tế không thay đổi.
Điều đó đặt ra yêu cầu phải “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vận dụng linh hoạt những tư tưởng
của Người để phù hợp với tình hình thực tiễn.
| 1/21

Preview text:

ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Đoàn kết quốc tế
1. Khái niệm và sự hình thành
1.1 Khái niệm - quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết trong phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế và đoàn kết trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đoàn
kết quốc tế là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng như thắng lợi của
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Người khẳng định: “Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định
sẽ đánh bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế
giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ
nghĩa và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân tất cả các nước có ý
nghĩa quan trọng bậc nhất”.
1.2. Sự hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh
Tư tưởng về đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh được hình thành từ sự đồng cảm với
nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ, thêm vào đó, sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa.
a) Đồng cảm với nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ
Ra đi từ bến Nhà Rồng tháng 6-1911, 10 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành đã
tới nhiều nước thuộc địa cũng như nhiều nước tư bản chủ nghĩa, ở cả châu Âu, châu Phi, châu Mỹ.
Qua những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, chủ nghĩa yêu nước ở Người có
những biến chuyển mới.
Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên thành sự đồng cảm với nhân dân
lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị áp bức như dân tộc mình.
Người đã đưa ra kết luận quan trọng: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối
tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản". Kết luận trên vô cùng quan trọng, là khởi
đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần lao trên thế giới.
Cũng từ quá trình 10 năm trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc cũng
rút ra kết luận rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương
Đông, đó là sự biệt lập... họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ
lẫn nhau”. Vì vậy, Người chỉ ra sự cần thiết của việc xây dựng khối đoàn kết chiến đấu
giữa các dân tộc bị đọa đày, đau khổ. Người kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa Pháp
rằng: "Chúng tôi yêu cầu các bạn giúp đỡ chúng tôi trong nhiệm vụ đó, vì các bạn và chúng
tôi, chúng ta cùng chung một lợi ích… Mối quan hệ giữa chúng tôi với các bạn sẽ là những
mối quan hệ đoàn kết và liên minh".
b. Sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa
Là người dân từ một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc thấy được khả năng tiềm tàng
của sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu
tranh của họ. Vì vậy, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, một mặt Người nhấn
mạnh tư tưởng phải "lấy sức ta mà giải phóng cho ta", mặt khác Người kêu gọi phải
tăng cường sự đoàn kết, giúp đỡ và phối hợp nhịp nhàng cuộc đấu tranh của vô sản ở chính
quốc với vô sản ở thuộc địa, như hai cái cánh của một con chim. Trong lý luận cũng như
trong hoạt động thực tiễn, Người luôn luôn nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít giữa cách
mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc. Người viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con
đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai
cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi".
Để thực hiện sự đoàn kết giữa nhân dân lao động chính quốc và nhân dân lao động
thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu các Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân ở chính
quốc phải có hiểu biết đúng về thuộc địa và có sự giúp đỡ thiết thực đối với những người anh em thuộc địa.
Trên tinh thần đó, Người đã nghiêm khắc phê phán một số Đảng Cộng sản chưa có
chính sách và hành động tích cực giúp đỡ các thuộc địa.
Trong thời gian ở nước ngoài, Người đã tham gia tích cực phong trào cách mạng
của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng bước xây dựng nhiều tổ chức quốc
tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông
(1925)… là nhà cách mạng hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế III,
các Quốc tế Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ... thường xuyên mở rộng với nhiều chính
khách, các nhà hoạt động xã hội... Tất cả hoạt động nói trên của Người đều hướng vào
mục tiêu tăng cường thêm bạn bè, đồng chí cho cách mng Vit Nam.
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, một trong những đóng góp quan trọng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là quan điểm về đoàn kết quốc tế, mà trước hết là
sự cần thiết phải liên minh các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp
giải phóng của chính dân tộc mình.
2. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
2.1. thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh thời đại tạo sức mạnh tổng hợp
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, việc thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng
bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần,
song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc, sức
mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do…
Sức mạnh đó đã giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong quá trình
dựng nước và giữ nước.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định rằng cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người cho rằng, cách mạng Việt Nam
chỉ có thể thành công khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế, tư tưởng
đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy
đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
2.2. thực hiện đoàn kết quốc tế góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, thực hiện
đoàn kết quốc tế không chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp
chung của nhân loại tiến bộ tròn cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Trong quá trình hoạt động chính trị của mình. Hồ Chí Minh đã không ngừng phá
thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Trong quá trình đó Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình mà còn kiên trì đấu
tranh để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh
cho mục tiêu chung: Hoà bình. Độc lập dân tộc, dân chủ. Và chủ nghĩa xã hội. Kiên trì
chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc…những
khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới.
3. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
3.1. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
Phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế: Hồ Chí Minh cho rằng, sự
đoàn kết giữa giai cấp công nhân quốc tế là sự đảm bảo vững chắc cho sự thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế, đoàn kết giữa các đảng
cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp công
nhân trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng
phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh
đó, chỉ có đoàn kết sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của
lao động trên toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể
chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc: 
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy rõ âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc.
Chính vì vậy, Người đã lưu ý Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm làm cho
các dân tộc thuộc địa, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên
minh phương Đông tương lai. 
Để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc,
Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi cách phải “làm cho đội quân
tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây
để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo
đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”.- Phong trào hòa
bình dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các
nước đang xâm lược Việt Nam. 
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và
công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. 
Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa
bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới. 
Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định: chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng
nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp
bức, mà Đảng đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân
ta đến những thắng lợi vẻ vang.
3.2. Hình thức đoàn kết
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một
thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận
thống nhất cử nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đối với các dân tộc trên bán đảo Đông
Dương (láng giềng gần gũi và có chung kẻ thù); thành lập Mặt trận Việt Nam đồng minh
(Việt Minh) (năm 1941), giúp Lào và Campuchia thành lập mặt trận yêu nước; chỉ đạo hình
thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương.
Hồ Chí Minh củng cố chăm lo mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
với Trung Quốc; thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đấu tranh giành độc lập.
Với các nước châu Á: Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nề hòa bình
thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á có quan hệ mật thiết với vận mệnh dân
tộc Việt Nam. Từ những năm 20 của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh tham gia sáng lập Hội Liên
hiệp thuộc địa Pháp, Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức tại TQ; góp phần đặt cơ sở cho
sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các mối quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít nhằm tạo thế
và lực cho CMVN; nâng cao vị thế của nước ta trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ qua
con đường ngoại giao; trang thủ được sự đồng tình và sự ủng hộ các các nước xncn, của
bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với
Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Như vậy, tư tưởng đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đã định hướng cho việc hình thành 4 mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc,
Mặt trận đoàn kết Việt Nam – Lào - Campuchia, Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam.
3.3. Nguyên tắc đoàn kết
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc
tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải
tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng
tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt từ có tính nguyên tắc trong
công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này
nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách
mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam
đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Để đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Hồ Chí Minh giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định. Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh
cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới,
trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách
mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng "là điều kiện quan trọng nhất để bảo
đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho
tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải
đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
"Có lý" là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin phải
xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành với chủ
nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của
mỗi nước, mỗi đảng, tránh giáo điều. "Có tình" là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên
tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh:
phải khắc phục tư tưởng sôvanh, "nước lớn", "đảng lớn”, không "áp đặt", "ức chế", nói xấu,
công khai công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... gây sức ép với
nhau. "Có tình" đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức, cùng hành
động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng phải được tôn trọng,
song lợi ích đó-không được phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.
“Có lý", "có tình' vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng rất lớn không chỉ
trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân mà còn củng cố tình đoàn
kết trong nhân dân lao động.
Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập,
tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán được Hồ Chí Minh coi là chân
lý, là “lẽ phải không ai chối cãi được". Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho tự
do của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc khác. Trong quan
hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với
các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính
nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự
quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia,
dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hóa sau khi Việt Nam giành được độc
lập. Tháng 9-1947, trả lời nhà báo Mỹ S.ÊIi Mâysi.Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối
ngoại của nước Việt Nam là "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai".
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người không chỉ là nhà
tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các dân tộc vì
các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của
những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng
thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế
giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Để đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ hòa bình trong công lý.
Giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược là một trong những nội
dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hòa
hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân
văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình,
đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa bình thật sự cho tất cả các dân tộc - "hòa bình trong độc lập tự do".
Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng bất di bất
dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà là "một
nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ"[2], chống chiến tranh
xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến,
quan điểm hòa bình trong công lý, lòng thiết tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập và
thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim
nhân loại. Nó có tác dụng cảm hóa lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân
dân Việt Nam đòi chấm dứt chiến tranh, văn hóa hòa bình. Trên thực tế, đã hình thành một
Mặt trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt Nam
chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực
lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch Hội đồng
Hòa bình thế giới cho rằng: "Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí
Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý,
ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu
cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao"'.
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng
quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng
đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực
ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong
đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: "Tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình là chính", "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã".
Trong đấu tranh giành chính quyền. Người chủ trương "đem sức ta mà giải phóng cho ta".
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: "Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập"'. Trong quan
hệ quốc tế. Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái
tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn…
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường
lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài. Người nói: "Độc lập
nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở
ngoài vào"[3]. Trong quan hệ giữa các dân thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế
Người xác định: "Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết
nhất trí giúp đỡ lẫn nhau" ' Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến
chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường tới độc
lập, tự chủ, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa
lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới
đoàn kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này đang có
những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự
đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ
đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, của
phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt
Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
II. Một số vấn đề đặt ra với Việt Nam hiện nay
1. Tình hình thế giới hiện nay
Từ khi Bác để lại những lời căn dặn cuối cùng trong bản Di chúc năm 1969, Đảng
và Nhà nước ta đã luôn ghi nhớ, không ngừng vận dụng và phát triển tư tưởng của Bác để
tiếp tục sự nghiệp vĩ đại Bác đã để lại. Dù vậy, kể từ nhiều năm trở lại đây, tình hình thế
giới và trong nước đã có những biến chuyển nhanh chóng và sâu sắc:
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, hệ thống xã hội chủ nghĩa toàn cầu suy
sụp nặng nề. Thiếu đi sự ủng hộ to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nước ta đã
trải qua một thời kỳ khó khăn trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngoại giao.
Tới năm 1991, Liên Xô sụp đổ, kéo theo đó là hệ thống xã hội chủ nghĩa ở phạm vi
toàn cầu. Đây chỉ là thất bại tạm thời của phong trào cách mạng quốc tế song đã đặt ra thử
thách lớn cho Đảng và nhà nước ta nói riêng cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung.
Xu hướng toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới, trong đó ghi
nhận sự tham gia tích cực và sâu rộng của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới vào các
diễn đàn, tổ chức quốc tế. Theo đó, lực lượng sản xuất trên toàn cầu sẽ có những bước phát
triển nhảy vọt, cơ cấu kinh tế quốc tế sẽ thay đổi hoàn toàn. Chúng ta đứng trước cơ hội
phát triển kinh tế vượt bậc, song đồng thời chúng ta cũng nằm trong một cuộc chạy đua
quyết liệt với các quốc gia khác.
Chiến tranh, xung đột vẫn xảy ra trên phạm vi toàn cầu. Thời kỳ mới còn chứng
kiến sự xuất hiện của chủ nghĩa khủng bố như là một thế lực mới đe dọa nghiêm trọng tới
hòa bình, an ninh chung của toàn thế giới, trong khi các cường quốc lớn trên thế giới vẫn
không ngừng cạnh tranh, gia tăng ảnh hưởng bên ngoài lãnh thổ của mình vì các mục tiêu chiến lược cá nhân.
2. Một số vấn đề đặt ra với Việt Nam hiện nay
2.1. Làm rõ mục tiêu đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, xã hội công bằng, văn minh.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ VN luôn tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của Người mà ở Pháp và Mỹ
đã dấy lên phong trào các tầng lớp nhân dân đòi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Thế giới có nhiều biến động với những thời cơ và thách thức
đan xen lẫn nhau, vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
có những thuận lợi và khó khăn mới. Tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế, phát huy sự ủng
hộ quốc tế là cơ sở quan trọng để Đảng cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường
lối đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế.
a) Vận dụng tư tưởng HCM về độc lập dân tộc, tự chủ, dựa vào sức mình là chính làm
nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát
triển bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc.
Năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam,
Hồ Chí Minh nói rõ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng
tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”.1
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình và hữu nghị. Chiến tranh,
xung đột cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố và những hành vi tàn ác chà đạp quyền
sống của con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXb CTQG, HN, 2002, tập 10, tr149.
đã kéo theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác,
bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp ở Biển Đông đã, đang và
tiếp tục gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và các nước trong khu
vực. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và
củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực làm
sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các
quốc gia. Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán
đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên
tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ
quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng
vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khéo léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo về
Chính sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối ngoại
thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền độc lập
của Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên toàn cầu
thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ.
Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta
được hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh bày tỏ mong muốn của Việt Nam là làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt
Nam đã phá được thế bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của
chính quyền cách mạng ở khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng
hợp của đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước.
c) Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc tế
hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các
nước lớn để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước
Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân
tộc cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau,
cùng nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau,
những dân tộc tự do và bình đẳng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất” và
“Thế giới hòa bình có thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước
lớn, đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương lượng”.2
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức
quốc tế, đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX.
Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế
là lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho chiến tranh,
luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc,
giữa các nước trên thế giới.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tp, NXb CTQG, HN, 2002, tập 5, tr 136.
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách
thức đan xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận vững
chắc, lâu dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần
đoàn kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi
càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì
tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em” 3và cũng thực
hiện sự mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc
khôi phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.4
2.2. Mở cửa, hội nhập quốc tế, là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển, đồng thời tham gia những vấn đề toàn cầu hiện nay của quốc tế.
Từ lúc sinh thời, Hồ Chủ tịch đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của
Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình.”
Trước kia, trong điều kiện quốc tế thời Chiến tranh Lạnh, cơ hội của Việt Nam chưa
được rộng mở khi chính phủ của nhiều quốc gia đứng về phe đối lập với khối xã hội chủ
nghĩa. Song, trong bối cảnh trật tự thế giới mới “đa cực, nhiều trung tâm”, các quốc gia
trên thế giới có những mối liên kết, ràng buộc với nhau nhiều hơn và chặt chẽ hơn, cũng
như những mối quan hệ cạnh tranh căng thẳng hơn, nước ta cần có sự chủ động trong việc
mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực, cũng như góp phần nâng
cao vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế.
Trên tinh thần đó, chúng ta đã nỗ lực đặt quan hệ chính thức với gần như mọi quốc
gia trên toàn thế giới, tham gia vào nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, ASEM,
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXb CTQG, HN, 2002, tập 4, tr 268.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXb CTQG, HN, 2011, tập 15, tr 613.
APEC, WTO5. Chúng ta cũng đã đồng thời đóng góp tích cực với tư cách là một thành viên
của cộng đồng quốc tế, qua đó uy tín của chúng ta được công nhận. Những nỗ lực kể trên
đã kéo nước ta khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi
tiếp trên con đường tới chiến thắng cũng như vào sự nghiệp cách mạng thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tất nhiên, bên cạnh việc mở rộng hợp tác, chúng ta cũng cần khẳng định rằng, không
có kẻ thù hay đối tác vĩnh viễn. Bên cạnh việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các đối tác
tôn trọng độc lập, chủ quyền, mong muốn phát triển trong hữu nghị, chúng ta cũng kiên
quyết giữ vững sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc trước những đối tượng thù địch.
2.3. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, trong nước và quốc tế để CNH-HĐH, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1966 ), vấn đề đại
đoàn kết dân tộc lúc này đã được đặt ở một tầm cao mới, với mục đích nhằm phát huy sức
mạnh đoàn kết của toàn dân ta cần Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường cùng
lúc đó kết hợp sức mạnh dân tộc – toàn dân với sức mạnh thời đại để tiến tới Công nghiệp
hóa – Hiện đại hóa. Phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc là nội dung quan trọng trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Quán triệt, vận dụng tốt nội dung này là giải pháp quan trọng, góp phần thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Đại hội XIII Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc…” Trước ta tự lực, tự cường là để giành độc lập, tự do –
nay ta tự lực, tự cường là để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc để tiếp tục công
cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa và sánh vai cùng với các cường quốc năm châu.
5 Vũ Dương Ninh. 2009, Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về hội nhập và đoàn kết quốc tế. Tạp chí cộng sản.
Không có tinh thần đó thì đất nước không thể tự lập, càng không thể phồn vinh, hùng cường.
Và để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp
phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tự lực là làm việc gì cũng phải bằng sức mình, khả năng của mình, không trông cậy
vào ai. Còn tự cường là tự làm cho mình ngày càng mạnh lên, không chịu thua kém người.
Và khi đã “tự lực”, “tự cường” ắt sẽ được “tự chủ”, “tự do” và “tự quyết”. Chính các yếu
tố này đã làm nên bản lĩnh Việt Nam trên trường quốc tế & chúng ta luôn tranh thủ được
sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế cả trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
những năm đổi mới. Bài học về tinh thần tự chủ, tự cường, tự tôn dân tộc luôn vẹn nguyên
giá trị. Đảng bộ, chính quyền, dân và quân trong tỉnh sẽ phát huy bài học đó trong khát
vọng phát triển nhanh, mạnh mẽ, từng bước khẳng định vị thế trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, góp phần quan trọng vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó ý chí tự lực, tự cường trong công cuộc đổi mới ta phải
được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cập việc xây dựng
thực lực cách mạng Việt Nam tạo ra sức mạnh tổng hợp từ tất cả các nguồn lực, trong tất
cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v.
Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán tư tưởng này của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất
nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần;
bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Nhận thức đó đang biến thành
hành động cách mạng, đang đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả tích cực. Hiện
nay, việc phát huy sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc cần chú trọng đổi mới về kinh tế
từng bước với đổi mới chính trị; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm
quốc phòng, an ninh vững chắc trên cơ sở xây dựng, củng cố và phát triển thế trận lòng
dân; thực thi chính sách đối ngoại đúng đắn trên cơ sở bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc
gia. Đồng thời, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế vì hòa bình, độc lập, phát triển,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau để tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất
nước, tạo ra thế và lực từ nội tại của tất cả các lĩnh vực, ở tất cả các ngành, các cấp, bồi đắp
năng lực cạnh tranh quốc tế trong môi trường toàn cầu hóa. Chỉ có như thế, đất nước ta
mới phát triển nhanh và bền vững trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức tự bảo vệ
mình trước mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Ta luôn luôn phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, ta luôn luôn
nhất quán quan điểm: ta phải coi nội lực là yếu tố quyết định, ngoại lực là yếu tố quan
trọng. Trong suốt quá trình phát triển của dân tộc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, Việt Nam phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành “một cuộc
chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi”. Trước những thay đổi lớn của cục diện thế giới sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới sụp đổ, tinh thần tự lực, tự cường của đất nước ta càng cần được thể hiện rõ ràng
hơn. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh: “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi
chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”, khát vọng không có gì quý
hơn độc lập, tự do và ý chí phải tự lực cánh sinh, phải dựa vào sức mình là chính, nội lực
là yếu tố có tính chất quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng trong sự phát triển bền
vững, biến ngoại lực thành nội lực.
Tóm lại vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay chính là: phải củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Một
là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của
cách mạng thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách
mạng, các xu hướng trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường,
chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ
lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ .
2.4. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, làm hạt nhân đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
Để đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước phải được lòng dân, “được lòng dân là được
tất cả, mất lòng dân là mất tất cả”, thực sự vì lợi ích của nhân dân, dân có yên thì chế độ
mới ổn, mới vững bền. Làm sao để người dân coi chế độ chính trị này là của họ chứ không
phải của ai khác, từ đó đoàn kết được dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là vấn đề có tính chiến lược, quyết định mọi
thành công của cách mạng. Đây cũng chính là bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc đối với việc xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong công tác tổ chức và cán bộ của
Đảng, cũng như việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đoàn kết trước hết là đoàn kết nội bộ, đoàn kết trong
Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, trong đó, đoàn kết nội bộ, đoàn kết trong Đảng
là nền tảng, là bí quyết thành công của sự tồn tại và phát triển bền vững của Đảng và của dân tộc Việt Nam ta.
Theo Hồ Chí Minh “Muốn đoàn kết càng chặt chẽ, tiến bộ càng mau chóng thì mọi
người phải sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Mà muốn được như thế thì không có
cách gì hơn là thật thà tự phê bình và phê bình”. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa
chữa, giúp nhau tiến bộ. Để đoàn kết và thống nhất nội bộ”.
Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. “Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên chưa
bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra, “làm giảm sút vai trò lãnh
đạo của Đảng; làm tổn thương và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một
nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Do vậy, phải ngăn chặn, đẩy
lùi suy thoái trong Đảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tóm lại, giữ ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở nước ta, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh để thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
III. Kết luận - bài học
Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhận thức về công tác đoàn kết quốc tế qua sự quan sát
thực tiễn của Người. Người cũng sớm xác định rằng sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại là công thức hoàn hảo cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và toàn thế giới.
Lý luận và thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam chỉ ra rằng, để
phát huy tối đa hiệu quả công tác đoàn kết quốc tế, cần liên kết tốt các lực lượng đồng minh
với hình thức và nguyên tắc cụ thể, phù hợp.
Bối cảnh thế giới đương thời có những điểm khác biệt so với thời đại của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, song sứ mệnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế không thay đổi.
Điều đó đặt ra yêu cầu phải “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vận dụng linh hoạt những tư tưởng
của Người để phù hợp với tình hình thực tiễn.