I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ LÝ THUYẾT KHOA HỌC
1.1.Tổng quan nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về ĐMST và ĐMST quy trình
Khái niệm “Đổi mới sáng tạo” (trong tiếng anh là innovation), viết tắt là ĐMST, xuất
hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX, sau cuộc cách mặng công nghiệp lần thứ hai, ngày
nay đã trở thành cụm từ phổ biến trên thế giới cững như tại Việt Nam, được xem là
yếu tố quan trọng nhất giúp các doanh nghiệp tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh.
Ancona Caldwell (1987) cho rằng môi trường kinh doanh không ngừng biến đổi
như hiện nay, ĐMST là yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp tồn tại, phát triển và duy trì
lợi thế cạnh tranh. Thậm trí Baldwin (1995) cho rằng ĐMST yếu tố quyết định sự thành
công của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ đạt được kết quả tốt hơn đối thủ cạnh tranh nếu
doanh nghiệp đó tạo ra được sự khác biệt về chất lượng hoặc giá cả hoặc cả hai yếu tố trên.
Ngày nay, khi nghiên cứu về ĐMST, các nhà nghiên cứu thường dựa trên sở
thuyết để xem xét các nhân tố mối quan hệ với ĐMST. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng
nhiều sở thuyết khác nhau để nghiên cứu vĐMST. Mỗi thuyết một đóng góp
nhất định, giúp làm hơn bản chất của mối quan hệ giữa ĐMST các yếu tố khác trong
doanh nghiệp (Phan, 2017). Trên sở tổng quan hệ thống các nghiên cứu về ĐMST đã công
bố từ những năm 1980, Crossan and Apydin (2010) tổng hợp các thuyết đã được các nhà
nghiên cứu sử dụng trong nghiên cứu. Kết quả cho thấy, đa số các nghiên cứu thực nghiệm
về ĐMST ở cấp độ doanh nghiệp còn chưa rõ lý thuyết nào đã được áp dụng khi xem xét các
mối quan hệ. Chỉ một số ít nghiên cứu dựa trên nền tảng thuyết. Theo đó, thuyết
học hỏi (Learning theory), lý thuyết quản trị tri thức (Knowledge management theory) được
các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều nhất, tiếp theo thuyết mạng lưới (Network theory),
thuyết kinh tế tiến hóa (Economy theory), thuyết thể chế (Institutional theory),
thuyết quản trị dựa trên nguồn lực (Resource-based view) và
lý thuyết thích ứng (Adaptation theory),…
Trong những năm gần đây, nghiên cứu vĐMST liên quan chặt chẽ với một số
thuyết như thuyết về lãnh đạo cấp cao (Hambrick Mason, 1984; Ireland cộng sự,
2003), lý thuyết về tri thức tổ chức (Grant, 1996; Nahapiet và Ghoshal, 1998;
cho đổi mới, năng lực hấp thụ, nguồn lực tài chính,… Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chưa
hoặc chưa thực sự quan tâm đến cơ sở lý thuyết khi xem xét các nhân tố và mối quan hệ đến
ĐMST quy trình, chưa quan tâm đến 3 thuyết quan trọng như thuyết về lãnh đạo cấp
cao (Hambrick và Mason, 1984; Ireland cộng sự, 2003), thuyết vtri thức tổ chức
(Grant, 1996; Nahapiet và Ghoshal, 1998; Subramaniam và Youndt, 2005; Nguyen cộng
sự, 2016; Nguyễn và Vũ, 2013); và lý thuyết học hỏi tổ chức (Zahra và
George, 20002; Cohen và Levinthal, 1990; March, 1991).
1.1.2. Tổng quan ngành dệt may Việt Nam
Ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm gần đây được đánh giá đã
những bước tiến tích cực cả về sản xuất và xuất khẩu. Trong đó, tốc độ tăng trưởng trong sản
xuất của ngành dệt may bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 7,9%/năm, riêng năm 2018 tăng
trên 33%. Năm 2020, ngành dệt may là một trong những ngành chịu nhiều tác động tiêu cực
kéo dài của đại dịch Covid-19 nên chỉ số sản xuất công nghiệp ngành Dệt giảm 0,5%;
ngành Sản xuất trang phục giảm 4,9%, làm đứt gãy nguồn cung nguyên liệu, thu hẹp thị
trường tiêu thụ các sản phẩm may mặc, nhu cầu sản phẩm dệt may giảm sút mạnh khi người
tiêu dùng trên thế giới chỉ quan tâm đến đồ dùng thiết yếu phòng chống dịch. Trong 9
tháng năm 2021, ngành Dệt May đã có nhiều tín hiệu khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm trước
nhờ chuỗi sản xuất phục hồi với đơn hàng truyền thống tăng trở lại. Chỉ số sản xuất ngành
Dệt và Sản xuất trang phục trong 9 tháng năm 2021 đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, trong
đó, chỉ số sản xuất ngành Dệt tăng 7,8%; ngành Sản xuất trang phục tăng 4,8%. Chỉ số sản
xuất của một số sản phẩm trong 9 tháng năm 2021 đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, như:
vải dệt từ sợi tự nhiên ước tính đạt 501,5 triệu m2, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2020; sản
xuất vải dệt từ sợi tổng hợp sợi nhân tạo đạt 860,4 triệu m2, tăng 4,9%; quần áo mặc
thường đạt 3.411,2 triệu cái, tăng 4,5%. Những tháng đầu năm 2021, thị trường dệt may toàn
cầu có xu hướng hồi phục, nhu cầu may mặc đã phần nào hồi phục trở lại. Việc chuyển dịch
đơn hàng từ các quốc gia cạnh tranh, đặc biệt từ Myanma giúp cho Việt Nam đón nhận
một lượng đơn hàng đột biến ngay từ quý I/2021. Ngoài ra, trong năm 2021, các doanh nghiệp
dệt may không gặp phải vấn đề nguồn nguyên liệu bị đứt gãy như trong những tháng đầu
năm 2020. Đơn hàng dồi dào, kết hợp với những lợi thế trên thị trường xuất khẩu đã giúp
Dệt
- Theo Phan Thị Hiền, Nguyễn N.Hà với đề tài “Nghiên cứu phân tích và đánh
giá tác động của các yếu tố đến khả năng sinh lời của các doanh nghiệp ngành dệt may niêm
yết trên Thị Trường Chứng Khoán (TTCK) Việt Nam giai đoạn 2009-2018”. Kết quả nghiên
cứu cho thấy quy doanh nghiệp, thời gian hoạt động của doanh nghiệp, tăng trưởng doanh
thu, khả năng thanh toán, và vòng quay tổng tài sản tác động tích cực đến khả năng sinh
lời của doanh nghiệp. Đề tài khai thác theo nhiều khía cạnh như về công nghệ, máy móc, kỹ
thuật, đội ngũ nhân viên. Từ kết quả này, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm gia tăng
khả năng sinh lời của doanh nghiệp dệt may Việt Nam, từ đó giúp
doanh nghiệp trong ngành dệt may phát triển bền vững hơn.
- Theo Minh Nhật (2015) trích dẫn từ thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ
(KH CN) cho thấy: “hiện nay cả nước gần 600.000 doanh nghiệp, với hơn 90%
DNVVN. Phần lớn đều đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới
từ hai đến ba thế hệ. Trong đó có đến 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế
hệ những năm 60 - 70 của thế kỷ trước; 75% số thiết bị đã hết khấu hao; 50% thiết bị đồ
tân trang...; chỉ có 20% là nhóm ngành sử dụng công nghệ cao”.
- Theo Nguyễn Thị Anh Vân, Nguyễn Khắc Hiếu với đề tài “Các yếu tố ảnh
hưởng đến đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp may vừa nhỏ ở Việt Nam”. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, các yếu tố quy doanh nghiệp, sự kiểm tra của quan chức năng,
chứng nhận chất lượng quốc tế, xuất khẩu, đổi mới sản phẩm và hỗ trợ kỹ thuật từ chính phủ
ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới công nghệ, trong khi đó thì yếu tố chi phí phi chính
thức ảnh hưởng tiêu cực đến đổi mới công nghệ. Từ kết quả nghiên cứu, một số kiến nghị
được đưa ra nhằm gia tăng việc đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp của Việt Nam.
- Theo Đỗ Hoàng Sơn với Xây dựng quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các
doanh nghiệp nhỏvừa trong lĩnh vực dệt may nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Bằng
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều phần, trong đó có kinh tế tư nhân. Doanh nhân phát
triển nhanh chóng đa dạng với nhiều loại hình khác nhau. DNNVV chiếm 90% tổng số
doanh nghiệp một trong những nhân tố tích cực giúp cho nền kinh tế của nước ta duy trì
tốc độ phát triển cao trong những năm vừa qua, DNNVV đóng góp khoản 42% GDP, góp
phần quan trọng trong giải quyết việc làm cho trên 50% số lao động làm việc
b. Biến độc lập
-
Nguồn nhân lực
-
Vốn quan hệ
-
Nhà quản trị
-
Quy mô doanh nghiệp
-
Chỉ tiêu R&D
-
c. Đề xuất mô hình nghiên cứu
Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu
2.3
. Câu hỏi nghiên cứu
2.3.1
. Câu hỏi tổng quát
những
yếu
tố
nào
ảnh
hưởng
đến
sự
đổi
mới
quy
trình
sản
xuất
của
các
doanh
nghiệp
ngành
dệt
may
niêm
yết
trên
thị
trường
chứng
khoán
Việt
Nam
?
Mức
độ
tác
động
như thế nào?
2.3.2
. Câu hỏi cụ thể
-
Nguồn
nhân
lực
ảnh
hưởng
đến
sự
đổi
mới
quy
trình
sản
xuất
c
ủa
các
doanh
nghiệp dệt may niêm yết trên TTCK Việt Nam không?
-
Vốn
quan
hệ
nh
hưởng
đến
sự
đổi
mới
quy
trình
sản
xuất
của
các
doanh
nghiệp dệt may niêm yết trên TTCK Việt Nam không?
Chỉ tiêu
R&D
Tổng số tiền đầu tư vào R&D
Becheikh và
cộng sự
(2006)
Số lượng bằng sáng chế
Số lượng bài báo khoa học
Số lượng sản phẩm mới được phát triển
Thời gian từ ý tưởng đến sản phẩm
Nguồn: Becheikh và cộng sự (2006)
3.1.6
. Năng lực hấp thụ
Thang
đo
năng
lực
hấp
thụ
của
doanh
nghiệp
được
xây
dựng
trên
sở
công
trình
nghiên cứu của
Flatten và cộng sự
(2011). Đây là
thang đo được
nhiều học giả
sử dụng và
lượng
trích
dẫn
cao.
Thông
qua
nghiên
cứu
tham
khảo
các
nguồn
tài
liệu
nhóm
nghiên cứu đã chỉnh sửa các thang đo cho phù hợp với đề tài nghiên cứu, bao gồm 13 biến
quan sát.
Bảng 3.6 Năng lực hấp thụ
Tên biến
Nội dung
Nguồn gốc
thang đo
Năng lực
hấp thụ
Quá trình hấp thu nhận tri thức
Flatten và
cộng sự
(2011)
Gặp gỡ định kỳ các chuyên gia của ngành bên
ngoài công ty để thu nhận các thông tin liên quan
Quản lý công ty nhấn mạnh trao đổi thông tin
kinh nghiệm với các công ty khác trong ngành
Tìm kiếm thông tin liên quan đến lĩnh vực hoạt
động là công việc hằng ngày trong công ty
Quản lý công ty mong đợi nhân viên xử lý cả các
thông tin ngoài ngành
Quản lý công ty khuyến khích nhân viên sử dụng
các nguồn thông tin trong ngành
Quá trình chuyển đổi tri thức
Nhân viên công ty có khả năng cấu trúc và sử
dụng tri thức thu nhận được
Nhân viên công ty có khả năng hấp thụ tri thức
mới cũng như để chuẩn bị cho các mục đích tiếp
theo và đảm bảo tri thức luôn sẵn có cho mọi
người
Nhân viên công ty có khả năng áp dụng tri thức
mới vào trong công việc của mình

Preview text:


I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ LÝ THUYẾT KHOA HỌC 1.1.Tổng quan nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về ĐMST và ĐMST quy trình
Khái niệm “Đổi mới sáng tạo” (trong tiếng anh là innovation), viết tắt là ĐMST, xuất
hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX, sau cuộc cách mặng công nghiệp lần thứ hai, ngày
nay đã trở thành cụm từ phổ biến trên thế giới cững như tại Việt Nam, được xem là
yếu tố quan trọng nhất giúp các doanh nghiệp tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh.
Ancona và Caldwell (1987) cho rằng môi trường kinh doanh không ngừng biến đổi
như hiện nay, ĐMST là yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp tồn tại, phát triển và duy trì
lợi thế cạnh tranh. Thậm trí Baldwin (1995) cho rằng ĐMST là yếu tố quyết định sự thành
công của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ đạt được kết quả tốt hơn đối thủ cạnh tranh nếu
doanh nghiệp đó tạo ra được sự khác biệt về chất lượng hoặc giá cả hoặc cả hai yếu tố trên.
Ngày nay, khi nghiên cứu về ĐMST, các nhà nghiên cứu thường dựa trên cơ sở lý
thuyết để xem xét các nhân tố và mối quan hệ với ĐMST. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng
nhiều cơ sở lý thuyết khác nhau để nghiên cứu về ĐMST. Mỗi lý thuyết có một đóng góp
nhất định, giúp làm rõ hơn bản chất của mối quan hệ giữa ĐMST và các yếu tố khác trong
doanh nghiệp (Phan, 2017). Trên cơ sở tổng quan hệ thống các nghiên cứu về ĐMST đã công
bố từ những năm 1980, Crossan and Apydin (2010) tổng hợp các lý thuyết đã được các nhà
nghiên cứu sử dụng trong nghiên cứu. Kết quả cho thấy, đa số các nghiên cứu thực nghiệm
về ĐMST ở cấp độ doanh nghiệp còn chưa rõ lý thuyết nào đã được áp dụng khi xem xét các
mối quan hệ. Chỉ có một số ít nghiên cứu là dựa trên nền tảng lý thuyết. Theo đó, lý thuyết
học hỏi (Learning theory), lý thuyết quản trị tri thức (Knowledge management theory) được
các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều nhất, tiếp theo là lý thuyết mạng lưới (Network theory),
lý thuyết kinh tế và tiến hóa (Economy theory), lý thuyết thể chế (Institutional theory), lý
thuyết quản trị dựa trên nguồn lực (Resource-based view) và
lý thuyết thích ứng (Adaptation theory),…
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về ĐMST liên quan chặt chẽ với một số lý
thuyết như lý thuyết về lãnh đạo cấp cao (Hambrick và Mason, 1984; Ireland và cộng sự,
2003), lý thuyết về tri thức tổ chức (Grant, 1996; Nahapiet và Ghoshal, 1998;
cho đổi mới, năng lực hấp thụ, nguồn lực tài chính,… Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chưa
hoặc chưa thực sự quan tâm đến cơ sở lý thuyết khi xem xét các nhân tố và mối quan hệ đến
ĐMST quy trình, chưa quan tâm đến 3 lý thuyết quan trọng như lý thuyết về lãnh đạo cấp
cao (Hambrick và Mason, 1984; Ireland và cộng sự, 2003), lý thuyết về tri thức tổ chức
(Grant, 1996; Nahapiet và Ghoshal, 1998; Subramaniam và Youndt, 2005; Nguyen và cộng
sự, 2016; Nguyễn và Vũ, 2013); và lý thuyết học hỏi tổ chức (Zahra và
George, 20002; Cohen và Levinthal, 1990; March, 1991).
1.1.2. Tổng quan ngành dệt may Việt Nam
Ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm gần đây được đánh giá đã có
những bước tiến tích cực cả về sản xuất và xuất khẩu. Trong đó, tốc độ tăng trưởng trong sản
xuất của ngành dệt may bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 7,9%/năm, riêng năm 2018 tăng
trên 33%. Năm 2020, ngành dệt may là một trong những ngành chịu nhiều tác động tiêu cực
và kéo dài của đại dịch Covid-19 nên chỉ số sản xuất công nghiệp ngành Dệt giảm 0,5%;
ngành Sản xuất trang phục giảm 4,9%, làm đứt gãy nguồn cung nguyên liệu, thu hẹp thị
trường tiêu thụ các sản phẩm may mặc, nhu cầu sản phẩm dệt may giảm sút mạnh khi người
tiêu dùng trên thế giới chỉ quan tâm đến đồ dùng thiết yếu và phòng chống dịch. Trong 9
tháng năm 2021, ngành Dệt May đã có nhiều tín hiệu khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm trước
nhờ chuỗi sản xuất phục hồi với đơn hàng truyền thống tăng trở lại. Chỉ số sản xuất ngành
Dệt và Sản xuất trang phục trong 9 tháng năm 2021 đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, trong
đó, chỉ số sản xuất ngành Dệt tăng 7,8%; ngành Sản xuất trang phục tăng 4,8%. Chỉ số sản
xuất của một số sản phẩm trong 9 tháng năm 2021 đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, như:
vải dệt từ sợi tự nhiên ước tính đạt 501,5 triệu m2, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2020; sản
xuất vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo đạt 860,4 triệu m2, tăng 4,9%; quần áo mặc
thường đạt 3.411,2 triệu cái, tăng 4,5%. Những tháng đầu năm 2021, thị trường dệt may toàn
cầu có xu hướng hồi phục, nhu cầu may mặc đã phần nào hồi phục trở lại. Việc chuyển dịch
đơn hàng từ các quốc gia cạnh tranh, đặc biệt là từ Myanma giúp cho Việt Nam đón nhận
một lượng đơn hàng đột biến ngay từ quý I/2021. Ngoài ra, trong năm 2021, các doanh nghiệp
dệt may không gặp phải vấn đề nguồn nguyên liệu bị đứt gãy như trong những tháng đầu
năm 2020. Đơn hàng dồi dào, kết hợp với những lợi thế trên thị trường xuất khẩu đã giúp Dệt -
Theo Phan Thị Hiền, Nguyễn N.Hà với đề tài “Nghiên cứu phân tích và đánh
giá tác động của các yếu tố đến khả năng sinh lời của các doanh nghiệp ngành dệt may niêm
yết trên Thị Trường Chứng Khoán (TTCK) Việt Nam giai đoạn 2009-2018”. Kết quả nghiên
cứu cho thấy quy mô doanh nghiệp, thời gian hoạt động của doanh nghiệp, tăng trưởng doanh
thu, khả năng thanh toán, và vòng quay tổng tài sản có tác động tích cực đến khả năng sinh
lời của doanh nghiệp. Đề tài khai thác theo nhiều khía cạnh như về công nghệ, máy móc, kỹ
thuật, đội ngũ nhân viên. Từ kết quả này, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm gia tăng
khả năng sinh lời của doanh nghiệp dệt may Việt Nam, từ đó giúp
doanh nghiệp trong ngành dệt may phát triển bền vững hơn. -
Theo Minh Nhật (2015) trích dẫn từ thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ
(KH và CN) cho thấy: “hiện nay cả nước có gần 600.000 doanh nghiệp, với hơn 90% là
DNVVN. Phần lớn đều đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới
từ hai đến ba thế hệ. Trong đó có đến 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế
hệ những năm 60 - 70 của thế kỷ trước; 75% số thiết bị đã hết khấu hao; 50% thiết bị là đồ
tân trang...; chỉ có 20% là nhóm ngành sử dụng công nghệ cao”. -
Theo Nguyễn Thị Anh Vân, Nguyễn Khắc Hiếu với đề tài “Các yếu tố ảnh
hưởng đến đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp may vừa và nhỏ ở Việt Nam”. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, có các yếu tố quy mô doanh nghiệp, sự kiểm tra của cơ quan chức năng,
chứng nhận chất lượng quốc tế, xuất khẩu, đổi mới sản phẩm và hỗ trợ kỹ thuật từ chính phủ
ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới công nghệ, trong khi đó thì yếu tố chi phí phi chính
thức ảnh hưởng tiêu cực đến đổi mới công nghệ. Từ kết quả nghiên cứu, một số kiến nghị
được đưa ra nhằm gia tăng việc đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp của Việt Nam. -
Theo Đỗ Hoàng Sơn với Xây dựng quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực dệt may nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Bằng
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều phần, trong đó có kinh tế tư nhân. Doanh nhân phát
triển nhanh chóng và đa dạng với nhiều loại hình khác nhau. DNNVV chiếm 90% tổng số
doanh nghiệp là một trong những nhân tố tích cực giúp cho nền kinh tế của nước ta duy trì
tốc độ phát triển cao trong những năm vừa qua, DNNVV đóng góp khoản 42% GDP, góp
phần quan trọng trong giải quyết việc làm cho trên 50% số lao động làm việc b. Biến độc lập - Nguồn nhân lực - Vốn quan hệ - Nhà quản trị - Quy mô doanh nghiệp - Chỉ tiêu R&D - Năng lực hấp thu
c. Đề xuất mô hình nghiên cứu
Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu
2.3 . Câu hỏi nghiên cứu
2.3.1 . Câu hỏi tổng quát
Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự đổi mới quy trình sản xuất của các doanh
nghiệp ngành dệt may niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam ? Mức độ tác động như thế nào? 2.3.2 . Câu hỏi cụ thể
- Nguồn nhân lực có ảnh hưởng đến sự đổi mới quy trình sản xuất c ủa các doanh
nghiệp dệt may niêm yết trên TTCK Việt Nam không?
- Vốn quan hệ có ả nh hưởng đến sự đổi mới quy trình sản xuất của các doanh
nghiệp dệt may niêm yết trên TTCK Việt Nam không? Chỉ tiêu
Tổng số tiền đầu tư vào R&D Becheikh và R&D
Số lượng bằng sáng chế cộng sự
Số lượng bài báo khoa học (2006)
Số lượng sản phẩm mới được phát triển
Thời gian từ ý tưởng đến sản phẩm
Nguồn: Becheikh và cộng sự (2006)
3.1.6 . Năng lực hấp thụ
Thang đo năng lực hấp thụ của doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở công trình
nghiên cứu của Flatten và cộng sự (2011). Đây là thang đo được nhiều học giả sử dụng và
có lượng trích dẫn cao. Thông qua nghiên cứu và tham khảo các nguồn tài liệu nhóm
nghiên cứu đã chỉnh sửa các thang đo cho phù hợp với đề tài nghiên cứu, bao gồm 13 biến quan sát.
Bảng 3.6 Năng lực hấp thụ Tên biến Nội dung Nguồn gốc thang đo Năng lực
Quá trình hấp thu nhận tri thức Flatten và hấp thụ cộng sự
Gặp gỡ định kỳ các chuyên gia của ngành bên (2011)
ngoài công ty để thu nhận các thông tin liên quan
Quản lý công ty nhấn mạnh trao đổi thông tin và
kinh nghiệm với các công ty khác trong ngành
Tìm kiếm thông tin liên quan đến lĩnh vực hoạt
động là công việc hằng ngày trong công ty
Quản lý công ty mong đợi nhân viên xử lý cả các thông tin ngoài ngành
Quản lý công ty khuyến khích nhân viên sử dụng
các nguồn thông tin trong ngành
Quá trình chuyển đổi tri thức
Nhân viên công ty có khả năng cấu trúc và sử
dụng tri thức thu nhận được
Nhân viên công ty có khả năng hấp thụ tri thức
mới cũng như để chuẩn bị cho các mục đích tiếp
theo và đảm bảo tri thức luôn sẵn có cho mọi người
Nhân viên công ty có khả năng áp dụng tri thức
mới vào trong công việc của mình