Động cơ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc | Kinh Tế chính trị quốc tế | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Động cơ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc là một chủ đề quan trọng trong môn học "Kinh Tế chính trị quốc tế" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trong phần này, sinh viên sẽ tìm hiểu về các chính sách, chương trình và dự án viện trợ mà Trung Quốc thực hiện đối với các quốc gia đang phát triển. Các nguồn viện trợ này thường được Trung Quốc sử dụng như một công cụ để mở rộng ảnh hưởng và quan hệ đối ngoại, đồng thời cũng nhằm mục tiêu tối ưu hóa lợi ích kinh tế và chính trị của mình. Mục tiêu của phần này là giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò của Trung Quốc trong việc viện trợ cho các quốc gia đang phát triển, đồng thời phân tích tác động của viện trợ này đối với quan hệ quốc tế và cộng đồng quốc tế.

Thông tin:
27 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Động cơ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc | Kinh Tế chính trị quốc tế | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Động cơ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc là một chủ đề quan trọng trong môn học "Kinh Tế chính trị quốc tế" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trong phần này, sinh viên sẽ tìm hiểu về các chính sách, chương trình và dự án viện trợ mà Trung Quốc thực hiện đối với các quốc gia đang phát triển. Các nguồn viện trợ này thường được Trung Quốc sử dụng như một công cụ để mở rộng ảnh hưởng và quan hệ đối ngoại, đồng thời cũng nhằm mục tiêu tối ưu hóa lợi ích kinh tế và chính trị của mình. Mục tiêu của phần này là giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò của Trung Quốc trong việc viện trợ cho các quốc gia đang phát triển, đồng thời phân tích tác động của viện trợ này đối với quan hệ quốc tế và cộng đồng quốc tế.

61 31 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Động cơ viện tr c ngoài ca Trung Quc
Andreas Fuchs, Đại hc Heidelberg
Marina Rudyak, Đại hc Heidelberg
Phiên bản này: Tháng 11 năm 2017
Tóm tắt: Chương này thảo lun v các động cơ chính trị, kinh tế và nhân đạo thúc đẩy Trung Quc
s giúp đỡ. Liên quan đến động cơ chính trị, chính ph Trung Quc s dng vin tr như một công c chính sách đối ngoại. nên giúp nước này to ra mt
môi trường quc tế thun li cho s phát trin ca Trung Quc,
h tr đất nước vươn lên vị thế ng quc toàn cầu, tác động đến qun tr toàn cầu và khen thưởng các quc gia tuân th Chính sách Mt
Trung Quốc. Hơn nữa, vin tr ngày càng được s dụng để thúc đẩy thương mại vi
các nước đang phát triển và các khoản vay được gia hạn để đổi ly tài nguyên thiên nhiên. Cui cùng là Trung Quc nhn mnh rng nó cung cp
vin tr để giúp các nước đang phát triển khác gim nghèo và
ci thin sinh kế của người dân, mt tuyên b đưc h tr bi d liệu khi các nước nghèo hơn nhận được nhiều hơn ủng h. Mc dù s kết hp gia
các mc tiêu chính tr, kinh tế và nhân đạo không khiến Trung Quc tr nên khác bit
So vi cái gi là các nhà tài tr phương Tây “truyền thống”, Trung Quốc khác bit ni dung chi tiết v li ích ca mình.
và s nhn mạnh rõ ràng vào “lợi ích chung” trong việc theo đuổi các mc tiêu ca mình.
Li cảm ơn: Sự h tr nghiên cu xut sắc được cung cp bi Samuel Siewers và Felix
Khăn xếp. Chúng tôi cũng xin cảm ơn Jamie Parsons vì đã hiệu đính phiên bản trước của chương này.
Đây là một chương dự tho. Phiên bn cui cùng s có trong S tay ca T chc Quc tế
Kinh tế Chính tr Trung Quc do Ka Zeng biên tp, sp xut bn, Nhà xut bn Edward Elgar Ltd
Tài liu không th đưc s dng cho bt k mục đích nào khác mà không có s cho phép thêm ca nhà xut bn và
ch dành cho s dng cá nhân.
1
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
1. Gii thiu
Vin tr ngày càng tăng của Trung Quốc đã dẫn đến mt cuc tranh lun quc tế gây tranh cãi v những tác động được cho là bt li
hoạt động ca Trung Quc tại các nước đang phát triển. Điều này dường như đã khiến chính ph Trung Quc gặp khó khăn.
gây ngc nhiên—đặc bit là vì h đã coi viện tr ớc ngoài như một công c để to dng hình nh ca Trung Quốc như một cường quc
“các bên liên quan có trách nhiệm” (Chen 2010, 2011). Tuy nhiên, các hoạt động vin tr quc tế ca Trung Quốc cũng không báo cáo cho các tổ chc quc
tế, Bắc Kinh cũng chưa đưa ra một vin tr chính thc và toàn din nào
cơ sở d liệu. Điều đặc bit là s thiếu minh bch trong h thng vin tr ca Trung Quốc đã bị ch trích.
rng rãi c bên ngoài ln bên trong Trung Quc. Trong khi nhn thc của phương Tây thường cho rng bí mt có ch ý (ví d, Brautigam 2009: 2),
các hc gi Trung Quc cho rằng đó là do tính phức tp cao và
s phân mnh (Hu và Huang 2012; Huang và Ren 2012; Cao 2013; Hu 2013). Dù thế nào đi nữa, vic thiếu tính minh bạch đã làm dấy
lên suy đoán về động cơ của Bc Kinh.
Không th hiểu được động cơ viện tr ca Trung Quc nếu không hiu rõ v lâu dài
lch s của chương trình viện tr ca nó. Mc dù Trung Quốc thường được gi là nhà tài tr 'mi ni' hoc 'mi' (ví d:
Qun lý 2006; Walz và Ramachandran 2011; Hernandez 2017), lch s vin tr ca nó có th bt ngun t
những ngày đầu của nước Cộng hòa Nhân dân.1 Tuy nhiên, như Mawdsley (2012: 262) đã nói, 'phương Tây
phn ln các khu vực địa lý giàu trí tưởng tượng ca vin tr ớc ngoài đã không nhn ra tm quan trọng đáng kể
s hin din ca Trung Quc. Trên thc tế, Trung Quốc đã bắt đầu vin tr t đầu những năm 1950, lần đầu tiên là h tr Triu Tiên.
vic tái thiết sau Chiến tranh Triều Tiên, và ngay sau đó là Việt Nam và gần đây
các nước láng ging phi thuộc địa phía Nam và Tây Nam, để đảm bảo độc lp và phát trin
quan h hu ngh (Lin 1993, 1996). Campuchia, Nepal và Ai Cp là nhng quc gia không cng sản đầu tiên
c nhận vào năm 1956 (Bartke 1989).
2
Để mô t s m rộng địa lý ca vin tr ca Trung Quc,
Hình 1 th hin bản đồ thế gii minh họa năm thực hin d án sơ cứu ca mi quc gia tiếp nhn theo thp k.
Năm 1956, Thủ ớng đầu tiên ca Trung Quốc Chu Ân Lai đặt tên là “cùng có lợi” (cùng với tôn trng ch quyn
quc gia) là nguyên tc ch đạo vin tr và hp tác kinh tế ca Trung Quc,
3
và liên kết nó vi mô hình vin tr ca Liên Xô mà Trung Quốc là nước nhn:
Da trên nguyên tắc này [sic.] mà các nước Xã hi ch nghĩa đã thiết lp mt loi hình chính quyn mi.
quan h kinh tế vi nhau. Vin tr kinh tế và k thut hu ngh ca Liên Xô
1
Kobayashi (2008) và Brautigam (2009) cung cp cái nhìn tng quan toàn din v lch s vin tr ca Trung Quc.
Johnston và Rudyak (2017) đã chỉ ra vin tr ca Trung Quc hiện nay được định hình như thế nào bi những thay đổi toàn cu.
2
D liu lch s ph biến sm nht v vin tr ca Trung Quốc được thu thp bi Nhà Hán hc người Đức Wolfgang Bartke (1989) và hc gi người Đài Loan về Trung
Quc Lin Teh-chang (1993).
3
Sau khi ký hiệp ước hu ngh Trung-năm 1950, Liên Xô bắt đầu cung cp h tr cho Trung Quốc dưới hình thc các khoản vay ưu đãi, “gắn” với vic mua hàng
hóa, vt liu chiến tranh t Liên Xô và thường kèm theo các khoản vay ưu đãi. cho các chuyên gia k thut Liên Xô. Xem thêm Asmus và cng sự. (2017) để đánh giá
tài liu v vin tr ca Nga (và BRICS khác).
2
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Liên minh đã đưa ra cho Trung Quc mt ví d tuyt vi v loi mi quan h này. [Liên Xô], Trung Quc và các
c xã hi ch nghĩa khác đang mở rng hp tác kinh tế vi
nhiu quc gia Châu Á và Châu Phi da trên nguyên tc này [sic.] […]. (Chu 1956; dch t tiếng Trung
Rudyak 2014: 6)
Đồng thi, bài phát biu lch s ca Chu cho thy Trung Quc coi đc lp kinh tế
quan trng đ đạt được s độc lp chính tr (khi M và phương Tây)—cho chính nó và cho các nước khác các quc gia phát
trin:
Trung Quc là mt nưc va mi đưc gii phóng. Nn kinh tế c ta còn rt lc hu;
chúng ta vẫn chưa đạt đưc s độc lp hoàn toàn v kinh tế […] Nhưng chúng ta đã hiu rng Đc lp kinh tế có ý
nghĩa quan trng trong vic cng c độc lp chính tr.
Vì vậy, trong khi chúng ta thúc đẩy vic xây dng nn kinh tế ca mình, chúng ta mong mun, trong gii hn kh năng của
chúng tôi, để đóng góp lực lượng ít i của chúng tôi để giúp đỡ nn kinh tế s phát trin của các nước khác. (Chu 1956;
dch t tiếng Trung Quc trong Rudyak 2014: 6)
Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi là nước nhn vin tr của Liên Xô, các nhà lãnh đạo Trung Quc vn duy trì quyn s hu
trong suốt quá trình, điều chnh nó cho phù hp vi chiến lược xây dng quc gia ca h (Watanabe 2013: 88-89). Điều này đã đặt ra
nn tng cho quan đim ca Trung Quc v h tr phát trin, c th là (v mt kinh tế) cn
ch yếu phc v chiến lưc phát trin t quyết ca mt quc gia.4 S chia r Trung-Xô thi k đầu
Những năm 1960 đã củng c quan điểm ca Trung Quc rng vin tr ch nên được s dụng như một phương tiện để đạt được mc tiêu kinh tế.
s t lc. Điu này là do Trung Quc hin buc phi hoàn thành các d án vin tr mà Liên Xô đã khi đng. một mình, đồng thi vn
tr các khoản vay cho Mátxcơva. Kinh nghiệm này sau đó đưc th hiện trong “Tám nguyên tắc vin tr kinh tế và k thut”, đưc Th
ng Trung Quc Chu Ân Lai công b vào ngày
chuyến thăm châu Phi năm 1964 (CCPN 1964). Cùng vi li ích chung và tôn trng ln nhau vì li ích dân tc
ch quyn, nhng nguyên tc này nhn mnh đến tính vô điu kin v mt chính tr và vic đt đưc kh năng t lc. Theo các tuyên b chính
thc, Tám Nguyên tc vn có giá tr như những hưng dẫn cơ bản cho
Vin tr c ngoài ca Trung Quc (Chen 2010, 2011).
Vi chính sách “Ci cách và m ca” ca Đng Tiu Bình sau năm 1978, Trung Quc cũng m ca nhn đưc s
h tr phát trin ca Nht Bản và phương Tây. Trng tâm chung ca đt nưc chuyn t đấu tranh tư tưởng vì li ích kinh tế
ca nó. Đi mt vi câu hi có nên dng li không
vin tr cho các nước khác vì Trung Quc cn ngun lc hn chế cho mình, ban lãnh đạo quyết đnh rng
vin tr như một công c chính sách đi ngoi s vn là công c to ra một môi trường ổn định cho Trung Quc phát trinđiều này cũng
có nghĩa là Liên Xô và M vn b coi là mt mi đe da (Shi
4
Điu này th hin rõ trong din ngôn v vin tr ca Trung Quốc cho đến ngày nay, chng hn như trong tuyên bố ca các chuyên gia vin tr Trung Quốc như học gi
Li Anshan của Đại hc Bắc Kinh, người lp lun rằng “chúng ta không thể thiết lp mt kế hoạch cho Châu Phi. Thay vào đó, chúng ta có thể tham gia cùng h trong n lc
ch không áp đặt kế hoch cho họ” (Adu-Gyamerah 2014).
3
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
1989; trích dn trong Brautigam 2009: 51). Tuy nhiên, chi tiêu vin tr đã được gim bt, nhn mnh vào
các d án mang li li ích trc tiếp cho chương trình nghị s hiện đại hóa kinh tế ca Trung Quc. Tht vy, s liu thng kê cho thy
ngân sách vin tr những năm 1980 giảm mnh so vi đu những năm 1970 (Dreher và Fuchs 2015).
S thay đổi đó được cng c trong chuyến thăm của Th ng Triu T Dương tới Tanzania năm 1983 (Nhân dân Nhật báo 1983), nơi ông công bố “Bốn
nguyên tc hp tác kinh tế và k thut Trung Quc-Châu Phi”. Các “Bốn nguyên tắc” nhấn mnh li ích chung, kết qu thiết thực, đa dạng v hình thc và
phát triển. Đầu tiên, chúng đánh dấu s thay đổi theo hướng đạt được li ích kinh tế chung cho c hai đối tác. (Yu 1988); và th hai, bng cách
nhn mạnh “sự phát triển chung”, họ phản ánh quan điểm của Đặng Tiu Bình t b lý tưởng t cung t cp ca Mao Trạch Đông mà theo ông
là không phù hp vi s m ca ca Trung Quc
ng lên.
T gia những năm 1990, viện tr ngày càng tr nên quan trọng như một kênh thúc đẩy s phát trin ca Trung Quc. ngoại thương và đầu tư. Áp
dng mô hình vin tr ca Nht Bn gn vin tr với thương mại và đầu tư, Trung Quốc đưa ra “Đại chiến lược kinh tế và thương mại” vào tháng 12 năm 1994
(Ma
1994), và ngay sau khi thành lp Ngân hàng Xut nhp khu Trung Quốc (Exim Bank) để vận hành chương trình cho vay
ưu đãi.
Diễn đàn cấp cao v Hp tác Trung Quc Châu Phi (FOCAC)5 năm 2006 đã thu hút sự quan tâm đặc bit ca cộng đồng quc tế.
chú ý khi Trung Quc ha s tăng gấp đôi viện tr cho các nước châu Phi vào năm 2009 trong khuôn khổ Hiệp định
Kế hoạch hành động ca Bắc Kinh, đồng thi thành lp Qu phát trin Trung Quc-Châu Phi (FOCAC) tr giá 5 t USD 2006). Trung Quc qu thc
đã liên tục gia tăng các cam kết của mình và ngày nay nước này là mt trong những nưc
nhà cung cp tài chính phát trin quan trng nhất. Trong giai đoạn 2000-2014, AidData đã có thể theo dõi hơn 4.300 dự án ti
140 quc gia và vùng lãnh th (Dreher et al. 2017). Tng tài chính
giá tr ca các d án này vượt quá 350 t USD, điều đó có nghĩa là nguồn tài chính phát trin ca Trung Quốc đang lớn gn bng 395 t USD ca
Hoa K. Tài chính phát trin ca Trung Quc và Hoa K có th có giá tr
có kích thước tương tự nhau, nhưng chúng khác nhau đáng kể v thành phần: chưa đến mt phần tư diện tích ca Trung Quc tài chính có th đưc phân
loi là h tr phát trin chính thc (ODA) theo định nghĩa của OECD
(so vi 93% ngun tài chính phát trin ca Hoa K).
6
Bn phác tho ngn gn v lch s vin tr ca Trung Quc nêu bt ba yếu t chính thúc đẩy vin tr của nước này. đưa ra: động cơ chính trị (ví
d: phấn đấu để đưc công nhn), lợi ích thương mại (chng hạn như thương mại và xúc tiến đầu tư) và các mối quan tâm nhân đạo (đáng chú ý nhất là mong
mun h tr các quc gia khác).
phúc li của các nước đang phát triển). V mt này, vin tr ca Trung Quốc không có gì đặc biệt, như có thể thy trong
5
Năm 2000, Trung Quốc thành lp FOCAC vi mc tiêu xây dựng “một nn tng [cho] Trung Quốc và các nước châu Phi thân thiện để tham vấn và đối
thoi tp th cũng như một cơ chế hp tác giữa các nước đang phát triển, thuc phm trù hp tác Nam-Nam” (Xinhua News Cơ quan 2006). Hội ngh
thượng đỉnh ba năm một ln k t đó đã luân phiên giữa Trung Quc và mt quc gia châu Phi.
6 Xem http://aiddata.org/china (truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2017).
4
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
tài liệu đầy đủ v vai trò ca li ích chính tr, kinh tế nhân đạo trong vic phân b vin tr ca cái gi là các nhà tài tr phương
Tây “truyền thống” các tổ chc tài chính quc tế (ví d: Schraeder et al. 1998; Kuziemko Werker 2006; Vreeland Dreher
2014). Tuy nhiên, Trung Quc li khác ch
ni dung chi tiết v li ích ca mình và s nhn mạnh rõ ràng vào “lợi ích chung” trong việc theo đuổi li ích ca mình mc tiêu chính tr, kinh tế và phát
trin.
Chương này cung cấp mt cái nhìn tng quan v các tài liệu phân tích động cơ viện tr ca Trung Quốc trong đóng góp học thut trong
khoa hc chính tr, kinh tế, nghiên cu phát trin và Hán hc. Chúng tôi bắt đầu
bằng cách phân tích các động cơ chính trị ca Bc Kinh, tiếp theo là các phn v lợi ích thương mại và lái xe nhân đạo. Phn cui
cùng kết thúc bng mt bn tóm tt các phát hin và cung cp
gi ý cho nghiên cứu trong tương lai về vin tr c ngoài ca Trung Quc.
2. Động cơ chính trị
Trong tài liu v động cơ chính trị ca các nhà tài tr phương Tây đã có sự đồng thun rng rãi rng vin tr tin h tr các đồng minh chính
tr, trng pht k thù, giúp xây dng liên minh và nhm mục đích cải thiện dư luận các nước tiếp nhn (ví d, Morgenthau 1962; Bueno de
Mesquita và Smith 2007,
2009; Dreher và cng sự. 2008). Như Dreher và cộng s. (sp xut bn) ghi chú, các lý thuyết v chính tr quc tế nn kinh tế cung cấp “một vài lý
do tại sao người ta mong đợi các nhà tài tr không phải phương Tây hành xử nhiu
khác đi.” Quả thc, các ngun tin chính thc ca Trung Quc luôn tha nhn rng vin tr c ngoài là mt phn quan trng. công c ngoi giao ca Trung
Quc Vì c hai phiên bn tiếng Anh và tiếng Trung ca li m đầu ca China's
Sách trắng đầu tiên v vin tr c ngoài (SCIO 2011a) chi tiết: “thông qua viện tr c ngoài, Trung Quốc đã củng c quan h hu ngh và hp tác
kinh tế và thương mại với các nước đang phát triển khác.”7 Trong khi Khái niệm “củng c quan h hu nghị” nghe có vẻ khá mơ hồ, đó là tifa8 thường
xuyên xảy ra sau đó.
việc đề cập đến “viện tr ớc ngoài”. Ý nghĩa chính xác hơn của nó có th đưc hiểu là đảm bo một điều kin thun lợi môi trường quc tế cho s
phát trin chung ca Trung Quc và h tr s tri dy của đất nước
tình trng quyn lc toàn cầu. Theo đó, chính sách đối ngoại và động cơ trong nước ph thuc ln nhau: trong phm vi
S lãnh đạo ca Trung Quc, hiện đại hóa và tăng trưởng kinh tế được coi là điều kin tiên quyết cho c s phát trin ca Trung Quc.
nổi lên như một quyn lc kinh tế và chính tr và để duy trì tính hp pháp và quyn lc ca
7
Trong vic s dng vin tr cho mục đích chính trị, Trung Quc không khác bt k c tài tr lớn nào khác. Chương trình Phục hi Châu Âu (ERP) ca
Hoa Kỳ, thường được gi là Kế hoch Marshall, không ch nhm mục đích hỗ tr tái thiết các nước Châu Âu sau Thế chiến th hai, mà trước hết là nhm
ngăn chặn s lan rng ca ch nghĩa cộng sn Xô viết. Một lượng tài liu phong phú v kinh tế và khoa hc chính tr nhn mnh
vai trò ca vin tr như một công c chính sách đối ngoi của các nước phương Tây (ví d, Maizels và Nissanke 1984; Schraeder et al.
1998; Alesina và Dollar 2000; Kuziemko và Werker 2006; Vreeland và Dreher 2014).
s 8 Ngôn ng chính tr Trung Quốc được mã hóa cao độ; tifa là nhng biu hin chính tr đưc chính thức hóa, được đặc trưng bởi một đặc tính c th ca s
nghèo nàn v ngôn ng (giống như Ngôn Mới). Chúng là mt phn thiết yếu ca nn chính tr Trung Quốc và giúp hình thành cơ cấu quyn lc trong h
thng chính tr Trung Quc (Schoenhals 1992).
5
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Đảng Cng sn Trung Quc. Vì vy, khi các quan chc chính ph Trung Quc nói v vin tr ca Trung Quốc “đôi bên cùng có lợi”
(SCIO 2011b), v mt chính tr nó phải được hiu là mt chức năng của
động cơ trên.
Chính sách Mt Trung Quốc: Động lực để đưc quc tế công nhn
Sau tuyên b vào tháng 10 năm 1949, nước Cng hòa Nhân dân Trung Hoa mi (PRC) phi đi mt vi s cách ly. Hoa K
và cùng vi h là phn lớn các nước phương Tây đã từ chi
nhn ra nó và nhìn thấy Tưởng Gii Thạch, nhà lãnh đạo ca Cộng hòa Trung Hoa lưu vong có trụ s tại Đài Bắc chính ph, với tư cách là đại din
hp pháp ca Trung Quốc. Hơn nữa, sau năm 1951, Trung Quốc phải đối mt vi M-dẫn đầu lnh cm vn kinh tế sau khi tham gia vào Chiến tranh
Triu Tiên. Theo quan chc Trung Quc
văn bản lch s, chính trong bi cnh này mà Trung Quc bắt đầu cung cp vin tr ớc ngoài đầu tiên (cho Bc Triu Tiên tái thiết). Như vậy, ngay t đầu,
vin tr ớc ngoài đã là phương tiện để Trung Quc m rng phm vi
ảnh hưởng và cô lp Trung Hoa Dân Quc tại Đài Loan – nơi sau này được biết đến với cái tên “Một Trung Quốc”.
Chính sách." Sau Hi ngh Bandung năm 1955, Trung Quốc bắt đầu vin tr cho các nước Đông Nam Á
(1955) và đến Châu Phi cn Sahara mới được giải phóng (1956) và được công nhn v mt ngoi giao
trao đổi. Cuộc xâm lược Tip Khc của Liên Xô vào tháng 8 năm 1968 và các cuộc đàm phán hòa bình đồng thi gia M và Vit Nam to
cơ hội cho Trung Quc gim bớt căng thẳng
Hoa K. Nhng n lc ca Trung Quc nhằm được quc tế công nhận đạt đến đỉnh điểm t năm 1969 đến 1970, vi vin tr
ca Trung Quốc tăng gấp 15 ln, lên ti 64,9% tng vin tr ca cng sn quốc gia năm đó (Copper 2016: 152). Họ t ra thành
công: vào năm 1971, phần lớn các nước
đã bỏ phiếu ng h ngh quyết ca Albania tha nhận nước này tham gia Liên hp quc (LHQ)và lần lượt loi tr Đài Loan. Hình 2 cho thấy s ng
ngưi nhn vin tr tăng vọt trong năm sau cuộc b phiếu, cho thy rng
các quốc gia sau đó đã được khen thưởng vì hành vi b phiếu ca họ. Ngày nay, các nhà lãnh đạo Trung Quc công khai
tha nhn rng vin tr đã giúp Trung Quốc giành được phiếu bu ca Liên hp quc. Nói v tương lai của “Vành đai và Con đường”
vào tháng 4 năm 2016, Bộ trưởng B Thương mại Cao H Thành đã nhắc li rằng “năm 1971, với s giúp đỡ ca
vin tr c ngoài, Trung Quc nhận được s ng h rng rãi của các nước thuc Thế gii th ba, đã thành công trong việc thoát ra khi thế gii
b bao vây chính tr và gia nhp Liên hp quốc” (Gao 2016).
Kết qu kinh tế ng ca Dreher và Fuchs (2015) phù hp với quan điểm rng trong những ngày đầu Vin tr ca Trung Quc ch yếu
đưc dn dt bởi động cơ chính trị. Trong giai đoạn 1956-1978, các quc gia có liên kết b phiếu cht ch hơn với Cng hòa Nhân dân Trung Hoa
(PRC) ti Liên Hp Quc (hoc ít liên kết hơn với Trung Hoa Dân Quc (ROC) Đài Loan trước năm 1971) đã nhận được nhiu d án vin tr ca
Trung Quốc hơn đáng kể.
Nhìn chung, kết qu cho thy các yếu t chính tr, chng hạn như lập trường ca quc gia tiếp nhận đối vi Chính sách Mt-
6
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Chính sách ca Trung Quc, s chia s của các nước trong vin tr ca Trung Quốc trong giai đoạn này b ảnh hưởng nng n hơn so với giai đoạn sau
thi k vin tr ca Trung Quc
Tm quan trng ca lập trường ca mt quốc gia đối vi Chính sách Mt Trung Quc trong vic phân b vin tr ca Trung Quốc đã được duy trì cho đến
ngày nay. Quá trình chuyển đổi dân ch của Đài Loan vào cuối những năm 1980 diễn ra sôi nổi tăng cường “ngoại giao s séc” của c Đài Bắc và Bc Kinh (Brautigam
2010). Khi Đài Loan cố gng
tái gia nhp Liên hp quốc vào tháng 9 năm 1993, tất c nhng quốc gia đã bác bỏ trường hp của Đài Loan—vi ngoi tr Nga, Ấn Độ
Slovakialà những nước nhn vin tr ca Trung Quốc vào đầu những năm 1990 (Lin 1996:
53-54). Thm chí ngày nay, Trung Quc vn s dng vin tr để thưởng cho nhng quc gia tuân th Chính sách Mt Trung Quc và không tuân th Chính sách Mt Trung Quc.
công nhn chính ph Đài Bắc. Các biện pháp hành chính đối vi vin tr ớc ngoài (MOFCOM 2014) xác định rằng “các
c nhn vin tr ớc ngoài chính là các nước đang phát triển đã thành lập quan h ngoi giao vi Trung Quốc.” Điều
này có nghĩa là ngoại tr h tr nhân đạo sau
thm ha (ví d Tubilewicz 2012), “những nước công nhận Đài Loan” không nên nhận vin tr ca Trung Quc. Thc vy, bng A ca Hình 3 nhn
mnh rng các quc gia công nhn chính ph Đài Bắc hầu như nhận đưc
không có vin tr và mt s trường hp ngoi l được thúc đẩy bi các quốc gia trước khi cắt đứt quan h với Đài Bc. Công vic gần đây bởi Dreher và cng s. (sp
xut bn) v Châu Phi trong giai đoạn 2000-2012 cho thy bng chng mnh m rng
Trung Quc cung cp ít ngun tài chính chính thức hơn cho các nước có quan h ngoi giao vi chính ph Đài Bắc và hiu ng này rõ ràng
hơn đối vi ODA so vi các dòng vn chính thức ít ưu đãi khác.
Nhận được s h tr t các t chc quc tế
Mc dù Trung Quốc đã thành công trong việc gia nhp Liên hp quốc vào năm 1971, viện tr c ngoài vn là công c để đảm bo quyn li ca Trung Quc.
h tr chính tr của các nước đang phát triển trong thi k xung đột gia Trung Quốc và phương Tây. Khi
Trung Quc phải đối mt vi các bin pháp trng pht kinh tế và cô lp ngoi giao ca nhiu quc gia sau cuc khng hoảng đàn áp các cuộc biu tình ca
sinh viên ti Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989, các cam kết vin tr ớc ngoài tăng khoảng mt phn ba t 223,5 triu USD (1989) lên 374,6
triu USD (1990) (Lin 1996:
37). Trong khi tng giá tr tài chính vn còn thấp hơn nhiều so vi mức đầu nhng năm 1970, số ng vin tr s ngưi nhận tăng lên khi
Trung Quc c gng tiếp cn càng nhiu quc gia càng tốt (Lin 1996). Đây cũng là
rt rõ ràng qua s gia tăng đột ngt s ợng người nhn vin tr vào năm 1989 và 1990 được trình bày trong Hình 2. Taylor (1998: 450) liên kết s gia tăng
này vi vic mua h tr chính tr và kết lun rằng “[s]uch a[naid] chính sách này là một cách nhanh chóng và tương đối r mà Bc Kinh có th thưởng cho
nhng quc gia
đã sát cánh cùng Trung Quốc trong cuc khng hoảng năm 1989 cũng như củng c mi quan h cho tương lai.”
Vin tr ớc ngoài cũng được hiu là nguyên nhân khiến h sơ nhân quyền ca Trung Quc nhận được rt nhiu s quan tâm. Hi đng Nhân quyn
Liên Hip Quc có ít s xem xét k ng bt chp các cuộc đàn áp người biu tình Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ
cũng như về các luật sư và nhà hoạt động chính tr gn lin vi phong trào Hiến chương 08 (nhất 7
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
ni bt đây là người đoạt gii Nobel Hòa bình vừa qua đời Lưu Hiểu Ba). Năm 2016,
s h tr của các nước châu Phi đã giúp Trung Quốc tiếp tc li Hi đng Nhân quyn Liên Hp Quc bt chp
phi đi mt vi s ch trích ln vào thời điểm đó. Như Taylor (1998: 451) lưu ý, Trung Quốc “[a]luôn lưu tâm đến thc tế rằng phương Tây chiếm thiu
s trong các t chc quc tế như Liên Hợp Quc, t chc tán tnh
s h tr t các quốc gia đang phát triển đã giúp Trung Quốc chng li thành công “chủ nghĩa bá quyền” của phương Tây ở mức độ thời điểm mà thế gii
hai cực cũ đang sụp đổ.” Tht vy, Strüver (2016) tìm thy mt s bng chng cho thy
mức độ tương đồng v phiếu bu ca các nước nhn vi Trung Quc ti Đi hi đng Liên hp quc (UNGA) s lớn hơn nếu các nước nhn
các d án vin tr ca Trung Quốc thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Tương tự, Pang và
Wang (2017: 188) cho thy rằng “một quc gia càng nhận được nhiu vin tr t Trung Quc thì càng không có kh năng bỏ phiếu theo
đưng li ca Hoa K tại UNGA”. Bng B ca Hình 3 cho thy các quc gia b phiếu phù hp vi Trung bình, Bc Kinh ti UNGA thc s nhn
đưc nhiu d án vin tr ca Trung Quốc hơn mỗi năm.
Xây dng mt hình nh quc tế tt
Đi đôi với những điều trên là động cơ của Trung Quc nhm xây dng hình nh mình là một nước có trách nhim.
bên liên quan trong chính tr quc tế. Tifa “cường quc có trách nhiệm” rất thường được nhắc đến trong
liên quan đến “viện tr ớc ngoài”. Như những đóng góp gần đây trong tài liệu khoa hc chính tr Trung Quc (ví d Jin
2009; Luo 2016) cho thy, nó ám ch trc tiếp ti bài phát biu v “các bên liên quan có trách nhiệm” của Hoa K lúc by gi. Th trưởng Ngoi giao
Robert Zoellick năm 2005. Câu hỏi của ông “Trung Quốc đâu” sẽ có trách nhiệm”
và làm thế nào để đối phó vi sc mạnh đang lên của Trung Qucmt tuyên b đại din cho cuc tho lun rộng hơn về liu Trung Quc s
là nước ng h hay thách thc trt t toàn cu hin ti - thường là
đưc Trung Quc gọi là “Lý thuyết v mối đe dọa Trung Quốc” (Jin 2009). Điều th hai được người Trung Quc nhn thc
chính ph có kh năng cản tr s tri dậy “hòa bình” của Trung Quc. Vì vy, vin tr ớc ngoài được s dụng như
mt công c để ci thin hình nh ca Trung Quc c ngoàihoặc, như chính phủ Trung Quc chính thức định nghĩa, “để
thúc đẩy quan h hu nghị” với các nước khác (ví d SCIO 2011). Như Luo (2016) viết, vin tr c ngoài
đại din cho s đóng góp của Trung Quc cho xã hi quc tế, th hiện “trách nhiệm của cường quốc” và giúp đỡ
để giành được s tán thành ca xã hi quc tế đối vi s tri dy ca Trung Quc. Ông cho rằng đó cũng là quyền lc mm cn thiết cho mt
“quyền lực đang trỗi dậy”. Tuy nhiên, bằng chng thc nghim M Latinh không cho thy rng
Chương trình viện tr ca Trung Quc thc s đã thành công trong việc nâng cao hình nh ca mình. S dng kho sát ct ngang lặp đi lp li d liu t Latinobarómetro,
Brückner et al. (2017) nhn thy rằng, trái ngược vi vin tr ca M, vin tr ca Trung Quc có
không có tác dng nâng cao hình nhc cp quc gia ln cấp địa phương. Bằng chng thc nghim Findley et al. (2017) cũng
gi ý rằng người dân Uganda thích vin tr ca Hoa K hơn viện tr ca Trung Quc.
Tăng cường tiếng nói ca Trung Quốc và các nước đang phát trin khác trong qun tr kinh tế toàn cu
s 8
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Cui cùng, vic vin tr ca Trung Quốc cũng phải được hiu trong bi cnh tham vng của nước này là tăng sức mnh
tp th và tiếng nói của các nước đang phát triển, đồng thi cng c
Trung Quc tuyên b là lãnh đạo ca h. Phát biu ti Diễn đàn Kinh tế Thế gii Davos vào tháng 1 năm 2017, Chủ tch Trung Quc
Tp Cn Bình nhn mnh các nn kinh tế mi nổi và đang phát triển đóng góp tới 80%
v s tăng trưởng ca nn kinh tế toàn cu (Xi 2017). Gi ý v cuc ci cách IMF tht bi, ông yêu cu rng
h “xứng đáng được đại din và có tiếng nói lớn hơn.” Trong đó, Trung Quốc điều hướng vai trò kết hp của mình như một nước đang phát triển
đồng thi là nn kinh tế ln th hai thế gii. Tuy nhiên, vic thành lp Ngân hàng Phát trin Mới BRICS (NDB) và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở H tng
Châu Á (AIIB)c hai
trong s đó được hiu là phn ng ca Trung Quốc trước cuc ci cách tht bi ca IMF và Ngân hàng Thế gii
qun tr - là nhng minh chng cho quyết tâm ca Trung Quc nhm có ảnh hưởng ln hơn trong việc định hình toàn cu qun tr kinh tế.9 Khi
các tuyên b chính thc ca Trung Quc nói v “bình đẳng, công bng và h tr ln nhau hợp tác” (ví dụ: kế hoạch 5 năm lần th 13 ; CCTP
2016) và “tôn trọng quyền độc lp ca nhau
la chọn con đường phát trin và h thng xã hội” (ví dụ, Xi 2015), trên thc tế có mt tm nhìn rõ ràng v cách thc s phát triển đó sẽ xy ra:
thông qua “sự liên kết ca các chiến lược phát triển”, “kinh tế vĩ mô phối hợp” và sử dng NDB, AIIB và Sáng kiến Vành đai và Con đường
(Rudyak 2017a). Đối vi Trung Quc,
điều này không có nghĩa là thách thức trt t kinh tế quc tế đã được thiết lp mà là dẫn đầu trong trt t đó.
ci cáchvi vin tr ớc ngoài như một phương tiện để đạt đưc s ng h.
3. Lợi ích thương mại
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, hiện đại hóa và phát trin kinh tế đã thay thế h tư tưởng làm ct lõi
người điều hành các chính sách đi nội và đối ngoi ca Trung Quốc. Điều này cũng được chuyn thành các chính sách vin tr ớc ngoài, trong đó
t đầu những năm 1980 trở đi, động cơ kinh tế bắt đầu đóng vai trò ngày càng quan trọng. Trong khi Ý tưởng v các mi
quan h “cùng có lợi” (như chúng ta đã thấy trên) không h mi, trong thời đại
của Đặng Tiểu Bình nó đã đạt được mt chiều hướng kinh tế mi. Trng tâm mới này cũng được th hin rt rõ ràng trong d liu. Dreher và
Fuchs (2015) nhn thy rằng, trái ngược với các giai đoạn trước, s ng vin tr ca Trung Quc
các d án cho thy mối tương quan tích cực vi tm quan trng ca mt quc gia với tư cách là điểm đến xut khu ca Trung Quốc trong giai đoạn 1979-
1987. Mt ln na, Trung Quc không phi là mt ngoi l đây. Lợi ích thương mại đã được
đưc tìm thấy để định hình vic phân b vin tr ca các nhà tài tr phương Tây (ví dụ, Fleck và Kilby 2006; Hoeffler và Outram 2011; Dreher và cng
s. 2015) và các nhà tài tr không thuộc DAC như Ấn Độ (Dreher và cng s 2011; Fuchs và Vadlamannati 2013).
9
Pratt (2017) phân tích s phát trin nhanh chóng ca các ngân hàng phát trin. Wang (2016) tập trung vào AIIB và điu tra quyết định ca
các nước tham gia ngân hàng phát trin do Bắc Kinh lãnh đạo.
9
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
M ca th trường quc tế cho doanh nghip Trung Quc “Đi ra ngoài”
Áp dng kinh nghim ca mình vi mô hình Nht Bn, Trung Quc bắt đầu s dng vin tr để thúc đẩy thương mại và đầu tư (Shimomura và
Wang 2012). Năm 1992, Trung Quốc thí điểm liên doanh vin tr c ngoài
vin tr kết hp với thương mại và đầu tư (Huang và Liu 2013: 65) và chính thức gii thiệu chúng như một phương thức hp tác vào
gia những năm 1990, cùng với các khoản vay ưu đãi được chuyn qua
Ngân hàng Xut nhp khu Trung Quc (Exim Bank) mi thành lập. Đồng thi, s kết thúc ca chế độ Apartheid
Nam Phi (1994) đã mang lại s ổn định kinh tế vĩ mô tương đối cho toàn khu vc, tạo điều kin thun li tm quan trng mi ca lc
địa châu Phi đối vi chiến lược kinh tế tng th ca Trung Quc (Johnston và Rudyak 2017: 438). Trong chuyến thăm Tổ chc Thng
nhất Châu Phi vào năm sau, người Trung Quc
Ch tch Giang Trạch Dân đề xut mt khái nim mi v “hp tác toàn diện” giữa Trung Quc và
Châu Phi: ct lõi là các liên doanh và các khoản vay ưu đãi (Jiang 1996; trích dẫn trong Johnston và Rudyak 2017), do các công ty
Trung Quc thc hiện trên cơ sở các tha thun quc tế
gia chính ph Trung Quốc và người nhn. Bng cách này, h đóng vai trò là “người m cửa”,
cho phép các công ty hoạt động trong một môi trường tương đối không có ri ro và gii thiu các
sn phẩm cho các nước đang phát triển và được h thanh toán bng ngun tài chính chính thc ca Trung Quc. Nhìn li vai trò ca vin tr c
ngoài đối vi quá trình quc tế hóa ca h, Luo (2016) viết: “Sinohydro, Trung Quốc
Tng công ty K thuật Đường st, Xây dựng Đường st Trung Quc, CRBC, CNPC, CCECC và các công ty ln khác
các công ty có th vào châu Phi mt cách suôn s, không th tách ri khi vin tr ớc ngoài.” Sau hậu qu ca
khng hoảng tài chính châu Á năm 1997, “Đi ra ngoài” (zou chuqu) đã được chính thc hóa thành một chính sách vào năm 1999.
liên quan, không có gì đáng ngạc nhiên khi “các công ty tư nhân thực hiện bước đi đầu tiên” trong việc xây dng kế hoạch ban đầu
đề xut d án (Sato et al. 2011: 2099).
Sau cuc khng hong tài chính toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng trưởng Trung Quc chm li k t khong
2011đưc gọi là “Bình thường mi”—làm tăng áp lực lên vin tr c ngoài ca Trung Quốc để phc v hơn nữa nhu cu của nước này.
mc tiêu kinh tế ca riêng mình. Trong mt bài báo xut bản năm 2012, Phó Chủ tch Exim Bank lúc by gi là Zhu
Hongjie nhn mnh s cn thiết phi m rng vin tr c ngoài nhằm đa dạng hóa th trường cho doanh nghip Trung Quc:
“[W]e cần m rộng hơn nữa phm vi ca các khoản vay ưu đãi và tích cực khuyến khích và h tr các doanh
nghip mnh ca Trung Quốc có uy tín tham gia vay ưu đãi
các chương trình. Vừa phc v chiến lược ngoi giao chính tr, kinh tế của đất nước, chúng ta cn
tn dng tt nht các khoản vay ưu đãi để thúc đẩy xut khu ca Trung Quốc.” (Mạng kinh tế Trung Quc 2012; dch t tiếng Trung
Johnston và Rudyak 2017: 442)
Thc tế B Thương mại (MOFCOM), cơ quan điều phối hàng đầu v vin tr ca Trung Quốc chương trình này
đưc hiu là s th hin s thng tr ca động thương mại Bc Kinh vin tr (Lammers 2007). Kết qu định
ng ca Dreher et al. (sp có) ch ra rng
10
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
phân b các hình thức lao động chính thức ít ưu đãi hơn và do đó có định hướng thương mại hơn
tài chính, chng hạn như các khoản vay ca Ngân hàng Exim hoc Ngân hàng Phát trin Trung Quốc, được hướng dn bi các chính sách thương mại.
mức độ lớn hơn so với vin tr phát triển có tính ưu đãi cao, tức là vin tr theo nghĩa chặt ch.
Đảm bo quyn tiếp cn tài nguyên thiên nhiên
“Phép màu tăng trưởng” của Trung Quc (Lin và cng s 2003) đã khiến nước này tr thành quc gia nhp khu dầu ròng vào năm 1993 và là nước nhp khu du ln th ba thế gii.
ngưi tiêu dùng sau Hoa K và Nht Bản vào năm 1996. Vào thời điểm Trung Quc gia nhập WTO (2001), nước này đã là nước nhp
khu du ln th hai sau Hoa K. Da vào nhp khu khong mt
phn ba ngun cung ca mình, vic tìm kiếm an ninh năng lượng đã trở thành vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị s ca Bc Kinh. Mt cách t nhiên,
Châu Phi giàu tài nguyên tr thành điểm đến chính cho cuc tìm kiếm ca Trung Quc. S sụp đổ của phương Đông Khối vào đầu
những năm 1990 đã dẫn đến vic ct gim ngân sách vin tr của các nước thuc khi OECD y ban H tr Phát triển (DAC).10 Đồng
thi, ngun DAC sn có ngày càng gim
vin tr tr nên có điều kiện hơn thông qua việc áp dụng chung các chính sách điều chỉnh cơ cấu. Cái này
bi cảnh đã tạo ra mt nn tng hiu qu cho cái mà sau này được gọi là “Mô hình Angola”.
khuyến khích các công ty khai thác (ch yếu là quc gia) ca Trung Quốc “ra ngoài” vi các mức độ khác nhau h tr ngoi giao và
tài chính (Downs 2007: 48), cung cấp cho các nước đang phát triển những điều kin v
Vin tr và các khoản vay ưu đãi của Trung Quốc để đổi ly quyn tiếp cn tài nguyên thiên nhiên. Bt chp s khc nghit nhận được nhiu li ch trích,
hình thc cho vay này không phi ch Trung Quốc: các ngân hàng phương Tây thường s dụng hàng hóa để đảm bo cho các khon vay (Dollar
2016: 61). Tương tự như các khoản vay ưu đãi, dựa trên ngun lc
các khon vay là một phương thức trong đó Nhật Bn cung cp tài chính phát trin cho Trung Quốc vào đầu những năm 1980 và đã cũng được chính ph
Trung Quốc đánh giá là hình thức vin tr hiu qu và cùng có li (Brautigam 2009).
Nhiu hc gi đã nhấn mnh vic tiếp cn tài nguyên thiên nhiên là mc tiêu trng tâm ca Trung Quc.
vin tr (ví d, Alden 2005; Tull 2006; Davies 2007; Naím 2007). Lum và cng sự. (2009) đã cố gng chứng minh điều này
khẳng định vi d liệu được thu thp thông qua nghiên cu tin tc. H gi ý rng vin tr ca Trung Quc cho Châu Phi và khu vc Latin
c M được xác định bi lợi ích thương mại và ch yếu được thúc đẩy bi vic khai thác tài nguyên thiên nhiên tài nguyên. Tuy nhiên,
d liu ca Lum và cng sự—trong s nhng d liu kháccó s khác bit không chính xác
10
Theo Burnell (2009), trong thi gian này, các quốc gia thành viên DAC đã cung cấp mt t trng nh hơn (0,22%) trong Tổng thu nhp quc dân (GNI) ca
h so vi bt k thời điểm nào k t cui những năm 1940, tỷ l thc tế đã giảm khong 10% mỗi năm kể t năm 1990. , và 40% đến Châu Phi.
11
Năm 2005, IMF và các nước phương Tây đã gây áp lc buc Angola phi ci thin tính minh bạch trong lĩnh vực du m và thc hin các ci cách khác
như một điều kin tiên quyết để có được ngun vn vin tr. Đng thi, Trung Quốc đã cung cấp cho Angola mt khoản vay ưu đãi trị giá 2 t USD như một
phn ca gói vin tr dài hạn liên quan đến n lc giành quyền thăm dò dầu khí. Trung Quốc đã thắng thu Angola t chối các điều kin vin tr ca IMF.
Cùng với Nigeria, Angola là nước sn xut du chính b bin phía Tây châu Phi, vào thời điểm đó cung cấp cho Hoa K 15% lượng du nhp khu (Lyman
2005).
11
11
Bc Kinh
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
gia vin tr theo nghĩa hẹp và các hình thc tài chính chính thc khác. Tp trung vào một định nghĩa hẹp
vin tr ca Trung Quc, Dreher và Fuchs (2015) không tìm thy mi liên h cht ch nào gia vic phân b vin tr ca Trung Quc trên khp
c nhn tài nguyên thiên nhiên dồi dào trong giai đoạn 1996-2005. Tương tự, các
kết qu của Hendrix và Noland (2014, chương 5) xác nhận rng ODA ca Trung Quc không tuân theo quy lut t nhiên ngun tài nguyên.
Điều này cũng phù hợp vi Bng C của Hình 3, nơi chúng tôi chỉ ra rng các nhà sn xut du trung bình mỗi năm không nhận được thêm
d án vin tr nào ca Trung Quc. Dreher và cng s. (sp có) gii thích
thiếu s h tr thc nghim trong các nghiên cứu định lượng cho nhn thc rng các ngun lc dn dt vin tr ca Trung Quc. Sau khi tách ODA khi
các hình thc tài tr chính thức ít ưu đãi khác của Trung Quc, có v như
rng ch nhng hình thc tài tr chính thức ít ưu đãi hơn (chứ không phi vin tr theo nghĩa hẹp) mới được hướng dn bi s sn có ca du
các nước tiếp nhn.
4. Mi quan tâm v phát triển và nhân đạo
Trong sut lch s vin tr ca Trung Quc, các tài liu chính thc và các tuyên b của lãnh đạo đã
liên tc khẳng định rng Trung Quc vin tr để giúp các nước đang phát triển khác phát triển “tăng cường kh
năng phát triển độc lp ca họ” (Xi 2015), để “giảm nghèo” và
“cải thin sinh kế của người dân” (SCIO 2014). Sự tp trung mnh m ca vin tr c ngoài ca Trung Quốc vào cơ sở vt cht Ví dụ, cơ sở h tng da
trên nim tin của các nhà lãnh đạo Trung Quc rng nó cn thiết cho s phát trin kinh tế.
phát trin (Zhang và cng s 2015). Phus, vin tr c ngoài ca Trung Quốc cũng có thể phn ánh s phát trin và mối quan tâm nhân đo.
Bng D ca Hình 3 cho thấy các nước nghèo thc s nhận được nhiu hàng Trung Quốc hơn các dự án vin tr trung bình mỗi năm. Các
phân tích thc nghim kim soát các yếu t gây nhiu xác nhn rng
các nước nghèo nhận được nhiu vin tr ca Trung Quốc hơn các nước giàu, tt c các yếu t khác đều bình đẳng (Dreher và Fuchs 2015; Broich 2017;
Dreher và cng s. sp tới). Tuy nhiên, đây chưa phải là bng chng cho thy vin tr ca Trung Quc
mô hình phân b được hướng dn bi các mi quan tâm v phát triển và nhân đạo. Thu nhập bình quân đầu người có th cũng đo lường
mức độ d dàng trong việc mua các nhượng b chính sách t các nước nhận (xem Bueno de Mesquita và Smith 2009). Điều đáng lo ngại là
vic kim tra các mô hình phân b cấp địa phương cho thấy
rng các tnh phát triển hơn nhận được nhiều hơn là ít viện tr ca Trung Quốc hơn (Dreher và cộng s 2016).
“Viện tr nhân đạo” là một trong những phương tiện thc hin mục tiêu “Cải thiện đời sống nhân dân”
sinh kế” có thể đạt được. Nó được định nghĩa chủ yếu là vin tr được đưa ra như là phn ng khn cấp đối vi thiên nhiên.
thiên tai, tái thiết sau thiên tai và xây dựng năng lực phòng nga và cu tr thiên tai.
Tuy nhiên, vin tr nhân đạo ca Trung Quốc được thc hiện trên cơ sở khá “đặc biệt”.
12
Như đã được th hin bi
Li (2012) và UNDP (2015), quy mô ca nó ph thuc vào mức độ nghiêm trng ca cuc khng hong; máy ch-
12
Xem thêm Fuchs và Klann (2013) để biết phân tích kinh tế ng v vic phân b và tốc độ h tr thiên tai bng
các nhà tài tr không thuc DAC, bao gm c Trung Quc.
12
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
nhu cu ca đất nước; và mi quan h song phương ca Trung Quc vi quc gia b nh hưng. chính tr song phương
các mi quan h cũng ảnh hưởng đến quyết định phân b vin tr nhân đạo ca các nhà tài tr phương Tây (ví dụ, Drury et al.
2005; Fink và Redaelli 2011; Raschky và Schwindt 2012).
Động cơ nhân đạo cũng được th hin rõ trong hoạt động vin tr y tế ca Trung Quc.13 Trung Quc có truyn thống lâu đời v
phái các đi y tế đi khp thế gii, k t nhng năm 1950. Theo th hai
Sách trng (SCIO 2014), t năm 2010 đến năm 2012, Trung Quốc đã cử 55 đi gm
3.600 nhân viên y tế ti 54 quốc gia để cung cp các dch v y tế ti ch hoặc lưu động, điu tr gn by triu bnh nhân.
Đại diện Cơ quan Y tế và Kế hoạch hóa gia đình quốc gia Trung Quc
y ban (NHFPC) đã lp lun rng điu này t ra có giá tr trong đt bùng phát Ebola Tây Phi vào năm 2014: Bởi vì
Trung Quc có đi ngũ y tế có mt ti Sierra Leone, Liberia và Guinea,
nhng quc gia b nh hưng nng n nht, h có th thông báo cho Trung tâm Kim soát Dch bnh Trung Quc
giai đon đu ca đt bùng phát.
14
Sau đó, từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2014, Trung Quốc đã
đã đóng góp tng cng 123 triu USD và cam kết c hơn 1000 chuyên gia y tế ti
khu vc b ảnh hưởng (UNDP 2014). Tuy nhiên, đợt bùng phát Ebola cũng cho thấy s cn thiết phải vượt ra ngoài phm vi qung cáo.
h tr c th trên thc đa và góp phn xây dựng các cơ cấu y tế công cng bn vng. TRONG
Năm 2016, Trung Quốc đã xuất bản “Đề cương kế hoch Trung Quc lành mạnh năm 2030” trong đó xác định một “Trung Quốc toàn cầu” mới.
Chiến lưc Y tế” (CPCCC và SC 2016). Trong khi việc điu động các đội y tế vn là mt
quan trng trong chiến lưc mi, nó b sung thêm các yếu t mi mang tính h thống hơn như tăng đưa sức khe
ca ph n và tr em vào vin tr y tế và h tr xây dng h thng phòng nga và kim soát dch bnh.
Nhng hu qu phát trin ca vin tr Trung Quc là ch đề ca mt cuc tranh lun rng rãi hơn (ví d, Tull 2006; Asche và Schüller
2008; McCormick 2008). Naim (2007: 95) ph nhn vic các nhà tài tr lừa đảo như Trung Quốc có ý đnh h tr các nước khác phát trin kinh tế
vì h “được thúc đẩy bi mt
mong muốn thúc đẩy hơn nữa li ích quc gia của mình, thúc đẩy một chương trình nghị s v ý thc h, hoặc đôi khi sắp xếp
túi riêng.” Theo quan đim cc đoan ca ông, “[r]các nhà cung cp vin tr không th quan tâm hơn đến li ích lâu dài
phúc li của người dân các quc gia mà h “viện trợ” (trang 95). Những người khác khen ngi vin tr ca Trung Quc vì nó
tim năng tăng trưng. Ví d, Wang (2007: 21) viết rằng “[b]vì viện tr đưc s dng đ tài tr cho cơ sở h tng b sung
cho đầu tư vào các lĩnh vực sn xut hoc xut khẩu, nó giúp thúc đẩy tài tr t các ngun phi chính ph và gián tiếp kích
thích tăng trưng c tiếp nhn.”
Các hc gi Trung Quốc như He Wenping (Quản lý vin tr hiu qu 2008) cho rng không có quy đnh rõ ràng v
13
Điều này không có nghĩa là động cơ nhân đạo là động lc duy nht ca vin tr y tế. Như Shinn (2006) lưu ý, viện tr y tế cũng được coi là mt công c để nâng cao danh tiếng ca y
hc Trung Quốc và là “một cách thông minh và chi phí thấp để gii thiu thuc do Trung Quc sn xut ti th trường châu Phi”.
14
Cuc phng vn ca tác gi vi mt nhân viên ca y ban Kế hoạch hóa Gia đình và Sức khe Quc gia, Bc Kinh,
Tháng 3 năm 2016.
13
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
câu tr li cho câu hỏi “hệ thng h tr nào hoạt động tt nhất?” Bà lập lun rng vin tr ca Trung Quc tập trung vào các lĩnh vực Sc mnh so sánh ca Trung Quc,
cũng như người nhn và nhu cu ca Trung Quc - ơng tự như viện tr của phương Tây
các nhà cung cp.
Mt s phân tích điều tra xem vin tr ca Trung Quc có hiu qu trong việc thúc đẩy kinh tế hay không phát trin. S dng d liu
v hp tác kinh tế làm đại din cho vin tr ca Trung Quc, Busse et al. (2016) tìm
không có tác động mnh m nào t s hp tác kinh tế ca Trung Quc tới tăng trưởng kinh tế, trong khi thương mi Trung Quc xut hiện để có tác dụng thúc đẩy tăng
trưởng. Gần đây hơn, hai nghiên cứumt cấp độ xuyên quc gia và
mt cấp địa phương—điều tra các tác động phát trin ca ngun tài chính phát trin ca Trung Quc,
trong đó có ODA. Dreher và cộng s. (2016) nhn thy rng các d án phát trin ca Trung Quc dẫn đến s gia tăng phát triển địa phương của
các tnh châu Phi t chc các d án như vậy. K t khi toàn diện địa phương
S liu thng kê GDP không có sn Châu Phi, các tác gi s dụng lượng phát thải ánh sáng ban đêm bình quân đầu người là Các tnh Châu Phi là đại
din cho s phát trin của địa phương. Về mặt định lượng, kết qu ca h ch ra rng mt Ngun tài chính chính thc ca Trung Quốc tăng 10% sẽ thúc đẩy
GDP khu vực tăng khoảng 0,24%. Tương tự, Dreher et al. (2017) tìm thấy tác động tăng trưởng tích cc cp quc gia. Theo kết qu ca h (trang 20), “tăng
gấp đôi ODA Trung Quốc quc gia nhận trung bình làm tăng mức tăng trưởng của người nhn thêm 0,4 phần trăm
điểm.” Bất chp nhng tiến b này, vn còn mt chặng đường dài trước khi chúng ta có th nm bắt được đầy đủ hu qu ca các hot
động phát trin ca Trung Quốc đối với tăng trưởng và phúc li các nước tiếp nhn.
5. Kết Lun
Chương này thảo lun v các động cơ chính trị, kinh tế nhân đạo như động cơ thúc đẩy vin tr c ngoài ca Trung Quốc. sang các nước đang phát
triển khác. Liên quan đến động cơ chính trị, chính ph Trung Quc rõ ràng
coi vin tr là mt công c chính sách đối ngoại giúp đất nước to ra một môi trường quc tế thun li
môi trường cho s phát trin ca nước này và h tr ớc này vươn lên vị thế ng quc toàn cu. Lập trường này bc l mi quan h ph thuc ln
nhau giữa động cơ đối nội và đối ngoi ca Trung Quc, vì nn kinh tế ca Trung Quc
hiện đại hóa và tăng trưởng được coi là điều kin tiên quyết cho s ni lên ca Trung Quốc như một nn kinh tế và quyn lc chính trị—và cn
thiết để duy trì tính hp pháp và quyn lc của Đảng Cng sn Trung Quc
Bui tic. K t khi Trung Quc lần đu tiên bắt đầu vin trợ, nó đã được s dụng như một công c để tăng cường ảnh hưng ca Bc Kinh
qun tr toàn cầu, đặc bit là trong các t chc ca Liên hp quốc, và khen thưởng các quc gia tuân th Chính sách Mt Trung Quc.
Hơn nữa, vin tr ớc ngoài đã phục v và tiếp tc phc v như một công c để
ci thin hình nh ca Trung Quc c ngoài hay, như chính phủ Trung Quốc định nghĩa chính thức, “để qung bá quan h hu ngh” với các
c khác.
Lợi ích thương mại bắt đầu đóng một vai trò vào những năm 1980 với chính sách “Cải cách và m cửa” của Trung Quc.
Up”, khi hiện đại hóa và phát trin kinh tế thay thế h tư tưởng làm động lc ct lõi ca 14
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Chính sách đối nội và đối ngoi ca Trung Quốc. Đối vi vin tr ca Trung Quốc, điều đó có nghĩa là đôi bên cùng có lợi v li ích kinh tế ca chính
Trung Quốc. Ý tưởng này được phát triển hơn nữa vào những năm 1990 khi
Vin tr ca Trung Quốc cũng nhằm mục đích hỗ tr việc “ra ngoài” của các công ty Trung Quc. Khi Trung Quc tr thành nhp khu du ln th hai
thế giới vào năm 2000, họ bắt đầu cung cp các khon vay ngày càng nhiều để đổi ly
nguyên thiên nhiên để tăng cường an ninh năng lượng. Tuy nhiên, kết qu thc nghim cho thy rng không phi ODA ca Trung Quc mà
là các khon vay quy mô ln do các ngân hàng chính sách của nước này cung cp nhằm vào các nước giàu tài nguyên.
Cui cùng, vin tr c ngoài ca Trung Quốc cũng có thể đưc hiu là s phn ánh các hoạt động nhân đạo và động cơ phát triển.
Trong sut lch s vin tr ca Trung Quc, các quan chc của nước này đã liên tục khẳng định rng Trung Quc vin tr để giúp các nước đang phát
trin khác gim nghèo và
ci thin sinh kế của người dân tiếp nhận. Tăng trưởng kinh tế đưc hiểu là động lc chính cho
phát trin. Qu thc, nghiên cứu định lượng cho thấy các nước nghèo nhận được nhiu vin tr ca Trung Quốc hơn và rằng nhiu quc gia b
ảnh hưởng bởi thiên tai hơn sẽ nhận được nhiu h tr nhân đạo hơn, tất c đều bình đẳng. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy rng các khu vc nghèo
hơn trong các quốc gia nhận được ít s h tr hơn từ Bc Kinh.
Rõ ràng, ba động cơ chính của vin tr Trung Quc này có mi liên h vi nhau và mi liên h gia chúng.
tm quan trọng đã thay đổi trong lch s chương trình viện tr ca Trung Quc và tiếp tc phát trin.
i s lãnh đạo hin nay ca Ch tch Trung Quc Tp Cn Bình, vin tr c ngoài ngày càng nhận được nhiều hơn. chú ý như một công c
chính sách kinh tế và đối ngoi. Mt bng chứng đáng kể v s phát trin này là nhiu ln kêu gọi “tăng cường” và “cải cách” hệ thng vin tr
ca Trung Quc (ví d: China Economic Net
2012; Dương 2012). Tương tự như các lĩnh vực chính sách khác, vin tr c ngoài là mc tiêu chống tham nhũng của Tp Cn Bình
chiến dịch, và vào tháng 9 năm 2013, một báo cáo thanh tra ca y ban K luật Trung ương
ch trích kh năng tham nhũng trong các dự án vin tr c bit là c ngoài), nhng bất thường trong d án đấu thầu và các trường hp
điu chnh ngân sách ln (Beijing Times 2014; trích dn trong Rudyak 2014). Các
H thng vin tr ca Trung Quc rt phân tán. Mặc dù MOFCOM được ch định là cơ quan điều phi vin tr c
ngoài, nó không có thm quyền đối với hơn 20 chính phủ khác
các bộ, cơ quan liên quan đến vin tr c ngoài (Rudyak 2014). Tuy nhiên, khi khi lưng vin tr ca Trung Quc tiếp tc phát trin, vấn đề
ci cách ngày càng tr nên cấp bách. Đầu tháng 2 năm 2017,
cơ quan ra quyết định cao nht hin nay v ci cách kinh tế, Nhóm lãnh đạo của Đảng Cng sn v Ci cách sâu rng
toàn din do Tp Cận Bình đề ra sau khi ông kế nhim
quyn lực, đã thông qua “Hướng dn thc hin ci cách vin tr c ngoài” (Rudyak 2017b). Đó là có lẽ là lần đầu tiên
Nhóm Lãnh đạo đảm nhn vấn đề vin tr - như Tập đã từng
đưc trích dẫn sau đó—vì giới lãnh đạo hiu rằng “Trung Quốc phải hành động khôn ngoan hơn khi đưa tiền ra nước
ngoài” và cần tối ưu hóa bố cc chiến lược vin tr c ngoài (Huang
15
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
2017).
Xem xét tm quan trọng ngày càng tăng của vin tr Trung Quc, các cơ quan nghiên cu đnh tính hin có, bao gm phân tích
chuyên sâu v các ngun chính (tiếng Trung Quc) và nghiên cu đnh lưng,
bao gm các phân tích k ng v d liu đưc công b gần đây, rất hn chế. Trong khi nghiên cu định lượng
đã tiết l mối tương quan giữa mô hình phân b vin tr ca Trung Quc và các y quyn cho chính tr của nước này. li ích, tài liu v tác
động chính tr ca vin tr Trung Quc vn còn kém phát trin.15 Do khan hiếm nghiên cu, cn làm sáng t hơn vai trò ca các doanh
nghip nhà nưc có ảnh hưởng và
mi quan h đảng phái của các công ty tư nhân trong việc la chn các d án vin tr ca Trung Quc.16 Nghiên cứu trong tương lai nên cũng tìm cách điều tra k hơn
các mô hình phân b cấp địa phương và hậu qu phân b ca
Vin tr ca Trung Quc các nưc tiếp nhn Cui cùng, việc phân tích tác động ca du chân phát trin ca Trung Quc v các kết qu phát
trin khác ngoài tăng trưng kinh tế đáng được quan tâm hơn.
15
Xem Bader (2015a, 2015b), Hernandez (2017) và Li (2017) để biết những trường hp ngoi l gần đây.
16
Xem Zhu (2015) để có bng chứng định tính đầu tiên.
16
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Người gii thiu
Adu-Gyamerah, E. (2014), 'Châu Phi cần thương mại công bng ch không phi vin tr: Giáo sư Li Anshan', Graphic Online, ngày 2 tháng 4.
URL: www.graphic.com.gh/international/international-news/africa-needs-fair-trade-not-aids-prof-li-anshan.html
(07.11.2017).
Alden, C. (2005), 'Sao đỏ, vàng đen', Tạp chí Kinh tế Chính tr Châu Phi 32(104/5): 415419. Alesina, A. và D. Dollar (2000), 'Ai
cp vin tr c ngoài cho ai và ti sao?', Tp chí Kinh tế
Tăng trưởng 5(1): 3363.
Asche, H. và M. Schüller (2008), S tham gia ca Trung Quc vào Châu Phi Cơ hội và Ri ro cho
Phát triển, Eschborn, Đức: Deutsche Gesellschaft für technische Zusammenarbeit
(GTZ). URL:
http://s3.amazonaws.com/zanran_storage/www2.gtz.de/ContentPages/19176160.pdf
(07.11.2017).
Asmus, G., A. Fuchs và A. Müller (2017), 'BRICS và vin tr c ngoài', Tài liu làm vic v AidData s 43. Williamsburg, VA:
AidData.Bader, J. (2015a), 'Trung Quc, nhà bo tr chuyên quyn? Mt thc nghim
điu tra Trung Quốc như một yếu t cho s tn ti ca chế độ chuyên chế', Nghiên cu Quc tế Hàng quý 59(1):
2333.
Bader, J. (2015b), 'H tr nhng k độc tài? Hp tác kinh tế t Trung Quc và tác động ca nó ti
s kiên trì độc đoán trong các chế độ đảng phái và phi đảng phái', Tp chí Chính tr Châu Âu
Nghiên cu 54(4): 655672.
Bartke, W. (1989), Vin tr kinh tế ca Trung Quốc cho các nước xã hi ch nghĩa và đang phát triển, tái bn ln th 2, Munich, Đức: KG Saur Verlag
GmbH & Company.
Beijing Times [Jinghua shibao] (2014), 'MOFCOM x lý các vấn đề tham nhũng trong viện tr c ngoài. Li ha thành lp b phn giám
sát cán b để điu tra nhân viên [Shangwubu zhengzhi
yuanwai xiangmu lianzheng goti. Jiang she ganbu jandu chu cha yongren]', Beijing Times [Jinghua shibao], ngày
12 tháng 6, URL: http://news.ifeng.com/a/20140612/40695295_0.shtml (07.11.2017).
Brautigam, D. (2009), Món quà ca rng: Câu chuyn có tht v Trung Quc Châu Phi, Oxford, Vương quốc Anh; New York, NY:
Nhà xut bản Đại hc Oxford.
Brautigam, D. (2010), 'Trung Quốc, Châu Phi và cơ cấu vin tr quc tế', Phát trin Châu Phi Chui tài liu làm vic
ca Nhóm Ngân hàng (107), URL:
http://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.594.6351&rep=rep1&type=pdf (07.11.2017).
Broich, T. (2017), ‘Các chế độ độc tài có nhận được nhiu tài tr phát trin ca Trung Quốc hơn
những người dân ch? Bng chng thc nghim cho Châu Phi', Tài liu làm vic ca UNU-MERIT 201711.
17
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Maastricht, Hà Lan: Đại hc Liên Hp Quc-Nghiên cu Kinh tế và Xã hi Maastricht Viện đổi mi và
công ngh.
Brückner, L., VZ Eichenauer và A. Fuchs (2017), 'Tác động nhân qu của thương mại, vin tr và đầu tư đối vi Hình nh ca Trung Quc c
ngoài', bài viết trình bày ti Hi tho Thc nghim vin tr c ngoài Nghiên cứu: Quan điểm t công chúng nhà tài tr và người
nhận, Đại hc California Washington
Trung tâm, Washington, DC (14-15 tháng 4).
Bueno de Mesquita, B. và A. Smith (2007), 'Nhượng b chính sách và vin tr c ngoài', Tạp chí Xung đột Ngh quyết 51(2): 251284.
Bueno de Mesquita, B. và A. Smith (2009), 'Mt nn kinh tế chính tr vin tr', T chc Quc tế 63(2): 309340.
Burnell, P. (2009), 'Vin tr c ngoài: giảm nhưng không hết', Bn tin WIDER Angle, URL:
https://www.wider.unu.edu/publication/forign-aid-down-not-out (07.11.2017).
Busse, M., C. Erdogan và H. Mühlen (2016), 'Tác động ca Trung Quốc đối vi Châu Phi Vai trò của thương mại, FDI và vin tr', Kyklos 69(2): 228
262.
Cao, J. (2013), 'Nghiên cu mt s vấn đề cơ bản v vin tr c ngoài ca Trung Quc [Zhongguo kaizhan duiwai yuanzhu ruogan jiben goti
yinjiu], Tp chí của Đại hc Beihua (Khoa hc xã hi) [Beihua
daxue xuebao (shehui kexue ban)] (5): 97101.
Ủy ban Trung ương Đảng Cng sn Trung Quc (CCPCC) và Hội đồng Nhà nước (SC) (2016), 'CCPCCC và
Hi đồng Nhà nước công b đề cương kế hoch 'Trung Quc khe mnh 2030' [Zhonggong Zhongyang Guowuyuan
Fabu Jiankang Zhongguo 2030 Guihua Gangyao], ngày 25 tháng 10, URL: http://www.gov.cn/zhengce/2016-
10/25/content_5124174.htm (03.11.2016).
Tin tức Đảng Cng sn Trung Quc (CCPN) (1964), '1964.01.16 Tám nguyên tc vin tr c ngoài [1964 nian
1 yue 16 ri duiwai yuanzhu ba xiang yuanze]', Tin tức Đảng Cng sn Trung Quc [Zhongguo
gongchan dang xinwen], ngày 16 tháng 1, URL:
http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64165/76621/76638/5273141.html (07.11.2017).
Nhà xut bn Biên son và Dch thut (CCTP) (2016), Kế hoạch 5 năm kinh tế - xã hi ln th 13 S phát trin ca Cng
hòa Nhân dân Trung Hoa 20162020, URL:
http://en.ndrc.gov.cn/newsrelease/201612/P020161207645765233498.pdf (07.11.2017).
Chen, D. (2011), 'Công tác vin tr c ngoài ca Trung Quc', Tp chí Qiushi (Tìm kiếm s tht) 3(2), URL:
http://english.qstheory.cn/international/201109/t20110924_112578.htm (07.11.2017).
Chen, D. (2010), ‘Phấn đấu tạo bước tiến mi trong công tác vin tr c ngoài Thc hin triệt để tinh thn ca hi ngh làm vic quc gia
v vin tr c ngoài [Nuli kaichuang yuanwai gongzuo jumian shenru guanche luoshi quanguo yuanzhu gongzuo huiyi
jingshen]', Tìm kiếm s tht [Qiushi]
(19): 4244.
18
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Copper, JF (2016), Ngoại giao đầu tư và viện tr c ngoài ca Trung Quc, Tp II: Lch s và thc tin
Châu Á, 1950-nay, New York, NY: Palgrave Macmillan.
Davies, P. (2007), Trung Quc và vic chm dt nghèo đói Châu Phi ng ti li ích chung? Sundyberg, Thụy Điển:
Diakonia, Alfaprint.
Dollar, D. (2016), S tham gia ca Trung Quc vi Châu Phi, Washington, DC: Brookings, URL:
http://www.brookings.edu/research/papers/2016/07/china-africa-natural-human-resources-đô la
(07.11.2017).
Downs, E. (2007), 'Thc tế và hư cu v quan h năng lưng Trung-Châu Phi', China Security 3(3): 4268.
Dreher, A., P. Nunnenkamp và M. Schmaljohann (2015), 'Vic phân b vin tr ca Đc: tư lợi
và h tư tưởng ca chính ph', Kinh tế & Chính tr 27(1): 160184.
Dreher, A., P. Nunnenkamp và R. Thiele (2011), 'Các nhà tài tr 'mi' có khác bit không? So sánh các phân b vin tr
song phương giữa các nước tài tr nonDAC và DAC', Phát trin Thế gii
39: 19501968.
Dreher, A., P. Nunnenkamp và R. Thiele (2008), 'Vin tr ca Hoa K có mua được phiếu bu của Đại hội đồng Liên Hp Quc không? MT phân tích tách ri', La
chn công cng 136(1-2): 139164.
Dreher, A. và A. Fuchs (2015), 'Vin tr la đo? Mt phân tích thc nghim v phân b vin tr ca Trung Quc', Canada Tp chí Kinh tế 48(3):
9881023.
Dreher, A., A. Fuchs, R. Hodler, BC Parks, PA Raschky và MJ Tierney (2016), 'Vin tr theo yêu cu:
Các nhà lãnh đạo châu Phi và địa lý vin tr c ngoài ca Trung Quc', Tài liu nghiên cu AidData s 1.
3 (đã sửa đổi). Williamsburg, VA: D liu vin tr.
Dreher, A., A. Fuchs, BC Parks, AM Strange và MJ Tierney (2017), 'Vin tr, Trung Quc và tăng trưng:
bng chng t b d liu tài chính phát trin toàn cu mi', Tài liu nghiên cu ca AidData s 46.
Williamsburg, VA: D liu vin tr.
Dreher, A., A. Fuchs, BC Parks, AM Strange và MJ Tierney (sp xut bn), 'Táo và rng
thành qu: nhng yếu t quyết định vin tr và các hình thc tài tr nhà nước khác t Trung Quốc đến Châu Phi',
Nghiên cu quc tế hàng quý.
Drury, AC, RS Olson và DA van Belle (2005), 'Chính tr ca vin tr nhân đạo: nước ngoài ca Hoa K
h tr thiên tai, 1964-1995', Tp chí Chính tr 67(2): 454473.
Findley, MG, HV Milner DL Nielson (2017), 'S la chn gia các nhà tài tr vin trợ: tác động ca vin tr đa phương
và song phương v h tr hành vi của người nhn', Review of International T chc 12(2): 307334.
Fink, G. và S. Redaelli (2011), 'Các yếu t quyết đnh vin tr khn cp quc tế Nhu cu nhân đo ch?', Phát trin Thế
gii 39(5): 741757.
Fleck, RK và C. Kilby (2006), 'Những thay đổi chính tr ảnh hưởng như thế nào đến vic phân b vin tr song phương của Hoa K?
Bng chng t d liu bng', Tp chí Kinh tế Phát trin 10(2): 210223.
19
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Din đàn Hp tác Trung Quc-Châu Phi (FOCAC) (2006), 'Din đàn Hp tác Trung Quc-Châu Phi. Bc Kinh Kế hoch hành
động (2007-2009)', 16 tháng 11. URL: http://www.fmprc.gov.cn/zflt/eng/ltda/dscbzjhy/DOC32009/t280369.htm
(07.11.2017).
Fuchs, A. và N. Klann, (2013), 'H tr khn cp 2.0', Beiträge zur Jahretagung des Vereins für Chính tr xã hi 2013:
Wettbewerbspolitik và Regulierung in einer Globalen Wirtschaftsordnung, Phiên: Thương mi và Tài chính
Quc tế, S D08-V3.
Fuchs, A. và KC Vadlamannati (2013), 'Nhà tài tr thiếu thn: phân tích thc nghim v vin tr ca n Đ
động cơ', Phát triển Thế gii 44: 110128.
Gao, H. (2016), 'Xây dựng 'Vành đai và Con đường' khi đu mt giai đon m ca mi - B trưng Gao Hu Cheng đã tham d
lot bài giảng công khai 'Hướng ti Kế hoch 5 năm ln th 13' và
đã có bài phát biu quan trng [Yi 'Yi dai yi lu' jianshe wei tongling kaichuang duiwai kaifang xin jumian - Gao Huchen buzhang
chuxi 'Zhanwang shisanwu' xilie baogaohui bing zuo zhuanti jianghua]', B Thương mại CHND Trung Hoa [Zhonghua renmin
gongheguo shangwubu], 12 tháng 4,
URL: http://www.mofcom.gov.cn/article/ae/ai/201604/20160401294782.shtml (07.11.2017).
Hendrix, CS và M. Noland (2014), Đi mt vi li nguyn: Kinh tế và Đa chính tr ca t nhiên
Qun tr Tài nguyên, Washington, DC: Vin Kinh tế Quc tế Peterson.
Hernandez, D. (2017), 'Các nhà tài tr 'mi' có thách thức các điều kin ca Ngân hàng Thế gii không?', Phát trin Thế gii
96: 529549.
Hoeffler, A. và Outram V. (2011), 'Nhu cu, thành tích hoc li ích cá nhân Điu gì quyết đnh vic phân b vin tr?', Tp chí Kinh tế Phát
trin 15(2): 237250.
Hu, J. (2013), 'Quy tc thiết lp h thng qun lý vin tr c ngoài các nước phát trin và
phù hp vi Trung Quc [Fada guojia duiwai yuanzhu guanli tixi guize shezhi ji dui Zhongguo de qishi], Tp chí Đi hc
Công ngh Hà Bc (n bn Khoa hc Xã hi) [Hà Bc gongye daxue xuebao (shehuikexue ban)] (4): 2227.
Hu, J. và M. Huang (2012), 'Thc trng và ci cách qun lý vin tr c ngoài ca Trung Quc [Zhongguo duiwai
yuanzhu guanli tixi de xianzhuang yu gaige]', Kinh tế quc tế
Hp tác [Guoji jingji hezuo] (10): 5558.
Huang, K. (2017), 'Trung Quc phải hành động khôn ngoan hơn trong việc vin tr c ngoài, Tp Cn Bình nói', South China
Bài đăng bui sáng, ngày 9 tháng 2, URL: http://www.scmp.com/news/article/2069414/chinas-tch-xi-mun-khôn
ngoan hơn-cách tiếp cn-tng-vin tr c ngoài?utm_source=&utm_medium=& (07.11.2017).
Huang, M. và A. Liu (2013), ‘Động cơ kinh tế và li ích kinh tế ca vin tr c ngoài ca Trung Quc [Zhongguo duiwai yuanzhu
zhong de jingji dongji he jingji liyi]', Kinh tế quc tế
Hp tác [Guoji jingji hezuo] (4): 6267.
20
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Huang, M. và P. Ren (2012), ‘Viện tr c ngoài ca Trung Quc: chuyển đổi chính sách và xu hướng tương lai
[Zhongguo duiwai yuanzhu: Zhengce bianhua ji weilai qushi]', Kinh tế quc tế
Hp tác [Guoji jingji hezuo] (3): 8184.
Jiang, Z. (1996), 'Xây dng tr ct lch s mi cho tình hu ngh Trung Quc - Châu Phi - Bài phát biu ti hi ngh T chc Thng nht Châu Phi
[Wei Zhong-Fei youhao chuangli xin de lishi fengbei - Zai
Feizhou Tongyi Zuzhi de jianghua]', Nhân dân Nht báo [Renmin ribao], ngày 14 tháng 5: 6.
Jin C. (2009), 'T 'Lý thuyết v mối đe dọa ca Trung Quốc' đến 'Lý thuyết trách nhim ca Trung Quc' S thay đổi trong quan điểm ca Trung Quc
môi trường dư luận quc tế và phn ng ca [Trung Quc] [Cong 'Zhongguo weixie lun' dao 'Zhongguo
zeren lun' Zhongguo guoji yulun huanjing de bianhua yu yingdui], Green lá [Lü ye] (5): 6370.
Johnston, LA và M. Rudyak (2017), 'Vin tr c ngoài 'sáng to và thc dng' ca Trung Quốc: được định hình bi và hiện đang định hình toàn cu
hóa', trong Song L. và cng s, Ngun lực tăng trưng kinh tế mi ca Trung Quc,
Canberra: Nhà xut bn ANU: 431451.
Kobayashi, T. (2008), 'S phát trin ca chính sách vin tr ca Trung Quc', Tài liu nghiên cu ca JBICI (27), Tokyo: Ngân hàng Phát trin Nht Bn
Hp tác quc tế.
Kuziemko, I. và E. Werker (2006), 'Mt ghế trong Hi đng Bo an có giá tr bao nhiêu? Vin tr c ngoài và hi l ti Liên Hp
Quc', Tp chí Kinh tế Chính tr 114(5): 905930.
Lammers, E. (2007), 'Đồng thun Bc Kinh s mang li lợi ích như thế nào cho Châu Phi?', The Broker, URL:
thebrokeronline.eu/en/Magazine/articles/How-will-the-Beijing-Consensus-benefit-Africa (06.2010).
Li, X. (2017), 'Điều kin có còn hiu qu không? H tr phát trin và dân ch ca Trung Quc Châu Phi', Tp chí Khoa
hc Chính tr Trung Quc 2(2): 201220.
Li, X. (2012), 'Đặc điểm và vấn đề ca vin tr nhân đạo ca Trung Quc [Zhongguo duiwai rendao
zhuyi yuanzhu de tedian he goti]', Quan h quc tế đương đại [Xiandai guoji
guanxi] (2), URL:
http://niis.cssn.cn/webpic/web/niis/upload/2012/12/d20121208013641146.pdf
(07.11.2017).
Lin, JY, F. Cai và Z. Li (2003), Phép màu Trung Quc: Chiến lược phát trin và ci cách kinh tế, Sha
Tín, Trung Quc; Hng Kông, Trung Quc: Nhà xut bản Đại hc Trung Quc.
Lin, T. (1993), Chính sách vin tr c ngoài ca Cng hòa Nhân dân Trung Hoa: Phân tích lý thuyết, Ph.D.
Luận án, Đại hc Bc Illinois, DeKalb, IL.
Lin, T. (1996), 'Chính sách vin tr c ngoài ca Bc Kinh những năm 1990: tính liên tục và thay đổi', Các vấn đ và nghiên cu
32(1): 3265.
Luo, J. (2016), 'Chín đặc điểm ln ca vin tr c ngoài ca Trung Quc [Zhongguo duiwai yuanzhu de jiu da tese]', Vin tr quc tế
[Guoji yuanzhu] (4): 102106.
21
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Lum, T., H. Fischer, J. Gomez-Granger và A. Leland (2009), 'Hoạt động vin tr c ngoài ca Trung Quc Châu Phi, Châu M Latinh và Đông Nam
Á', Báo cáo CRS trước Quc hi (25 tháng 2), Washington, DC:
Dch v Nghiên cu Quc hi.
Lyman, P. (2005), 'Vai trò ngày càng tăng của Trung Quc Châu Phi', Bài trình bày trước y ban M-Trung vào ngày 21 tháng 6
2005, URL: http://www.cfr.org/china/chinas-rising-role-africa/p8436 (11/07/2017).
Ma, J. (1994), 'Wu Yi gii thiu khái niệm 'Đại chiến lược kinh tế và thương mại [Wu Yi
jiishao: 'Da Jiingmao zhanlüe' gouxiang]', Ch Trung Quc [Zhongguo shichang] (7): 9.
Maizels, A. và MK Nissanke (1984), 'Động lc vin tr cho các nước đang phát triển', World
Phát trin 12(9): 879900.
'Qun lý vin tr hiu qu: Bài hc cho Trung Quc?' (2008), Báo cáo Hi tho, Hi thảo do Cơ quan tổ chức Cơ quan Phát triển Quc tế
Canada (CIDA) và B Quc tế Vương quốc Anh
Phát trin (DFID), phi hp vi Trung tâm Gim nghèo Quc tế ti Trung Quc (IPRCC) và
Ngân hàng Thế gii Bc Kinh, 27-28 tháng 3, URL: http://www.iprcc.org.cn/ppt/2008-05-
15/1210812776.pdf (07.11.2017).
Manning, R. (2006), 'Liu 'các nhà tài tr mi nổi' có thay đổi b mt hp tác quc tế?, Đánh giá Chính sách Phát
trin 24(4): 371385.
Mawdsley, E. (2012), 'Các khu vực địa lý đang thay đổi ca vin tr c ngoài và hp tác phát trin:
đóng góp từ Thuyết quà tng', Giao dch ca Viện các nhà địa lý Anh 37(2):
256272.
McCormick, D. (2008), 'Trung Quc và Ấn Độ với tư cách là nhà tài trợ mi của Châu Phi: tác động ca vin tr đối vi s phát trin',
Đánh giá về Kinh tế Chính tr Châu Phi 35(115): 7392.
B Thương mại (MOFCOM) [Shangwubu] (2014), Biện pháp hành chính đối vi vin tr ớc ngoài (đối vi Thc hin th nghim
[Duiwai yuanzhu guanli banfa (shixing)] 15 tháng 11.
Morgenthau, H. (1962), ‘Một lý thuyết chính tr v vin tr ớc ngoài’, Tạp chí Khoa hc Chính tr Hoa K 56(2):
301309.
Naim, M. (2007), 'Mt liên kết: vin tr lừa đảo', Chính sách đối ngoi (159): 9596.
Pang, X. và S. Wang (2017), 'Những tác động chính tr quc tế của chính sách đối ngoi ca Trung Quc và M vin trợ: trường hp b
phiếu tại Đại hi đng Liên hp quc [Zhong Mei duiwai yuanzhu
de guoji zhengzhi yiyi - yi Lianheguo dahui tuopiao wei li]', Khoa hc xã hi Trung Quc [Zhongguo shehui kexue] (3): 181
203+208.
Nhân dân nht báo [Renmin ribao] (1983), 'Th ng Triu phát biu ti cuc hp báo Dar Es Salaam. Nói rng chuyến thăm 10
ớc châu Phi đã đạt được kết qu như mong đợi' [Zhao zongli zai Daleisisalamu juxing de jizhe zhaodai hui shang
shuo. Fangwen Feizhou 10 guo Dadao yuqi mudi], Nhân dân Nht báo [Renmin ribao], ngày 15 tháng 1: 1.
22
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Pratt, T. (2017), 'Câu chuyện để gây ảnh hưởng: s ph biến th chế trong hoạt động ngân hàng phát trin', bài viết trình bày ti Hi ngh thường niên
ln th 10 v kinh tế chính tr quc tế
Các t chc, Bern, Thụy Sĩ, ngày 12-14 tháng 1.
Raschky, PA và M. Schwindt (2012), 'V kênh và loi hình vin trợ: trường hp quc tế
h tr thiên tai', Tp chí Kinh tế Chính tr Châu Âu 28(1): 119131.
Rudyak, M. (2014), 'Cuc tranh lun ci cách n giu: H thng vin tr c ngoài ca Trung Quc phn ng vi các bin pháp của phương Tây phê bình', bài báo hi
ngh chưa xuất bn trình bày ti hi tho Nam-Nam
Hp tác phát triển Cơ hội và thách thức đối vi Cu trúc Vin tr Quc tế, 26-Ngày 27 tháng 9, Đại
hc Heidelberg.
Rudyak, M. (2017a), 'Ch nghĩa hậu thuộc địa, Trung Quc và s phát trin (vin tr)', tài liu hi ngh chưa xuất bn trình bày ti hi tho Ch nghĩa hậu
thuộc địa và Trung Quc, 20-21 tháng 1, Global South Studies
Trung tâm, Đại hc Cologne.
Rudyak, M. (2017b), 'Quá phc tp và quá ri rc. Trung Quc phi khẩn trương cải cách s phát trin công trình vin tr [Zu
komplex und fragiert: China muss seine Strukturen für Entwicklungshilfe dringend Reformieren]', Chính sách quc tế
[Internationale Politik] (3): 102106.
Sato, J., H. Shiga, T. Kobayashi và H. Kondoh (2011), 'Các nhà tài tr mi ni t góc độ ngưi nhn:
phân tích th chế v vin tr c ngoài Campuchia', Phát trin Thế gii 39(12): 20912104.
Schoenhals, M. (1992), Làm vic vi t ng trong chính tr Trung Quốc: Năm nghiên cứu, Berkeley, CA:
Vin Nghiên cứu Đông Á, Đại hc California.
Schraeder, PJ, SW Hook và B. Taylor (1998), 'Làm rõ vấn đề vin tr c ngoài', Chính tr Thế gii 50(2): 294323.
Shi, L. (1989), Hp tác kinh tế ca Trung Quc với nước ngoài ngày nay [Dangdai Zhonguo de
duiwai jingji hezuo], Bc Kinh: Nhà xut bn Khoa hc Xã hi Trung Quc [Zhongguo shehui kexue chibanshe]. Shimomura, Y. và P. Wang
(2012), 'S phát trin ca 'tng hp vin tr, đầu tư, thương mại' Trung Quc và
Japan', trong Sato, J. và Y. Shimomura (eds.), S tri dy ca các nhà tài tr châu Á: Tác động ca Nht Bản đối vi nn kinh tế
S phát trin ca các nhà tài tr mi nổi, Abington, Vương quốc Anh: Routledge, 11432.
Shinn, D. (2006), 'Châu Phi, Trung Quốc và chăm sóc sức khe', Bên trong Châu Á (34): 1416.
Văn phòng Thông tin Hội đồng Nhà nước (SCIO) [Guowuyuan xinwen bangongshi] (2011a), B Ngoi giao Trung Quc S giúp đỡ. Sách
trng [Zhongguo duiwai yuanzhu. Baipishu ], ngày 21 tháng 4, URL:
http://www.scio.gov.cn/zxbd/tt/Document/1011345/1011345_1.htm (07.11.2017).
Văn phòng Thông tin Hội đồng Nhà nước (SCIO) [Guowuyuan xinwen bangongshi] (2011b), 'Truyền thông nước ngoài theo sát Sách Trng v Vin
tr c ngoài ca Trung Quc. Ca ngi rng vin tr không áp đặt chính tr điu kin [Waimei guanzhu Zhongguo duiwai yuanzhu
baibushu. Chengzan Yuanzhu b
23
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
fudai zhengzhi tiaojian]', ngày 25 tháng 4, URL:
http://www.scio.gov.cn/xwfbh/xwbfbh/yg/2/Document/898670/898670.htm (07.11.2017).
Văn phòng Thông tin Hội đồng Nhà nước (SCIO) [Guowuyuan xinwen bangongshi] (2014), Vin tr c ngoài ca Trung Quc. Sách trng
[Zhongguo duiwai yuanzhu. Baipishu ], ngày 10 tháng 7, URL:
http://www.scio.gov.cn/zfbps/ndhf/2014/document/1375013/1375013_1.htm (07.11.2017).
Strüver, G. (2016), 'Bạn bè được to nên t đâu: mối liên kết song phương và động lực trong nước của chính sách đối ngoi
liên kết vi Trung Quốc', Phân tích chính sách đối ngoi 12(2): 170191.
Taylor, I. (1998), 'Chính sách đối ngoi ca Trung Quốc đối vi châu Phi trong những năm 1990', Tạp chí Châu Phi hiện đại Nghiên cu 36(3): 443
460.
Tubilewicz, C. (2012), 'Chính tr ca lòng nhân ái: xem xét nền nhân đạo b chia r ca Trung Quc
h tr Haiti', Quan h quc tế ca Châu Á-Thái Bình Dương 12(3): 449–481.
Tull, DM (2006), 'S can d ca Trung Quc vào Châu Phi: phạm vi, ý nghĩa và hậu qu', Tp chí
Nghiên cu Châu Phi hiện đại 44(3): 459479.
Chương trình Phát triển Quc gia Thng nht (2015), 'Vin tr nhân đạo ca Trung Quc', UNDP South-South Tóm tt vấn đề
hp tác Trung Quc (9), ngày 25 tháng 5, URL: http://www.cn.undp.org/content/china/en/home/library/south-south-
cooper/issue-
tóm tt--china-s-humanitarian-aid.html (07.11.2017).
Vreeland, JR và A. Dreher (2014), Kinh tế Chính tr ca Hội đồng Bo an Liên Hp Quc.
Tin bc và Ảnh hưởng, Cambridge, Vương quốc Anh: Nhà xut bản Đại hc Cambridge.
Walz, J. và V. Ramachandran (2011), 'Thế gii mới dũng cảm: đánh giá tài liệu v các nhà tài tr mi ni và bn chất đang thay đổi
ca vin tr c ngoài', Tài liu làm vic ca CGD s 273, Washington, DC: Trung tâm Phát trin Toàn cu.
Wang, J. (2007), 'Điều gì thúc đẩy vai trò ngày càng tăng của Trung Quc Châu Phi?', Tài liu làm vic ca IMF 07/211, Washington, DC: Qu Tin t
Quc tế.
Wang, Y. (2016), 'Tham gia Ngân hàng Đầu tư Cơ sở H tng Châu Á', bn tho, URL:
http://wp.peio.me/wp-content/uploads/2016/12/PEIO10_paper_101.pdf (04.02.2017).
Watanabe, S. (2013), 'Các nhà tài tr lớn đã ảnh hưởng như thế nào đến s phát trin kinh tế và ngoi giao ca Trung Quc?
chính sách vin tr?', trong Sato, J. và Y. Shimomura (eds.), S tri dy ca các nhà tài tr châu Á: Tác động ca Nht Bn đối vi
S phát trin ca các nhà tài tr mi nổi, Abington, Vương quốc Anh: Routledge, 87113.
Xi, J. (2017), ‘Toàn văn bài phát biểu ca Tp Cn Bình ti Diễn đàn Kinh tế Thế giới’, CGTN America, 17 Tháng 1, URL:
https://america.cgtn.com/2017/01/17/full-text-of-xi-jinping-keynote-at-the-
diễn đàn kinh tế thế gii (07.11.2017).
Xi, J. (2015), ‘Bài phát biểu ca Ch tch Trung Quc Tp Cn Bình ti Diễn đàn Hợp tác Nam-Nam Cuc hp bàn tròn
ti Tr s Quc gia Thng nht New York vào ngày 26 [Zhongguo guojia zhuxi Tp Cn Bình 26 ri zai
Niuyue Lianheguo zongbu de nannan hezuo yuanzhuohui
24
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
shang zhici]', Đài phát thanh Liên Hp Quc, ngày 26 tháng 9, URL:
http://www.unmultimedia.org/radio/chinese/archives/239165/#.WCSlMtx8Se8
(07.11.2017).
Tân Hoa Xã (2006), 'Đặc đim ca FOCAC', Tháng 10. URL:
http://www.china.org.cn/english/features/focac/183733.htm (07.11.2017).
Yang, H. (2012), 'Làm cho vin tr c ngoài hiu qu và cân bằng hơn', China Daily, 25 tháng 7: 8, URL:
http://usa.chinadaily.com.cn/opinion/2012-07/25/content_15614878.htm (07.11.2017).
Yu, GT (1988), 'Châu Phi trong chính sách đối ngoi ca Trung Quc', Kho sát Châu Á 28(8): 849862.
Zhang, Y., J. Gu và Y. Chen (2015), ‘S tham gia ca Trung Quc trong hp tác phát trin quc tế: tình trng ca cuc
tranh lun', Báo cáo bng chng IDS s 116, URL:
http://opendocs.ids.ac.uk/opendocs/bitstream/handle/123456789/5838/ER116_ChinasEnga
gementinInternational DevelopmentCooperateTheStateoftheDebate.pdf?sequence=1 (07.11.2017).
Mng kinh tế Trung Quc [Zhongguo jingji wang] (2012), 'Zhu Hongjie: M rng vin tr c ngoài, nm bt xu thế mi
cơ hội đầu tư ra nước ngoài [Zhu Hongjie: Kuoda duiwai yuanzhu. Jin zhua haiwai
touzi xin jiyu]', Sina [Xinlang caijing], ngày 23 tháng 2, URL:
http://finance.sina.com.cn/roll/20120323/100411662171.shtml (07.11.2017).
Chu, E. (1956), 'V chính sách đi ngoi ca chúng ta và vn đ giải phóng Đài Loan [Guanyu woguo waijiao zhengce he jiefang
Taiwan goti]', People's Daily [Renmin ribao], ngày 29 tháng 6, URL:
http://cpc.people.com.cn/GB/64184/64186/66662/4493079.html (07.11.2017).
Zoellick, R. (2005), 'Trung Quc đâu: từ tư cách thành viên đến trách nhim? Li nhn gi Quc gia y ban Quan h
M-Trung. Chun b giao hàng vào ngày 21/9', NBR Analysis
16(4): 5-14, URL: http://www.nbr.org/publications/nbranalysis/pdf/vol16no4.pdf (07.11.2017).
Zhu, X. (2015), 'Làm sáng t vai trò ca các ch th thương mại Trung Quc trong việc định hình th trường đối ngoi ca Trung Quc
h tr: trưng hp ca Sri Lanka thi hu chiến', n đnh: Tp chí Quc tế v An ninh và
Phát trin 4(1): 1-18.
25
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Hình 1: Năm d án vin tr đầu tiên ca Trung Quc theo quc gia và thp k (1953-2014)
Ngun: S liu riêng vi d liu t Dreher và Fuchs (2015), Lin (1993), và Dreher et al. (2017).
Hình 2: S ng ngưi nhn vin tr ca Trung Quc theo thi gian (1953-2014)
sơDựán
cu
1950 1955 1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010 2015
Ngun: Hình riêng vi s liu ca Lin (1996) và Dreher et al. (2017).
26
lOMoARcPSD| 41487147
Machine Translated by Google
Hình 3: S d án ODA cam kết ca Trung Quc theo quốc gia và theo năm (2000-2014)
Bng A Bng B
3 3
2
1.9
l
ư
n
g
á
n
d
S
1.2
1
0,3
0
B chuyn mch
Công nhận Đài Loan
Không phải là người công nhận Đài Loan
Bng C
3
2,5
2
l
ư
n
g
á
n
d
S
1.3
1
2.4
1.7
LHQ trung lp
Hy kết bn
Bng D
2.1
0,9
0
Nhà sn xut du
0
Giữa dưới
Không phi nhà sn xut du
Thp
Gia phía trên
Ngun: Hình riêng vi d liu t Dreher et al. (2017).
27
| 1/27

Preview text:

lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Động cơ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc
Andreas Fuchs, Đại học Heidelberg
Marina Rudyak, Đại học Heidelberg
Phiên bản này: Tháng 11 năm 2017
Tóm tắt: Chương này thảo luận về các động cơ chính trị, kinh tế và nhân đạo thúc đẩy Trung Quốc
sự giúp đỡ. Liên quan đến động cơ chính trị, chính phủ Trung Quốc sử dụng viện trợ như một công cụ chính sách đối ngoại. nên giúp nước này tạo ra một
môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của Trung Quốc,
hỗ trợ đất nước vươn lên vị thế cường quốc toàn cầu, tác động đến quản trị toàn cầu và khen thưởng các quốc gia tuân thủ Chính sách Một
Trung Quốc. Hơn nữa, viện trợ ngày càng được sử dụng để thúc đẩy thương mại với
các nước đang phát triển và các khoản vay được gia hạn để đổi lấy tài nguyên thiên nhiên. Cuối cùng là Trung Quốc nhấn mạnh rằng nó cung cấp
viện trợ để giúp các nước đang phát triển khác giảm nghèo và
cải thiện sinh kế của người dân, một tuyên bố được hỗ trợ bởi dữ liệu khi các nước nghèo hơn nhận được nhiều hơn ủng hộ. Mặc dù sự kết hợp giữa
các mục tiêu chính trị, kinh tế và nhân đạo không khiến Trung Quốc trở nên khác biệt
So với cái gọi là các nhà tài trợ phương Tây “truyền thống”, Trung Quốc khác biệt ở nội dung chi tiết về lợi ích của mình.
và sự nhấn mạnh rõ ràng vào “lợi ích chung” trong việc theo đuổi các mục tiêu của mình.
Lời cảm ơn: Sự hỗ trợ nghiên cứu xuất sắc được cung cấp bởi Samuel Siewers và Felix
Khăn xếp. Chúng tôi cũng xin cảm ơn Jamie Parsons vì đã hiệu đính phiên bản trước của chương này.
Đây là một chương dự thảo. Phiên bản cuối cùng sẽ có trong Sổ tay của Tổ chức Quốc tế
Kinh tế Chính trị Trung Quốc do Ka Zeng biên tập, sắp xuất bản, Nhà xuất bản Edward Elgar Ltd
Tài liệu không thể được sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác mà không có sự cho phép thêm của nhà xuất bản và
chỉ dành cho sử dụng cá nhân. 1 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google 1. Giới thiệu
Viện trợ ngày càng tăng của Trung Quốc đã dẫn đến một cuộc tranh luận quốc tế gây
tranh cãi về những tác động được cho là bất lợi
hoạt động của Trung Quốc tại các nước đang phát triển. Điều này dường như đã khiến
chính phủ Trung Quốc gặp khó khăn.
gây ngạc nhiên—đặc biệt là vì họ đã coi viện trợ nước ngoài như một công cụ để tạo dựng hình ảnh của Trung Quốc như một cường quốc
“các bên liên quan có trách nhiệm” (Chen 2010, 2011). Tuy nhiên, các hoạt động viện trợ quốc tế của Trung Quốc cũng không báo cáo cho các tổ chức quốc
tế, Bắc Kinh cũng chưa đưa ra một viện trợ chính thức và toàn diện nào
cơ sở dữ liệu. Điều đặc biệt là sự thiếu minh bạch trong hệ thống viện trợ của Trung Quốc đã bị chỉ trích.
rộng rãi cả bên ngoài lẫn bên trong Trung Quốc. Trong khi nhận thức của phương Tây thường cho rằng bí mật có chủ ý (ví dụ, Brautigam 2009: 2),
các học giả Trung Quốc cho rằng đó là do tính phức tạp cao và
sự phân mảnh (Hu và Huang 2012; Huang và Ren 2012; Cao 2013; Hu 2013). Dù thế nào đi nữa, việc thiếu tính minh bạch đã làm dấy
lên suy đoán về động cơ của Bắc Kinh.
Không thể hiểu được động cơ viện trợ của Trung Quốc nếu không hiểu rõ về lâu dài
lịch sử của chương trình viện trợ của nó. Mặc dù Trung Quốc thường được gọi là nhà tài trợ 'mới nổi' hoặc 'mới' (ví dụ:
Quản lý 2006; Walz và Ramachandran 2011; Hernandez 2017), lịch sử viện trợ của nó có thể bắt nguồn từ
những ngày đầu của nước Cộng hòa Nhân dân.1 Tuy nhiên, như Mawdsley (2012: 262) đã nói, 'phương Tây
phần lớn các khu vực địa lý giàu trí tưởng tượng của viện trợ nước ngoài đã không
nhận ra tầm quan trọng đáng kể
sự hiện diện của Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc đã bắt đầu viện trợ từ đầu những năm 1950, lần đầu tiên là hỗ trợ Triều Tiên.
việc tái thiết sau Chiến tranh Triều Tiên, và ngay sau đó là Việt Nam và gần đây
các nước láng giềng phi thuộc địa ở phía Nam và Tây Nam, để đảm bảo độc lập và phát triển
quan hệ hữu nghị (Lin 1993, 1996). Campuchia, Nepal và Ai Cập là những quốc gia không cộng sản đầu tiên
nước nhận vào năm 1956 (Bartke 1989).
2 Để mô tả sự mở rộng địa lý của viện trợ của Trung Quốc,
Hình 1 thể hiện bản đồ thế giới minh họa năm thực hiện dự án sơ cứu của mỗi quốc gia tiếp nhận theo thập kỷ.
Năm 1956, Thủ tướng đầu tiên của Trung Quốc Chu Ân Lai đặt tên là “cùng có lợi” (cùng với tôn trọng chủ quyền
quốc gia) là nguyên tắc chỉ đạo viện trợ và hợp tác kinh tế của Trung Quốc, 3
và liên kết nó với mô hình viện trợ của Liên Xô mà Trung Quốc là nước nhận:
Dựa trên nguyên tắc này [sic.] mà các nước Xã hội chủ nghĩa đã thiết lập một loại
hình chính quyền mới.
quan hệ kinh tế với nhau. Viện trợ kinh tế và kỹ thuật hữu nghị của Liên Xô 1
Kobayashi (2008) và Brautigam (2009) cung cấp cái nhìn tổng quan toàn diện về lịch sử viện trợ của Trung Quốc.
Johnston và Rudyak (2017) đã chỉ ra viện trợ của Trung Quốc hiện nay được định hình như thế nào bởi những thay đổi toàn cầu.
2 Dữ liệu lịch sử phổ biến sớm nhất về viện trợ của Trung Quốc được thu thập bởi Nhà Hán học người Đức Wolfgang Bartke (1989) và học giả người Đài Loan về Trung
Quốc Lin Teh-chang (1993).
3 Sau khi ký hiệp ước hữu nghị Trung-Xô năm 1950, Liên Xô bắt đầu cung cấp hỗ trợ cho Trung Quốc dưới hình thức các khoản vay ưu đãi, “gắn” với việc mua hàng
hóa, vật liệu chiến tranh từ Liên Xô và thường kèm theo các khoản vay ưu đãi. cho các chuyên gia kỹ thuật Liên Xô. Xem thêm Asmus và cộng sự. (2017) để đánh giá

tài liệu về viện trợ của Nga (và BRICS khác). 2 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Liên minh đã đưa ra cho Trung Quốc một ví dụ tuyệt vời về loại mối quan hệ này. [Liên Xô], Trung Quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa khác đang mở rộng hợp tác kinh tế với
nhiều quốc gia ở Châu Á và Châu Phi dựa trên nguyên tắc này [sic.] […]. (Chu 1956; dịch từ tiếng Trung ở Rudyak 2014: 6)
Đồng thời, bài phát biểu lịch sử của Chu cho thấy Trung Quốc coi độc lập kinh tế là
quan trọng để đạt được sự độc lập chính trị (khỏi Mỹ và phương Tây)—cho chính nó và cho các nước khác các quốc gia phát triển:
Trung Quốc là một nước vừa mới được giải phóng. Nền kinh tế nước ta còn rất lạc hậu;
chúng ta vẫn chưa đạt được sự độc lập hoàn toàn về kinh tế […] Nhưng chúng ta đã hiểu rằng Độc lập kinh tế có ý
nghĩa quan trọng trong việc củng cố độc lập chính trị.
Vì vậy, trong khi chúng ta thúc đẩy việc xây dựng nền kinh tế của mình, chúng ta mong muốn, trong giới hạn khả năng của
chúng tôi, để đóng góp lực lượng ít ỏi của chúng tôi để giúp đỡ nền kinh tế sự phát triển của các nước khác. (Chu 1956;
dịch từ tiếng Trung Quốc trong Rudyak 2014: 6)
Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi là nước nhận viện trợ của Liên Xô, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn duy trì quyền sở hữu
trong suốt quá trình, điều chỉnh nó cho phù hợp với chiến lược xây dựng quốc gia của họ (Watanabe 2013: 88-89). Điều này đã đặt ra
nền tảng cho quan điểm của Trung Quốc về hỗ trợ phát triển, cụ thể là (về mặt kinh tế) cần
chủ yếu phục vụ chiến lược phát triển tự quyết của một quốc gia.4 Sự chia rẽ Trung-Xô thời kỳ đầu
Những năm 1960 đã củng cố quan điểm của Trung Quốc rằng viện trợ chỉ nên được sử dụng như một phương tiện để đạt được mục tiêu kinh tế.
sự tự lực. Điều này là do Trung Quốc hiện buộc phải hoàn thành các dự án viện trợ mà Liên Xô đã khởi động. một mình, đồng thời vẫn
trả các khoản vay cho Mátxcơva. Kinh nghiệm này sau đó được thể hiện trong “Tám nguyên tắc viện trợ kinh tế và kỹ thuật”, được Thủ
tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công bố vào ngày
chuyến thăm châu Phi năm 1964 (CCPN 1964). Cùng với lợi ích chung và tôn trọng lẫn
nhau vì lợi ích dân tộc
chủ quyền, những nguyên tắc này nhấn mạnh đến tính vô điều kiện về mặt chính trị và việc đạt được khả năng tự lực. Theo các tuyên bố chính
thức, Tám Nguyên tắc vẫn có giá trị như những hướng dẫn cơ bản cho
Viện trợ nước ngoài của Trung Quốc (Chen 2010, 2011).
Với chính sách “Cải cách và mở cửa” của Đặng Tiểu Bình sau năm 1978, Trung Quốc cũng mở cửa nhận được sự
hỗ trợ phát triển của Nhật Bản và phương Tây. Trọng tâm chung của đất nước chuyển từ đấu tranh tư tưởng vì lợi ích kinh tế
của nó. Đối mặt với câu hỏi có nên dừng lại không
viện trợ cho các nước khác vì Trung Quốc cần nguồn lực hạn chế cho mình, ban lãnh
đạo quyết định rằng
viện trợ như một công cụ chính sách đối ngoại sẽ vẫn là công cụ tạo ra một môi trường ổn định cho Trung Quốc phát triển—điều này cũng
có nghĩa là Liên Xô và Mỹ vẫn bị coi là một mối đe dọa (Shi
4 Điều này thể hiện rõ trong diễn ngôn về viện trợ của Trung Quốc cho đến ngày nay, chẳng hạn như trong tuyên bố của các chuyên gia viện trợ Trung Quốc như học giả
Li Anshan của Đại học Bắc Kinh, người lập luận rằng “chúng ta không thể thiết lập một kế hoạch cho Châu Phi. Thay vào đó, chúng ta có thể tham gia cùng họ trong nỗ lực

chứ không áp đặt kế hoạch cho họ” (Adu-Gyamerah 2014). 3 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
1989; trích dẫn trong Brautigam 2009: 51). Tuy nhiên, chi tiêu viện trợ đã được giảm bớt, nhấn mạnh vào
các dự án mang lại lợi ích trực tiếp cho chương trình nghị sự hiện đại hóa kinh tế của Trung Quốc. Thật vậy, số liệu thống kê cho thấy
ngân sách viện trợ những năm 1980 giảm mạnh so với đầu những năm 1970 (Dreher và Fuchs 2015).
Sự thay đổi đó được củng cố trong chuyến thăm của Thủ tướng Triệu Tử Dương tới Tanzania năm 1983 (Nhân dân Nhật báo 1983), nơi ông công bố “Bốn
nguyên tắc hợp tác kinh tế và kỹ thuật Trung Quốc-Châu Phi”. Các “Bốn nguyên tắc” nhấn mạnh lợi ích chung, kết quả thiết thực, đa dạng về hình thức và
phát triển. Đầu tiên, chúng đánh dấu sự thay đổi theo hướng đạt được lợi ích kinh tế chung cho cả hai đối tác. (Yu 1988); và thứ hai, bằng cách
nhấn mạnh “sự phát triển chung”, họ phản ánh quan điểm của Đặng Tiểu Bình từ bỏ lý tưởng tự cung tự cấp của Mao Trạch Đông mà theo ông
là không phù hợp với sự mở cửa của Trung Quốc hướng lên.
Từ giữa những năm 1990, viện trợ ngày càng trở nên quan trọng như một kênh thúc đẩy sự phát triển của Trung Quốc. ngoại thương và đầu tư. Áp
dụng mô hình viện trợ của Nhật Bản gắn viện trợ với thương mại và đầu tư, Trung Quốc đưa ra “Đại chiến lược kinh tế và thương mại” vào tháng 12 năm 1994 (Ma
1994), và ngay sau khi thành lập Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (Exim Bank) để vận hành chương trình cho vay ưu đãi.
Diễn đàn cấp cao về Hợp tác Trung Quốc – Châu Phi (FOCAC)5 năm 2006 đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế.
chú ý khi Trung Quốc hứa sẽ tăng gấp đôi viện trợ cho các nước châu Phi vào năm 2009 trong khuôn khổ Hiệp định
Kế hoạch hành động của Bắc Kinh, đồng thời thành lập Quỹ phát triển Trung Quốc-Châu Phi (FOCAC) trị giá 5 tỷ USD 2006). Trung Quốc quả thực
đã liên tục gia tăng các cam kết của mình và ngày nay nước này là một trong những nước
nhà cung cấp tài chính phát triển quan trọng nhất. Trong giai đoạn 2000-2014, AidData đã có thể theo dõi hơn 4.300 dự án tại
140 quốc gia và vùng lãnh thổ (Dreher et al. 2017). Tổng tài chính
giá trị của các dự án này vượt quá 350 tỷ USD, điều đó có nghĩa là nguồn tài chính phát triển của Trung Quốc đang lớn gần bằng 395 tỷ USD của
Hoa Kỳ. Tài chính phát triển của Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể có giá trị
có kích thước tương tự nhau, nhưng chúng khác nhau đáng kể về thành phần: chưa đến một phần tư diện tích của Trung Quốc tài chính có thể được phân
loại là hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) theo định nghĩa của OECD 6
(so với 93% nguồn tài chính phát triển của Hoa Kỳ).
Bản phác thảo ngắn gọn về lịch sử viện trợ của Trung Quốc nêu bật ba yếu tố chính thúc đẩy viện trợ của nước này. đưa ra: động cơ chính trị (ví
dụ: phấn đấu để được công nhận), lợi ích thương mại (chẳng hạn như thương mại và xúc tiến đầu tư) và các mối quan tâm nhân đạo (đáng chú ý nhất là mong
muốn hỗ trợ các quốc gia khác).
phúc lợi của các nước đang phát triển). Về mặt này, viện trợ của Trung Quốc không có gì đặc biệt, như có thể thấy trong
5 Năm 2000, Trung Quốc thành lập FOCAC với mục tiêu xây dựng “một nền tảng [cho] Trung Quốc và các nước châu Phi thân thiện để tham vấn và đối
thoại tập thể cũng như một cơ chế hợp tác giữa các nước đang phát triển, thuộc phạm trù hợp tác Nam-Nam” (Xinhua News Cơ quan 2006). Hội nghị

thượng đỉnh ba năm một lần kể từ đó đã luân phiên giữa Trung Quốc và một quốc gia châu Phi.
6 Xem http://aiddata.org/china (truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2017). 4 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
tài liệu đầy đủ về vai trò của lợi ích chính trị, kinh tế và nhân đạo trong việc phân bổ viện trợ của cái gọi là các nhà tài trợ phương
Tây “truyền thống” và các tổ chức tài chính quốc tế (ví dụ: Schraeder et al. 1998; Kuziemko và Werker 2006; Vreeland và Dreher
2014). Tuy nhiên, Trung Quốc lại khác ở chỗ
nội dung chi tiết về lợi ích của mình và sự nhấn mạnh rõ ràng vào “lợi ích chung” trong việc theo đuổi lợi ích của mình mục tiêu chính trị, kinh tế và phát triển.
Chương này cung cấp một cái nhìn tổng quan về các tài liệu phân tích động cơ viện trợ của Trung Quốc trong đóng góp học thuật trong
khoa học chính trị, kinh tế, nghiên cứu phát triển và Hán học. Chúng tôi bắt đầu
bằng cách phân tích các động cơ chính trị của Bắc Kinh, tiếp theo là các phần về lợi ích thương mại và lái xe nhân đạo. Phần cuối
cùng kết thúc bằng một bản tóm tắt các phát hiện và cung cấp
gợi ý cho nghiên cứu trong tương lai về viện trợ nước ngoài của Trung Quốc.
2. Động cơ chính trị
Trong tài liệu về động cơ chính trị của các nhà tài trợ phương Tây đã có sự đồng thuận rộng rãi rằng viện trợ tiền hỗ trợ các đồng minh chính
trị, trừng phạt kẻ thù, giúp xây dựng liên minh và nhằm mục đích cải thiện dư luận ở các nước tiếp nhận (ví dụ, Morgenthau 1962; Bueno de
Mesquita và Smith 2007,
2009; Dreher và cộng sự. 2008). Như Dreher và cộng sự. (sắp xuất bản) ghi chú, các lý thuyết về chính trị quốc tế nền kinh tế cung cấp “một vài lý
do tại sao người ta mong đợi các nhà tài trợ không phải phương Tây hành xử nhiều
khác đi.” Quả thực, các nguồn tin chính thức của Trung Quốc luôn thừa nhận rằng viện trợ nước ngoài là một phần quan trọng. công cụ ngoại giao của Trung
Quốc Vì cả hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Trung của lời mở đầu của China's
Sách trắng đầu tiên về viện trợ nước ngoài (SCIO 2011a) chi tiết: “thông qua viện trợ nước ngoài, Trung Quốc đã củng cố quan hệ hữu nghị và hợp tác
kinh tế và thương mại với các nước đang phát triển khác.”7 Trong khi Khái niệm “củng cố quan hệ hữu nghị” nghe có vẻ khá mơ hồ, đó là tifa8 thường
xuyên xảy ra sau đó.
việc đề cập đến “viện trợ nước ngoài”. Ý nghĩa chính xác hơn của nó có thể được hiểu là đảm bảo một điều kiện thuận lợi môi trường quốc tế cho sự
phát triển chung của Trung Quốc và hỗ trợ sự trỗi dậy của đất nước
tình trạng quyền lực toàn cầu. Theo đó, chính sách đối ngoại và động cơ trong nước
phụ thuộc lẫn nhau: trong phạm vi
Sự lãnh đạo của Trung Quốc, hiện đại hóa và tăng trưởng kinh tế được coi là điều kiện tiên quyết cho cả sự phát triển của Trung Quốc.
nổi lên như một quyền lực kinh tế và chính trị và để duy trì tính hợp pháp và quyền lực của
7 Trong việc sử dụng viện trợ cho mục đích chính trị, Trung Quốc không khác bất kỳ nước tài trợ lớn nào khác. Chương trình Phục hồi Châu Âu (ERP) của
Hoa Kỳ, thường được gọi là Kế hoạch Marshall, không chỉ nhằm mục đích hỗ trợ tái thiết các nước Châu Âu sau Thế chiến thứ hai, mà trước hết là nhằm
ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản Xô viết. Một lượng tài liệu phong phú về kinh tế và khoa học chính trị nhấn mạnh
vai trò của viện trợ như một công cụ chính sách đối ngoại của các nước phương Tây
(ví dụ, Maizels và Nissanke 1984; Schraeder et al.
1998; Alesina và Dollar 2000; Kuziemko và Werker 2006; Vreeland và Dreher 2014).
Ngôn ngữ chính trị Trung Quốc được mã hóa cao độ; tifa là những biểu hiện chính trị được chính thức hóa, được đặc trưng bởi một đặc tính cụ thể của sự số 8
nghèo nàn về ngôn ngữ (giống như Ngôn Mới). Chúng là một phần thiết yếu của nền chính trị Trung Quốc và giúp hình thành cơ cấu quyền lực trong hệ
thống chính trị Trung Quốc (Schoenhals 1992). 5 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vì vậy, khi các quan chức chính phủ Trung Quốc nói về viện trợ của Trung Quốc “đôi bên cùng có lợi”
(SCIO 2011b), về mặt chính trị nó phải được hiểu là một chức năng của động cơ trên.
Chính sách Một Trung Quốc: Động lực để được quốc tế công nhận
Sau tuyên bố vào tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới (PRC) phải đối mặt với sự cách ly. Hoa Kỳ
và cùng với họ là phần lớn các nước phương Tây đã từ chối
nhận ra nó và nhìn thấy Tưởng Giới Thạch, nhà lãnh đạo của Cộng hòa Trung Hoa lưu vong có trụ sở tại Đài Bắc chính phủ, với tư cách là đại diện
hợp pháp của Trung Quốc. Hơn nữa, sau năm 1951, Trung Quốc phải đối mặt với Mỹ-dẫn đầu lệnh cấm vận kinh tế sau khi tham gia vào Chiến tranh
Triều Tiên. Theo quan chức Trung Quốc
văn bản lịch sử, chính trong bối cảnh này mà Trung Quốc bắt đầu cung cấp viện trợ nước ngoài đầu tiên (cho Bắc Triều Tiên tái thiết). Như vậy, ngay từ đầu,
viện trợ nước ngoài đã là phương tiện để Trung Quốc mở rộng phạm vi
ảnh hưởng và cô lập Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan – nơi sau này được biết đến với cái tên “Một Trung Quốc”.
Chính sách." Sau Hội nghị Bandung năm 1955, Trung Quốc bắt đầu viện trợ cho các nước Đông Nam Á
(1955) và đến Châu Phi cận Sahara mới được giải phóng (1956) và được công nhận về mặt ngoại giao ở
trao đổi. Cuộc xâm lược Tiệp Khắc của Liên Xô vào tháng 8 năm 1968 và các cuộc đàm phán hòa bình đồng thời giữa Mỹ và Việt Nam tạo
cơ hội cho Trung Quốc giảm bớt căng thẳng
Hoa Kỳ. Những nỗ lực của Trung Quốc nhằm được quốc tế công nhận đạt đến đỉnh điểm từ năm 1969 đến 1970, với viện trợ
của Trung Quốc tăng gấp 15 lần, lên tới 64,9% tổng viện trợ của cộng sản quốc gia năm đó (Copper 2016: 152). Họ tỏ ra thành
công: vào năm 1971, phần lớn các nước
đã bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết của Albania thừa nhận nước này tham gia Liên hợp quốc (LHQ)—và lần lượt loại trừ Đài Loan. Hình 2 cho thấy số lượng
người nhận viện trợ tăng vọt trong năm sau cuộc bỏ phiếu, cho thấy rằng
các quốc gia sau đó đã được khen thưởng vì hành vi bỏ phiếu của họ. Ngày nay, các nhà lãnh đạo Trung Quốc công khai
thừa nhận rằng viện trợ đã giúp Trung Quốc giành được phiếu bầu của Liên hợp quốc.
Nói về tương lai của “Vành đai và Con đường”
vào tháng 4 năm 2016, Bộ trưởng Bộ Thương mại Cao Hổ Thành đã nhắc lại rằng “năm 1971, với sự giúp đỡ của
viện trợ nước ngoài, Trung Quốc nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các nước thuộc Thế giới thứ ba, đã thành công trong việc thoát ra khỏi thế giới
bị bao vây chính trị và gia nhập Liên hợp quốc” (Gao 2016).
Kết quả kinh tế lượng của Dreher và Fuchs (2015) phù hợp với quan điểm rằng trong những ngày đầu Viện trợ của Trung Quốc chủ yếu
được dẫn dắt bởi động cơ chính trị. Trong giai đoạn 1956-1978, các quốc gia có liên kết bỏ phiếu chặt chẽ hơn với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(PRC) tại Liên Hợp Quốc (hoặc ít liên kết hơn với Trung Hoa Dân Quốc (ROC) ở Đài Loan trước năm 1971) đã nhận được nhiều dự án viện trợ của
Trung Quốc hơn đáng kể.
Nhìn chung, kết quả cho thấy các yếu tố chính trị, chẳng hạn như lập trường của quốc gia tiếp nhận đối với Chính sách Một- 6 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Chính sách của Trung Quốc, sự chia sẻ của các nước trong viện trợ của Trung Quốc trong giai đoạn này bị ảnh hưởng nặng nề hơn so với giai đoạn sau
thời kỳ viện trợ của Trung Quốc
Tầm quan trọng của lập trường của một quốc gia đối với Chính sách Một Trung Quốc trong việc phân bổ viện trợ của Trung Quốc đã được duy trì cho đến
ngày nay. Quá trình chuyển đổi dân chủ của Đài Loan vào cuối những năm 1980 diễn ra sôi nổi tăng cường “ngoại giao sổ séc” của cả Đài Bắc và Bắc Kinh (Brautigam
2010). Khi Đài Loan cố gắng
tái gia nhập Liên hợp quốc vào tháng 9 năm 1993, tất cả những quốc gia đã bác bỏ trường hợp của Đài Loan—với ngoại trừ Nga, Ấn Độ và
Slovakia—là những nước nhận viện trợ của Trung Quốc vào đầu những năm 1990 (Lin 1996:
53-54). Thậm chí ngày nay, Trung Quốc vẫn sử dụng viện trợ để thưởng cho những quốc gia tuân thủ Chính sách Một Trung Quốc và không tuân thủ Chính sách Một Trung Quốc.
công nhận chính phủ ở Đài Bắc. Các biện pháp hành chính đối với viện trợ nước ngoài (MOFCOM 2014) xác định rằng “các
nước nhận viện trợ nước ngoài chính là các nước đang phát triển đã thành lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.” Điều
này có nghĩa là ngoại trừ hỗ trợ nhân đạo sau
thảm họa (ví dụ Tubilewicz 2012), “những nước công nhận Đài Loan” không nên nhận viện trợ của Trung Quốc. Thực vậy, bảng A của Hình 3 nhấn
mạnh rằng các quốc gia công nhận chính phủ ở Đài Bắc hầu như nhận được
không có viện trợ và một số trường hợp ngoại lệ được thúc đẩy bởi các quốc gia trước khi cắt đứt quan hệ với Đài Bắc. Công việc gần đây bởi Dreher và cộng sự. (sắp
xuất bản) về Châu Phi trong giai đoạn 2000-2012 cho thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng
Trung Quốc cung cấp ít nguồn tài chính chính thức hơn cho các nước có quan hệ ngoại giao với chính phủ Đài Bắc và hiệu ứng này rõ ràng
hơn đối với ODA so với các dòng vốn chính thức ít ưu đãi khác.
Nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế
Mặc dù Trung Quốc đã thành công trong việc gia nhập Liên hợp quốc vào năm 1971, viện trợ nước ngoài vẫn là công cụ để đảm bảo quyền lợi của Trung Quốc.
hỗ trợ chính trị của các nước đang phát triển trong thời kỳ xung đột giữa Trung Quốc và phương Tây. Khi
Trung Quốc phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt kinh tế và cô lập ngoại giao của nhiều quốc gia sau cuộc khủng hoảng đàn áp các cuộc biểu tình của
sinh viên tại Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989, các cam kết viện trợ nước ngoài tăng khoảng một phần ba từ 223,5 triệu USD (1989) lên 374,6
triệu USD (1990) (Lin 1996:
37). Trong khi tổng giá trị tài chính vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức đầu những năm 1970, số lượng viện trợ số người nhận tăng lên khi
Trung Quốc cố gắng tiếp cận càng nhiều quốc gia càng tốt (Lin 1996). Đây cũng là
rất rõ ràng qua sự gia tăng đột ngột số lượng người nhận viện trợ vào năm 1989 và 1990 được trình bày trong Hình 2. Taylor (1998: 450) liên kết sự gia tăng
này với việc mua hỗ trợ chính trị và kết luận rằng “[s]uch a[naid] chính sách này là một cách nhanh chóng và tương đối rẻ mà Bắc Kinh có thể thưởng cho những quốc gia
đã sát cánh cùng Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng năm 1989 cũng như củng cố mối quan hệ cho tương lai.”
Viện trợ nước ngoài cũng được hiểu là nguyên nhân khiến hồ sơ nhân quyền của Trung Quốc nhận được rất nhiều sự quan tâm. Hội đồng Nhân quyền
Liên Hiệp Quốc có ít sự xem xét kỹ lưỡng bất chấp các cuộc đàn áp người biểu tình Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ
cũng như về các luật sư và nhà hoạt động chính trị gắn liền với phong trào Hiến chương 08 (nhất 7 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
nổi bật ở đây là người đoạt giải Nobel Hòa bình vừa qua đời Lưu Hiểu Ba). Năm 2016,
sự hỗ trợ của các nước châu Phi đã giúp Trung Quốc tiếp tục ở lại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc bất chấp
phải đối mặt với sự chỉ trích lớn vào thời điểm đó. Như Taylor (1998: 451) lưu ý, Trung Quốc “[a]luôn lưu tâm đến thực tế rằng phương Tây chiếm thiểu
số trong các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, tổ chức tán tỉnh
sự hỗ trợ từ các quốc gia đang phát triển đã giúp Trung Quốc chống lại thành công “chủ nghĩa bá quyền” của phương Tây ở mức độ thời điểm mà thế giới
hai cực cũ đang sụp đổ.” Thật vậy, Strüver (2016) tìm thấy một số bằng chứng cho thấy
mức độ tương đồng về phiếu bầu của các nước nhận với Trung Quốc tại Đại hội đồng Liên hợp quốc (UNGA) sẽ lớn hơn nếu các nước nhận
các dự án viện trợ của Trung Quốc thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Tương tự, Pang và
Wang (2017: 188) cho thấy rằng “một quốc gia càng nhận được nhiều viện trợ từ Trung Quốc thì càng không có khả năng bỏ phiếu theo
đường lối của Hoa Kỳ tại UNGA”. Bảng B của Hình 3 cho thấy các quốc gia bỏ phiếu phù hợp với Trung bình, Bắc Kinh tại UNGA thực sự nhận
được nhiều dự án viện trợ của Trung Quốc hơn mỗi năm.
Xây dựng một hình ảnh quốc tế tốt
Đi đôi với những điều trên là động cơ của Trung Quốc nhằm xây dựng hình ảnh mình là một nước có trách nhiệm.
bên liên quan trong chính trị quốc tế. Tifa “cường quốc có trách nhiệm” rất thường được nhắc đến trong
liên quan đến “viện trợ nước ngoài”. Như những đóng góp gần đây trong tài liệu khoa học chính trị Trung Quốc (ví dụ Jin
2009; Luo 2016) cho thấy, nó ám chỉ trực tiếp tới bài phát biểu về “các bên liên quan có trách nhiệm” của Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Thứ trưởng Ngoại giao
Robert Zoellick năm 2005. Câu hỏi của ông “Trung Quốc ở đâu” sẽ “có trách nhiệm”
và làm thế nào để đối phó với sức mạnh đang lên của Trung Quốc—một tuyên bố đại diện cho cuộc thảo luận rộng hơn về liệu Trung Quốc sẽ
là nước ủng hộ hay thách thức trật tự toàn cầu hiện tại - thường là
được Trung Quốc gọi là “Lý thuyết về mối đe dọa Trung Quốc” (Jin 2009). Điều thứ hai được người Trung Quốc nhận thức
chính phủ có khả năng cản trở sự trỗi dậy “hòa bình” của Trung Quốc. Vì vậy, viện
trợ nước ngoài được sử dụng như
một công cụ để cải thiện hình ảnh của Trung Quốc ở nước ngoài—hoặc, như chính phủ Trung Quốc chính thức định nghĩa, “để
thúc đẩy quan hệ hữu nghị” với các nước khác (ví dụ SCIO 2011). Như Luo (2016) viết, viện trợ nước ngoài
đại diện cho sự đóng góp của Trung Quốc cho xã hội quốc tế, thể hiện “trách nhiệm
của cường quốc” và giúp đỡ
để giành được sự tán thành của xã hội quốc tế đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ông cho rằng đó cũng là quyền lực mềm cần thiết cho một
“quyền lực đang trỗi dậy”. Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm ở Mỹ Latinh không cho thấy rằng
Chương trình viện trợ của Trung Quốc thực sự đã thành công trong việc nâng cao hình ảnh của mình. Sử dụng khảo sát cắt ngang lặp đi lặp lại dữ liệu từ Latinobarómetro,
Brückner et al. (2017) nhận thấy rằng, trái ngược với viện trợ của Mỹ, viện trợ của Trung Quốc có
không có tác dụng nâng cao hình ảnh—cả ở cấp quốc gia lẫn cấp địa phương. Bằng chứng thực nghiệm ở Findley et al. (2017) cũng
gợi ý rằng người dân Uganda thích viện trợ của Hoa Kỳ hơn viện trợ của Trung Quốc.
Tăng cường tiếng nói của Trung Quốc và các nước đang phát triển khác trong quản trị kinh tế toàn cầu số 8 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Cuối cùng, việc viện trợ của Trung Quốc cũng phải được hiểu trong bối cảnh tham vọng của nước này là tăng sức mạnh
tập thể và tiếng nói của các nước đang phát triển, đồng thời củng cố
Trung Quốc tuyên bố là lãnh đạo của họ. Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos vào tháng 1 năm 2017, Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận Bình nhấn mạnh các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đóng góp tới 80%
về sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu (Xi 2017). Gợi ý về cuộc cải cách IMF
thất bại, ông yêu cầu rằng
họ “xứng đáng được đại diện và có tiếng nói lớn hơn.” Trong đó, Trung Quốc điều hướng vai trò kết hợp của mình như một nước đang phát triển
đồng thời là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Tuy nhiên, việc thành lập Ngân hàng Phát triển Mới BRICS (NDB) và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng
Châu Á (AIIB)—cả hai
trong số đó được hiểu là phản ứng của Trung Quốc trước cuộc cải cách thất bại của
IMF và Ngân hàng Thế giới
quản trị - là những minh chứng cho quyết tâm của Trung Quốc nhằm có ảnh hưởng lớn hơn trong việc định hình toàn cầu quản trị kinh tế.9 Khi
các tuyên bố chính thức của Trung Quốc nói về “bình đẳng, công bằng và hỗ trợ lẫn nhau hợp tác” (ví dụ: kế hoạch 5 năm lần thứ 13 ; CCTP
2016) và “tôn trọng quyền độc lập của nhau
lựa chọn con đường phát triển và hệ thống xã hội” (ví dụ, Xi 2015), trên thực tế có một tầm nhìn rõ ràng về cách thức sự phát triển đó sẽ xảy ra:
thông qua “sự liên kết của các chiến lược phát triển”, “kinh tế vĩ mô phối hợp” và sử dụng NDB, AIIB và Sáng kiến Vành đai và Con đường
(Rudyak 2017a). Đối với Trung Quốc,
điều này không có nghĩa là thách thức trật tự kinh tế quốc tế đã được thiết lập mà là dẫn đầu trong trật tự đó.
cải cách—với viện trợ nước ngoài như một phương tiện để đạt được sự ủng hộ.
3. Lợi ích thương mại
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, hiện đại hóa và phát triển kinh tế đã thay thế hệ tư tưởng làm cốt lõi
người điều hành các chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc. Điều này cũng được chuyển thành các chính sách viện trợ nước ngoài, trong đó
từ đầu những năm 1980 trở đi, động cơ kinh tế bắt đầu đóng vai trò ngày càng quan trọng. Trong khi Ý tưởng về các mối
quan hệ “cùng có lợi” (như chúng ta đã thấy ở trên) không hề mới, trong thời đại
của Đặng Tiểu Bình nó đã đạt được một chiều hướng kinh tế mới. Trọng tâm mới này cũng được thể hiện rất rõ ràng trong dữ liệu. Dreher và
Fuchs (2015) nhận thấy rằng, trái ngược với các giai đoạn trước, số lượng viện trợ của Trung Quốc
các dự án cho thấy mối tương quan tích cực với tầm quan trọng của một quốc gia với tư cách là điểm đến xuất khẩu của Trung Quốc trong giai đoạn 1979-
1987. Một lần nữa, Trung Quốc không phải là một ngoại lệ ở đây. Lợi ích thương mại đã được
được tìm thấy để định hình việc phân bổ viện trợ của các nhà tài trợ phương Tây (ví dụ, Fleck và Kilby 2006; Hoeffler và Outram 2011; Dreher và cộng
sự. 2015) và các nhà tài trợ không thuộc DAC như Ấn Độ (Dreher và cộng sự 2011; Fuchs và Vadlamannati 2013).
9 Pratt (2017) phân tích sự phát triển nhanh chóng của các ngân hàng phát triển. Wang (2016) tập trung vào AIIB và điều tra quyết định của
các nước tham gia ngân hàng phát triển do Bắc Kinh lãnh đạo. 9 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Mở cửa thị trường quốc tế cho doanh nghiệp Trung Quốc – “Đi ra ngoài”
Áp dụng kinh nghiệm của mình với mô hình Nhật Bản, Trung Quốc bắt đầu sử dụng viện trợ để thúc đẩy thương mại và đầu tư (Shimomura và
Wang 2012). Năm 1992, Trung Quốc thí điểm liên doanh viện trợ nước ngoài
viện trợ kết hợp với thương mại và đầu tư (Huang và Liu 2013: 65) và chính thức giới thiệu chúng như một phương thức hợp tác vào
giữa những năm 1990, cùng với các khoản vay ưu đãi được chuyển qua
Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (Exim Bank) mới thành lập. Đồng thời, sự kết thúc của chế độ Apartheid
Nam Phi (1994) đã mang lại sự ổn định kinh tế vĩ mô tương đối cho toàn khu vực, tạo điều kiện thuận lợi tầm quan trọng mới của lục
địa châu Phi đối với chiến lược kinh tế tổng thể của Trung Quốc (Johnston và Rudyak 2017: 438). Trong chuyến thăm Tổ chức Thống
nhất Châu Phi vào năm sau, người Trung Quốc
Chủ tịch Giang Trạch Dân đề xuất một khái niệm mới về “hợp tác toàn diện” giữa Trung Quốc và
Châu Phi: cốt lõi là các liên doanh và các khoản vay ưu đãi (Jiang 1996; trích dẫn trong Johnston và Rudyak 2017), do các công ty
Trung Quốc thực hiện trên cơ sở các thỏa thuận quốc tế
giữa chính phủ Trung Quốc và người nhận. Bằng cách này, họ đóng vai trò là “người mở cửa”,
cho phép các công ty hoạt động trong một môi trường tương đối không có rủi ro và giới thiệu các
sản phẩm cho các nước đang phát triển và được họ thanh toán bằng nguồn tài chính chính thức của Trung Quốc. Nhìn lại vai trò của viện trợ nước
ngoài đối với quá trình quốc tế hóa của họ, Luo (2016) viết: “Sinohydro, Trung Quốc
Tổng công ty Kỹ thuật Đường sắt, Xây dựng Đường sắt Trung Quốc, CRBC, CNPC, CCECC và các công ty lớn khác
các công ty có thể vào châu Phi một cách suôn sẻ, không thể tách rời khỏi viện trợ nước ngoài.” Sau hậu quả của
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, “Đi ra ngoài” (zou chuqu) đã được chính thức hóa thành một chính sách vào năm 1999.
liên quan, không có gì đáng ngạc nhiên khi “các công ty tư nhân thực hiện bước đi
đầu tiên” trong việc xây dựng kế hoạch ban đầu
đề xuất dự án (Sato et al. 2011: 2099).
Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng trưởng ở Trung Quốc chậm lại kể từ khoảng
2011—được gọi là “Bình thường mới”—làm tăng áp lực lên viện trợ nước ngoài của Trung Quốc để phục vụ hơn nữa nhu cầu của nước này.
mục tiêu kinh tế của riêng mình. Trong một bài báo xuất bản năm 2012, Phó Chủ tịch Exim Bank lúc bấy giờ là Zhu
Hongjie nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng viện trợ nước ngoài nhằm đa dạng hóa thị trường cho doanh nghiệp Trung Quốc:
“[W]e cần mở rộng hơn nữa phạm vi của các khoản vay ưu đãi và tích cực khuyến khích và hỗ trợ các doanh
nghiệp mạnh của Trung Quốc có uy tín tham gia vay ưu đãi
các chương trình. Vừa phục vụ chiến lược ngoại giao chính trị, kinh tế của đất nước, chúng ta cần
tận dụng tốt nhất các khoản vay ưu đãi để thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc.” (Mạng kinh tế Trung Quốc 2012; dịch từ tiếng Trung
ở Johnston và Rudyak 2017: 442)
Thực tế Bộ Thương mại (MOFCOM), là cơ quan điều phối hàng đầu về viện trợ của Trung Quốc chương trình này
được hiểu là sự thể hiện sự thống trị của động cơ thương mại ở Bắc Kinh viện trợ (Lammers 2007). Kết quả định
lượng của Dreher et al. (sắp có) chỉ ra rằng 10 lOMoAR cPSD| 41487147
Machine Translated by Google
phân bổ các hình thức lao động chính thức ít ưu đãi hơn và do đó có định hướng thương mại hơn
tài chính, chẳng hạn như các khoản vay của Ngân hàng Exim hoặc Ngân hàng Phát triển Trung Quốc, được hướng dẫn bởi các chính sách thương mại.
ở mức độ lớn hơn so với viện trợ phát triển có tính ưu đãi cao, tức là viện trợ
theo nghĩa chặt chẽ.
Đảm bảo quyền tiếp cận tài nguyên thiên nhiên
“Phép màu tăng trưởng” của Trung Quốc (Lin và cộng sự 2003) đã khiến nước này trở thành quốc gia nhập khẩu dầu ròng vào năm 1993 và là nước nhập khẩu dầu lớn thứ ba thế giới.
người tiêu dùng sau Hoa Kỳ và Nhật Bản vào năm 1996. Vào thời điểm Trung Quốc gia nhập WTO (2001), nước này đã là nước nhập
khẩu dầu lớn thứ hai sau Hoa Kỳ. Dựa vào nhập khẩu khoảng một
phần ba nguồn cung của mình, việc tìm kiếm an ninh năng lượng đã trở thành vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự của Bắc Kinh. Một cách tự nhiên,
Châu Phi giàu tài nguyên trở thành điểm đến chính cho cuộc tìm kiếm của Trung Quốc. Sự sụp đổ của phương Đông Khối vào đầu
những năm 1990 đã dẫn đến việc cắt giảm ngân sách viện trợ của các nước thuộc khối OECD Ủy ban Hỗ trợ Phát triển (DAC).10 Đồng
thời, nguồn DAC sẵn có ngày càng giảm
viện trợ trở nên có điều kiện hơn thông qua việc áp dụng chung các chính sách điều chỉnh cơ cấu. Cái này 11
bối cảnh đã tạo ra một nền tảng hiệu quả cho cái mà sau này được gọi là “Mô hình Angola”. Bắc Kinh
khuyến khích các công ty khai thác (chủ yếu là quốc gia) của Trung Quốc “ra ngoài” với các mức độ khác nhau hỗ trợ ngoại giao và
tài chính (Downs 2007: 48), cung cấp cho các nước đang phát triển những điều kiện về
Viện trợ và các khoản vay ưu đãi của Trung Quốc để đổi lấy quyền tiếp cận tài nguyên thiên nhiên. Bất chấp sự khắc nghiệt nhận được nhiều lời chỉ trích,
hình thức cho vay này không phải chỉ có ở Trung Quốc: các ngân hàng phương Tây thường sử dụng hàng hóa để đảm bảo cho các khoản vay (Dollar
2016: 61). Tương tự như các khoản vay ưu đãi, dựa trên nguồn lực
các khoản vay là một phương thức trong đó Nhật Bản cung cấp tài chính phát triển cho Trung Quốc vào đầu những năm 1980 và đã cũng được chính phủ
Trung Quốc đánh giá là hình thức viện trợ hiệu quả và cùng có lợi (Brautigam 2009).
Nhiều học giả đã nhấn mạnh việc tiếp cận tài nguyên thiên nhiên là mục tiêu trọng tâm của Trung Quốc.
viện trợ (ví dụ, Alden 2005; Tull 2006; Davies 2007; Naím 2007). Lum và cộng sự. (2009) đã cố gắng chứng minh điều này
khẳng định với dữ liệu được thu thập thông qua nghiên cứu tin tức. Họ gợi ý rằng viện trợ của Trung Quốc cho Châu Phi và khu vực Latin
Nước Mỹ được xác định bởi lợi ích thương mại và chủ yếu được thúc đẩy bởi việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tài nguyên. Tuy nhiên,
dữ liệu của Lum và cộng sự—trong số những dữ liệu khác—có sự khác biệt không chính xác
10 Theo Burnell (2009), trong thời gian này, các quốc gia thành viên DAC đã cung cấp một tỷ trọng nhỏ hơn (0,22%) trong Tổng thu nhập quốc dân (GNI) của
họ so với bất kỳ thời điểm nào kể từ cuối những năm 1940, tỷ lệ thực tế đã giảm khoảng 10% mỗi năm kể từ năm 1990. , và 40% đến Châu Phi.
11 Năm 2005, IMF và các nước phương Tây đã gây áp lực buộc Angola phải cải thiện tính minh bạch trong lĩnh vực dầu mỏ và thực hiện các cải cách khác
như một điều kiện tiên quyết để có được nguồn vốn viện trợ. Đồng thời, Trung Quốc đã cung cấp cho Angola một khoản vay ưu đãi trị giá 2 tỷ USD như một
phần của gói viện trợ dài hạn liên quan đến nỗ lực giành quyền thăm dò dầu khí. Trung Quốc đã thắng thầu – Angola từ chối các điều kiện viện trợ của IMF.
Cùng với Nigeria, Angola là nước sản xuất dầu chính ở bờ biển phía Tây châu Phi, vào thời điểm đó cung cấp cho Hoa Kỳ 15% lượng dầu nhập khẩu (Lyman 2005). 11 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
giữa viện trợ theo nghĩa hẹp và các hình thức tài chính chính thức khác. Tập trung
vào một định nghĩa hẹp
viện trợ của Trung Quốc, Dreher và Fuchs (2015) không tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ nào giữa việc phân bổ viện trợ của Trung Quốc trên khắp
nước nhận tài nguyên thiên nhiên dồi dào trong giai đoạn 1996-2005. Tương tự, các
kết quả của Hendrix và Noland (2014, chương 5) xác nhận rằng ODA của Trung Quốc không tuân theo quy luật tự nhiên nguồn tài nguyên.
Điều này cũng phù hợp với Bảng C của Hình 3, nơi chúng tôi chỉ ra rằng các nhà sản xuất dầu trung bình mỗi năm không nhận được thêm
dự án viện trợ nào của Trung Quốc. Dreher và cộng sự. (sắp có) giải thích
thiếu sự hỗ trợ thực nghiệm trong các nghiên cứu định lượng cho nhận thức rằng các nguồn lực dẫn dắt viện trợ của Trung Quốc. Sau khi tách ODA khỏi
các hình thức tài trợ chính thức ít ưu đãi khác của Trung Quốc, có vẻ như
rằng chỉ những hình thức tài trợ chính thức ít ưu đãi hơn (chứ không phải viện trợ theo nghĩa hẹp) mới được hướng dẫn bởi sự sẵn có của dầu
ở các nước tiếp nhận.
4. Mối quan tâm về phát triển và nhân đạo
Trong suốt lịch sử viện trợ của Trung Quốc, các tài liệu chính thức và các tuyên bố của lãnh đạo đã
liên tục khẳng định rằng Trung Quốc viện trợ để giúp các nước đang phát triển khác phát triển “tăng cường khả
năng phát triển độc lập của họ” (Xi 2015), để “giảm nghèo” và
“cải thiện sinh kế của người dân” (SCIO 2014). Sự tập trung mạnh mẽ của viện trợ nước ngoài của Trung Quốc vào cơ sở vật chất Ví dụ, cơ sở hạ tầng dựa
trên niềm tin của các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng nó cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
phát triển (Zhang và cộng sự 2015). Phus, viện trợ nước ngoài của Trung Quốc cũng có thể phản ánh sự phát triển và mối quan tâm nhân đạo.
Bảng D của Hình 3 cho thấy các nước nghèo thực sự nhận được nhiều hàng Trung Quốc hơn các dự án viện trợ trung bình mỗi năm. Các
phân tích thực nghiệm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu xác nhận rằng
các nước nghèo nhận được nhiều viện trợ của Trung Quốc hơn các nước giàu, tất cả các yếu tố khác đều bình đẳng (Dreher và Fuchs 2015; Broich 2017;
Dreher và cộng sự. sắp tới). Tuy nhiên, đây chưa phải là bằng chứng cho thấy viện trợ của Trung Quốc
mô hình phân bổ được hướng dẫn bởi các mối quan tâm về phát triển và nhân đạo. Thu nhập bình quân đầu người có thể cũng đo lường
mức độ dễ dàng trong việc mua các nhượng bộ chính sách từ các nước nhận (xem Bueno de Mesquita và Smith 2009). Điều đáng lo ngại là
việc kiểm tra các mô hình phân bổ ở cấp địa phương cho thấy
rằng các tỉnh phát triển hơn nhận được nhiều hơn là ít viện trợ của Trung Quốc hơn (Dreher và cộng sự 2016).
“Viện trợ nhân đạo” là một trong những phương tiện thực hiện mục tiêu “Cải thiện đời sống nhân dân”
sinh kế” có thể đạt được. Nó được định nghĩa chủ yếu là viện trợ được đưa ra như
là phản ứng khẩn cấp đối với thiên nhiên.
thiên tai, tái thiết sau thiên tai và xây dựng năng lực phòng ngừa và cứu trợ thiên tai.
Tuy nhiên, viện trợ nhân đạo của Trung Quốc được thực hiện trên cơ sở khá “đặc biệt”.
12 Như đã được thể hiện bởi
Li (2012) và UNDP (2015), quy mô của nó phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng; máy chủ- 12
Xem thêm Fuchs và Klann (2013) để biết phân tích kinh tế lượng về việc phân bổ và tốc độ hỗ trợ thiên tai bằng
các nhà tài trợ không thuộc DAC, bao gồm cả Trung Quốc. 12 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
nhu cầu của đất nước; và mối quan hệ song phương của Trung Quốc với quốc gia bị ảnh hưởng. chính trị song phương
các mối quan hệ cũng ảnh hưởng đến quyết định phân bổ viện trợ nhân đạo của các nhà tài trợ phương Tây (ví dụ, Drury et al.
2005; Fink và Redaelli 2011; Raschky và Schwindt 2012).
Động cơ nhân đạo cũng được thể hiện rõ trong hoạt động viện trợ y tế của Trung Quốc.13 Trung Quốc có truyền thống lâu đời về
phái các đội y tế đi khắp thế giới, kể từ những năm 1950. Theo thứ hai
Sách trắng (SCIO 2014), từ năm 2010 đến năm 2012, Trung Quốc đã cử 55 đội gồm
3.600 nhân viên y tế tới 54 quốc gia để cung cấp các dịch vụ y tế tại chỗ hoặc lưu động, điều trị gần bảy triệu bệnh nhân.
Đại diện Cơ quan Y tế và Kế hoạch hóa gia đình quốc gia Trung Quốc
Ủy ban (NHFPC) đã lập luận rằng điều này tỏ ra có giá trị trong đợt bùng phát Ebola ở Tây Phi vào năm 2014: Bởi vì
Trung Quốc có đội ngũ y tế có mặt tại Sierra Leone, Liberia và Guinea,
những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, họ có thể thông báo cho Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Trung Quốc
ở giai đoạn đầu của đợt bùng phát.
14 Sau đó, từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2014, Trung Quốc đã
đã đóng góp tổng cộng 123 triệu USD và cam kết cử hơn 1000 chuyên gia y tế tới
khu vực bị ảnh hưởng (UNDP 2014). Tuy nhiên, đợt bùng phát Ebola cũng cho thấy sự cần thiết phải vượt ra ngoài phạm vi quảng cáo.
hỗ trợ cụ thể trên thực địa và góp phần xây dựng các cơ cấu y tế công cộng bền vững. TRONG
Năm 2016, Trung Quốc đã xuất bản “Đề cương kế hoạch Trung Quốc lành mạnh năm 2030”
trong đó xác định một “Trung Quốc toàn cầu” mới.
Chiến lược Y tế” (CPCCC và SC 2016). Trong khi việc điều động các đội y tế vẫn là một
quan trọng trong chiến lược mới, nó bổ sung thêm các yếu tố mới mang tính hệ thống hơn như tăng đưa sức khỏe
của phụ nữ và trẻ em vào viện trợ y tế và hỗ trợ xây dựng hệ thống phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh.
Những hậu quả phát triển của viện trợ Trung Quốc là chủ đề của một cuộc tranh luận rộng rãi hơn (ví dụ, Tull 2006; Asche và Schüller
2008; McCormick 2008). Naim (2007: 95) phủ nhận việc các nhà tài trợ lừa đảo như Trung Quốc có ý định hỗ trợ các nước khác phát triển kinh tế
vì họ “được thúc đẩy bởi một
mong muốn thúc đẩy hơn nữa lợi ích quốc gia của mình, thúc đẩy một chương trình nghị sự về ý thức hệ, hoặc đôi khi sắp xếp
túi riêng.” Theo quan điểm cực đoan của ông, “[r]các nhà cung cấp viện trợ không thể quan tâm hơn đến lợi ích lâu dài
phúc lợi của người dân ở các quốc gia mà họ “viện trợ” (trang 95). Những người khác khen ngợi viện trợ của Trung Quốc vì nó
tiềm năng tăng trưởng. Ví dụ, Wang (2007: 21) viết rằng “[b]vì viện trợ được sử dụng để tài trợ cho cơ sở hạ tầng bổ sung
cho đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất hoặc xuất khẩu, nó giúp thúc đẩy tài trợ từ các nguồn phi chính phủ và gián tiếp kích
thích tăng trưởng ở nước tiếp nhận.”
Các học giả Trung Quốc như He Wenping (Quản lý viện trợ hiệu quả 2008) cho rằng không có quy định rõ ràng về
13 Điều này không có nghĩa là động cơ nhân đạo là động lực duy nhất của viện trợ y tế. Như Shinn (2006) lưu ý, viện trợ y tế cũng được coi là một công cụ để nâng cao danh tiếng của y
học Trung Quốc và là “một cách thông minh và chi phí thấp để giới thiệu thuốc do Trung Quốc sản xuất tới thị trường châu Phi”. 14
Cuộc phỏng vấn của tác giả với một nhân viên của Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình và Sức khỏe Quốc gia, Bắc Kinh, Tháng 3 năm 2016. 13 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
câu trả lời cho câu hỏi “hệ thống hỗ trợ nào hoạt động tốt nhất?” Bà lập luận rằng viện trợ của Trung Quốc tập trung vào các lĩnh vực Sức mạnh so sánh của Trung Quốc,
cũng như người nhận và nhu cầu của Trung Quốc - tương tự như viện trợ của phương Tây các nhà cung cấp.
Một số phân tích điều tra xem viện trợ của Trung Quốc có hiệu quả trong việc thúc đẩy kinh tế hay không phát triển. Sử dụng dữ liệu
về hợp tác kinh tế làm đại diện cho viện trợ của Trung Quốc, Busse et al. (2016) tìm
không có tác động mạnh mẽ nào từ sự hợp tác kinh tế của Trung Quốc tới tăng trưởng kinh tế, trong khi thương mại Trung Quốc xuất hiện để có tác dụng thúc đẩy tăng
trưởng. Gần đây hơn, hai nghiên cứu—một ở cấp độ xuyên quốc gia và
một ở cấp địa phương—điều tra các tác động phát triển của nguồn tài chính phát triển của Trung Quốc,
trong đó có ODA. Dreher và cộng sự. (2016) nhận thấy rằng các dự án phát triển của Trung Quốc dẫn đến sự gia tăng phát triển địa phương của
các tỉnh châu Phi tổ chức các dự án như vậy. Kể từ khi toàn diện địa phương
Số liệu thống kê GDP không có sẵn ở Châu Phi, các tác giả sử dụng lượng phát thải ánh sáng ban đêm bình quân đầu người là Các tỉnh ở Châu Phi là đại
diện cho sự phát triển của địa phương. Về mặt định lượng, kết quả của họ chỉ ra rằng một Nguồn tài chính chính thức của Trung Quốc tăng 10% sẽ thúc đẩy
GDP khu vực tăng khoảng 0,24%. Tương tự, Dreher et al. (2017) tìm thấy tác động tăng trưởng tích cực ở cấp quốc gia. Theo kết quả của họ (trang 20), “tăng
gấp đôi ODA Trung Quốc ở quốc gia nhận trung bình làm tăng mức tăng trưởng của người nhận thêm 0,4 phần trăm
điểm.” Bất chấp những tiến bộ này, vẫn còn một chặng đường dài trước khi chúng ta có thể nắm bắt được đầy đủ hậu quả của các hoạt
động phát triển của Trung Quốc đối với tăng trưởng và phúc lợi ở các nước tiếp nhận. 5. Kết Luận
Chương này thảo luận về các động cơ chính trị, kinh tế và nhân đạo như động cơ thúc đẩy viện trợ nước ngoài của Trung Quốc. sang các nước đang phát
triển khác. Liên quan đến động cơ chính trị, chính phủ Trung Quốc rõ ràng
coi viện trợ là một công cụ chính sách đối ngoại giúp đất nước tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi
môi trường cho sự phát triển của nước này và hỗ trợ nước này vươn lên vị thế cường quốc toàn cầu. Lập trường này bộc lộ mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau giữa động cơ đối nội và đối ngoại của Trung Quốc, vì nền kinh tế của Trung Quốc
hiện đại hóa và tăng trưởng được coi là điều kiện tiên quyết cho sự nổi lên của Trung Quốc như một nền kinh tế và quyền lực chính trị—và cần
thiết để duy trì tính hợp pháp và quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc
Buổi tiệc. Kể từ khi Trung Quốc lần đầu tiên bắt đầu viện trợ, nó đã được sử dụng như một công cụ để tăng cường ảnh hưởng của Bắc Kinh ở
quản trị toàn cầu, đặc biệt là trong các tổ chức của Liên hợp quốc, và khen thưởng các quốc gia tuân thủ Chính sách Một Trung Quốc.
Hơn nữa, viện trợ nước ngoài đã phục vụ và tiếp tục phục vụ như một công cụ để
cải thiện hình ảnh của Trung Quốc ở nước ngoài – hay, như chính phủ Trung Quốc định nghĩa chính thức, “để quảng bá quan hệ hữu nghị” với các nước khác.
Lợi ích thương mại bắt đầu đóng một vai trò vào những năm 1980 với chính sách “Cải cách và mở cửa” của Trung Quốc.
Up”, khi hiện đại hóa và phát triển kinh tế thay thế hệ tư tưởng làm động lực cốt lõi của 14 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc. Đối với viện trợ của Trung Quốc, điều đó có nghĩa là đôi bên cùng có lợi về lợi ích kinh tế của chính
Trung Quốc. Ý tưởng này được phát triển hơn nữa vào những năm 1990 khi
Viện trợ của Trung Quốc cũng nhằm mục đích hỗ trợ việc “ra ngoài” của các công ty Trung Quốc. Khi Trung Quốc trở thành nhập khẩu dầu lớn thứ hai
thế giới vào năm 2000, họ bắt đầu cung cấp các khoản vay ngày càng nhiều để đổi lấy
nguyên thiên nhiên để tăng cường an ninh năng lượng. Tuy nhiên, kết quả thực nghiệm cho thấy rằng không phải ODA của Trung Quốc mà
là các khoản vay quy mô lớn do các ngân hàng chính sách của nước này cung cấp nhằm vào các nước giàu tài nguyên.
Cuối cùng, viện trợ nước ngoài của Trung Quốc cũng có thể được hiểu là sự phản ánh các hoạt động nhân đạo và động cơ phát triển.
Trong suốt lịch sử viện trợ của Trung Quốc, các quan chức của nước này đã liên tục khẳng định rằng Trung Quốc viện trợ để giúp các nước đang phát
triển khác giảm nghèo và
cải thiện sinh kế của người dân tiếp nhận. Tăng trưởng kinh tế được hiểu là động lực chính cho
phát triển. Quả thực, nghiên cứu định lượng cho thấy các nước nghèo nhận được nhiều viện trợ của Trung Quốc hơn và rằng nhiều quốc gia bị
ảnh hưởng bởi thiên tai hơn sẽ nhận được nhiều hỗ trợ nhân đạo hơn, tất cả đều bình đẳng. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy rằng các khu vực nghèo
hơn trong các quốc gia nhận được ít sự hỗ trợ hơn từ Bắc Kinh.
Rõ ràng, ba động cơ chính của viện trợ Trung Quốc này có mối liên hệ với nhau và
mối liên hệ giữa chúng.
tầm quan trọng đã thay đổi trong lịch sử chương trình viện trợ của Trung Quốc và tiếp tục phát triển.
Dưới sự lãnh đạo hiện nay của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, viện trợ nước ngoài ngày càng nhận được nhiều hơn. chú ý như một công cụ
chính sách kinh tế và đối ngoại. Một bằng chứng đáng kể về sự phát triển này là nhiều lần kêu gọi “tăng cường” và “cải cách” hệ thống viện trợ
của Trung Quốc (ví dụ: China Economic Net
2012; Dương 2012). Tương tự như các lĩnh vực chính sách khác, viện trợ nước ngoài là mục tiêu chống tham nhũng của Tập Cận Bình
chiến dịch, và vào tháng 9 năm 2013, một báo cáo thanh tra của Ủy ban Kỷ luật Trung ương
chỉ trích khả năng tham nhũng trong các dự án viện trợ (đặc biệt là ở nước ngoài), những bất thường trong dự án đấu thầu và các trường hợp
điều chỉnh ngân sách lớn (Beijing Times 2014; trích dẫn trong Rudyak 2014). Các
Hệ thống viện trợ của Trung Quốc rất phân tán. Mặc dù MOFCOM được chỉ định là cơ quan điều phối viện trợ nước
ngoài, nó không có thẩm quyền đối với hơn 20 chính phủ khác
các bộ, cơ quan liên quan đến viện trợ nước ngoài (Rudyak 2014). Tuy nhiên, khi khối lượng viện trợ của Trung Quốc tiếp tục phát triển, vấn đề
cải cách ngày càng trở nên cấp bách. Đầu tháng 2 năm 2017,
cơ quan ra quyết định cao nhất hiện nay về cải cách kinh tế, Nhóm lãnh đạo của Đảng Cộng sản về Cải cách sâu rộng
toàn diện do Tập Cận Bình đề ra sau khi ông kế nhiệm
quyền lực, đã thông qua “Hướng dẫn thực hiện cải cách viện trợ nước ngoài” (Rudyak 2017b). Đó là có lẽ là lần đầu tiên
Nhóm Lãnh đạo đảm nhận vấn đề viện trợ - như Tập đã từng
được trích dẫn sau đó—vì giới lãnh đạo hiểu rằng “Trung Quốc phải hành động khôn ngoan hơn khi đưa tiền ra nước
ngoài” và cần tối ưu hóa bố cục chiến lược viện trợ nước ngoài (Huang 15 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google 2017).
Xem xét tầm quan trọng ngày càng tăng của viện trợ Trung Quốc, các cơ quan nghiên cứu định tính hiện có, bao gồm phân tích
chuyên sâu về các nguồn chính (tiếng Trung Quốc) và nghiên cứu định lượng,
bao gồm các phân tích kỹ lưỡng về dữ liệu được công bố gần đây, rất hạn chế. Trong khi nghiên cứu định lượng
đã tiết lộ mối tương quan giữa mô hình phân bổ viện trợ của Trung Quốc và các ủy quyền cho chính trị của nước này. lợi ích, tài liệu về tác
động chính trị của viện trợ Trung Quốc vẫn còn kém phát triển.15 Do khan hiếm nghiên cứu, cần làm sáng tỏ hơn vai trò của các doanh
nghiệp nhà nước có ảnh hưởng và
mối quan hệ đảng phái của các công ty tư nhân trong việc lựa chọn các dự án viện trợ của Trung Quốc.16 Nghiên cứu trong tương lai nên cũng tìm cách điều tra kỹ hơn
các mô hình phân bổ ở cấp địa phương và hậu quả phân bổ của
Viện trợ của Trung Quốc ở các nước tiếp nhận Cuối cùng, việc phân tích tác động của dấu chân phát triển của Trung Quốc về các kết quả phát
triển khác ngoài tăng trưởng kinh tế đáng được quan tâm hơn. 15
Xem Bader (2015a, 2015b), Hernandez (2017) và Li (2017) để biết những trường hợp ngoại lệ gần đây. 16
Xem Zhu (2015) để có bằng chứng định tính đầu tiên. 16 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Người giới thiệu
Adu-Gyamerah, E. (2014), 'Châu Phi cần thương mại công bằng chứ không phải viện trợ:
Giáo sư Li Anshan', Graphic Online, ngày 2 tháng 4.
URL: www.graphic.com.gh/international/international-news/africa-needs-fair-trade-not-aids-prof-li-anshan.html (07.11.2017).
Alden, C. (2005), 'Sao đỏ, vàng đen', Tạp chí Kinh tế Chính trị Châu Phi 32(104/5): 415–419. Alesina, A. và D. Dollar (2000), 'Ai
cấp viện trợ nước ngoài cho ai và tại sao?', Tạp chí Kinh tế
Tăng trưởng 5(1): 33–63.
Asche, H. và M. Schüller (2008), Sự tham gia của Trung Quốc vào Châu Phi – Cơ hội và Rủi ro cho
Phát triển, Eschborn, Đức: Deutsche Gesellschaft für technische Zusammenarbeit (GTZ). URL:
http://s3.amazonaws.com/zanran_storage/www2.gtz.de/ContentPages/19176160.pdf (07.11.2017).
Asmus, G., A. Fuchs và A. Müller (2017), 'BRICS và viện trợ nước ngoài', Tài liệu làm việc về AidData số 43. Williamsburg, VA:
AidData.Bader, J. (2015a), 'Trung Quốc, nhà bảo trợ chuyên quyền? Một thực nghiệm
điều tra Trung Quốc như một yếu tố cho sự tồn tại của chế độ chuyên chế', Nghiên cứu Quốc tế Hàng quý 59(1): 23–33.
Bader, J. (2015b), 'Hỗ trợ những kẻ độc tài? Hợp tác kinh tế từ Trung Quốc và tác
động của nó tới
sự kiên trì độc đoán trong các chế độ đảng phái và phi đảng phái', Tạp chí Chính trị Châu Âu
Nghiên cứu 54(4): 655–672.
Bartke, W. (1989), Viện trợ kinh tế của Trung Quốc cho các nước xã hội chủ nghĩa và đang phát triển, tái bản lần thứ 2, Munich, Đức: KG Saur Verlag GmbH & Company.
Beijing Times [Jinghua shibao] (2014), 'MOFCOM xử lý các vấn đề tham nhũng trong viện trợ nước ngoài. Lời hứa thành lập bộ phận giám
sát cán bộ để điều tra nhân viên [Shangwubu zhengzhi
yuanwai xiangmu lianzheng goti. Jiang she ganbu jandu chu cha yongren]', Beijing Times [Jinghua shibao], ngày
12 tháng 6, URL: http://news.ifeng.com/a/20140612/40695295_0.shtml (07.11.2017).
Brautigam, D. (2009), Món quà của rồng: Câu chuyện có thật về Trung Quốc ở Châu Phi, Oxford, Vương quốc Anh; New York, NY:
Nhà xuất bản Đại học Oxford.
Brautigam, D. (2010), 'Trung Quốc, Châu Phi và cơ cấu viện trợ quốc tế', Phát triển Châu Phi Chuỗi tài liệu làm việc
của Nhóm Ngân hàng (107), URL:
http://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.594.6351&rep=rep1&type=pdf (07.11.2017).
Broich, T. (2017), ‘Các chế độ độc tài có nhận được nhiều tài trợ phát triển của Trung Quốc hơn
những người dân chủ? Bằng chứng thực nghiệm cho Châu Phi', Tài liệu làm việc của UNU-MERIT 2017–11. 17 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Maastricht, Hà Lan: Đại học Liên Hợp Quốc-Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội Maastricht Viện đổi mới và công nghệ.
Brückner, L., VZ Eichenauer và A. Fuchs (2017), 'Tác động nhân quả của thương mại, viện trợ và đầu tư đối với Hình ảnh của Trung Quốc ở nước
ngoài', bài viết trình bày tại Hội thảo Thực nghiệm viện trợ nước ngoài Nghiên cứu: Quan điểm từ công chúng nhà tài trợ và người
nhận, Đại học California Washington
Trung tâm, Washington, DC (14-15 tháng 4).
Bueno de Mesquita, B. và A. Smith (2007), 'Nhượng bộ chính sách và viện trợ nước ngoài', Tạp chí Xung đột Nghị quyết 51(2): 251–284.
Bueno de Mesquita, B. và A. Smith (2009), 'Một nền kinh tế chính trị viện trợ', Tổ chức Quốc tế 63(2): 309–340.
Burnell, P. (2009), 'Viện trợ nước ngoài: giảm nhưng không hết', Bản tin WIDER Angle, URL:
https://www.wider.unu.edu/publication/forign-aid-down-not-out (07.11.2017).
Busse, M., C. Erdogan và H. Mühlen (2016), 'Tác động của Trung Quốc đối với Châu Phi – Vai trò của thương mại, FDI và viện trợ', Kyklos 69(2): 228– 262.
Cao, J. (2013), 'Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về viện trợ nước ngoài của Trung Quốc [Zhongguo kaizhan duiwai yuanzhu ruogan jiben goti
yinjiu], Tạp chí của Đại học Beihua (Khoa học xã hội) [Beihua
daxue xuebao (shehui kexue ban)] (5): 97–101.
Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCPCC) và Hội đồng Nhà nước (SC) (2016), 'CCPCCC và
Hội đồng Nhà nước công bố đề cương kế hoạch 'Trung Quốc khỏe mạnh 2030' [Zhonggong Zhongyang Guowuyuan
Fabu Jiankang Zhongguo 2030 Guihua Gangyao], ngày 25 tháng 10, URL: http://www.gov.cn/zhengce/2016-
10/25/content_5124174.htm (03.11.2016).
Tin tức Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCPN) (1964), '1964.01.16 Tám nguyên tắc viện trợ nước ngoài [1964 nian
1 yue 16 ri duiwai yuanzhu ba xiang yuanze]', Tin tức Đảng Cộng sản Trung Quốc [Zhongguo
gongchan dang xinwen], ngày 16 tháng 1, URL:
http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64165/76621/76638/5273141.html (07.11.2017).
Nhà xuất bản Biên soạn và Dịch thuật (CCTP) (2016), Kế hoạch 5 năm kinh tế - xã hội lần thứ 13 Sự phát triển của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa 2016–2020, URL:
http://en.ndrc.gov.cn/newsrelease/201612/P020161207645765233498.pdf (07.11.2017).
Chen, D. (2011), 'Công tác viện trợ nước ngoài của Trung Quốc', Tạp chí Qiushi (Tìm
kiếm sự thật) 3(2), URL:
http://english.qstheory.cn/international/201109/t20110924_112578.htm (07.11.2017).
Chen, D. (2010), ‘Phấn đấu tạo bước tiến mới trong công tác viện trợ nước ngoài – Thực hiện triệt để tinh thần của hội nghị làm việc quốc gia
về viện trợ nước ngoài [Nuli kaichuang yuanwai gongzuo jumian – shenru guanche luoshi quanguo yuanzhu gongzuo huiyi
jingshen]', Tìm kiếm sự thật [Qiushi] (19): 42–44. 18 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Copper, JF (2016), Ngoại giao đầu tư và viện trợ nước ngoài của Trung Quốc, Tập II: Lịch sử và thực tiễn ở
Châu Á, 1950-nay, New York, NY: Palgrave Macmillan.
Davies, P. (2007), Trung Quốc và việc chấm dứt nghèo đói ở Châu Phi – Hướng tới lợi ích chung? Sundyberg, Thụy Điển: Diakonia, Alfaprint.
Dollar, D. (2016), Sự tham gia của Trung Quốc với Châu Phi, Washington, DC: Brookings, URL:
http://www.brookings.edu/research/papers/2016/07/china-africa-natural-human-resources-đô la (07.11.2017).
Downs, E. (2007), 'Thực tế và hư cấu về quan hệ năng lượng Trung-Châu Phi', China Security 3(3): 42–68.
Dreher, A., P. Nunnenkamp và M. Schmaljohann (2015), 'Việc phân bổ viện trợ của Đức: tư lợi
và hệ tư tưởng của chính phủ', Kinh tế & Chính trị 27(1): 160–184.
Dreher, A., P. Nunnenkamp và R. Thiele (2011), 'Các nhà tài trợ 'mới' có khác biệt không? So sánh các phân bổ viện trợ
song phương giữa các nước tài trợ nonDAC và DAC', Phát triển Thế giới 39: 1950–1968.
Dreher, A., P. Nunnenkamp và R. Thiele (2008), 'Viện trợ của Hoa Kỳ có mua được phiếu bầu của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc không? MỘT phân tích tách rời', Lựa
chọn công cộng 136(1-2): 139–164.
Dreher, A. và A. Fuchs (2015), 'Viện trợ lừa đảo? Một phân tích thực nghiệm về phân bổ viện trợ của Trung Quốc', Canada Tạp chí Kinh tế 48(3): 988–1023.
Dreher, A., A. Fuchs, R. Hodler, BC Parks, PA Raschky và MJ Tierney (2016), 'Viện trợ theo yêu cầu:
Các nhà lãnh đạo châu Phi và địa lý viện trợ nước ngoài của Trung Quốc', Tài liệu
nghiên cứu AidData số 1.
3 (đã sửa đổi). Williamsburg, VA: Dữ liệu viện trợ.
Dreher, A., A. Fuchs, BC Parks, AM Strange và MJ Tierney (2017), 'Viện trợ, Trung Quốc và tăng trưởng:
bằng chứng từ bộ dữ liệu tài chính phát triển toàn cầu mới', Tài liệu nghiên cứu của AidData số 46.
Williamsburg, VA: Dữ liệu viện trợ.
Dreher, A., A. Fuchs, BC Parks, AM Strange và MJ Tierney (sắp xuất bản), 'Táo và rồng
thành quả: những yếu tố quyết định viện trợ và các hình thức tài trợ nhà nước khác từ Trung Quốc đến Châu Phi',
Nghiên cứu quốc tế hàng quý.
Drury, AC, RS Olson và DA van Belle (2005), 'Chính trị của viện trợ nhân đạo: nước ngoài của Hoa Kỳ
hỗ trợ thiên tai, 1964-1995', Tạp chí Chính trị 67(2): 454–473.
Findley, MG, HV Milner và DL Nielson (2017), 'Sự lựa chọn giữa các nhà tài trợ viện trợ: tác động của viện trợ đa phương
và song phương về hỗ trợ hành vi của người nhận', Review of International Tổ chức 12(2): 307–334.
Fink, G. và S. Redaelli (2011), 'Các yếu tố quyết định viện trợ khẩn cấp quốc tế – Nhu cầu nhân đạo chỉ?', Phát triển Thế
giới 39(5): 741–757.
Fleck, RK và C. Kilby (2006), 'Những thay đổi chính trị ảnh hưởng như thế nào đến việc phân bổ viện trợ song phương của Hoa Kỳ?
Bằng chứng từ dữ liệu bảng', Tạp chí Kinh tế Phát triển 10(2): 210–223. 19 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Diễn đàn Hợp tác Trung Quốc-Châu Phi (FOCAC) (2006), 'Diễn đàn Hợp tác Trung Quốc-Châu Phi. Bắc Kinh Kế hoạch hành
động (2007-2009)', 16 tháng 11. URL: http://www.fmprc.gov.cn/zflt/eng/ltda/dscbzjhy/DOC32009/t280369.htm (07.11.2017).
Fuchs, A. và N. Klann, (2013), 'Hỗ trợ khẩn cấp 2.0', Beiträge zur Jahretagung des Vereins für Chính trị xã hội 2013:
Wettbewerbspolitik và Regulierung in einer Globalen Wirtschaftsordnung, Phiên: Thương mại và Tài chính
Quốc tế, Số D08-V3.
Fuchs, A. và KC Vadlamannati (2013), 'Nhà tài trợ thiếu thốn: phân tích thực nghiệm về viện trợ của Ấn Độ
động cơ', Phát triển Thế giới 44: 110–128.
Gao, H. (2016), 'Xây dựng 'Vành đai và Con đường' khởi đầu một giai đoạn mở cửa mới - Bộ trưởng Gao Hu Cheng đã tham dự
loạt bài giảng công khai 'Hướng tới Kế hoạch 5 năm lần thứ 13' và
đã có bài phát biểu quan trọng [Yi 'Yi dai yi lu' jianshe wei tongling kaichuang duiwai kaifang xin jumian - Gao Huchen buzhang
chuxi 'Zhanwang shisanwu' xilie baogaohui bing zuo zhuanti jianghua]', Bộ Thương mại CHND Trung Hoa [Zhonghua renmin
gongheguo shangwubu], 12 tháng 4,
URL: http://www.mofcom.gov.cn/article/ae/ai/201604/20160401294782.shtml (07.11.2017).
Hendrix, CS và M. Noland (2014), Đối mặt với lời nguyền: Kinh tế và Địa chính trị của tự nhiên
Quản trị Tài nguyên, Washington, DC: Viện Kinh tế Quốc tế Peterson.
Hernandez, D. (2017), 'Các nhà tài trợ 'mới' có thách thức các điều kiện của Ngân hàng Thế giới không?', Phát triển Thế giới 96: 529–549.
Hoeffler, A. và Outram V. (2011), 'Nhu cầu, thành tích hoặc lợi ích cá nhân – Điều gì quyết định việc phân bổ viện trợ?', Tạp chí Kinh tế Phát
triển 15(2): 237–250.
Hu, J. (2013), 'Quy tắc thiết lập hệ thống quản lý viện trợ nước ngoài ở các nước phát triển và
phù hợp với Trung Quốc [Fada guojia duiwai yuanzhu guanli tixi guize shezhi ji dui Zhongguo de qishi], Tạp chí Đại học
Công nghệ Hà Bắc (Ấn bản Khoa học Xã hội) [Hà Bắc gongye daxue xuebao (shehuikexue ban)] (4): 22–27.
Hu, J. và M. Huang (2012), 'Thực trạng và cải cách quản lý viện trợ nước ngoài của Trung Quốc [Zhongguo duiwai
yuanzhu guanli tixi de xianzhuang yu gaige]', Kinh tế quốc tế
Hợp tác [Guoji jingji hezuo] (10): 55–58.
Huang, K. (2017), 'Trung Quốc phải hành động khôn ngoan hơn trong việc viện trợ nước ngoài, Tập Cận Bình nói', South China
Bài đăng buổi sáng, ngày 9 tháng 2, URL: http://www.scmp.com/news/article/2069414/chinas-tịch-xi-muốn-khôn
ngoan hơn-cách tiếp cận-tặng-viện trợ nước ngoài?utm_source=&utm_medium=& (07.11.2017).
Huang, M. và A. Liu (2013), ‘Động cơ kinh tế và lợi ích kinh tế của viện trợ nước ngoài của Trung Quốc [Zhongguo duiwai yuanzhu
zhong de jingji dongji he jingji liyi]', Kinh tế quốc tế
Hợp tác [Guoji jingji hezuo] (4): 62–67. 20 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Huang, M. và P. Ren (2012), ‘Viện trợ nước ngoài của Trung Quốc: chuyển đổi chính sách và xu hướng tương lai
[Zhongguo duiwai yuanzhu: Zhengce bianhua ji weilai qushi]', Kinh tế quốc tế
Hợp tác [Guoji jingji hezuo] (3): 81–84.
Jiang, Z. (1996), 'Xây dựng trụ cột lịch sử mới cho tình hữu nghị Trung Quốc - Châu Phi - Bài phát biểu tại hội nghị Tổ chức Thống nhất Châu Phi
[Wei Zhong-Fei youhao chuangli xin de lishi fengbei - Zai
Feizhou Tongyi Zuzhi de jianghua]', Nhân dân Nhật báo [Renmin ribao], ngày 14 tháng 5: 6.
Jin C. (2009), 'Từ 'Lý thuyết về mối đe dọa của Trung Quốc' đến 'Lý thuyết trách nhiệm của Trung Quốc' – Sự thay đổi trong quan điểm của Trung Quốc
môi trường dư luận quốc tế và phản ứng của [Trung Quốc] [Cong 'Zhongguo weixie lun' dao 'Zhongguo
zeren lun' – Zhongguo guoji yulun huanjing de bianhua yu yingdui], Green lá [Lü ye] (5): 63–70.
Johnston, LA và M. Rudyak (2017), 'Viện trợ nước ngoài 'sáng tạo và thực dụng' của Trung Quốc: được định hình bởi và hiện đang định hình toàn cầu
hóa', trong Song L. và cộng sự, Nguồn lực tăng trưởng kinh tế mới của Trung Quốc,
Canberra: Nhà xuất bản ANU: 431–451.
Kobayashi, T. (2008), 'Sự phát triển của chính sách viện trợ của Trung Quốc', Tài liệu nghiên cứu của JBICI (27), Tokyo: Ngân hàng Phát triển Nhật Bản
Hợp tác quốc tế.
Kuziemko, I. và E. Werker (2006), 'Một ghế trong Hội đồng Bảo an có giá trị bao nhiêu? Viện trợ nước ngoài và hối lộ tại Liên Hợp
Quốc', Tạp chí Kinh tế Chính trị 114(5): 905–930.
Lammers, E. (2007), 'Đồng thuận Bắc Kinh sẽ mang lại lợi ích như thế nào cho Châu Phi?', The Broker, URL:
thebrokeronline.eu/en/Magazine/articles/How-will-the-Beijing-Consensus-benefit-Africa (06.2010).
Li, X. (2017), 'Điều kiện có còn hiệu quả không? Hỗ trợ phát triển và dân chủ của Trung Quốc ở Châu Phi', Tạp chí Khoa
học Chính trị Trung Quốc 2(2): 201–220.
Li, X. (2012), 'Đặc điểm và vấn đề của viện trợ nhân đạo của Trung Quốc [Zhongguo duiwai rendao
zhuyi yuanzhu de tedian he goti]', Quan hệ quốc tế đương đại [Xiandai guoji guanxi] (2), URL:
http://niis.cssn.cn/webpic/web/niis/upload/2012/12/d20121208013641146.pdf (07.11.2017).
Lin, JY, F. Cai và Z. Li (2003), Phép màu Trung Quốc: Chiến lược phát triển và cải cách kinh tế, Sha
Tín, Trung Quốc; Hồng Kông, Trung Quốc: Nhà xuất bản Đại học Trung Quốc.
Lin, T. (1993), Chính sách viện trợ nước ngoài của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Phân tích lý thuyết, Ph.D.
Luận án, Đại học Bắc Illinois, DeKalb, IL.
Lin, T. (1996), 'Chính sách viện trợ nước ngoài của Bắc Kinh những năm 1990: tính liên tục và thay đổi', Các vấn đề và nghiên cứu 32(1): 32–65.
Luo, J. (2016), 'Chín đặc điểm lớn của viện trợ nước ngoài của Trung Quốc [Zhongguo duiwai yuanzhu de jiu da tese]', Viện trợ quốc tế
[Guoji yuanzhu] (4): 102–106. 21 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Lum, T., H. Fischer, J. Gomez-Granger và A. Leland (2009), 'Hoạt động viện trợ nước ngoài của Trung Quốc ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và Đông Nam
Á', Báo cáo CRS trước Quốc hội (25 tháng 2), Washington, DC:
Dịch vụ Nghiên cứu Quốc hội.
Lyman, P. (2005), 'Vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc ở Châu Phi', Bài trình bày trước Ủy ban Mỹ-Trung vào ngày 21 tháng 6
2005, URL: http://www.cfr.org/china/chinas-rising-role-africa/p8436 (11/07/2017).
Ma, J. (1994), 'Wu Yi giới thiệu khái niệm 'Đại chiến lược kinh tế và thương mại [Wu Yi
jiishao: 'Da Jiingmao zhanlüe' gouxiang]', Chợ Trung Quốc [Zhongguo shichang] (7): 9.
Maizels, A. và MK Nissanke (1984), 'Động lực viện trợ cho các nước đang phát triển', World
Phát triển 12(9): 879–900.
'Quản lý viện trợ hiệu quả: Bài học cho Trung Quốc?' (2008), Báo cáo Hội thảo, Hội thảo do Cơ quan tổ chức Cơ quan Phát triển Quốc tế
Canada (CIDA) và Bộ Quốc tế Vương quốc Anh
Phát triển (DFID), phối hợp với Trung tâm Giảm nghèo Quốc tế tại Trung Quốc (IPRCC) và
Ngân hàng Thế giới Bắc Kinh, 27-28 tháng 3, URL: http://www.iprcc.org.cn/ppt/2008-05-
15/1210812776.pdf (07.11.2017).
Manning, R. (2006), 'Liệu 'các nhà tài trợ mới nổi' có thay đổi bộ mặt hợp tác quốc tế?, Đánh giá Chính sách Phát
triển 24(4): 371–385.
Mawdsley, E. (2012), 'Các khu vực địa lý đang thay đổi của viện trợ nước ngoài và hợp tác phát triển:
đóng góp từ Thuyết quà tặng', Giao dịch của Viện các nhà địa lý Anh 37(2): 256–272.
McCormick, D. (2008), 'Trung Quốc và Ấn Độ với tư cách là nhà tài trợ mới của Châu Phi: tác động của viện trợ đối với sự phát triển',
Đánh giá về Kinh tế Chính trị Châu Phi 35(115): 73–92.
Bộ Thương mại (MOFCOM) [Shangwubu] (2014), Biện pháp hành chính đối với viện trợ nước ngoài (đối với Thực hiện thử nghiệm
[Duiwai yuanzhu guanli banfa (shixing)] 15 tháng 11.
Morgenthau, H. (1962), ‘Một lý thuyết chính trị về viện trợ nước ngoài’, Tạp chí Khoa học Chính trị Hoa Kỳ 56(2): 301–309.
Naim, M. (2007), 'Mất liên kết: viện trợ lừa đảo', Chính sách đối ngoại (159): 95–96.
Pang, X. và S. Wang (2017), 'Những tác động chính trị quốc tế của chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Mỹ viện trợ: trường hợp bỏ
phiếu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc [Zhong Mei duiwai yuanzhu
de guoji zhengzhi yiyi - yi Lianheguo dahui tuopiao wei li]', Khoa học xã hội ở Trung Quốc [Zhongguo shehui kexue] (3): 181– 203+208.
Nhân dân nhật báo [Renmin ribao] (1983), 'Thủ tướng Triệu phát biểu tại cuộc họp báo ở Dar Es Salaam. Nói rằng chuyến thăm 10
nước châu Phi đã đạt được kết quả như mong đợi' [Zhao zongli zai Daleisisalamu juxing de jizhe zhaodai hui shang
shuo. Fangwen Feizhou 10 guo Dadao yuqi mudi], Nhân dân Nhật báo [Renmin ribao], ngày 15 tháng 1: 1. 22 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Pratt, T. (2017), 'Câu chuyện để gây ảnh hưởng: sự phổ biến thể chế trong hoạt động ngân hàng phát triển', bài viết trình bày tại Hội nghị thường niên
lần thứ 10 về kinh tế chính trị quốc tế
Các tổ chức, Bern, Thụy Sĩ, ngày 12-14 tháng 1.
Raschky, PA và M. Schwindt (2012), 'Về kênh và loại hình viện trợ: trường hợp quốc tế
hỗ trợ thiên tai', Tạp chí Kinh tế Chính trị Châu Âu 28(1): 119–131.
Rudyak, M. (2014), 'Cuộc tranh luận cải cách ẩn giấu: Hệ thống viện trợ nước ngoài của Trung Quốc phản ứng với các biện pháp của phương Tây phê bình', bài báo hội
nghị chưa xuất bản trình bày tại hội thảo Nam-Nam
Hợp tác phát triển Cơ hội và thách thức đối với Cấu trúc Viện trợ Quốc tế, 26-Ngày 27 tháng 9, Đại học Heidelberg.
Rudyak, M. (2017a), 'Chủ nghĩa hậu thuộc địa, Trung Quốc và sự phát triển (viện trợ)', tài liệu hội nghị chưa xuất bản trình bày tại hội thảo Chủ nghĩa hậu
thuộc địa và Trung Quốc, 20-21 tháng 1, Global South Studies
Trung tâm, Đại học Cologne.
Rudyak, M. (2017b), 'Quá phức tạp và quá rời rạc. Trung Quốc phải khẩn trương cải cách sự phát triển công trình viện trợ [Zu
komplex und fragiert: China muss seine Strukturen für Entwicklungshilfe dringend Reformieren]', Chính sách quốc tế
[Internationale Politik] (3): 102–106.
Sato, J., H. Shiga, T. Kobayashi và H. Kondoh (2011), 'Các nhà tài trợ mới nổi từ góc độ người nhận:
phân tích thể chế về viện trợ nước ngoài ở Campuchia', Phát triển Thế giới 39(12): 2091–2104.
Schoenhals, M. (1992), Làm việc với từ ngữ trong chính trị Trung Quốc: Năm nghiên cứu, Berkeley, CA:
Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại học California.
Schraeder, PJ, SW Hook và B. Taylor (1998), 'Làm rõ vấn đề viện trợ nước ngoài', Chính trị Thế giới 50(2): 294–323.
Shi, L. (1989), Hợp tác kinh tế của Trung Quốc với nước ngoài ngày nay [Dangdai Zhonguo de
duiwai jingji hezuo], Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Trung Quốc [Zhongguo shehui kexue chibanshe]. Shimomura, Y. và P. Wang
(2012), 'Sự phát triển của 'tổng hợp viện trợ, đầu tư, thương mại' ở Trung Quốc và
Japan', trong Sato, J. và Y. Shimomura (eds.), Sự trỗi dậy của các nhà tài trợ châu Á: Tác động của Nhật Bản đối với nền kinh tế
Sự phát triển của các nhà tài trợ mới nổi, Abington, Vương quốc Anh: Routledge, 114–32.
Shinn, D. (2006), 'Châu Phi, Trung Quốc và chăm sóc sức khỏe', Bên trong Châu Á (3–4): 14–16.
Văn phòng Thông tin Hội đồng Nhà nước (SCIO) [Guowuyuan xinwen bangongshi] (2011a), Bộ Ngoại giao Trung Quốc Sự giúp đỡ. Sách
trắng [Zhongguo duiwai yuanzhu. Baipishu ], ngày 21 tháng 4, URL:
http://www.scio.gov.cn/zxbd/tt/Document/1011345/1011345_1.htm (07.11.2017).
Văn phòng Thông tin Hội đồng Nhà nước (SCIO) [Guowuyuan xinwen bangongshi] (2011b), 'Truyền thông nước ngoài theo sát Sách Trắng về Viện
trợ Nước ngoài của Trung Quốc. Ca ngợi rằng viện trợ không áp đặt chính trị điều kiện [Waimei guanzhu Zhongguo duiwai yuanzhu
baibushu. Chengzan Yuanzhu bố 23 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
fudai zhengzhi tiaojian]', ngày 25 tháng 4, URL:
http://www.scio.gov.cn/xwfbh/xwbfbh/yg/2/Document/898670/898670.htm (07.11.2017).
Văn phòng Thông tin Hội đồng Nhà nước (SCIO) [Guowuyuan xinwen bangongshi] (2014), Viện trợ nước ngoài của Trung Quốc. Sách trắng
[Zhongguo duiwai yuanzhu. Baipishu ], ngày 10 tháng 7, URL:
http://www.scio.gov.cn/zfbps/ndhf/2014/document/1375013/1375013_1.htm (07.11.2017).
Strüver, G. (2016), 'Bạn bè được tạo nên từ đâu: mối liên kết song phương và động lực trong nước của chính sách đối ngoại
liên kết với Trung Quốc', Phân tích chính sách đối ngoại 12(2): 170–191.
Taylor, I. (1998), 'Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với châu Phi trong những năm 1990', Tạp chí Châu Phi hiện đại Nghiên cứu 36(3): 443– 460.
Tubilewicz, C. (2012), 'Chính trị của lòng nhân ái: xem xét nền nhân đạo bị chia rẽ của Trung Quốc
hỗ trợ Haiti', Quan hệ quốc tế của Châu Á-Thái Bình Dương 12(3): 449–481.
Tull, DM (2006), 'Sự can dự của Trung Quốc vào Châu Phi: phạm vi, ý nghĩa và hậu quả', Tạp chí
Nghiên cứu Châu Phi hiện đại 44(3): 459–479.
Chương trình Phát triển Quốc gia Thống nhất (2015), 'Viện trợ nhân đạo của Trung Quốc', UNDP South-South Tóm tắt vấn đề
hợp tác Trung Quốc (9), ngày 25 tháng 5, URL: http://www.cn.undp.org/content/china/en/home/library/south-south- cooper/issue-
tóm tắt--china-s-humanitarian-aid.html (07.11.2017).
Vreeland, JR và A. Dreher (2014), Kinh tế Chính trị của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Tiền bạc và Ảnh hưởng, Cambridge, Vương quốc Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
Walz, J. và V. Ramachandran (2011), 'Thế giới mới dũng cảm: đánh giá tài liệu về các nhà tài trợ mới nổi và bản chất đang thay đổi
của viện trợ nước ngoài', Tài liệu làm việc của CGD số 273, Washington, DC: Trung tâm Phát triển Toàn cầu.
Wang, J. (2007), 'Điều gì thúc đẩy vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc ở Châu Phi?', Tài liệu làm việc của IMF 07/211, Washington, DC: Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Wang, Y. (2016), 'Tham gia Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á', bản thảo, URL:
http://wp.peio.me/wp-content/uploads/2016/12/PEIO10_paper_101.pdf (04.02.2017).
Watanabe, S. (2013), 'Các nhà tài trợ lớn đã ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc?
chính sách viện trợ?', trong Sato, J. và Y. Shimomura (eds.), Sự trỗi dậy của các nhà tài trợ châu Á: Tác động của Nhật Bản đối với
Sự phát triển của các nhà tài trợ mới nổi, Abington, Vương quốc Anh: Routledge, 87–113.
Xi, J. (2017), ‘Toàn văn bài phát biểu của Tập Cận Bình tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới’, CGTN America, 17 Tháng 1, URL:
https://america.cgtn.com/2017/01/17/full-text-of-xi-jinping-keynote-at-the-
diễn đàn kinh tế thế giới (07.11.2017).
Xi, J. (2015), ‘Bài phát biểu của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Diễn đàn Hợp tác Nam-Nam Cuộc họp bàn tròn
tại Trụ sở Quốc gia Thống nhất ở New York vào ngày 26 [Zhongguo guojia zhuxi Tập Cận Bình 26 ri zai
Niuyue Lianheguo zongbu de nannan hezuo yuanzhuohui 24 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
shang zhici]', Đài phát thanh Liên Hợp Quốc, ngày 26 tháng 9, URL:
http://www.unmultimedia.org/radio/chinese/archives/239165/#.WCSlMtx8Se8 (07.11.2017).
Tân Hoa Xã (2006), 'Đặc điểm của FOCAC', Tháng 10. URL:
http://www.china.org.cn/english/features/focac/183733.htm (07.11.2017).
Yang, H. (2012), 'Làm cho viện trợ nước ngoài hiệu quả và cân bằng hơn', China Daily, 25 tháng 7: 8, URL:
http://usa.chinadaily.com.cn/opinion/2012-07/25/content_15614878.htm (07.11.2017).
Yu, GT (1988), 'Châu Phi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc', Khảo sát Châu Á 28(8): 849–862.
Zhang, Y., J. Gu và Y. Chen (2015), ‘Sự tham gia của Trung Quốc trong hợp tác phát triển quốc tế: tình trạng của cuộc
tranh luận', Báo cáo bằng chứng IDS số 116, URL:
http://opendocs.ids.ac.uk/opendocs/bitstream/handle/123456789/5838/ER116_ChinasEnga
gementinInternational DevelopmentCooperateTheStateoftheDebate.pdf?sequence=1 (07.11.2017).
Mạng kinh tế Trung Quốc [Zhongguo jingji wang] (2012), 'Zhu Hongjie: Mở rộng viện trợ nước ngoài, nắm bắt xu thế mới
cơ hội đầu tư ra nước ngoài [Zhu Hongjie: Kuoda duiwai yuanzhu. Jin zhua haiwai
touzi xin jiyu]', Sina [Xinlang caijing], ngày 23 tháng 2, URL:
http://finance.sina.com.cn/roll/20120323/100411662171.shtml (07.11.2017).
Chu, E. (1956), 'Về chính sách đối ngoại của chúng ta và vấn đề giải phóng Đài Loan [Guanyu woguo waijiao zhengce he jiefang
Taiwan goti]', People's Daily [Renmin ribao], ngày 29 tháng 6, URL:
http://cpc.people.com.cn/GB/64184/64186/66662/4493079.html (07.11.2017).
Zoellick, R. (2005), 'Trung Quốc ở đâu: từ tư cách thành viên đến trách nhiệm? Lời nhắn gửi Quốc gia Ủy ban Quan hệ
Mỹ-Trung. Chuẩn bị giao hàng vào ngày 21/9', NBR Analysis
16(4): 5-14, URL: http://www.nbr.org/publications/nbranalysis/pdf/vol16no4.pdf (07.11.2017).
Zhu, X. (2015), 'Làm sáng tỏ vai trò của các chủ thể thương mại Trung Quốc trong việc định hình thị trường đối ngoại của Trung Quốc
hỗ trợ: trường hợp của Sri Lanka thời hậu chiến', Ổn định: Tạp chí Quốc tế về An ninh và
Phát triển 4(1): 1-18. 25 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Hình 1: Năm dự án viện trợ đầu tiên của Trung Quốc theo quốc gia và thập kỷ (1953-2014)
Nguồn: Số liệu riêng với dữ liệu từ Dreher và Fuchs (2015), Lin (1993), và Dreher et al. (2017).
Hình 2: Số lượng người nhận viện trợ của Trung Quốc theo thời gian (1953-2014) c s ơ u D ự án
1950 1955 1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010 2015
Nguồn: Hình riêng với số liệu của Lin (1996) và Dreher et al. (2017). 26 lOMoAR cPSD| 41487147 Machine Translated by Google
Hình 3: Số dự án ODA cam kết của Trung Quốc theo quốc gia và theo năm (2000-2014) Bảng A Bảng B 3 3 2.4 2 2 S d n á g n ư 1.9 l 1.7 1.2 S d n á g n ư l 1.2 1 1 0 0,3 0
Công nhận Đài Loan Kẻ thù của LHQ LHQ trung lập Hủy kết bạn Bộ chuyển mạch
Không phải là người công nhận Đài Loan Bảng C 3 Bảng D 3 2.7 2,5 2 2.1 2 S d n á g n ư l S d n á g n ư l 1.3 1 1 0,9 0 0
Không phải nhà sản xuất dầu
Nhà sản xuất dầu Thấp Giữa dưới Giữa phía trên
Nguồn: Hình riêng với dữ liệu từ Dreher et al. (2017). 27