-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Duy thức tông - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Duy thức tông - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Duy thức tông - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Duy thức tông - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Trường: Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HCM
THI CUỐI KỲ 8 - NĂM HỌC 2017-2021
Khoa Đào Tạo Từ X Khóa 5 a MÔN THI: Họ và tên: Pháp danh: Ngày tháng năm sinh: MSSV: Điểm
Nhận xét của Giáo thọ Bằng số: Bằng chữ:
ĐỀ THI: Tìm hiểu về nguồn gốc và sự phát triển Duy Thức tông BÀI LÀM
Duy Thức Tông là một tông phái Phật giáo Đại thừa ở Trung Hoa, do cao tăng Khuy Cơ,
đệ tử Huyền Trang thành lập dựa trên các bộ kinh và luận như: - Kinh Hoa Nghiêm - Kinh Giải Thâm Mật - Kinh Lăng Già v.v… - Du già sư địa luận
- Duy thức nhị thập tụng,
- Duy thứ tam thập tụng v.v…
Đây là một hệ thống giáo lý bác học của Phật giáo, nếu nền tảng phật học của người tìm
hiểu phật giáo không vững chắc thì không thể hiểu rõ được giáo thuyết của tông này. Người
học phật muốn tìm hiểu và tu tập theo duy thức thì cần phải hiểu rõ những thuật ngữ và
quán xét được các hành tướng của Pháp, nhân và ngã đều không có thực mà chỉ l à do thức
biến, mà không còn phiền não.
Nguồn gốc của Duy Thức tông
Duy Thức tông bắt đầu vào khoảng năm 150 năm sau T.L với kinh
Sandhininnocana. Giữa năm 150 và 400, chúng ta có vài tài liệu kinh giảng thuyết “Duy
Thức”.Kinh Lăng già (Lankàravatàra Sùtra), Hoa Nghiêm (Avatamsaka) và
Abhisamayàlankàra giữ địa vị trung gian giữa Trung Quán luận và Duy Thức tông”. Theo
truyền thuyết thì Người đầu tiên sáng lập ra tông Duy thức chính là Bồ tát Di –Lặc, sau khi
tu chứng được duy thức quán đã thuyết Du già sư sư địa cho Ngài Vô Trước.Ngài Vô trước
đã truyền giáo pháp này cho ngài Thế Thân.Bồ tát Vô Trước đã sáng tác ra bộ “Hiển dương
Thánh giáo” và “Nhiếp Đại Thừa” dưạ theo tác phẩm “Du già sư địa”. Còn Ngài Thế Thân
có công rất lớn trong việc truyền bá Duy thức, ngài đã sáng tác rất nhiều tác phẩm nhưng
nổi bậc nhất là “Duy thức tam thập tụng”, tóm tắt giáo lý của duy thức.Về sau có mười tác
phẩm chú giải bộ Duy thức Tam thập tụng, đó cũng chính là mười bộ luận chính của tông duy thức.
Duy thức tông phát triển nhất là vào thế kỷ thứ 6 Công nguyên, có nhiều trung tâm
truyền bá tông phái này.Trung tâm lớn nhất là đại học Na-lan-dà (sa. nālandā) ở Bắc Ấn
Độ.Người có công truyền bá là bồ tát Hộ Pháp. Kế đó là trung tâm Valabhi (valabhī) do
bồ tát Đức Huệ sáng lập.Người kế nghiệp ngài Đức Huệ là An Hụê có cái nhìn tương đối
hơn về duy thức và là người dung hòa giữa học thuyết Duy thức và Trung quán của Bồ tát
Long Thọ. Còn Trần-na (sa. dignāga) và Pháp Xứng (sa. dharmakīrti ) là hai người kết
hợp duy thức với Kinh lượng bộ mà lập ra môn Nhân minh học nổi tiếng của Ấn Độ và
Phật giáo, cách tranh luận bằng nhân minh để đả phá các học thuyết ngoại đạo và xiển dương chánh pháp.
Duy thức tông cũng dựa vào các bộ kinh do đức Phật thuyết giảng và mười một bộ luận đó là:
1. Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kin
h (sa. buddhāvataṃsaka-mahāvaipulya-sūtra)
2. Giải thâm mật kinh (sa. sandhinirmocana-sūtra);
3. Như Lai xuất hiện công đức kinh, không có bản Hán văn;
4. Đại thừa a-tì-đạt-ma (sa. mahāyānābhidharma-sūtra), được nhắc đến trong Nhiếp đại
thừa luận, Du-già sư địa luận nhưng không có bản Hán văn, có lẽ đã thất truyền;
5. Nhập Lăng-già kinh (sa. laṅkāvatāra-sūtra);
6. Hậu nghiêm kinh (sa. ghaṇavyūha), chưa được dịch ra Hán văn; Mười một ộ b luận:
1. Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra), Vô Trước soạn, Huyền Trang dịch ra
Hán ngữ, 100 quyển. Đây là bộ luận chính của Duy thức học;
2. Đại thừa bách pháp minh môn luận (sa. mahāyānaśatadharma-vidyādvāra-śāstra), Thế
Thân soạn, Huyền Trang dịch, 1 quyển;
3. Đại thừa ngũ uẩn luận (sa. skandhaka-prakaraṇa), Thế Thân soạn, Huyền Trang dịch, 1 quyển;
4. Hiển dương thánh giáo luận (sa. ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra), Vô Trước soạn, Huyền Trang dịch, 20 quyển;
5. Nhiếp đại thừa luận (sa. mahāyāna-saṃgraha), có ba bản Hán dịch: 1. Phật-đà-phiến-đa
(sa. buddhaśānta) dịch, 2 quyển; 2. Chân Đế (sa. paramārtha) dịch, 3 quyển; 3. Huyền Trang dịch, 3 quyển;
6. Đại thừa a-tì-đạt-ma (tạp) tập luận (sa. abhidharma-samuccaya), Vô Trước soạn, Sư Tử
Giác (sa. siṃhabodhi) thích, An Huệ (sa. sthiramati) tập, Huyền Trang dịch, 16 quyển;
7. Biện trung biên luận (sa. madhyāntavibhāga-śāstr )
a , Di-lặc thuyết, Huyền Trang dịch, 3 quyển;
8. Nhị thập duy thức tụng (sa. viṃśika-vijñāptimātratā-kārikā), có ba bản dịch: 1. Duy thức
luận, Bát-nhã-lưu-chi (sa. prajñāruci) dịch, 1 quyển; 2. Đại thừa duy thức luận, Chân Đế
dịch, 1 quyển; 3. Duy thức nhị thập tụng, Huyền Trang dịch, 1 quyển;
9. Duy thức tam thập tụng (sa. triṃśatika-vijñāptimātratā-kārikā), Thế Thân soạn, Huyền Trang dịch, 1 quyển;
10. Đại thừa trang nghiêm kinh luận (sa. mahāyānasūtralaṅkāra-śāstra), Vô Trước soạn,
Ba-la-phả-mật-đa (sa. prabhākāramitra) dịch, 13 quyển;
11. Phân biệt du-già luận (?), Di-lặc thuyết, chưa có bản Hán văn;
Sự phát triển của Duy Thức tông
Tông Duy thức xuất hiện tại Ấn Độ, chính nơi đây tông phái này đã phát triển vào
thế kỷ thứ sáu công nguyên,.Ngài Di Lặc được coi là sơ tổ của tông phái này. Asanga (Vô
Trước) và Vasubandhu (Thế Thân), người Tây Bắc Ấn đã hệ thống hóa và phát triển tư
tưởng ba giáo nghĩa về Tàng thức, Tam tướng và Tam thân Phật.
Khi tác phẩm Tam thập tụng của Bồ tát Thế thân xuất hiện đánh dấu một bướt ngoặc
phát triển của Tông phái này, giáo nghĩa của Duy thức đã được Ngài tóm tắt trong tác phẩm
Tam Thập Tụng. Có mười tác phẩm luận giải tam thập tụng mà về sau Ngài Huyền Trang
khi phiên dịch từ bản Phạn sang chữ Hán thì đã đặt tên là thành Duy Thức Luận.
Duy thức Tông biến mất khỏi đất nước Ấn Độ khi chịu chung số phận Phật giáo bị
tàn diệt vào khoảng 1.100 sau T.L.Các nhà đại học giả đã truyền Duy thức tông qua Trung
Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ...Trung Hoa là đất nước tiếp nhận giáo nghĩa Duy thức do hai
bậc đại trí huệ là Paramàrtha (500-569) từ Ujjayini (Ogein) đến Đông Ấn năm 546 sau T.L
và Ngài Huyền Trang khi du hoc ở đại học Na-lan-da trở về nước (khoảng 650).
Cũng chính từ ngài Huyền Trang mà tên gọi Duy Thức Tông đã được biết đến.Ngài
Huyền Trang đã tóm tắt giáo lý Duy thức của Ngài trong tác phẩm Thành Duy Thức
Luận.Đây là bản luận mà Ngài Huyền Trang chủ yếu ăn cứ nhiều nhất vào ngài Dharmapàla
(Hộ Pháp), Trụ trì chùa Nalanđà (Na-lan-đà), và tương đối coi nhẹ chín vị khác. Ngài Khuy
Cơ chính là nhân vật có nhiều sớ giải quan trọng đối với Duy thức, Ngài là vị đệ tử ưu tú
nhất của Ngài Huyền Trang. Khuy Cơ Đại Sư viết nhiều bộ luận và một bộ bách khoa từ
điển về giáo lý Đại Thừa, đây cũng chính là thời kỳ tông Duy thức được truyền bá mạnh
mẽ khắp lục địa Trung Hoa và trở thành một tông phái lớn thời bấy giờ. Chẳng bao lâu thì
thì duy thức được chia ra làm hai , một ngành ở phương Bắc và một ngành ở phương Nam,
đến thời nhà Nguyên thì Tông duy thức bị thất truyền.
Đến năm 653 Duy thức truyền bá tới Nhật bản và được biết đến với tên Pháp Tướng
Tông. Trong thời đại Tempyo với sự cố gắng truyền bá của Đại sư Sojo Gien pháp tướng
tông đã phát triển khắp xứ Nhật Bản. Đến nay thì tông phái này chỉ là một tông phái nhỏ,
với với 44 chùa và 700 tăng sĩ.
Kết luận
Pháp-tướng tông hay Duy thức tông cũng đều để gọi pháp-môn mà tôn-chỉ chỉ là
nghiên cứu, quan-sát hành-tướng và nguyên nhân sanh-khởi của vạn pháp. Nguyên nhân
sanh-khởi ấy là Thức .
Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các
nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi.
Ðể phá trừ hai món chấp thật ngã và thật pháp, Ðức-Phật có rất nhiều phương-pháp,
có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tông hay Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần
thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.