NỘI DUNG 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Đề mẫu : Hãy phân tích MQHBC giữa VC & YT. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận giá trị của
trong học tập, cs hằng ngày.”
- Theo quan điểm duy vật bc, VC là? / bản chất YT là?
֎ Khái niệm
- Theo Lênin: "Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác"
- Ý thức: sự phản ánh năng động, sáng tạo của thế giới khách quan vào trong bộ não con người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
֎ Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức; còn
ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
Cụ thể hơn, trong đời sống xã hội thì nhân tố vật chất quyết định nhân tố ý thức.
Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, điều kiện khách quan, quy luật khách quan, khả
năng khách quan.... năng lực thật sự còn bị hạn chế)
Nhân tố ý thức bao gồm: tưởng, quan điểm, luận, đường lối, chính sách, mục tiêu, phương hướng, giải
pháp, biện pháp, cách thức hành động...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản:
- Vật chất quyết định của ý thức: Không có vật chất sẽ không có ý thức.nguồn gốc
VD: Ông bà ta có câu “Có thực mới vực được đạo”, khi con người không được ăn no thì sức khỏe và não bộ sẽ
khó có thể hoạt động và đủ tỉnh táo để hoạt động.
- Vật chất quyết định của ý thức: Nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới kháchnội dung
quan quy định.
VD: Khi nhìn một con sông, hình ảnh của con sông sẽ được phản ánh vào trong bộ não của chúng ta một cách
trung thực. Đặc điểm hình ảnh con sông trong não bộ do hình ảnh con sông trong thế giới khách quan quyết
định.
- Vật chất quyết định của ý thức: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của ý thức cũng phải dựabản chất
trên những tiền đề vật chất nhất định.
VD: Dựa trên những nguyên liệu sẵn, con người sáng tạo ra những công cụ lao động để hỗ trợ trong công
việc của mình.
- Vật chất quyết định của ý thức: Tri thức các yếu tố của tri thức đềuphương thức tồn tại kết cấu
dựa trên sự phản ánh vật chất.
VD: Khi nghe một bài hát hay, niềm tin cảm xúc của con người được hình thành thông qua lắng nghe một
cách chăm chú và có sự phân tích.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
- Ý thức ý thức của con người, gắn liền với tính năng động, sáng tạo của nhân tố con người, nhân tố chủ
quan; mặt khác, ý thức là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
VD: Cả lớp phải tham gia làm một bài kiểm tra, có bạn sẽ học bài theo hình thức thông thường, có bạn lại chăm
chỉ tìm thêm những bài tập thực hành để củng cố kiến thức nhằm chuẩn bị cho bài kiểm tra ấy.
- Ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển. Nếu ý thức phản ánh
không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình vật chất.
VD: Trước tình hình công ty đang gặp khó khăn về nội dung ý tưởng cho phát hành sản phẩm, ban lãnh đạo
người sẽ xem xét, đánh giá tình hình để tìm ra phương án nhưng cũng có người vì thấy khó khăn mà đã bỏ cuộc.
- Muốn sức mạnh để tác động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào con người được tổ chức
thực hiện trong thực tiễn.
VD: Khi thấy các em học sinh đang gặp rắc rối với một nội dung ngữ pháp trong Tiếng Anh, giáo viên ý
định thiết kế một sơ đồ tư duy để giúp các em hiểu hơn. Muốn thế thì người giáo viên phải thực hiện ý tưởng đó
trong thực tế thì mới có thể tháo gỡ khúc mắc của học sinh. Nếu không, suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở mức ý tưởng.
Vì vậy, Ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.
֎ Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải ;tôn trọng nguyên tắc tính khách quan
trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng hành động theo các quy luật
khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải nghĩaphát huy tính năng động chủ quan,
phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, là đã tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của
ý chí.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ là đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả
điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
Phần vận dụng
- Vận dụng vào cs hằng ngày: đk mình sinh ra thế nào, hoàn cảnh phải chấp nhận, cảm ơn, tôn trọng nó.
Nhưng phải nắm được nó, hiểu được nó, học cách định vị bản thân, phải phát huy vai trò của ý thức, trí
thức. sống phải có cảm xúc, niềm tin- tin những gì mình đúc kết được. “học, học nữa, học mãi”
1. Vận dụng trong đời sống học tập của sinh viên
Trong cuộc sống: vấn đề quản lý tiền nong, vấn đề sinh sống với bạn trong ký túc xá, vấn đề đi lại, vấn đề tham
gia các hoạt động,...
Trong học tập: đăng học phần, lên thời gian biểu, làm việc nhóm, trao đổi thông tin với giảng viên sinh
viên,...
Cấu trúc: thực trạng -> tri thức – tình cảm – niềm tin – ý chí (ý thức – tự ý thức – tiềm thức) -> giải pháp kết
quả đạt được
một sinh viên năm nhất của Trường Đại học phạm TPHCM, chúng tôi học theo chế độ tín chỉ, lớp
người có khả năng tiếp thu những cái mới với nhu cầu mở rộng kiến thức, tự tìm hiểu, tự học và phát triển theo
định hướng của bản thân. Điều này được vận dụng trong việc đăng ký học phần của sinh viên. Người học mong
muốn vận dụng tri thức để chọn lọc những thông tin bổ ích, nắm các phương thức đăng học phần cũng
như xem xét kỹ lưỡng các môn cần học và chủ động lên thời gian biểu phù hợp cho bản thân, từ đó đưa ra quyết
định đúng đắn về học phần mình đã chọn. Người học vận dụng tình cảm để bảo đảm rằng những quyết định của
bản thân sáng suốt, chẳng hạn như người học phải niềm đam mê, sự hứng thú với những môn học
mình đăng ký. Chính niềm đam ấy sẽ chiếc chìa khóa vạn năng mở ra chân trời tri thức trên hành trình
theo đuổi giấc mơ. Sau khi đã xác định ràng những học phần mình chọn, biết được các tiềm năng cũng như
mặt hạn chế của bản thân, người học phải có niềm tin về tính hiệu quả cho những quyết định của mình. Từ đó,
khi vấp phải những khó khăn hay bất cập trong quá trình học tập, người học phải ý chí, nghị lực để khắc
phục và vượt qua chúng để đạt được mục đích cuối cùng của bản thân. Nhưng ý thức có sự tác động trở lại đối
với vật chất, nên ta phải phát huy tinh tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Cụ thể em đã vận dụng để
đưa ra phương án tốt nhất trong việc đăng ký học phần đồng thời nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng
cách chủ động tìm kiếm kiến thức, tham khảo thêm các cuốn sách chuyên ngành kho kiến thức của thư viện
hoặc kho sách của khoa, các tài liệu trên mạng Internet, tìm được hứng thú cũng như niềm vui qua mỗi môn
học, cụ thể hóa bằng những kế hoạch phù hợp với thực tế và tỉnh táo vượt qua những cám dỗ. Bên cạnh đó, sinh
viên cần tự ý thức được mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Trong nhịp
sống phát triển hiện đại như ngày nay, việc thường xuyên cập nhật các kiến thức, thông tin mới mẻ là một điều
hết sức cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Ngoài ra, việc lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp từ người khác
sẽ giúp ta ngày càng phát triển và hoàn thiện bản thân, không nên xem những ý kiến của mình là luôn đúng
cần phải lắng nghe từ người khác. Chẳng hạn như trong việc học tập, chúng ta nên luôn cập nhật những thông
tin, kiến thức mới cùng với phương pháp học hiện đại để việc học trở nên dễ dàng hơn. Cuối cùng khi giải thích
các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn nhân tố
chủ quan. Hiện nay, sinh viên có xu hướng học vượt nhưng chưa xem xét kỹ về các nhân tố chủ quan như khả
năng, thời gian của bản thân lẫn điều kiện khách quan như điều kiện tài chính gia đình dẫn đến kết quả học tập
chưa như mong đợi. Từ đónhân nên lượng sức mình và xác định đã học môn nào là chắc môn đó. Nên tính
toán sao cho vừa sức bởi học vượt đòi hỏi ngoài giờ học lớp, sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu, đọc thêm
tài liệu thì mới phát huy hiệu quả học tập.
2. VẬN DỤNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; phát triển chưa tương xứng
với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng nhận định: "Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy nhiều sở
giáo dục đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành [...] Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học,
sản xuất, kinh doanh nhu cầu của thị trường lao động." Việc đổi mới trong giáo dục luôn điều cấp thiết,
đặc biệt là khi hệ thống giáo dục vẫn còn nhiều lỗ hổng như hiện nay. Nhận thức về được thực trạng này sẽ
nguồn động lực để người học các nhà giáo dục hoạt động thay đổi, để ý thức phát huy tính năng động
sáng tạo. Cải thiện những cách dạy thuyết khô khan tăng cường hoạt động thực tiễn trong giáo dục, vừa
tạo sự hứng thú, vừa thể áp dụng vào thực tiễn. Điều này tác động đến nhu cầu học tập (người học mong
muốn vận dụng tri thức sẽ tìm tòi phương pháp áp dụng lý thuyết vào thực tiễn), nhu cầu xã hội (các tổ chức sẽ
khuyến khích những nhân năng động, sáng tạo qua các cuộc thi), nhu cầu cải cách giáo dục của nhà nước
(thay đổi chương trình học). sau khi xác định ràng phương pháp cải cách giáo dục, biết được những tiềm
năng cũng như các mặt hạn chế, con người sẽ đạt được có niềm tin về tính hiệu quả của các phương pháp học
tập mang tính thực tiễn cao, những chính sách đổi mới sẽ nhận được sự ủng hộ từ hội. Từ đó, khi vấp phải
những sai lầm trong lúc thực hiện con người sẽ có ý chí quyết tâm khắc phục để đạt được mục đích đã đề ra ban
đầu. Đồng thời, ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý chí là căn bệnh
có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa
rời hiện thực. Các nhà giáo dục cần tôn trọng nguyên tắc khách quan. Nếu không xem xét hiện thực mà chỉ dựa
vào ý thức chủ quan thì ngành giáo dục sẽ bị tình trạng bảo thủ trì trệ, không tiếp thu cái mới, không xét đến
những đòi hỏi khách quan của xã hội. Cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng xã hội, cần xét các điều kiện vật
chất lẫn nhân tố tinh thần, yếu tố khách quan, chủ quan. Một hiện tượnghội tồn tại trong lĩnh vực giáo dục
hiện nay mức độ chênh lệch về giáo dục giữa học sinh thiểu sốmặt bằng chung cả nước. Vấn đề về trình
độ dân trí của học sinh thiểu số cần được xem xét ở khía cạnh về điều kiện vật chất và các nhân tố chủ quan.
Xét về điều kiện vật chất, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu
về chất lượng giáo dục, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên, nhân viên, cán bộ quản lý giáo dục chưa đem lại
được những khuyến khích vật chất và tinh thần. Đồng thời, ta cần xem xét các yếu tố chủ quan trong thực trạng
về trình độ giáo dục giữa các học sinh đồng bào thiểu số. một số địa phương, nhận thức của một bộ phận
người dân về việc học tập của con em còn hạn chế, chưa quan tâm tạo điều kiện để con em đi học dẫn đến tình
trạng bỏ học, thất học của các em học sinh thiểu số. Ngoài ra, nhiều học sinh mong muốn chăm lo cho điều
kiện kinh tế khó khăn của gia đình mà không tha thiết chuyện học mà trở thành nguồn lao động chính trong nhà.
Sau khi xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan, những nhân tố vật chất tinh thần của hiện tượng này, ta nhận
thấy ngoài quan tâm việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với tình hình thực tế của địa phương thì
cần tăng cường công tác nâng cao nhận thức về phát triển giáo dục đối với các dân tộc thiểu số, các cán bộ quản
lý giáo dục địa phương cần can thiệp, giảm thiểu tác động của các phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn làm
ảnh hưởng đến con đường học tập của các em học sinh dân tộc thiểu số.
3. VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Nhìn chung, bên cạnh những thành tựu nước ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước: Duy trì được tốc
độ tăng trưởng bình quân khá, cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh; trong quá trình này còn tồn tại nhiều khó khăn như:
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cấu kinh tế bao gồm cả cấu ngành, cấu lao động đã
“chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp, sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng
suất lao độngkhoảng cách lớn so với nhiều nước,...Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đất nước đang đứng
trước nhiều thờithách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình
quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức mang tính toàn cầu về biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang tác
động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới.”. Trong quá
khứ, những thay đổi của tình hình thế giới, quan hệ với các nước bạn đã tác động đến công cuộc đổi mới
cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đòi hỏi Đảng và Nhà nước
ta tiến hành đổi mới. Nhận thức được sự cần thiết của những thay đổi này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những
chính sách phù hợp cho công cuộc phát triển đất nước. Đảng ta nhận định bước phát triển mới của toàn cầu
hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược
trong tiến trình chủ động tích cực hội nhập quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển lâu dài của đất nước đòi hỏi
không chỉ lãnh đạo của đất nước, các nhà doanh nghiệp cũng phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin,
khơi thông mọi nguồn lực hiện có vào công cuộc đổi mới đất nước. Mục tiêu chính vẫn là tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định. Trên hết, mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm đích đến; thật sự tin tưởng, tôn trọng phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng". Có như thế mới củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với những chính sách mà Đảng, Nhà
nước đề ra, cùng với đó là các mặt lợi của xã hội chủ nghĩa. Từ đó, những lúc khủng hoảng, Nhà nước và dân ta
lại càng giữ vững ý chí phát triển quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực
của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cần
phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tức là thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của ý thức; cũng như bệnh bảo
thủ trì trệ, nghĩa đang hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức. Trong những năm vừa qua, đạt được
những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức
và hạn chế. Đảng và Nhà nước cũng đã xem xét những vấn đề này, từ đó đề ra các chính sách phù hợp, đều
mang tính sáng tạo tích cực, trong khi vẫn bám sát vào thực tế khách quan thực trạng nhà nước lúc bấy
giờ. Muốn như thế thì từ khâu đầu tiên phải nghiêm khắc chỉ ra nguyên nhân chủ quan của tình hình khó khăn là
do những sai lầm khuyết điểm; tự nhận ra khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong
việc xác định mục tiêu của đất nước. Trong khi xem xét các điều kiện xã hội còn cần phải tính đến cả điều kiện
vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt
bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Kinh tế nước ta đạt mức
tăng trưởng 2,91%, một trong những nền kinh tế tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong thời này.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén,
đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của
cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước đồng bào ta nước
ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid-19 trong
cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho
nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
→ Tất cả những nỗ lực này của Đảng, Nhà nước và toàn dân đã dẫn đến sự thay đổi tích cực của vật chất: Năm
2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Đời sống nhân dân được nâng cao rõ
rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa
bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị
của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại
lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.
ND2: HAI NGUYÊN LÍ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Đề mẫu: “Hãy phân tích cs lý luận của quan điểm toàn diện”
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Lý luận:
Quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể xuất phát từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ theo quan điểm siêu hình trước Mác xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau,
lập nhau, giữa chúng không mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu thì chỉ những mối liên hệ
giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Do đó, quan điểm này đã không thể vạch ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm biện chứng, mối liên hệ một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn
nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên sự vật, hiện tượng;
giữa sự vật, hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến
đổi của sự vật, hiện tượng khác.
Vd: mối liên hệ giữa con người và thức ăn; mối liên hệ giữa mây và mưa,...
Tính chất của mối liên hệ bao gồm các yếu tố sau:
- Tính khách quan: sự vật, hiện tượng đa dạng, phong phú như thế nào thì chúng cũng chỉ những
dạng cụ thể khác nhau của một dạng vật chất duy nhất. Mối liên hệcái vốn có của bản thân các sự vật, hiện
tượng chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của cong người, muốn hay
không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận của chúng đều luôn chứa đựng các mối
liên hệ.
VD: Con người từ khi sinh ra đã chứa đựng mối liên hệ giữa tiêu hóa và bài tiết, chính chúng ta cũng không thể
thay đổi được điều này.
- Tính phổ biến: mỗi một sự vật, hiện tượng một hệ thống cấu trúc nội tại. Không sự vật, hiện tượng
nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác. Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng;
mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Trong tự nhiên, một cái cây không thể tồn tại một cách biệt lập, muốn tồn tại thì nó phải trong sự tác động
qua lại với rất nhiều yếu tố như: đất, nước, nhiệt độ, ánh sáng, khí hậu,...
- Tính đa dạng phong phú: xuất phát từ sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất. Mỗi một mối liên
hệ lại có những đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát triển riêng của sự vật, hiện
tượng.
VD: Đến tuổi dậy thì, nhờ mối liên hệ giữa hoóc-môn sinh dục thể các bạn thiếu niên bắt đầu
những sự biến đổi trong chức năng sinh lý để bộc lộ những đặc trưng về mặt giới tính.
Khoa học đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành quyết định.
VD: người bình thường, 46 nhiễm sắc thể. một do nào đó số lượng nhiễm sắc thể bị thay đổi
(thiếu hoặc thừa), cách tổ hợp nhiễm sắc thể thành cặp bị thay đổi sẽ gây ra các hội chứng bệnh đột biến số
lượng nhiễm sắc thể như: Tớc-nơ, Đao,..
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do sự tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành quyết định, mà
trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
VD: Sự tác động qua lại giữa quá trình đồng hóa và dị hóa là động lực cho sự phát triển của cơ thể sinh vật.
Ý nghĩa phương pháp luận: nguyên về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức thực tiễn cần tuân
theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
- Khi , kể cả những mắt khâuxem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét đến tất cả các mặt, các mối liên hệ
trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
- Trong vô vàn các mối liên hệ đó, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu (những mối liên hệ trọng tâm,
trọng điểm) để nắm bắt bản chất của các sự vật, hiện tượng.
- Sau khi nắm bắt được bản chất thì cần phải đối chiếu với các mối liên hệ khác để tránh sai lầm trong nhận
thức.
- Cần chống lại cách xem xét phiến diện, chủ quan (chỉ thấy một mặt không thấy nhiều mặt, chỉ thấy mối
liên hệ này mà không thấy mối liên hệ khác).
- Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải các mối liên hệ (coi mọi mối liên hệ là như nhau)
- Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành cái cơ bản)
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh, lịch sử - cụ thể; trong điều kiện,
môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất
định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định.
- Cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải giải quyết trong thực
tiễn.
- Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất định.
Vận dụng:
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay:
Nước ta đã độc lập, thống nhất kể từ năm 1975 nhưng đến năm 1986 thì mới bắt đầu xây dựng đồ của đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng nghĩa; đó sau Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986. Nhìn lại 35 năm đổi
mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (1/2021), Đảng nhận định rằng. “Đất nước ta chưa
bao giờ được đồ, tiềm lực, vị thế uy tín quốc tế như ngày nay” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII). Trong 35 năm ấy, Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực: Chính trị, hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rệt. Các lĩnh vực an sinh
hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hoá, xây dựng con người
Việt Nam, v.v... nhiều chuyển biến tích cực, mặt khá nổi bật. Công cuộc đổi mới đất nước phải diễn ra
một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời sống, “đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng
đầy đủ, quán triệt sâu sắc thực hiện thật tốt, hiệu quả” [1,]. Song, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác
định nhiệm vụ chủ yếu của công cuộc đổi mới hiện nay “Phát triển kinh tế - hội trung tâm; xây dựng
Đảng là then chốt; phát triển văn hoá nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh trọng yếu, thường
xuyên.” [1,].
Xét về khía cạnh kinh tế, nước ta có nhiều sự chuyển đổi khá toàn diện và tích cực: “nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh
tế bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì mức khá cao; quy tiềm lực nền kinh tế tăng lên,
chất lượng tăng trưởng được cải thiện.” [2,] Giáo dụcđào tạo sự vận dụng sáng tạo khoa học, công nghệ
có nhiều sự đổi mới, phát triển. Nhưng, “đổi mới giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ chưa thực sự
trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” [2,]. Vấn đề chung ở đây là công tác giáo dục
vẫn còn thiếu hiệu quả, chưa chú trọng vào phát triển năng lực, phẩm chất của người học. Khoa học công
nghệ nhiều tiến bộ vượt bậc động lực lớn của quá trình phát triển kinh tế - hội nhiều lĩnh vực
khác nhau trong đất nước như nông công nghiệp, văn hóa, chính trị, y tế, quốc phòng, giáo dục,... Nhà nước
nhiều chính sách để quản lý, đầu phát triển tiềm lực của lĩnh vực này. Về văn hóa hội, sự chú
trọng nhận thức, tiếp thu, phát triển, kế thừa gìn giữ những giá trị truyền thống một cách toàn diện hơn,
sâu sắc hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng đa dạng của đất nước. Có nhiều chính sách hỗ trợ,
phúc lợi và an sinh hội cho người dân. “Đời sống nhân dân được cải thiện rệt; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn
nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%”. [1,].
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn có sự chú tâm đến những lĩnh vực khác:
- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt
kết quả tích cực.
- Chính trị - hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục
được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành
pháp và pháp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ,
quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.
Tóm lại, nhờ vận dụng triệt để quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới đẩt nước, Đảng Nhà nước đã
những động thái đúng đắn phù hợp, không chỉ tập trung xây dựng bộ máy chính trị còn xây dựng,
nhiều bước hoàn thiện, cải tiến cho nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Đó là sự nỗ lực, cố gắng và vận dụng, kế
thừa, phát huy sáng tạo, hiệu quả những bài học mà triết học Mác – Lênin đã để lại qua một quá trình đấu tranh
lâu dài, như trong văn kiện đã nhận định rằng “Đó sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, kết quả của quá trình
phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới”. [1]
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
[2] Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia
Sự thật.
II. Nguyên lý về sự phát triển
Quan điểm biện chứng về sự phát triển:
Khái niệm phát triển:
Phát triểnmột phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên, từ
trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển:
- Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con
người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn năm trong quá trình phát triển.
VD:
- Thứ hai, tính phổ biến:
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, hội duy con
người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn, phù hợp
với quy luật khách quan.
VD:
- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những điều kiện không
gian và thời những lĩnh vực hiện thực khác nhau. gian khác nhau, trong những lĩnh vực hiện thực khác nhau.
VD:
(Nhìn thêm giáo trình: Tr.95,96)
Vận dụng:
Đặt mục tiêu tương lai hiện tại, xác định mục tiêu tương lai, chia thành nhiều giai đoạn để thể thực hiện
mục tiêu đó. Biện pháp thực hiện trong từng giai đoạn.
Đối với học sinh, sinh viên:
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học việc cùng quan trọng đối với học
sinh, sinh viên để phát triển hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của toàn xã hội thì sinh viên
cần phải biết nắm chắc sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó thể vận dụng một cách tối ưu, sáng
tạo và hợp lý. Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các gián đoạn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó phải học cách vượt qua các gián đoạncách tác động phù hợp thúc
đẩy sự vật phát triển đó trong hiện tại và tương lai. Khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được
tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. lúc sinh viên sẽ cảm thấy
quá trình học tập không chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ
tiêu cực. Mỗi sinh viên sự phát triển về trí tuệ thể chất khác nhau, sẽ các phương pháp học tập rèn
luyện khác nhau để nâng cao trí tuệ, cảm xúc. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó
áp vào bản thân mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa. Quá trình rèn luyện học tập quá trình
tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ dựa vào điểm số tức thời đưa ra kết luận quy chụp, cần
xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực. Chẳng hạn, sinh viên có thành tích không tốt trong một bài kiểm tra đánh
giá, nhưng trong quá trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình.
* ND3: QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT
2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG –CHẤT:
2.1 Khái niệm chất:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống
nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là cái khác.
VD: Chất của nhôm là có ánh kim, dễ dát mỏng,..
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của
sự vật.
VD: những lượng ta thể đo đếm được chính xác như trọng lượng thể hay chiều cao của một con
người…
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
- Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
- Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượngmcủa sự vật chưa làm thay
đổi căn bản chất của sự vật ấy.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0 C đến 100 C.
- Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất tương đối ổn định. Sự thay
đổi về lượng của sự vật thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng thể làm thay đổi dần dần chất cũ.
Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định xu hướng tích luỹ đạt tới điểm nút, nếu điều kiện sẽ diễn ra
bước nhảy làm thay đổi chất của sự vật.
- Điểm nút phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm tại đó, sự thay đổi về lượng đã làm thay đổi
chất của sự vật.
VD: 0 C và 100 C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi)
- Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy. Bước nhảy là một phạm trù triết học
dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,…
- Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giaiđoạn phát triển mới. Đó
gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, đồngthời một tiền đề cho một quá trình tích luỹ liên
tục về lượng tiếp theo.
VD: Trong hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu thuẫn với quan hệ sản xuất lỗi
thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội (bước nhảy) làm cho xã hội cũ mất
đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp điệu
của sự vận động phát triển của sự vật:
- Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự
thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động
trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
2.5 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Một là, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định, tác
động làm chuyển hoá lẫn nhau do đó trong thực tiễn nhận phải coi trọng cả hai phương diện chất
lượng.
- Hai là, những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất trong điều kiện nhất định
ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi chất của sự vật đồng thời phát huy tác
động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
- Ba là, sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích luỹ đến giới hạn điểm nút do đó
trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
- Bốn là, chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không chịu thực hiện
bước nhảy.
- Năm là, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ nước nhảy và tạo mọi điều kiện cho bước
nhảy được thực hiện một cách kịp thời.
- Sáu là, trong đời sống XH, cần nhận thức đúng vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan
hệ giữa chất tự nhiên chất XH của sự vật, hiện tượng. Tùy vào từng điều kiện LS-CT thể nhấn mạnh
chất tự nhiên hay chất xã hội lên đầu.
- Bảy là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng:
Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Thay đổi chất lượng cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
Thay đổi cơ chế tác động giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
Thay đổi trật tự sắp xếp giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
Thay đổi chức năng của yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng chức năng của toàn bộ sự vật,
hiện tượng.
Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật hiện tượng
Vấn đề về xác định phương pháp học tập mới, khoa học (tích lũy về lượng)
Trong quá trình rèn luyện trường học, tích luỹ kiến thức dạng tích lũy về lượng, khi đạt đến một
lượng kiến thức nhất định, học sinh sẽ chuyển sang mức độ mới cao hơn. Như vậy, thời gian giữa các mức độ
học tập gọi là độ; bài kiểm tra, bài thi là điểm nút; và sự chuyển từ cấp độ cũ sang cấp độ mới là bước nhảy.
Bước nhảy đánh dấu sự ra đời của chất mới: Đầu tiên là sự thay đổi từ học sinh (chất cũ) thành sinh viên
(chất mới), chất mới tác động trở lại lượng. Chất mớisự khác nhau với chất cũchỗ quá trình tích lũy kiến
thức thông qua quá trình tự học, tìm tòi nghiên cứu, tự định hướngbậc Đại học thayđược thầy cô cung
cấp như bậc Trung học. Giờ đây, lượng sự tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng sự
phát triển về suy nghĩ, nhận thức, hành động, cách tư duy.
Đồng nghĩa với việc sinh viên phải ý thức được sự thay đổi đó, để có thể chủ động xác định được thái độ
và phương pháp học tập, phương pháp tư duy phù hợp, tiến bộ hơn thời THPT. Trong đó, quan trọng là cố gắng
tham gia đầy đủ các tiết học; tránh bệnh chủ quan, lười biếng khi không còn thầy cô, phụ huynh giám sát chặt
chẽ như hồi các cấp học thấp hơn; tìm tòi thêm nhiều nguồn tài liệu học tập; tham gia các hoạt động ngoại
khóa;...
Tránh trường hợp không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh hưởng đến tốc
độ học. Tránh để xảy ra tình trạng khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ đầu,….
Cùng một chương trình học, cùng một khối lượng kiến thức kỹ năng cần thu nạp rèn luyện, một
sinh viên tinh thần say học tập đầu óc biết lên kế hoạch ràng, khoa học một sinh viên lười
biếng, chủ quan, giữ nguyên cách tiếp cận bài học, cách tương tác với thầy cô như thời THPT chắc chắn sẽ cho
ra hai kết quả cực kì khác biệt.
Vấn đề về việc tham gia các kỳ thi (ủng hộ bước nhảy; thực hiện bước nhảy)
Lượng ở Đại học khác ở THPT và nó lại tác động trở lại chất. Đòi hỏi sinh viên cần trau dồi bản thân để
còn tạo ra sự khác biệt về chất (một sinh viên ưu tú hơn, nổi bật hơn bạn bè đồng trang lứa chẳng hạn).
Cụ thể là sau khi chủ động, tích cực tích lũy kiến thức; rèn luyện thêm các kỹ năng; học hỏi tư duy học
tập tiến bộ thầy định hướng hay bạn gợi ý;...bản thân lúc này đã được tôi luyện tiến bộ hơn rất
nhiều so với trước kia.vậy cần phải tự tin tham gia các kỳ thi như Nghiên cứu khoa học, Pháp luật, Chứng
chỉ ngoại ngữ, Chứng chỉ tin học,....(thực hiện bước nhảy) để đánh dấu sự thay đổi mới, xây dựng được thương
hiệu bản thân (chất mới ra đời). Chí ít cũng phải ý thức được việc cần cố gắng hết mình trong việc xung phong
trả lời, giải các câu hỏi, bài tập trên lớp; tích cực, tự tin khi thực hiện các bài thi giữa kỳ, kết thúc học phần,....
Bên cạnh đó, nếu cảm thấy bạn xung quanh mình rơi vào trường hợp mặc kiến thức, kỹ năng đã
chín muồi còn e dè, tự ti chưa dám bung xõa, đăng tham gia các kỳ thi thì chính chúng ta cũng nên
thái độ ủng hộ bạn, động viên bạn, đề nghị hỗ trợ bạn trong khả năng để tạo điều kiện cho bạn; từ đó bạn có thể
đạt được một danh hiệu, một sự công nhận cao hơn (chất mới).
Tóm lại, trau dồi bản thân là một chuyện, còn xây dựng tâm thế tự tin, chủ động tham gia các hoạt động
thể hiện mình, khẳng định mình là một chuyện khác và đòi hỏi sinh viên cần có thái độ tích cực, tự tạo cơ hội
cho chính mình cho người khác nếu thể. Cuộc sống luôn vận động phát triển không ngừng theo thời
gian, cùng với đó, con người cũng phải vận động chạy theo để không bị bỏ lại phía sau. một sinh viên
thời đại mới phát triển tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân
mình và giúp đỡ người khác.
Vấn đề về nóng vội đốt cháy giai đoạn
Trong quá trình học tập rèn luyện, sinh viên cần tranh tưởng nhảy cấp. Sau khi học những kiến
thức cơ bản, tứckhi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mớithể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó
hơn.
Ngoài ra, nhiều sinh viên sức học trung bình nhưng lại muốn đăng nhiều môn học trong cùng
một năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không môn học nào được
hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có
kết quả cao trong cácthi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến
đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực.
Cách làm phần vận dụng
- Trong cuộc sống học tập của sinh viên:
o Cần xác định trong cuộc sống, học tập có những vấn đề gì: quan hệ bạn bè, học tập, thầy cô...
o Xác định điểm nút và bước nhảy của vấn đề đó.
o Từ đó thể hiện sự phát triển hoàn thiện bản thân cần: phát huy mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế (áp
dụng ý nghĩa pp luận).
- Trong công cuộc đổi mới của đất nước ngày nay:
o Xác định các vấn đề liên quan: công nghệ 4.0, công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
o Xác định độ, điểm nút, bước nhảy.
o Giải quyết trình bày như sau: Theo Đại hội Đảng lần thứ VI
Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược
cách mạng với slinh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mớ, trong đó nhấn mạnh: Đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng quan
điểm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi biện pháp thích hợp. Điều kiện cốt yếu
trong công cuộc đổi mới được định hướng XHCN và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng
phải kiên trì vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – nin, tưởng HCM, giữ vững vai trò lãnh đạo
XH. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình.
Trong quá trình đổi mới, phải quan tâm đến dự báo tình hình, kịp thời phát hiện giải quyết đúng đắn
những vde mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới: tăng cường tổng kết thực
tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng CNXH ở nước ta, trong đó nhấn mạnh:
Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vde mới liên quan đến nhận thức về
CNXH và con đường xây dựng CNXH. Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển luận thì mới
trở thành hoạt động tự giác, chủ động sáng tạo, bớt được sai lầm những bước đi quanh co, phức
tạp.
Vận dụng trong cs, ht của bản thân:
o Sau khi tích lũy đủ lượng kthuc (lượng thay đổi), một học sinh THPT thành công thay đổi thành chất
sinh viên. Trong đó, độ HS THPT từ lớp 10 đến lớp 12; độ của SV từ năm thứ nhất ĐH đến năm thứ tư;
điểm nút thi tốt nghiệp THPT đỗ, đủ điểm đỗ vào ĐH; bước nhảy kết thúc giai đoạn HS THPT (sau tốt
nghiệp), khởi đầu SV ĐH năm nhất.
o Hiểu rằng trong nhận thức thực tiễn, SV cần phải xem xét toàn diện về sự vật, hiện tượng; không nên
phiến diện chỉ coi trọng lượng, không thực hiện bước nhảy hay chỉ coi trọng chất. Đặt trong mối QH với nhà
trường và thầy cô, thì chất của SV phải là chất SV. Khi đã là “chất SV” thì đòi hỏi lượng kiến thức SV tiếp thu
mỗi tiết học sẽ nhiều hơn, môn học sẽ nhiều hơn…Do đó SV phải nhanh chóng có kế hoạch cụ thể để học tập.
o Chất chỉ thay đổi khi tích lũy đủ về lượng. Hằng kỳ, hằng năm, số lượng tín chỉ tích lũy của SV sẽ ngày
càng nhiều hơn, lượng kiến thức, kỹ năng nhiều hơn…
o Tuy nhiên, chất SV vẫn chưa biến đổi vì lượng chưa đạt đến điểm nút. SV nhận thức rằng, chỉ khi lượng
(tín chỉ, kỹ năng, kiến thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm,…) đạt tới điểm nút (ví dụ như đạt đủ 135 tín chỉ đối
với SV khoa Anh) thì chất CV mới biến đổi thành chất cử nhân. Trong qtrinh tích lũy về lượng, cần nhận thức
tránh khuynh hướng tả khuynh, nóng vội, duy ý chí, chủ quan; tránh hiện tượng nôn nóng tốt nghiệp mà đăng kí
quá nhiều học phần, quá sức học tập của bản thân, dẫn đến sự quá tải, kết quả không như mong đợi. Do đó, cần
phải đăng ký số lượng tín chỉ (lượng) phù hợp với năng lực của bản thân.
o Ngược lại, cần chống bệnh bảo thủ hữu khuynh, trì trệ, không nên thụ động trông chờ vào gia đình
phải tự nỗ lực để tích lũy về lượng: ra trường sớm hơn hoặc đúng thời hạn. Từ đó tận dụng những hội phát
triển tốt nhất cho bản thân.
Vận dụng vào đổi mới nhà nước
o Ở nước ta, lịch sử đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ những
năm 20 của thế kỷ XX, hòa nhập vào xu hướng tiến hóa chung của nhân loại quá độ lên Chủ nghĩa hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa để có một bước nhảy cách mạng đó là đưa nước Việt Nam sang một chế độ khác,
“chất” khácđất nướchội chủ nghĩa. Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 của Đảng đã khẳng định sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước ta sẽ tiến lên CNXH. Đó là lựa lựa chọn đúng đắn của Đảng.
o Cả một quá trình tích lũy về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới được tạo nên nhưng đồng
thời cũng tạo nên lượng mới. Chúng ta cần một thời kỳ quá độ lên XHCN; trong thời chúng ta sẽ
những thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xh, vh, gd. Nhận thức được điều đó, Đảng ta đã có chủ trương xd
xhcn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về chất của xh cho tất cả lĩnh vực.
o Giữa thập niên 70 với nền kt phổ biến là sx nhỏ tại vị trí chiến tranh kéo dài, tàn phá nặng nề; bằng việc
cải tạo xhcn tổ chức lại sx và mở rộng quy mô hợp tác xã với hi vọng nhanh chóng có nhiều CNXH hơn, Đảng
đã đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí dẫn đến những mục tiêu của đại hội IV của Đảng đề ra đều
không đạt.
o Trước hoàn cảnh đó, nhà nước thấy không thể duy trì những chính sách cơ chế cũ. Thực hiện bước nhảy
kịp thời: tạo ra sự sáng tạo nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới
việc đó được nêu trong đại hội thứ VI năm 1986 đó chuyển đổi nền ktx của nước ta từ hình hóa tập
trung quan lieu bao cấp dựa trên chế độ công hữu về liễu sang nền kt thị trưởng sự quản của NN theo
định hướng XHCN
o Chính vì thế, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt nhiều thành tựu: Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, quy tiềm lực được nâng lên; kinh tế bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lí, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước,…Giáo dục và
đào tạo, KH và CN, VH, XH, Y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được
bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
**ND4: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
I. Lý luận
Quy luật mâu thuẫn vạch ra của sự phát triểnnguồn gốc, động lực
Nội dung quy luật:
Mâu thuẫn một phạm trù dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong cùng
một sự vật, hiện tượng
Mặt đối lập một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái
ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
Như vậy, hai mặt đối lập phải thỏa mãn những điều kiện sau đây mới tạo thành mâu thuẫn:
Thứ nhất, có xu hướng vận động trái ngược nhau
Thứ hai, làm nên chỉnh thể của một sự vật, hiện tượng
Ví dụ như sự sản xuất và tiêu dùng trong kinh tế- xã hội, chân lý và sai lầm trong quá trình đấu tranh nhận thức,
Tính chất chung của mâu thuẫn:
Thứ nhất, tính khách quan:
- Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn
khác được hình thành; sự vật, hiện tượng vừa là nó, vừa là cái khác với bản thân nó.
dụ. Trong con người bất kỳ đều chứa đựng những yếu tố của các mặt đối lập giữa lương thiện độc ác,
dũng cảm và hèn nhát, trung thực và giả dối,…
Thứ hai, tính phổ biến:
- Mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình; mâu thuẫn cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, con người.
dụ. Mâu thuẫn giữa lực phản lực trong sự tương tác giữa các vật thể, mâu thuẫn giữa lực đẩy lực hút
giữa các hạt, phân tử, mâu thuẫn giữa giai cấp sản sản trong hội bản, mâu thuẫn giữa tầng lớp
thống trị và tầng lớp bị trị trong xã hội thời phong kiến,…
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
- Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng, có cách thức giải
quyết riêng. Cụ thể là: Có mẫu thuẫn bên trong – mâu thuẫn bên ngoài, có mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn không
bản, mâu thuẫn chủ yếu mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng mâu thuẫn không đối kháng…
Chẳng hạn, mỗi nhân trong hội đều các mâu thuẫn khác nhau như mâu thuẫn giữa đó với các
nhân khác trong lớp học, gia đình và xã hội trên phương diện tình cảm, nhận thức, chính trị, văn hóa,…
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: (tr.112 113)
Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau giữa các mặt đối lập, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại, nếu không có mặt đối lập này sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại.
sự đồng nhất các mặt đối lập, bởi các mặt đối lập cho khác nhau nhưng bao giờ cũng yếu tố
giống nhau, tương tự nhau, nghĩa là chúng đồng nhất với nhau.
Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập khi các mặt đối lập có lực lượng ngang bằng nhau.
Ví dụ: trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau với
nhau. Sản xuất chính việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất đều cần
người tiêu dùng. Sự không tách rời, đòi hỏi nhau giữa lực phản lực cũng một dụ điển hình cho sự
thống nhất giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
- Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Thực chất của sự đấu tranh của các mặt đối lập gắn
liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn:
+ Giai đoạn hình thành mâu thuẫn:
Đồng nhất nhưng đồng thời bao hàm sự khác nhau
Khác nhau bề ngoài
Khác nhau bản chất, khi ấy mâu thuẫn được hình thành.
+ Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
Các mặt đối lập xung đột với nhau
Các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, khi ấy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm
+ Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn…
Ví dụ: -Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta có mâu thuẫn gay gắt với thực dân Pháp, khi mâu thuẫn lên
đến đỉnh điểm, tạo cho ta động lực đứng lên đấu tranh và kết quả cuối cùng là nhà nước Việt Nam độc lập, tự do
dân chủ ra đời.
-Trong nhận thức, sở các tưởng con người ngày càng phát triển bởi luôn sự đấu tranh giữa
nhận thức đúng và nhận thức sai, giữa nhận thức kém sâu sắc và nhận thức sâu sắc hơn.
Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với nhau: Nếu không có thống nhất sẽ không có đấu
tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh; đấu tranh là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Sự thống nhất phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng im tương đối; còn sự đấu tranh phản ánh trạng thái
vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng. Nhờ có thống nhất, sự vật, hiện tượng mới tồn tại; còn nhờ đấu tranh,
sự vật, hiện tượng mới phát triển.
Tóm lại, mâu thuẫn nguồn gốc, động lực của sự phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau.
dụ: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau
nhưng nếu không sản xuất thì không sản phẩm để tiêu dùng; ngược lại, nếu không tiêu dùng thì sản
xuất mất lí do để tồn tại
Ý nghĩa phương pháp luận:
Một là, trong nhận thức thực tiễn cần phải tuân theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất nhận thức các
mặt đối lập của nó”
“Phân đôi” ở đây không phảiphân chia theo kiểu số học thành hai phần bằng nhau,là phân đôi cái chỉnh
thể thống nhất thành hai mặt đối lập biện chứng và nhận thức các mặt đối lập biện chứng ấy. Nghĩa là, cần phải
xác định mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn, nghiên cứu các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
Hai là, cần phải có những biện pháp phù hợp trong việc giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn
Ba là, việc xem xét và giải quyết mâu thuẫn cần phải tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể
Bốn là, cần vận dụng phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn tồn tại dưới dạng antinomie
Năm là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan hệ
giữa sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập.
II. Vận dụng:
Mâu thuẫn ở Việt Nam: (Trích tạp chí cộng sản)
- Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN. Vì vậy mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện ở Việt Nam là mâu thuẫn giữa hai khả năng
phát triển: hoặc đi lên CNTB hoặc đi lên CNXH. Suy ra cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bản
nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh giữa hai con đường nhằm giải quyết triệt để vấn đề làm thế nào đem lại thắng
lợi cho con đường đi lên CNXH. Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động
lực cho sự phát triển tiếp tục thể hiện quy định về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau
đây: Loại mâu thuẫn giữa trạng thái KT kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giàu nước mạnh, XH
công bằng, dân chủ, văn minh. Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn
này phát sinh từ hai mặt, hai khuynh hướng đối lập: Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên các mặt
KT, chính trị, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ, từ nền KT
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường làm nảy sinh những nhân tố đôí lập, khuynh hướng tự phát đi
lên tư bản.
Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước
ta theo mục tiêu đó (thế lực thù địch trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm, tệ nạn tham nhũng-thế giới xét Việt
Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng nhất).
Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan khách quan trong quá trình đi lên CNXH. Loại mâu thuẫn này
xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách quan với một bên trình độ năng
lực, nhận thức hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước trong quá trình lãnh đạo… Loại mâu thuẫn này
thể hiện trong tư tưởng, lí luận, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo của nhà nước.
Phương thức giải quyết mâu thuẫn theo Đại hội XI(Trích tạp chí cộng sản)
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến
đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, hội đan xen. Chúng tanhiều thuận lợi bản:
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh
chính trị vững vàng dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta một dân tộc anh hùng, ý chí vươn lên
mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng
tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật
chất – kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh
tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung năm 2011 tại Đại hội XI) xác định:
- Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý
chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực
hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
- Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Sáu là, xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định phát triển; giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tếphát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… Không phiến diện, cực đoan,
duy ý chí (Trích Tạp chí cộng sản)
Liên hệ bản thân:
- Bởi mâu thuẫn luôn tồn tại, nên buộc người ta không bao giờ được nghĩ mình đầy đủ tri thức,
mà phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải quyết các vấn đề mới. Để làm được điều đó, con người cần
phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức mới. Đồng thời, quy luật mâu thuẫn cũng đòi hỏi chúng ta phải
biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ những cái cũ, không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa
quen thuộc kế thừa những giá trị tốt đẹp của dân tộc. thể nói quy luật mâu thuẫn chính nền tảng cho
kho tàng tri thức vô cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày của nhân loại. Quy luật này đòi hỏi
sinh viên phải tìm tòi, học hỏi các kiến thức mới chứ không được ngủ quên trên một vài kiến thức nhất định nào
đó. Điều đó giúp cho sinh viên thêm phần sáng tạo, yếu tố rấtích cho cả việc học lẫn sự nghiệp sau này.
Cũng bởi thế qua mỗi năm, các trường đại học, học viện phải tái bản một số cuốn sách để đổi mới kiến
thức cho các sinh viên.
- Bên cạnh đó, việc học của sinh viên một quá trình tăng trưởng về mặt tri thức đồng thời ta cũng
học cách áp dụng những tri thức đó vào đời sống thực tế. Vậy nên quá trình học tập của sinh viên cũng không
ngoại lệ chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn. Chẳng hạn, trong dịch Covid vừa qua, sinh viên phải
học tập trên hệ thống trực tiếp, điều đặc biệt sinh viên ít khi trải qua. Học tập online khiến chúng ta xao
lãng, dễ mất tập trung mạng hội nhiều thứ thu hút chúng ta chúng ta sẽ bị phân tâm không thể tập
trung vào bài giảng online của thầy cũng như không thể học tập một cách hiệu quả khi thể bị mất mạng,
cúp điện hoặc trục trặc vềthuật. Áp dụng quy luật mâu thuẫn vào đó, ta có thể tìm ra được hướng giải quyết
một cách đúng đắn. Đầu tiên, chúng ta cần phải tôn trọng mâu thuẫn, xác định mâu thuẫn phân tích, cũng
như là tìm hiểu nguồn gốc phát sinh ra mâu thuẫn rồi từ đó xem xét, giải quyết mâu thuẫn tuân theo quan điểm
lịch sử - cụ thể. Bên cạnh đó, chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn với chính bản
thân chúng ta cũng như nhận thức dúng vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan hệ giữa sự
thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Hướng giải quyết vấn đề:
- Sinh viên cần tìm tòi, học hỏi thêm từ các nguồn trên mạng, từ giảng viên, từ bạn bè để nâng cao kiến thức về
công nghệ; đọc và xem các video hướng dẫn quy chế thi online mà trường đã đăng lên internet.
-Yêu cầu shỗ trợ trong khả năng từ gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho bản thân tham gia vào việc học
thi online.
- Bên cạnh đó, trường cũng thể tạo điều kiện cho sinh viên để cùng giải quyết mâu thuẫn này, thể bằng
cách tạo ra quy chế thi mới phù hợp hơn, hay phổ biến cấu hình thích hợp của thiết bị thi online,…
Kết luận: Mặc còn nhiều mâu thuẫn tồn đọng trong hội cũng như bản thân, nhưng ta thể thấy, mâu
thuẫn cho sinh viên hội phát triển, tự học thay đổi bản thân. (Mâu thuẫn nguồn gốc, động lực của sự
phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau)
Trong giáo dục:
- Từ quy luật mâu thuẫn, ta nhận thấy nền giáo dục có 3 mâu thuẫn sau:
Một là, giữa yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện với duy bảo thủ không chấp nhận đổi mới, hoặc đổi mới
nhỏ giọt, đổi mới vô nguyên tắc, thiếu cơ sở khoa học, lạc chuẩn;
Hai là, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về phát triển giáo dục, đào tạo với những chủ trương, chính sách, việc làm
cản trở động lực phát triển;
Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao, nhiệm vụ lớn với nguồn lực thực hiện hạn chế, lại bị chia tách, xé lẻ.
- Các mâu thuẫn trên tiếp tục chia ra các cấp độ khác nhau vừa tác động ngang - dọc, trên - dưới, vừa
chuyển hóa phức tạp làm chậm khả năng, quá trình giải quyết các mâu thuẫn cơ bản lẫn không cơ bản.
- (hướng giải quyết mâu thuẫn 1) Cần đặt bài toán mâu thuẫn về duy lên hàng đầu. Khi duy của
chúng ta mạch lạcphân biệt được chânsai lầm thì chúng ta mới có thể nghĩ ra được hướng giải quyết
của mâu thuẫn. vậy, chúng ta nên tránh duy siêu hình, phiến diện, không được thỏa hiệp hài lòng với
những ngành mũi nhọn trong nền giáo dục hiện nay không vạch ra hướng đi mới để phát triển kế thừa
những truyền thống, kiến thức bổ ích, tốt đẹp mà cha ông ta để lại. Ngược lại, cũng không nên xem toàn bộ nền
giáo dục Việt Nam không chất lượng hay hỏng toàn bộ.
- (hướng giải quyết mâu thuẫn 2) Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm, chăm lo tới đội
ngũ nhà giáo cán bộ quản giáo dục, ban hành các chế độ, chính sách tương đối phù hợp với đặc thù của
ngành giáo dục, cụ thể: Giáo viên được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thâm niên, chính sách riêng
giáo viên vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, giáo viên dạy trẻ
khuyết tật, dạy lớp ghép, giáo viên đặc thù... Tuy nhiên, trong thực tế, những chính sách đối với nhà giáo và cán
bộ quản giáo dục vẫn còn bất cập như lương giáo viên (nhất giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học) còn
thấp, hệ thống chính sách, văn bản quản lý chưa thực sự đồng bộ, chưa đủ nguồn lực bố trí cho các chính sách,
chậm và chưa bảo đảm các mục tiêu và kế hoạch đã được phê duyệt.
Thực hiện Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng trang người lao
động trong doanh nghiệp, Bộ Giáo dục Đào tạo đã ban hành Quyết định số 4332/QĐ-BGDĐT ngày
15/10/2018 Ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018 của Chính phủ về Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức,
lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp nhằm triển khai nhiệm vụ đề xuất bảng lương theo vị
trí việc làm đối với viên chức ngành giáo dục và đào tạo (Trích Bộ giáo dục và Đào tạo)
- (hướng giải quyết mâu thuẫn 3) Để khắc phục tình trạng này, Bộ Giáo dục và Đào tạo, theo thẩm quyền
đã phối hợp với i vụ ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về danh mục khung vị trí viê c làm, định
mức giáo viên, nhân viên, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiê p,… Ngoài ra, theo chức năng quản lý của mình, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản chỉ đạo các địa phương rà soát quy hoạch mạng lưới trường/lớp; thực
hiê n điều tiết giáo viên từ những trường thừa sang những trường/lớp thiếu giáo viên; ưu tiên bố trí biên chế của
các địa phương để tuyển dụng giáo viên; chỉ đạo các địa phương tăng cường các giải pháp nhằm không xảy ra
tình trạng học sinh không có giáo viên dạy học; nghiên cứu, dự báo nhu cầu đào tạo giáo viên; giao chỉ
tiêu tuyển sinh sát với nhu cầu sử dụng; rà soát, qui hoạch lại hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên cho phù hợp với
yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ trong thời gian tới. (Trích Bộ giáo dục và Đào tạo)
- Ngoài ra sự điều hành, quản yếu kém ngay trong ngành cùng động lực thúc đẩy phát triển giáo dục
suy giảm đã khoét sâu hơn không ít mâu thuẫn, gây bức xúc trong xã hội.thể đơn cử một số mâu thuẫn nổi
bật hiện nay trong ngành giáo dục và đào tạo, như: chất lượng đại trà thấp với yêu cầu cao về chất lượng thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóahội nhập quốc tế; chương trình, phương pháp dạy và học lạc hậu với yêu cầu
chương trình chuẩn hóa, khoa học, tinh giản, phương pháp tiên tiến; phiến diện chú tâm dạy chữ, nặng lý thuyết,
truyền đạt kiến thức thuần túy với đòi hỏi thỏa đáng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo lập nghiệp,
nghiên cứu khoa học, kỹ năng thực hành
Trong đường lối đổi mới của Đảng:
- Trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời quá độ lên Chủ nghĩa hội
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, kinh tế
- xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách thức.
Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn:
+ Nguytụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn, việc phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội,
thực hiện tiến bộ, công bằng hội, bảo đảm định hướng hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường;
việc phát triển đồng bộ các vùng, miền, địa phương trên sở phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng vẫn
còn nhiều hạn chế.
+ Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ, mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp.
+ Xu hướng già hóa dân số, đô thị hóa tăng nhanh; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng ngày càng
lớn đến sự phát triển đất nước.
+ Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
biển đảo của đất nước.
- Phương hướng giải quyết:
- Bổ sung "củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ hội chủ nghĩa" bởi trong
những năm vừa qua tình trạng suy thoái tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những yêu cầu, mục tiêu của xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện là phải củng cố được niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa, đó là nền tảng chính trị của Nhà nước, của chế độ ta.
- - Bổ sung "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" vào câu "Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới"
để thành "Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa".
- Bổ sung "toàn diện" vào "xây dựng Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh" nhấn mạnh
yêu cầu xây dựng trong sạch, vững mạnh cả đối với Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội và trong mỗi tổ chức này cần xây dựng toàn diện cả về tổ chức, cán bộ, phương thức hoạt động; với cán
bộ phải xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong làm việc..
- Trong lĩnh vực y tế:
Từ quy luật mâu thuẫn, ta nhận thấy lĩnh vực y tế có những mâu thuẫn sau:
- Chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự chênh lệch khá
lớn giữa các tuyến giữa các vùng, miền. sở hạ tầng, trang thiết bị y tế t số nơi thiếu, chưa đạt tiêu
chuẩn; công tác y tế dự phòng yếu; thiếu nhân lực y tế có trình độ và phân bổ bất hợp lý. Công tác quản lý thuốc
chữa bệnh còn lỏng lẻo. Y đức của một bộ phận cán bộ y tế chưa tốt. (Trích Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII
tập 2 tr.31)
Phương hướng giải quyết:
Tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, người dân được quản lý, chăm sóc, bảo vệ sức
khoẻ. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên,
phát triển mạng lưới nh viê n tinh. Khuyến khích hợp tác công - tư, đầu nhân, cung cấp các dịch vụ
khám, chữa bệnh theo yêu cầu; phát triển hình bác sỹ gia đình. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong khám, chữa bệnh, liên thông công nhận kết quả khám, xét
nghiệm. Đổi mới mạnh mẽ tài chính y tế. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao
kỹ thuật cho tuyến dưới. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức. Thiết lập hệ thống sổ sức khoẻ
điện tử đến từng người dân. Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo dõichăm sóc, bảo
vệ sức khoẻ, tỉ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.
Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống
trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ tất cả các cấp kết nối với mạng lưới của thế giới. Tập trung phát
triển mạnh y tế sở, y tế dự phòng, sàng lọc phát hiện sớm, chữa trị kịp thời, hiệu quả các loại dịch bệnh
mới. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm
sóc sức khoẻ con người. Phát triển y học cổ truyền, gắn với y học hiện đại; nghiên cứu, kiểm nghiệm, chứng
minh tác dụng của các phương thức chẩn trị, điều trị không dùng thuốc, các bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền.
Đẩy mạnh phát triển, quản lý ngành dược thiết bị y tế; bảo đảm thuốc đủ về số lượng, tốt về chất lượng, giá
hợp lý, đáp ứng nhu cầu. Nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản xuất vắc-xin, thuốc sáng chế. Thực hiện
nghiêm việc kiểm soát an toàn thực phẩm. (Trích Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.60).
ND5: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
LÝ LUẬN:
Phủ định là sự thay thế cái cũ bằng cái mới.

Preview text:

NỘI DUNG 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Đề mẫu : “ Hãy phân tích MQHBC giữa VC & YT. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận và giá trị của nó
trong học tập, cs hằng ngày.”
-
Theo quan điểm duy vật bc, VC là? / bản chất YT là? ֎ Khái niệm -
Theo Lênin: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác" -
Ý thức: Là sự phản ánh năng động, sáng tạo của thế giới khách quan vào trong bộ não con người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. ֎
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức; còn
ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
Cụ thể hơn, trong đời sống xã hội thì nhân tố vật chất quyết định nhân tố ý thức.
Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, điều kiện khách quan, quy luật khách quan, khả
năng khách quan.... năng lực thật sự còn bị hạn chế)
Nhân tố ý thức bao gồm: Tư tưởng, quan điểm, lý luận, đường lối, chính sách, mục tiêu, phương hướng, giải
pháp, biện pháp, cách thức hành động...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản: -
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Không có vật chất sẽ không có ý thức.
VD: Ông bà ta có câu “Có thực mới vực được đạo”, khi con người không được ăn no thì sức khỏe và não bộ sẽ
khó có thể hoạt động và đủ tỉnh táo để hoạt động. -
Vật chất quyết định nội
dung của ý thức: Nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định.
VD: Khi nhìn một con sông, hình ảnh của con sông sẽ được phản ánh vào trong bộ não của chúng ta một cách
trung thực. Đặc điểm hình ảnh con sông trong não bộ do hình ảnh con sông trong thế giới khách quan quyết định. -
Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của ý thức cũng phải dựa
trên những tiền đề vật chất nhất định.
VD: Dựa trên những nguyên liệu có sẵn, con người sáng tạo ra những công cụ lao động để hỗ trợ trong công việc của mình. -
Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Tri thức và các yếu tố của tri thức đều
dựa trên sự phản ánh vật chất.
VD: Khi nghe một bài hát hay, niềm tin và cảm xúc của con người được hình thành thông qua lắng nghe một
cách chăm chú và có sự phân tích.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
- Ý thức là ý thức của con người, gắn liền với tính năng động, sáng tạo của nhân tố con người, nhân tố chủ
quan; mặt khác, ý thức là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
VD: Cả lớp phải tham gia làm một bài kiểm tra, có bạn sẽ học bài theo hình thức thông thường, có bạn lại chăm
chỉ tìm thêm những bài tập thực hành để củng cố kiến thức nhằm chuẩn bị cho bài kiểm tra ấy.
- Ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển. Nếu ý thức phản ánh
không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình vật chất.
VD: Trước tình hình công ty đang gặp khó khăn về nội dung ý tưởng cho phát hành sản phẩm, ban lãnh đạo có
người sẽ xem xét, đánh giá tình hình để tìm ra phương án nhưng cũng có người vì thấy khó khăn mà đã bỏ cuộc.
- Muốn có sức mạnh để tác động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào con người và được tổ chức
thực hiện trong thực tiễn.
VD: Khi thấy các em học sinh đang gặp rắc rối với một nội dung ngữ pháp trong Tiếng Anh, giáo viên có ý
định thiết kế một sơ đồ tư duy để giúp các em hiểu hơn. Muốn thế thì người giáo viên phải thực hiện ý tưởng đó
trong thực tế thì mới có thể tháo gỡ khúc mắc của học sinh. Nếu không, suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở mức ý tưởng.
Vì vậy, Ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn. ֎
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính khách quan;
trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa
phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, là đã tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của ý chí.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ là đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả
điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Phần vận dụng -
Vận dụng vào cs hằng ngày: đk mình sinh ra thế nào, hoàn cảnh phải chấp nhận, cảm ơn, tôn trọng nó.
Nhưng phải nắm được nó, hiểu được nó, học cách định vị bản thân, phải phát huy vai trò của ý thức, trí
thức. sống phải có cảm xúc, niềm tin- tin những gì mình đúc kết được. “học, học nữa, học mãi”
1. Vận dụng trong đời sống học tập của sinh viên
Trong cuộc sống: vấn đề quản lý tiền nong, vấn đề sinh sống với bạn trong ký túc xá, vấn đề đi lại, vấn đề tham gia các hoạt động,...
Trong học tập: đăng kí học phần, lên thời gian biểu, làm việc nhóm, trao đổi thông tin với giảng viên và sinh viên,...
Cấu trúc: thực trạng -> tri thức – tình cảm – niềm tin – ý chí (ý thức – tự ý thức – tiềm thức) -> giải pháp kết  quả đạt được
Là một sinh viên năm nhất của Trường Đại học Sư phạm TPHCM, chúng tôi học theo chế độ tín chỉ, là lớp
người có khả năng tiếp thu những cái mới với nhu cầu mở rộng kiến thức, tự tìm hiểu, tự học và phát triển theo
định hướng của bản thân. Điều này được vận dụng trong việc đăng ký học phần của sinh viên. Người học mong
muốn vận dụng tri thức để chọn lọc những thông tin bổ ích, nắm rõ các phương thức đăng ký học phần cũng
như xem xét kỹ lưỡng các môn cần học và chủ động lên thời gian biểu phù hợp cho bản thân, từ đó đưa ra quyết
định đúng đắn về học phần mình đã chọn. Người học vận dụng tình cảm để bảo đảm rằng những quyết định của
bản thân là sáng suốt, chẳng hạn như người học phải có niềm đam mê, sự hứng thú với những môn học mà
mình đăng ký. Chính niềm đam mê ấy sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng mở ra chân trời tri thức trên hành trình
theo đuổi giấc mơ. Sau khi đã xác định rõ ràng những học phần mình chọn, biết được các tiềm năng cũng như
mặt hạn chế của bản thân, người học phải có niềm tin về tính hiệu quả cho những quyết định của mình. Từ đó,
khi vấp phải những khó khăn hay bất cập trong quá trình học tập, người học phải có ý chí, nghị lực để khắc
phục và vượt qua chúng để đạt được mục đích cuối cùng của bản thân. Nhưng ý thức có sự tác động trở lại đối
với vật chất, nên ta phải phát huy tinh tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Cụ thể là em đã vận dụng để
đưa ra phương án tốt nhất trong việc đăng ký học phần đồng thời nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng
cách chủ động tìm kiếm kiến thức, tham khảo thêm các cuốn sách chuyên ngành ở kho kiến thức của thư viện
hoặc kho sách của khoa, các tài liệu trên mạng Internet, tìm được hứng thú cũng như niềm vui qua mỗi môn
học, cụ thể hóa bằng những kế hoạch phù hợp với thực tế và tỉnh táo vượt qua những cám dỗ. Bên cạnh đó, sinh
viên cần tự ý thức được mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Trong nhịp
sống phát triển hiện đại như ngày nay, việc thường xuyên cập nhật các kiến thức, thông tin mới mẻ là một điều
hết sức cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Ngoài ra, việc lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp từ người khác
sẽ giúp ta ngày càng phát triển và hoàn thiện bản thân, không nên xem những ý kiến của mình là luôn đúng mà
cần phải lắng nghe từ người khác. Chẳng hạn như trong việc học tập, chúng ta nên luôn cập nhật những thông
tin, kiến thức mới cùng với phương pháp học hiện đại để việc học trở nên dễ dàng hơn. Cuối cùng khi giải thích
các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn nhân tố
chủ quan. Hiện nay, sinh viên có xu hướng học vượt nhưng chưa xem xét kỹ về các nhân tố chủ quan như khả
năng, thời gian của bản thân lẫn điều kiện khách quan như điều kiện tài chính gia đình dẫn đến kết quả học tập
chưa như mong đợi. Từ đó cá nhân nên lượng sức mình và xác định đã học môn nào là chắc môn đó. Nên tính
toán sao cho vừa sức bởi học vượt đòi hỏi ngoài giờ học ở lớp, sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu, đọc thêm
tài liệu thì mới phát huy hiệu quả học tập.
2. VẬN DỤNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; phát triển chưa tương xứng
với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng nhận định: "Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở nhiều cơ sở
giáo dục đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành [...] Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học,
sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động." Việc đổi mới trong giáo dục luôn là điều cấp thiết,
đặc biệt là khi hệ thống giáo dục vẫn còn nhiều lỗ hổng như hiện nay. Nhận thức về được thực trạng này sẽ là
nguồn động lực để người học và các nhà giáo dục có hoạt động thay đổi, để ý thức phát huy tính năng động
sáng tạo. Cải thiện những cách dạy lý thuyết khô khan và tăng cường hoạt động thực tiễn trong giáo dục, vừa
tạo sự hứng thú, vừa có thể áp dụng vào thực tiễn. Điều này tác động đến nhu cầu học tập (người học mong
muốn vận dụng tri thức sẽ tìm tòi phương pháp áp dụng lý thuyết vào thực tiễn), nhu cầu xã hội (các tổ chức sẽ
khuyến khích những cá nhân năng động, sáng tạo qua các cuộc thi), nhu cầu cải cách giáo dục của nhà nước
(thay đổi chương trình học). sau khi xác định rõ ràng phương pháp cải cách giáo dục, biết được những tiềm
năng cũng như các mặt hạn chế, con người sẽ đạt được có niềm tin về tính hiệu quả của các phương pháp học
tập mang tính thực tiễn cao, những chính sách đổi mới sẽ nhận được sự ủng hộ từ xã hội. Từ đó, khi vấp phải
những sai lầm trong lúc thực hiện con người sẽ có ý chí quyết tâm khắc phục để đạt được mục đích đã đề ra ban
đầu. Đồng thời, ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý chí là căn bệnh
có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa
rời hiện thực. Các nhà giáo dục cần tôn trọng nguyên tắc khách quan. Nếu không xem xét hiện thực mà chỉ dựa
vào ý thức chủ quan thì ngành giáo dục sẽ bị tình trạng bảo thủ trì trệ, không tiếp thu cái mới, không xét đến
những đòi hỏi khách quan của xã hội. Cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng xã hội, cần xét các điều kiện vật
chất lẫn nhân tố tinh thần, yếu tố khách quan, chủ quan. Một hiện tượng xã hội tồn tại trong lĩnh vực giáo dục
hiện nay là mức độ chênh lệch về giáo dục giữa học sinh thiểu số và mặt bằng chung cả nước. Vấn đề về trình
độ dân trí của học sinh thiểu số cần được xem xét ở khía cạnh về điều kiện vật chất và các nhân tố chủ quan.
Xét về điều kiện vật chất, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu
về chất lượng giáo dục, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên, nhân viên, cán bộ quản lý giáo dục chưa đem lại
được những khuyến khích vật chất và tinh thần. Đồng thời, ta cần xem xét các yếu tố chủ quan trong thực trạng
về trình độ giáo dục giữa các học sinh đồng bào thiểu số. Ở một số địa phương, nhận thức của một bộ phận
người dân về việc học tập của con em còn hạn chế, chưa quan tâm tạo điều kiện để con em đi học dẫn đến tình
trạng bỏ học, thất học của các em học sinh thiểu số. Ngoài ra, nhiều học sinh vì mong muốn chăm lo cho điều
kiện kinh tế khó khăn của gia đình mà không tha thiết chuyện học mà trở thành nguồn lao động chính trong nhà.
Sau khi xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan, những nhân tố vật chất tinh thần của hiện tượng này, ta nhận
thấy ngoài quan tâm việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với tình hình thực tế của địa phương thì
cần tăng cường công tác nâng cao nhận thức về phát triển giáo dục đối với các dân tộc thiểu số, các cán bộ quản
lý giáo dục địa phương cần can thiệp, giảm thiểu tác động của các phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn làm
ảnh hưởng đến con đường học tập của các em học sinh dân tộc thiểu số.
3. VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Nhìn chung, bên cạnh những thành tựu nước ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước: Duy trì được tốc
độ tăng trưởng bình quân khá, cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh; trong quá trình này còn tồn tại nhiều khó khăn như:
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã
“chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp, sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng
suất lao động có khoảng cách lớn so với nhiều nước,...Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đất nước đang đứng
trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình
quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức mang tính toàn cầu về biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang tác
động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới.”. Trong quá
khứ, những thay đổi của tình hình thế giới, quan hệ với các nước bạn đã tác động đến công cuộc đổi mới và
cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đòi hỏi Đảng và Nhà nước
ta tiến hành đổi mới. Nhận thức được sự cần thiết của những thay đổi này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những
chính sách phù hợp cho công cuộc phát triển đất nước. Đảng ta nhận định rõ bước phát triển mới của toàn cầu
hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược
trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển lâu dài của đất nước đòi hỏi
không chỉ lãnh đạo của đất nước, mà các nhà doanh nghiệp cũng phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin,
khơi thông mọi nguồn lực hiện có vào công cuộc đổi mới đất nước. Mục tiêu chính vẫn là tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định. Trên hết, mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm đích đến; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng". Có như thế mới củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với những chính sách mà Đảng, Nhà
nước đề ra, cùng với đó là các mặt lợi của xã hội chủ nghĩa. Từ đó, những lúc khủng hoảng, Nhà nước và dân ta
lại càng giữ vững ý chí phát triển quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực
của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cần
phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tức là thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của ý thức; cũng như bệnh bảo
thủ trì trệ, nghĩa là đang hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức. Trong những năm vừa qua, dù đạt được
những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức
và hạn chế. Đảng và Nhà nước cũng đã xem xét những vấn đề này, từ đó đề ra các chính sách phù hợp, đều có
mang tính sáng tạo và tích cực, trong khi vẫn bám sát vào thực tế khách quan và thực trạng nhà nước lúc bấy
giờ. Muốn như thế thì từ khâu đầu tiên phải nghiêm khắc chỉ ra nguyên nhân chủ quan của tình hình khó khăn là
do những sai lầm khuyết điểm; tự nhận ra khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong
việc xác định mục tiêu của đất nước. Trong khi xem xét các điều kiện xã hội còn cần phải tính đến cả điều kiện
vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt
bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Kinh tế nước ta đạt mức
tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong thời kì này.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén,
đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của
cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước
ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid-19 trong
cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho
nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
→ Tất cả những nỗ lực này của Đảng, Nhà nước và toàn dân đã dẫn đến sự thay đổi tích cực của vật chất: Năm
2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Đời sống nhân dân được nâng cao rõ
rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa
bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị
của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại
lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.
ND2: HAI NGUYÊN LÍ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Đề mẫu: “Hãy phân tích cs lý luận của quan điểm toàn diện”
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Lý luận:
Quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể xuất phát từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ theo quan điểm siêu hình trước Mác xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau,
cô lập nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có thì chỉ là những mối liên hệ
giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Do đó, quan điểm này đã không thể vạch ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm biện chứng, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn
nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên sự vật, hiện tượng;
giữa sự vật, hiện tượng v
ới môi trường; mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến
đổi của sự vật, hiện tượng khác.
Vd: mối liên hệ giữa con người và thức ăn; mối liên hệ giữa mây và mưa,...
Tính chất của mối liên hệ bao gồm các yếu tố sau: -
Tính khách quan: sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú như thế nào thì chúng cũng chỉ là những
dạng cụ thể khác nhau của một dạng vật chất duy nhất. Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện
tượng chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của cong người, dù muốn hay
không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận của chúng đều luôn chứa đựng các mối liên hệ.
VD: Con người từ khi sinh ra đã chứa đựng mối liên hệ giữa tiêu hóa và bài tiết, chính chúng ta cũng không thể
thay đổi được điều này.
- Tính phổ biến: mỗi một sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có sự vật, hiện tượng
nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác. Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng;
mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Trong tự nhiên, một cái cây không thể tồn tại một cách biệt lập, muốn tồn tại thì nó phải trong sự tác động
qua lại với rất nhiều yếu tố như: đất, nước, nhiệt độ, ánh sáng, khí hậu,...
- Tính đa dạng phong phú: xuất phát từ sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất. Mỗi một mối liên
hệ lại có những đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát triển riêng của sự vật, hiện tượng.
VD: Đến tuổi dậy thì, nhờ mối liên hệ giữa hoóc-môn sinh dục và cơ thể mà các bạn thiếu niên bắt đầu có
những sự biến đổi trong chức năng sinh lý để bộc lộ những đặc trưng về mặt giới tính.
Khoa học đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành quyết định.
VD: Ở người bình thường, có 46 nhiễm sắc thể. Vì một lý do nào đó mà số lượng nhiễm sắc thể bị thay đổi
(thiếu hoặc thừa), cách tổ hợp nhiễm sắc thể thành cặp bị thay đổi sẽ gây ra các hội chứng bệnh đột biến số
lượng nhiễm sắc thể như: Tớc-nơ, Đao,..
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do sự tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành quyết định, mà
trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
VD: Sự tác động qua lại giữa quá trình đồng hóa và dị hóa là động lực cho sự phát triển của cơ thể sinh vật.
Ý nghĩa phương pháp luận: nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần tuân
theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét đến tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả những mắt khâu
trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
- Trong vô vàn các mối liên hệ đó, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu (những mối liên hệ trọng tâm,
trọng điểm) để nắm bắt bản chất của các sự vật, hiện tượng.
- Sau khi nắm bắt được bản chất thì cần phải đối chiếu với các mối liên hệ khác để tránh sai lầm trong nhận thức.
- Cần chống lại cách xem xét phiến diện, chủ quan (chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt, chỉ thấy mối
liên hệ này mà không thấy mối liên hệ khác).
- Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải các mối liên hệ (coi mọi mối liên hệ là như nhau)
- Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành cái cơ bản)
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh, lịch sử - cụ thể; trong điều kiện,
môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất
định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định.
- Cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn.
- Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất định. Vận dụng:
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay:
Nước ta đã độc lập, thống nhất kể từ năm 1975 nhưng đến năm 1986 thì mới bắt đầu xây dựng cơ đồ của đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng nghĩa; đó là sau Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986. Nhìn lại 35 năm đổi
mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (1/2021), Đảng nhận định rằng. “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII). Trong 35 năm ấy, Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực: Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã
hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hoá, xây dựng con người
Việt Nam, v.v... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật. Công cuộc đổi mới đất nước phải diễn ra
một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời sống, “đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng
và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả” [1,]. Song, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác
định nhiệm vụ chủ yếu của công cuộc đổi mới hiện nay là “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng
Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.” [1,].
Xét về khía cạnh kinh tế, nước ta có nhiều sự chuyển đổi khá toàn diện và tích cực: “nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh
tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên,
chất lượng tăng trưởng được cải thiện.” [2,] Giáo dục và đào tạo có sự vận dụng sáng tạo khoa học, công nghệ
và có nhiều sự đổi mới, phát triển. Nhưng, “đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự
trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” [2,]. Vấn đề chung ở đây là công tác giáo dục
vẫn còn thiếu hiệu quả, chưa chú trọng vào phát triển năng lực, phẩm chất của người học. Khoa học – công
nghệ có nhiều tiến bộ vượt bậc và là động lực lớn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và nhiều lĩnh vực
khác nhau trong đất nước như nông công nghiệp, văn hóa, chính trị, y tế, quốc phòng, giáo dục,... Nhà nước có
nhiều chính sách để quản lý, đầu tư và phát triển tiềm lực của lĩnh vực này. Về văn hóa – xã hội, có sự chú
trọng và nhận thức, tiếp thu, phát triển, kế thừa và gìn giữ những giá trị truyền thống một cách toàn diện hơn,
sâu sắc hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng đa dạng của đất nước. Có nhiều chính sách hỗ trợ,
phúc lợi và an sinh xã hội cho người dân. “Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn
nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%”. [1,].
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn có sự chú tâm đến những lĩnh vực khác: -
Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. -
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. -
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục
được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ,
quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.
Tóm lại, nhờ vận dụng triệt để quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới đẩt nước, Đảng và Nhà nước đã có
những động thái đúng đắn và phù hợp, không chỉ tập trung xây dựng bộ máy chính trị mà còn xây dựng, có
nhiều bước hoàn thiện, cải tiến cho nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Đó là sự nỗ lực, cố gắng và vận dụng, kế
thừa, phát huy sáng tạo, hiệu quả những bài học mà triết học Mác – Lênin đã để lại qua một quá trình đấu tranh
lâu dài, như trong văn kiện đã nhận định rằng “Đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình
phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới”. [1]
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
[2] Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. II.
Nguyên lý về sự phát triển
Quan điểm biện chứng về sự phát triển:
Khái niệm phát triển:
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên, từ
trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển:
- Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con
người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn năm trong quá trình phát triển. VD:
- Thứ hai, tính phổ biến:
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con
người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan. VD:
- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những điều kiện không
gian và thời những lĩnh vực hiện thực khác nhau. gian khác nhau, trong những lĩnh vực hiện thực khác nhau. VD:
(Nhìn thêm giáo trình: Tr.95,96) Vận dụng:
Đặt mục tiêu tương lai ở hiện tại, xác định mục tiêu tương lai, chia thành nhiều giai đoạn để có thể thực hiện
mục tiêu đó. Biện pháp thực hiện trong từng giai đoạn.
Đối với học sinh, sinh viên:
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan trọng đối với học
sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của toàn xã hội thì sinh viên
cần phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng
tạo và hợp lý. Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các gián đoạn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó phải học cách vượt qua các gián đoạn và có cách tác động phù hợp thúc
đẩy sự vật phát triển đó trong hiện tại và tương lai. Khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được
tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Có lúc sinh viên sẽ cảm thấy
quá trình học tập không có chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ
tiêu cực. Mỗi sinh viên có sự phát triển về trí tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập rèn
luyện khác nhau để nâng cao trí tuệ, cảm xúc. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó
mà áp vào bản thân mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa. Quá trình rèn luyện và học tập là quá trình
tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ dựa vào điểm số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp, cần
xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực. Chẳng hạn, sinh viên có thành tích không tốt trong một bài kiểm tra đánh
giá, nhưng trong quá trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình.
* ND3: QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT
2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG –CHẤT:
2.1 Khái niệm chất:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống
nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là cái khác.
VD: Chất của nhôm là có ánh kim, dễ dát mỏng,..
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
VD: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng cơ thể hay chiều cao của một con người…
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi: -
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định. -
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượngmcủa sự vật chưa làm thay
đổi căn bản chất của sự vật ấy.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0 C đến 100 ⸋ ⸋C. -
Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất tương đối ổn định. Sự thay
đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng có thể làm thay đổi dần dần chất cũ.
Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định có xu hướng tích luỹ đạt tới điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra
bước nhảy làm thay đổi chất của sự vật. -
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đã làm thay đổi chất của sự vật.
VD: 0⸋C và 100⸋C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi) -
Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy. Bước nhảy là một phạm trù triết học
dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,… -
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giaiđoạn phát triển mới. Đó là
gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, đồngthời là một tiền đề cho một quá trình tích luỹ liên
tục về lượng tiếp theo.
VD: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu thuẫn với quan hệ sản xuất lỗi
thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội (bước nhảy) làm cho xã hội cũ mất
đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp điệu
của sự vận động phát triển của sự vật:
-
Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự
thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động
trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
2.5 Ý nghĩa phương pháp luận: -
Một là, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định, tác
động và làm chuyển hoá lẫn nhau do đó trong thực tiễn và nhận phải coi trọng cả hai phương diện chất và lượng. -
Hai là, những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất trong điều kiện nhất định và
ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi chất của sự vật đồng thời phát huy tác
động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật. -
Ba là, sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích luỹ đến giới hạn điểm nút do đó
trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ. -
Bốn là, chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không chịu thực hiện bước nhảy. -
Năm là, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ nước nhảy và tạo mọi điều kiện cho bước
nhảy được thực hiện một cách kịp thời. -
Sáu là, trong đời sống XH, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan
hệ giữa chất tự nhiên và chất XH của sự vật, hiện tượng. Tùy vào từng điều kiện LS-CT mà có thể nhấn mạnh
chất tự nhiên hay chất xã hội lên đầu. -
Bảy là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng: •
Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng. •
Thay đổi chất lượng cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng •
Thay đổi cơ chế tác động giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng •
Thay đổi trật tự sắp xếp giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng •
Thay đổi chức năng của cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng và chức năng của toàn bộ sự vật, hiện tượng. •
Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật hiện tượng
Vấn đề về xác định phương pháp học tập mới, khoa học (tích lũy về lượng)
Trong quá trình rèn luyện ở trường học, tích luỹ kiến thức là dạng tích lũy về lượng, khi đạt đến một
lượng kiến thức nhất định, học sinh sẽ chuyển sang mức độ mới cao hơn. Như vậy, thời gian giữa các mức độ
học tập gọi là độ; bài kiểm tra, bài thi là điểm nút; và sự chuyển từ cấp độ cũ sang cấp độ mới là bước nhảy. •
Bước nhảy đánh dấu sự ra đời của chất mới: Đầu tiên là sự thay đổi từ học sinh (chất cũ) thành sinh viên
(chất mới), chất mới tác động trở lại lượng. Chất mới có sự khác nhau với chất cũ ở chỗ quá trình tích lũy kiến
thức thông qua quá trình tự học, tìm tòi nghiên cứu, tự định hướng ở bậc Đại học thay vì là được thầy cô cung
cấp như bậc Trung học. Giờ đây, lượng là sự tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng là sự
phát triển về suy nghĩ, nhận thức, hành động, cách tư duy. •
Đồng nghĩa với việc sinh viên phải ý thức được sự thay đổi đó, để có thể chủ động xác định được thái độ
và phương pháp học tập, phương pháp tư duy phù hợp, tiến bộ hơn thời THPT. Trong đó, quan trọng là cố gắng
tham gia đầy đủ các tiết học; tránh bệnh chủ quan, lười biếng khi không còn thầy cô, phụ huynh giám sát chặt
chẽ như hồi các cấp học thấp hơn; tìm tòi thêm nhiều nguồn tài liệu học tập; tham gia các hoạt động ngoại khóa;... •
Tránh trường hợp không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh hưởng đến tốc
độ học. Tránh để xảy ra tình trạng khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ đầu,…. •
Cùng một chương trình học, cùng một khối lượng kiến thức và kỹ năng cần thu nạp và rèn luyện, một
sinh viên có tinh thần say mê học tập và có đầu óc biết lên kế hoạch rõ ràng, khoa học và một sinh viên lười
biếng, chủ quan, giữ nguyên cách tiếp cận bài học, cách tương tác với thầy cô như thời THPT chắc chắn sẽ cho
ra hai kết quả cực kì khác biệt.
Vấn đề về việc tham gia các kỳ thi (ủng hộ bước nhảy; thực hiện bước nhảy)
Lượng ở Đại học khác ở THPT và nó lại tác động trở lại chất. Đòi hỏi sinh viên cần trau dồi bản thân để
còn tạo ra sự khác biệt về chất (một sinh viên ưu tú hơn, nổi bật hơn bạn bè đồng trang lứa chẳng hạn). •
Cụ thể là sau khi chủ động, tích cực tích lũy kiến thức; rèn luyện thêm các kỹ năng; học hỏi tư duy học
tập tiến bộ mà thầy cô định hướng hay bạn bè gợi ý;...bản thân lúc này đã được tôi luyện và tiến bộ hơn rất
nhiều so với trước kia. Vì vậy cần phải tự tin tham gia các kỳ thi như Nghiên cứu khoa học, Pháp luật, Chứng
chỉ ngoại ngữ, Chứng chỉ tin học,....(thực hiện bước nhảy) để đánh dấu sự thay đổi mới, xây dựng được thương
hiệu bản thân (chất mới ra đời). Chí ít cũng phải ý thức được việc cần cố gắng hết mình trong việc xung phong
trả lời, giải các câu hỏi, bài tập trên lớp; tích cực, tự tin khi thực hiện các bài thi giữa kỳ, kết thúc học phần,.... •
Bên cạnh đó, nếu cảm thấy bạn bè xung quanh mình rơi vào trường hợp mặc dù kiến thức, kỹ năng đã
chín muồi mà còn e dè, tự ti chưa dám bung xõa, đăng ký tham gia các kỳ thi thì chính chúng ta cũng nên có
thái độ ủng hộ bạn, động viên bạn, đề nghị hỗ trợ bạn trong khả năng để tạo điều kiện cho bạn; từ đó bạn có thể
đạt được một danh hiệu, một sự công nhận cao hơn (chất mới). •
Tóm lại, trau dồi bản thân là một chuyện, còn xây dựng tâm thế tự tin, chủ động tham gia các hoạt động
thể hiện mình, khẳng định mình là một chuyện khác và đòi hỏi sinh viên cần có thái độ tích cực, tự tạo cơ hội
cho chính mình và cho người khác nếu có thể. Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng theo thời
gian, cùng với đó, con người cũng phải vận động chạy theo nó để không bị bỏ lại phía sau. Là một sinh viên
thời đại mới phát triển và tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân
mình và giúp đỡ người khác.
Vấn đề về nóng vội đốt cháy giai đoạn
Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Sau khi học những kiến
thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. •
Ngoài ra, có nhiều sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học trong cùng
một năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không có môn học nào được
hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có
kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến
đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực.
Cách làm phần vận dụng -
Trong cuộc sống học tập của sinh viên: o
Cần xác định trong cuộc sống, học tập có những vấn đề gì: quan hệ bạn bè, học tập, thầy cô... o
Xác định điểm nút và bước nhảy của vấn đề đó. o
Từ đó thể hiện sự phát triển và hoàn thiện bản thân cần: phát huy mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế (áp dụng ý nghĩa pp luận). -
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ngày nay: o
Xác định các vấn đề liên quan: công nghệ 4.0, công nghiệp hóa, hiện đại hóa… o
Xác định độ, điểm nút, bước nhảy. o
Giải quyết trình bày như sau: Theo Đại hội Đảng lần thứ VI 
Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược
cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mớ, trong đó nhấn mạnh: Đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng quan
điểm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Điều kiện cốt yếu
trong công cuộc đổi mới được định hướng XHCN và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng
phải kiên trì và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng HCM, giữ vững vai trò lãnh đạo
XH. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. 
Trong quá trình đổi mới, phải quan tâm đến dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn
những vde mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới: tăng cường tổng kết thực
tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng CNXH ở nước ta, trong đó nhấn mạnh:
Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vde mới liên quan đến nhận thức về
CNXH và con đường xây dựng CNXH. Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì mới
trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp.
Vận dụng trong cs, ht của bản thân: o
Sau khi tích lũy đủ lượng kthuc (lượng thay đổi), một học sinh THPT thành công thay đổi thành chất
sinh viên. Trong đó, độ HS THPT là từ lớp 10 đến lớp 12; độ của SV là từ năm thứ nhất ĐH đến năm thứ tư;
điểm nút là thi tốt nghiệp THPT đỗ, đủ điểm đỗ vào ĐH; bước nhảy là kết thúc giai đoạn HS THPT (sau tốt
nghiệp), khởi đầu SV ĐH năm nhất. o
Hiểu rằng trong nhận thức thực tiễn, SV cần phải xem xét toàn diện về sự vật, hiện tượng; không nên
phiến diện chỉ coi trọng lượng, không thực hiện bước nhảy hay chỉ coi trọng chất. Đặt trong mối QH với nhà
trường và thầy cô, thì chất của SV phải là chất SV. Khi đã là “chất SV” thì đòi hỏi lượng kiến thức SV tiếp thu
mỗi tiết học sẽ nhiều hơn, môn học sẽ nhiều hơn…Do đó SV phải nhanh chóng có kế hoạch cụ thể để học tập. o
Chất chỉ thay đổi khi tích lũy đủ về lượng. Hằng kỳ, hằng năm, số lượng tín chỉ tích lũy của SV sẽ ngày
càng nhiều hơn, lượng kiến thức, kỹ năng nhiều hơn… o
Tuy nhiên, chất SV vẫn chưa biến đổi vì lượng chưa đạt đến điểm nút. SV nhận thức rằng, chỉ khi lượng
(tín chỉ, kỹ năng, kiến thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm,…) đạt tới điểm nút (ví dụ như đạt đủ 135 tín chỉ đối
với SV khoa Anh) thì chất CV mới biến đổi thành chất cử nhân. Trong qtrinh tích lũy về lượng, cần nhận thức
tránh khuynh hướng tả khuynh, nóng vội, duy ý chí, chủ quan; tránh hiện tượng nôn nóng tốt nghiệp mà đăng kí
quá nhiều học phần, quá sức học tập của bản thân, dẫn đến sự quá tải, kết quả không như mong đợi. Do đó, cần
phải đăng ký số lượng tín chỉ (lượng) phù hợp với năng lực của bản thân. o
Ngược lại, cần chống bệnh bảo thủ hữu khuynh, trì trệ, không nên thụ động trông chờ vào gia đình mà
phải tự nỗ lực để tích lũy về lượng: ra trường sớm hơn hoặc đúng thời hạn. Từ đó tận dụng những cơ hội phát
triển tốt nhất cho bản thân.
Vận dụng vào đổi mới nhà nước o
Ở nước ta, lịch sử đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ những
năm 20 của thế kỷ XX, hòa nhập vào xu hướng tiến hóa chung của nhân loại quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa để có một bước nhảy cách mạng đó là đưa nước Việt Nam sang một chế độ khác,
“chất” khác là đất nước xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 của Đảng đã khẳng định sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước ta sẽ tiến lên CNXH. Đó là lựa lựa chọn đúng đắn của Đảng. o
Cả một quá trình tích lũy về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới được tạo nên nhưng đồng
thời nó cũng tạo nên lượng mới. Chúng ta cần một thời kỳ quá độ lên XHCN; trong thời kì chúng ta sẽ có
những thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xh, vh, gd. Nhận thức được điều đó, Đảng ta đã có chủ trương xd
xhcn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về chất của xh cho tất cả lĩnh vực. o
Giữa thập niên 70 với nền kt phổ biến là sx nhỏ tại vị trí chiến tranh kéo dài, tàn phá nặng nề; bằng việc
cải tạo xhcn tổ chức lại sx và mở rộng quy mô hợp tác xã với hi vọng nhanh chóng có nhiều CNXH hơn, Đảng
đã đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí dẫn đến những mục tiêu của đại hội IV của Đảng đề ra đều không đạt. o
Trước hoàn cảnh đó, nhà nước thấy không thể duy trì những chính sách cơ chế cũ. Thực hiện bước nhảy
kịp thời: tạo ra sự sáng tạo nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới
việc đó được nêu rõ trong đại hội thứ VI năm 1986 đó là chuyển đổi nền ktx của nước ta từ mô hình hóa tập
trung quan lieu bao cấp dựa trên chế độ công hữu về tư liễu sang nền kt thị trưởng có sự quản lí của NN theo định hướng XHCN o
Chính vì thế, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt nhiều thành tựu: Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lí, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước,…Giáo dục và
đào tạo, KH và CN, VH, XH, Y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được
bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
**ND4: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP I. Lý luận
Quy luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển Nội dung quy luật:
Mâu thuẫn là một phạm trù dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong cùng
một sự vật, hiện tượng
Mặt đối lập là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái
ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
Như vậy, hai mặt đối lập phải thỏa mãn những điều kiện sau đây mới tạo thành mâu thuẫn:
Thứ nhất, có xu hướng vận động trái ngược nhau
Thứ hai, làm nên chỉnh thể của một sự vật, hiện tượng
Ví dụ như sự sản xuất và tiêu dùng trong kinh tế- xã hội, chân lý và sai lầm trong quá trình đấu tranh nhận thức, …
Tính chất chung của mâu thuẫn:
Thứ nhất, tính khách quan: -
Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn
khác được hình thành; sự vật, hiện tượng vừa là nó, vừa là cái khác với bản thân nó.
Ví dụ. Trong con người bất kỳ đều chứa đựng những yếu tố của các mặt đối lập giữa lương thiện và độc ác,
dũng cảm và hèn nhát, trung thực và giả dối,… Thứ hai, tính phổ biến: -
Mâu thuẫn có ở trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình; mâu thuẫn có cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, con người.
Ví dụ. Mâu thuẫn giữa lực và phản lực trong sự tương tác giữa các vật thể, mâu thuẫn giữa lực đẩy và lực hút
giữa các hạt, phân tử, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa tầng lớp
thống trị và tầng lớp bị trị trong xã hội thời phong kiến,…
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú: -
Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng, có cách thức giải
quyết riêng. Cụ thể là: Có mẫu thuẫn bên trong – mâu thuẫn bên ngoài, có mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn không
cơ bản, có mâu thuẫn chủ yếu – mâu thuẫn thứ yếu, có mâu thuẫn đối kháng – mâu thuẫn không đối kháng…
Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong xã hội đều có các mâu thuẫn khác nhau như mâu thuẫn giữa cá đó với các cá
nhân khác trong lớp học, gia đình và xã hội trên phương diện tình cảm, nhận thức, chính trị, văn hóa,…
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: (tr.112 113)
Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau giữa các mặt đối lập, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại, nếu không có mặt đối lập này sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại.
Là sự đồng nhất các mặt đối lập, bởi vì các mặt đối lập dù cho có khác nhau nhưng bao giờ cũng có yếu tố
giống nhau, tương tự nhau, nghĩa là chúng đồng nhất với nhau.
Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập khi các mặt đối lập có lực lượng ngang bằng nhau.
Ví dụ: trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau với
nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất đều cần có
người tiêu dùng. Sự không tách rời, đòi hỏi có nhau giữa lực và phản lực cũng là một ví dụ điển hình cho sự
thống nhất giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập: -
Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Thực chất của sự đấu tranh của các mặt đối lập gắn
liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn:
+ Giai đoạn hình thành mâu thuẫn:
Đồng nhất nhưng đồng thời bao hàm sự khác nhau Khác nhau bề ngoài
Khác nhau bản chất, khi ấy mâu thuẫn được hình thành.
+ Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
Các mặt đối lập xung đột với nhau
Các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, khi ấy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm
+ Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn…
Ví dụ: -Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta có mâu thuẫn gay gắt với thực dân Pháp, khi mâu thuẫn lên
đến đỉnh điểm, tạo cho ta động lực đứng lên đấu tranh và kết quả cuối cùng là nhà nước Việt Nam độc lập, tự do dân chủ ra đời.
-Trong nhận thức, sở dĩ các tư tưởng con người ngày càng phát triển bởi luôn có sự đấu tranh giữa
nhận thức đúng và nhận thức sai, giữa nhận thức kém sâu sắc và nhận thức sâu sắc hơn.
Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với nhau: Nếu không có thống nhất sẽ không có đấu
tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh; đấu tranh là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Sự thống nhất phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng im tương đối; còn sự đấu tranh phản ánh trạng thái
vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng. Nhờ có thống nhất, sự vật, hiện tượng mới tồn tại; còn nhờ đấu tranh,
sự vật, hiện tượng mới phát triển.
Tóm lại, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau
nhưng nếu không có sản xuất thì không có sản phẩm để tiêu dùng; ngược lại, nếu không có tiêu dùng thì sản
xuất mất lí do để tồn tại
Ý nghĩa phương pháp luận:
Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất và nhận thức các
mặt đối lập của nó”
“Phân đôi” ở đây không phải là phân chia theo kiểu số học thành hai phần bằng nhau, mà là phân đôi cái chỉnh
thể thống nhất thành hai mặt đối lập biện chứng và nhận thức các mặt đối lập biện chứng ấy. Nghĩa là, cần phải
xác định mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn, nghiên cứu các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
Hai là, cần phải có những biện pháp phù hợp trong việc giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn
Ba là, việc xem xét và giải quyết mâu thuẫn cần phải tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể
Bốn là, cần vận dụng phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn tồn tại dưới dạng antinomie
Năm là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan hệ
giữa sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. II. Vận dụng:
Mâu thuẫn ở Việt Nam: (Trích tạp chí cộng sản) -
Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN. Vì vậy mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện ở Việt Nam là mâu thuẫn giữa hai khả năng
phát triển: hoặc là đi lên CNTB hoặc là đi lên CNXH. Suy ra cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản ở
nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh giữa hai con đường nhằm giải quyết triệt để vấn đề làm thế nào đem lại thắng
lợi cho con đường đi lên CNXH. Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động
lực cho sự phát triển tiếp tục thể hiện quy định về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau
đây: Loại mâu thuẫn giữa trạng thái KT kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giàu nước mạnh, XH
công bằng, dân chủ, văn minh. Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn
này phát sinh từ hai mặt, hai khuynh hướng đối lập: Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên các mặt
KT, chính trị, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ, từ nền KT
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường làm nảy sinh những nhân tố đôí lập, khuynh hướng tự phát đi lên tư bản.
Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước
ta theo mục tiêu đó (thế lực thù địch trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm, tệ nạn tham nhũng-thế giới xét Việt
Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng nhất).
Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH. Loại mâu thuẫn này
xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách quan với một bên là trình độ năng
lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước trong quá trình lãnh đạo… Loại mâu thuẫn này
thể hiện trong tư tưởng, lí luận, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo của nhà nước.
Phương thức giải quyết mâu thuẫn theo Đại hội XI(Trích tạp chí cộng sản)
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến
đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh
chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên
mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng
tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật
chất – kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh
tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung năm 2011 tại Đại hội XI) xác định: -
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý
chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực
hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: -
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. -
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. -
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. -
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. -
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. -
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất. -
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. -
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… Không phiến diện, cực đoan,
duy ý chí (Trích Tạp chí cộng sản)
Liên hệ bản thân: -
Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại, nên nó buộc người ta không bao giờ được nghĩ mình có đầy đủ tri thức,
mà phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải quyết các vấn đề mới. Để làm được điều đó, con người cần
phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức mới. Đồng thời, quy luật mâu thuẫn cũng đòi hỏi chúng ta phải
biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ những cái cũ, không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa
quen thuộc và kế thừa những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói quy luật mâu thuẫn chính là nền tảng cho
kho tàng tri thức vô cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày của nhân loại. Quy luật này đòi hỏi
sinh viên phải tìm tòi, học hỏi các kiến thức mới chứ không được ngủ quên trên một vài kiến thức nhất định nào
đó. Điều đó giúp cho sinh viên thêm phần sáng tạo, là yếu tố rất có ích cho cả việc học lẫn sự nghiệp sau này.
Cũng bởi vì thế mà qua mỗi năm, các trường đại học, học viện phải tái bản một số cuốn sách để đổi mới kiến thức cho các sinh viên. -
Bên cạnh đó, việc học của sinh viên là một quá trình tăng trưởng về mặt tri thức và đồng thời ta cũng
học cách áp dụng những tri thức đó vào đời sống thực tế. Vậy nên quá trình học tập của sinh viên cũng không
ngoại lệ mà nó chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn. Chẳng hạn, trong dịch Covid vừa qua, sinh viên phải
học tập trên hệ thống trực tiếp, điều đặc biệt mà sinh viên ít khi trải qua. Học tập online khiến chúng ta xao
lãng, dễ mất tập trung vì mạng xã hội có nhiều thứ thu hút chúng ta và chúng ta sẽ bị phân tâm không thể tập
trung vào bài giảng online của thầy cô cũng như không thể học tập một cách hiệu quả khi có thể bị mất mạng,
cúp điện hoặc trục trặc về kĩ thuật. Áp dụng quy luật mâu thuẫn vào đó, ta có thể tìm ra được hướng giải quyết
một cách đúng đắn. Đầu tiên, chúng ta cần phải tôn trọng mâu thuẫn, xác định mâu thuẫn và phân tích, cũng
như là tìm hiểu nguồn gốc phát sinh ra mâu thuẫn rồi từ đó xem xét, giải quyết mâu thuẫn tuân theo quan điểm
lịch sử - cụ thể. Bên cạnh đó, chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn với chính bản
thân chúng ta cũng như là nhận thức dúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan hệ giữa sự
thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Hướng giải quyết vấn đề:
- Sinh viên cần tìm tòi, học hỏi thêm từ các nguồn trên mạng, từ giảng viên, từ bạn bè để nâng cao kiến thức về
công nghệ; đọc và xem các video hướng dẫn quy chế thi online mà trường đã đăng lên internet.
-Yêu cầu sự hỗ trợ trong khả năng từ gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho bản thân tham gia vào việc học và thi online.
- Bên cạnh đó, trường cũng có thể tạo điều kiện cho sinh viên để cùng giải quyết mâu thuẫn này, có thể bằng
cách tạo ra quy chế thi mới phù hợp hơn, hay phổ biến cấu hình thích hợp của thiết bị thi online,…
Kết luận: Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn tồn đọng trong xã hội cũng như bản thân, nhưng ta có thể thấy, mâu
thuẫn cho sinh viên cơ hội phát triển, tự học và thay đổi bản thân. (Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự
phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau) Trong giáo dục: -
Từ quy luật mâu thuẫn, ta nhận thấy nền giáo dục có 3 mâu thuẫn sau:
Một là, giữa yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện với tư duy bảo thủ không chấp nhận đổi mới, hoặc đổi mới
nhỏ giọt, đổi mới vô nguyên tắc, thiếu cơ sở khoa học, lạc chuẩn;
Hai là, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về phát triển giáo dục, đào tạo với những chủ trương, chính sách, việc làm
cản trở động lực phát triển;
Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao, nhiệm vụ lớn với nguồn lực thực hiện hạn chế, lại bị chia tách, xé lẻ. -
Các mâu thuẫn trên tiếp tục chia ra các cấp độ khác nhau vừa tác động ngang - dọc, trên - dưới, vừa
chuyển hóa phức tạp làm chậm khả năng, quá trình giải quyết các mâu thuẫn cơ bản lẫn không cơ bản. -
(hướng giải quyết mâu thuẫn 1) Cần đặt bài toán mâu thuẫn về tư duy lên hàng đầu. Khi tư duy của
chúng ta mạch lạc và phân biệt được chân lý và sai lầm thì chúng ta mới có thể nghĩ ra được hướng giải quyết
của mâu thuẫn. Vì vậy, chúng ta nên tránh tư duy siêu hình, phiến diện, không được thỏa hiệp và hài lòng với
những ngành mũi nhọn trong nền giáo dục hiện nay mà không vạch ra hướng đi mới để phát triển và kế thừa
những truyền thống, kiến thức bổ ích, tốt đẹp mà cha ông ta để lại. Ngược lại, cũng không nên xem toàn bộ nền
giáo dục Việt Nam không chất lượng hay hỏng toàn bộ. -
(hướng giải quyết mâu thuẫn 2) Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm, chăm lo tới đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, ban hành các chế độ, chính sách tương đối phù hợp với đặc thù của
ngành giáo dục, cụ thể: Giáo viên được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thâm niên, có chính sách riêng
giáo viên vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, giáo viên dạy trẻ
khuyết tật, dạy lớp ghép, giáo viên đặc thù... Tuy nhiên, trong thực tế, những chính sách đối với nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục vẫn còn bất cập như lương giáo viên (nhất là giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học) còn
thấp, hệ thống chính sách, văn bản quản lý chưa thực sự đồng bộ, chưa đủ nguồn lực bố trí cho các chính sách,
chậm và chưa bảo đảm các mục tiêu và kế hoạch đã được phê duyệt.
Thực hiện Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao
động trong doanh nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 4332/QĐ-BGDĐT ngày
15/10/2018 Ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018 của Chính phủ về Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức,
lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp nhằm triển khai nhiệm vụ đề xuất bảng lương theo vị
trí việc làm đối với viên chức ngành giáo dục và đào tạo (Trích Bộ giáo dục và Đào tạo) -
(hướng giải quyết mâu thuẫn 3) Để khắc phục tình trạng này, Bộ Giáo dục và Đào tạo, theo thẩm quyền
đã phối hợp với Bô ’ Nô ’i vụ ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về danh mục khung vị trí viê ’c làm, định
mức giáo viên, nhân viên, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiê ’p,… Ngoài ra, theo chức năng quản lý của mình, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản chỉ đạo các địa phương rà soát quy hoạch mạng lưới trường/lớp; thực
hiê ’n điều tiết giáo viên từ những trường thừa sang những trường/lớp thiếu giáo viên; ưu tiên bố trí biên chế của
các địa phương để tuyển dụng giáo viên; chỉ đạo các địa phương tăng cường các giải pháp nhằm không xảy ra
tình trạng có học sinh mà không có giáo viên dạy học; nghiên cứu, dự báo nhu cầu đào tạo giáo viên; giao chỉ
tiêu tuyển sinh sát với nhu cầu sử dụng; rà soát, qui hoạch lại hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên cho phù hợp với
yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ trong thời gian tới. (Trích Bộ giáo dục và Đào tạo) -
Ngoài ra sự điều hành, quản lý yếu kém ngay trong ngành cùng động lực thúc đẩy phát triển giáo dục
suy giảm đã khoét sâu hơn không ít mâu thuẫn, gây bức xúc trong xã hội. Có thể đơn cử một số mâu thuẫn nổi
bật hiện nay trong ngành giáo dục và đào tạo, như: chất lượng đại trà thấp với yêu cầu cao về chất lượng thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; chương trình, phương pháp dạy và học lạc hậu với yêu cầu
chương trình chuẩn hóa, khoa học, tinh giản, phương pháp tiên tiến; phiến diện chú tâm dạy chữ, nặng lý thuyết,
truyền đạt kiến thức thuần túy với đòi hỏi thỏa đáng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo lập nghiệp,
nghiên cứu khoa học, kỹ năng thực hành
Trong đường lối đổi mới của Đảng: -
Trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, kinh tế
- xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách thức.
Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn:
+ Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn, việc phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường;
việc phát triển đồng bộ các vùng, miền, địa phương trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng vẫn còn nhiều hạn chế.
+ Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ, mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp.
+ Xu hướng già hóa dân số, đô thị hóa tăng nhanh; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng ngày càng
lớn đến sự phát triển đất nước.
+ Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
biển đảo của đất nước. -
Phương hướng giải quyết: -
Bổ sung "củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa" bởi trong
những năm vừa qua tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những yêu cầu, mục tiêu của xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện là phải củng cố được niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa, đó là nền tảng chính trị của Nhà nước, của chế độ ta. -
- Bổ sung "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" vào câu "Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới"
để thành "Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa". -
Bổ sung "toàn diện" vào "xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh" là nhấn mạnh
yêu cầu xây dựng trong sạch, vững mạnh cả đối với Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội và trong mỗi tổ chức này cần xây dựng toàn diện cả về tổ chức, cán bộ, phương thức hoạt động; với cán
bộ phải xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong làm việc.. - Trong lĩnh vực y tế:
Từ quy luật mâu thuẫn, ta nhận thấy lĩnh vực y tế có những mâu thuẫn sau: -
Chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự chênh lệch khá
lớn giữa các tuyến và giữa các vùng, miền. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế mô ’t số nơi thiếu, chưa đạt tiêu
chuẩn; công tác y tế dự phòng yếu; thiếu nhân lực y tế có trình độ và phân bổ bất hợp lý. Công tác quản lý thuốc
chữa bệnh còn lỏng lẻo. Y đức của một bộ phận cán bộ y tế chưa tốt. (Trích Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.31)
Phương hướng giải quyết:
Tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, người dân được quản lý, chăm sóc, bảo vệ sức
khoẻ. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên,
phát triển mạng lưới bê ’nh viê ’n vê ’ tinh. Khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ
khám, chữa bệnh theo yêu cầu; phát triển mô hình bác sỹ gia đình. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong khám, chữa bệnh, liên thông công nhận kết quả khám, xét
nghiệm. Đổi mới mạnh mẽ tài chính y tế. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao
kỹ thuật cho tuyến dưới. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức. Thiết lập hệ thống sổ sức khoẻ
điện tử đến từng người dân. Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo dõi và chăm sóc, bảo
vệ sức khoẻ, tỉ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.
Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống
trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới của thế giới. Tập trung phát
triển mạnh y tế cơ sở, y tế dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chữa trị kịp thời, hiệu quả các loại dịch bệnh
mới. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm
sóc sức khoẻ con người. Phát triển y học cổ truyền, gắn với y học hiện đại; nghiên cứu, kiểm nghiệm, chứng
minh tác dụng của các phương thức chẩn trị, điều trị không dùng thuốc, các bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền.
Đẩy mạnh phát triển, quản lý ngành dược và thiết bị y tế; bảo đảm thuốc đủ về số lượng, tốt về chất lượng, giá
hợp lý, đáp ứng nhu cầu. Nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản xuất vắc-xin, thuốc sáng chế. Thực hiện
nghiêm việc kiểm soát an toàn thực phẩm. (Trích Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.60).
ND5: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH LÝ LUẬN:
Phủ định là sự thay thế cái cũ bằng cái mới.