










Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG  KHOA DU LỊCH  -------- 
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN  ĐỀ TÀI:  
HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG    Nhóm thực hiện  : F8  Lớp  : 23DD1 
Sinh viên thực hiện  :  - Nguyễn Hoàng Anh  - Trần Thị Xuân Quế  - Hoàng Thị Thu Hương  - Trương Nữ Như Quỳnh  - Trần Thị Thanh Ngân  - Phạm Lâm Thu Trúc 
- Hoàng Thị Xuân Phượng  - Dương Thị Thảo Vy          * Các khái niệm: 
- Hàng hoá là sản phẩm của sức lao động được con người tạo ra. Và được 
sử dụng với nhiều mục đích trao đổi và mua bán theo từng nhu cầu nhất định. 
- Sức lao động hiểu theo quan điểm của Mác – Lenin là toàn bộ năng 
lượng, bao gồm cả trí tuệ, tinh thần và cả thể chất trên trong cơ thể. Được sử 
dụng vào việc sản xuất từ đó tạo ra giá trị. Hoặc nói đơn giản hơn thì sức lao 
động là khả năng lao động, điều kiện quan trọng để những công việc sản xuất  trở nên hiệu quả. 
- Hàng hoá sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt và được liên kết chặt 
chẽ với sự tồn tại, phát triển của nền kinh tế. Không những thế sức lao động 
trở thành hàng hóa có điều kiện tiên quyết trong việc hình thành nên kinh tế 
của tư bản. Đánh dấu nền quan trọng để tạo nên quyền tự do cá nhân và tạo 
sự phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế. 
A. ĐIỀU KIỆN SỨC LAO ĐỘNG TRỞ THÀNH HÀNG HOÁ: 
1. Người lao động được tự do về thân thể: 
Là mọi công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều cần với 
sức lao động. Là lực lượng chủ yếu đóng góp nhiều công sức quan trọng. 
Tuy thế để khiến sức lao động trở thành công cụ, là loại hàng hóa thì chúng 
cần có những điều kiện nhất định sau:  - 
Người lao động là người hoàn toàn tự do và chủ động chi 
phối sức lao động của bản thân. Họ sẽ trao đổi nó để lấy thứ gì đó giá 
trị. Điều này có nghĩa là họ không bị ràng buộc nào, tự do làm các điều  mình muốn.  - 
Bản thân của người lao động không thể 1 mình lao động 
nên cần trao đổi sức lao động của bản thân để sinh sống. 
 Khi đáp ứng được cả 2 điều kiện ở trên một cách song hàng thì sức lao 
động trở thành loại hàng hóa tất yếu và hiển nhiên. Xét trên thực tế với hàng 
hóa sức lao động đã ra đời từ trước cả xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy thế chỉ     
đến khi tư bản chủ nghĩa được hình thành thì chúng mới được khẳng định và 
được nhiều người biết đến. Cũng tại lúc này sự bóc lốt sức lao động cũng 
không còn mà thay việc đó là sự trao đổi thỏa thuận đánh dấu bước ngoặc lớn 
trong nền kinh tế văn minh ra đời.  - 
Ví dụ giải thích cụ thể: Một người thợ rèn không phải nô 
lệ hay tá điền mà là một thợ thủ công tự do. Anh có thể mở cửa hàng 
rèn riêng và làm đồ dùng cho dân làng hoặc bán cho những địa chủ. 
Anh có quyền tự quyết định công việc và giờ giấc làm việc của mình, 
không bị bó buộc vào một chủ đất hay ông chủ cố định. 
2. Người lao động không có tư liệu sản xuất:  - 
Người lao động không được nắm giữ các tài nguyên sản 
xuất cầnthiết để thực hiện quá trình sản xuất. Chỉ trong tình thế này, 
người lao động mới phải bán sức lao động của mình, vì không có cách 
nào khác để duy trì cuộc sống. Sự đồng thời tồn tại của cả hai điều kiện 
kể trên là điều tất yếu dẫn đến việc sức lao động biến thành một loại  hàng hoá.  - 
Khi nói "người lao động không có tư liệu sản xuất," có 
nghĩa là họkhông sở hữu các công cụ, máy móc, đất đai, hoặc các tài 
sản khác cần thiết để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Tư liệu sản xuất 
bao gồm mọi thứ mà người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, 
như đất đai, nhà máy, công cụ lao động, và tài nguyên thiên nhiên. - 
Trong hệ thống kinh tế, những người lao động không sở hữu tư liệu sản 
xuất thường phải bán sức lao động của mình cho những người sở hữu 
tư liệu sản xuất (chủ sở hữu công ty, nhà máy,…) để có thu nhập. Họ 
không có quyền quyết định về quá trình sản xuất và lợi nhuận từ sản 
xuất, mà chỉ nhận lương hoặc tiền công từ công việc của mình.  - 
Ví dụ giải thích cụ thể: Nông dân phong kiến Á thường bị 
địa chủ chiếm đất, mất tư liệu sản xuất, phải làm tá điền cày ruộng thuê.     
Họ còn chịu thuế nặng, lao dịch cho vua quan, đời sống khổ cực, bần 
cùng hóa, buộc phải bán sức lao động để tồn tại. 
B. HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG: 
Hàng hóa sức lao động là 1 loại hàng hóa đặc biệt thể hiện ở 2 thuộc 
tính của hàng hóa sức lao động: giá trị và giá trị sử dụng.  1. Giá trị:  1.1 Khái quát:  - 
Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức 
lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết đề xuất và 
tái sản xuất sức lao động quyết định.  - 
Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con 
người. Muốn táisản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải 
tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để mặc, ở, học 
nghề,…Ngoài ra, người lao động còn phải thoả mãn những nhu 
cầu của gia đình và con cái anh nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao 
động mới được sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên tục. 
Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra 
sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần 
thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nuôi sống bản thân 
người công nhân và gia đình anh ta; hay nói cách khác, giá trị 
hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp rằng giá trị của những 
tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.  - 
Giá trị của hàng hóa sức lao động phản ánh mức độ 
công sức vàthời gian lao động mà người lao động đầu tư vào 
quá trình sản xuất. Điều này thể hiện thông qua mức lương mà 
họ nhận được. Giá trị của hàng hóa sức lao động không chỉ dựa     
vào khả năng lao động cơ bản mà còn liên quan đến sự học hỏi, 
kỹ năng, và trình độ của người lao động.  - 
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng phản ánh 
mức độ cần thiếtcủa lao động để sản xuất một sản phẩm hoặc 
dịch vụ cụ thể. Điều này thể hiện rõ trong quá trình định giá và 
trao đổi của hàng hóa sức lao động trên thị trường. Sự biến đổi 
trong giá trị hàng hóa sức lao động phản ánh sự thay đổi của 
môi trường kinh tế và xã hội.  1.2 Đặc điểm:  - 
Giá trị của sức lao động được xác định bởi lao 
động xã hội cần thiết để tái sản xuất sức lao động. 
Giải thích: Giá trị của hàng hóa sức lao động không được xác định dựa 
trên lượng lao động mà người lao động thực hiện, mà là lượng lao động xã 
hội cần thiết để tái sản xuất sức lao động của họ, tức là để đảm bảo họ có đủ 
các điều kiện sống (như ăn uống, chỗ ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe…) để  tiếp tục làm việc. 
Ví dụ: Nếu một người lao động cần 8 giờ làm việc mỗi ngày để đảm 
bảo các nhu cầu sống cơ bản của mình (thực phẩm, nơi ở, chăm sóc y tế), thì 
giá trị sức lao động của họ sẽ được xác định bởi lượng lao động xã hội cần 
thiết để đảm bảo những nhu cầu đó.  - 
Giá trị sức lao động là giá trị của hàng hóa mà 
người lao động cóthể cung cấp trên thị trường lao động. 
Giải thích: Sức lao động là khả năng làm việc của con người, có thể 
được bán trên thị trường lao động. Giá trị của nó được xác định bởi các yếu 
tố như chi phí tái sản xuất sức lao động và nhu cầu về lao động trong xã hội. 
Người lao động bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để đổi lấy tiền  công.     
 Ví dụ: Nếu một công nhân làm việc trong một nhà máy và nhận được 
mức lương đủ để duy trì cuộc sống của mình (ví dụ: 5 triệu đồng mỗi tháng), 
thì giá trị sức lao động của công nhân đó chính là số tiền mà công ty phải trả  cho họ.  - 
Giá trị của sức lao động không giống với giá trị mà  lao động tạora. 
Giải thích: Mặc dù giá trị sức lao động được xác định bởi nhu cầu để 
tái sản xuất sức lao động, nhưng giá trị mà lao động tạo ra (tức là sản phẩm 
lao động) thường lớn hơn rất nhiều so với giá trị sức lao động. Sự chênh lệch 
này chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư mà các nhà tư bản thu được từ 
việc khai thác lao động. 
Ví dụ: Nếu một công nhân nhận 5 triệu đồng tiền công hàng tháng 
nhưng sản phẩm họ tạo ra có giá trị là 10 triệu đồng, thì nhà tư bản thu được 
giá trị thặng dư 5 triệu đồng.  - 
Giá trị của sức lao động có thể thay đổi theo thời 
gian và điều kiệnxã hội. 
Giải thích: Giá trị của sức lao động không phải là một con số cố định, 
mà thay đổi theo nhiều yếu tố như tình trạng kinh tế, mức độ phát triển của 
công nghệ, chi phí sinh hoạt, trình độ giáo dục, và nhu cầu lao động trong xã 
hội. Khi chi phí sống tăng lên, giá trị của sức lao động cũng sẽ tăng theo. 
Ví dụ: Nếu một quốc gia có tình trạng lạm phát, mức sống của người 
lao động tăng lên, thì giá trị sức lao động sẽ phải tăng tương ứng để bảo đảm 
người lao động có thể duy trì cuộc sống.  - 
Giá trị sức lao động gắn liền với giá trị của các yếu 
tố tái sản xuấtsức lao động. 
 Giải thích: Giá trị sức lao động còn được xác định bởi chi phí cần thiết 
để nuôi dưỡng và tái sản xuất thế hệ lao động tiếp theo, chẳng hạn như chi     
phí chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo. Những yếu tố này ảnh hưởng 
đến giá trị sức lao động của mỗi cá nhân và toàn xã hội. 
Ví dụ: Để tái sản xuất sức lao động của một thế hệ mới, xã hội phải đầu 
tư vào giáo dục và đào tạo, điều này sẽ ảnh hưởng đến giá trị sức lao động 
trong tương lai, vì thế các yếu tố này cũng được tính vào trong quá trình xác 
định giá trị sức lao động.  - 
Giá trị sức lao động được trả bằng tiền công (tiền  lương). 
Giải thích: Khi người lao động bán sức lao động của mình, họ nhận lại 
tiền công, tức là tiền lương, và đó chính là hình thức biểu hiện của giá trị sức 
lao động trong xã hội. Mức tiền công được trả cho người lao động có thể cao 
hay thấp, tùy thuộc vào thị trường lao động, nghề nghiệp, và điều kiện xã hội  cụ thể. 
Ví dụ: Một người lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin có thể 
nhận mức lương cao hơn so với một công nhân trong ngành sản xuất vì nhu 
cầu lao động trong ngành công nghệ thông tin cao hơn.  2. Giá trị sử dụng:  2.1 Khái quát:  - 
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là khả 
năng của ngườilao động thực hiện các công việc sản xuất và  cung cấp dịch vụ.  - 
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện 
ra trong quátrình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao 
động của người công nhân  2.2 Đặc điểm:  - 
Tính đặc biệt của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao  động.     
Giải thích: Khác với hàng hóa thông thường (như máy móc, nguyên vật 
liệu), giá trị sử dụng của sức lao động chỉ được thể hiện khi người lao động 
thực sự làm việc. Khi doanh nghiệp mua sức lao động (trả lương), họ không 
tiêu dùng ngay như mua một chiếc máy móc, mà phải tổ chức cho người lao 
động làm việc để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Quan trọng hơn, giá trị sử 
dụng của hàng hóa sức lao động có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị 
bản thân nó, điều này làm cho nó trở thành hàng hóa đặc biệt. 
Ví dụ: Một công ty sản xuất giày thuê một công nhân với mức lương 
10 triệu đồng/tháng. Khi làm việc, công nhân này tạo ra số lượng giày có giá 
trị bán trên thị trường là 30 triệu đồng/tháng. Như vậy, giá trị mà công nhân 
tạo ra lớn hơn chi phí mà công ty bỏ ra để thuê anh ta, phần chênh lệch này 
gọi là giá trị thặng dư, và đó là điều làm cho sức lao động trở thành một hàng  hóa đặc biệt.  - 
Khả năng tái tạo giá trị thặng dư  
Giải thích: Khi được sử dụng, hàng hóa sức lao động không chỉ tạo ra 
giá trị mới tương đương với giá trị bản thân nó mà còn tạo ra một phần giá trị 
thặng dư cho chủ sử dụng lao động. Đây là nguồn gốc của lợi nhuận trong 
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: người lao động nhận được mức lương chỉ đủ tái 
sản xuất sức lao động (ăn, ở, học tập...), nhưng giá trị họ tạo ra lớn hơn số 
tiền lương họ được nhận. 
Ví dụ: Một lập trình viên làm việc cho một công ty phần mềm với mức 
lương 20 triệu đồng/tháng. Trong tháng đó, anh ta viết phần mềm giúp công 
ty bán được với giá 100 triệu đồng. Phần lợi nhuận sau khi trừ đi chi phí khác 
chính là giá trị thặng dư mà công ty thu được từ lao động của anh ta.  - 
Tính phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. 
 Giải thích: Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động không cố định 
mà thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế, công nghệ, giáo dục, y tế... Ở các 
nước phát triển, người lao động có trình độ cao hơn, làm việc với máy móc     
hiện đại, nên năng suất lao động cao hơn, giá trị sử dụng của sức lao động 
cũng cao hơn. Mức lương và điều kiện làm việc cũng khác nhau giữa các khu 
vực do sự phát triển kinh tế không đồng đều. 
Ví dụ: Một kỹ sư phần mềm tại Mỹ có thể nhận mức lương 10.000 
USD/tháng, trong khi một kỹ sư có cùng trình độ tại một nước đang phát triển 
có thể chỉ nhận 2.000 USD/tháng. Sự khác biệt này do nền kinh tế, công nghệ 
và chi phí sinh hoạt ở mỗi quốc gia quyết định.  - 
Gắn liền với con người và không thể tách rời. 
Giải thích: Hàng hóa thông thường có thể tách rời khỏi người sở hữu 
(ví dụ: bạn có thể bán một chiếc xe máy cho người khác), nhưng sức lao động 
thì gắn liền với người lao động. Điều này có nghĩa là người lao động phải 
trực tiếp bán sức lao động của mình, chứ không thể "chuyển nhượng" nó cho 
người khác như một món đồ vật. Vì gắn với con người, sức lao động cũng 
chịu ảnh hưởng của sức khỏe, tinh thần, điều kiện sống... 
Ví dụ: Một bác sĩ không thể "bán" kiến thức của mình cho người khác 
để họ làm thay công việc của mình. Nếu anh ta muốn kiếm tiền từ kỹ năng y 
tế của mình, anh ta phải trực tiếp tham gia khám chữa bệnh cho bệnh nhân. 
Kết luận cuối cùng Hàng hóa sức lao động có giá trị sử dụng đặc biệt 
vì nó không chỉ tạo ra giá trị mà còn tạo ra giá trị thặng dư, là nguồn gốc của 
lợi nhuận trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều này tạo nên mối quan hệ 
đối lập giữa người lao động và chủ tư bản, từ đó dẫn đến các mâu thuẫn trong  xã hội. 
3. Khác biệt giữa giá trị, giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động với giá 
trị, giá trị sử dụng hàng hoá thông thường: 
- Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông 
thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Yếu tố 
tinh thần ( là hàng hoá đặc biệt ): ngoài những nhu cầu về vật chất, 
người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá... Yếu     
tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử 
của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào 
điểu kiện địa lý, khí hậu của nước đó. 
+ Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi 
một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu 
sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có 
thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau 
đây hợp thành: Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần 
cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người 
công nhân; Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân; Ba là, giá trị những tư 
liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái và gia đình người  công nhân. 
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong 
quátrình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người  công nhân. 
 + Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức động khác với quá 
trình tiêu dùng hàng hoá thông thường ở chỗ: 
* Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng 
hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo  thời gian. 
* Đối với hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là 
quá trình sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra 
một giá trị mới lớn hơn giá của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn 
đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. 
Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có chất đặc biệt, nó 
là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị 
của bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công     
thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng 
hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.