Giai đoạn hòa hoãn của Chiến tranh Lạnh - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Giai đoạn hòa hoãn của Chiến tranh Lạnh - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO CHỦ ĐỀ
QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ CHIẾN
TRANH LẠNH – GIAI ĐOẠN 2 “HÒA HOÃN” 1961-1978 Nhóm : 4 Lớp
: LSQHQTHĐ-49-QHQT.3_LT
Giáo viên hướng dẫn
: GS.TS Nguyễn Thái Yên Hương 1 MỤC LỤC
PHẦN I: HÒA HOÃN LÀ GÌ? THẾ NÀO LÀ HÒA HOÃN TRONG
CHIẾN TRANH LẠNH.............................................................................3 I.
THẾ NÀO LÀ HÒA HOÃN TRONG CHIẾN TRANH
LẠNH.................................................................................................3
PHẦN II. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA
CHIẾN TRANH LẠNH.............................................................................3
PHẦN III. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN GIAI ĐOẠN HÒA HOÃN
CỦA CHIẾN TRANH LẠNH...................................................................8
I. CÁC NGUYÊN NHÂN..................................................................8
PHẦN IV. TÁC ĐỘNG CỦA GIAI ĐOẠN HÒA HOÃN ĐẾN THẾ
GIỚI HIỆN NAY......................................................................................13
I. XU THẾ HÒA HOÃN LÀ XU THẾ CHỦ ĐẠO......................14
II. MẶT KHÁC...............................................................................14
PHẦN V. TỔNG KẾT.............................................................................15 2
Phần I. Định nghĩa hòa hoãn và hòa hoãn trong chiến tranh lạnh.
1. Hòa hoãn trong chiến tranh lạnh là gì?
Hòa hoãn (détente) là một cụm từ được đầu tiên là báo giới và sau đó là các
nhà khoa học chính trị, khoa học lịch sử dùng để chỉ thời kỳ trong chính trị quốc tế từ
đầu thập kỷ 1970 đến đầu thập kỷ 1980, khi tình hình chính trị thế giới bớt căng thẳng
hơn sau một thời gian dài đối đầu gay gắt giữa hai siêu cường lúc bấy giờ là Mỹ và
Liên Xô. Đây là một thời kỳ lắng dịu ngắn trong mối quan hệ đối đầu không ngừng
giữa hai khối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh lạnh với nhiều
thay đổi trong chính sách đối ngoại của cả Liên Xô và Mỹ.
Phần II. Tình hình thế giới trong cuộc chiến tranh lạnh. 1. Giai đoạn đầu
Thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh bắt đầu vào cuối thập niên 1940 và kéo dài
đến khoảng cuối thập niên 1960, với hai siêu cường Mỹ và Liên Xô đối đầu với nhau.
Đây là thời kỳ căng thẳng quân sự, chính trị và kinh tế giữa hai phe ở Mỹ và Liên Xô,
nhưng không có chiến đấu trực tiếp giữa hai nước.
Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc chiến toàn cầu giữa các cường quốc
thế giới, với phần lớn các nước phương Tây ủng hộ chủ nghĩa dân chủ và các nước
Đông Âu, châu Á và châu Phi ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Trong thời gian chiến tranh,
các lực lượng cộng sản và chủ nghĩa dân chủ đã hợp tác và xung đột với nhau trong
nhiều khu vực khác nhau trên toàn thế giới. Tuy nhiên, chiến tranh thế giới thứ hai
không dọn đường cho một cuộc chiến tranh phụ giữa nền dân chủ phương Tây và
chủ nghĩa cộng sản. Thực tế, sau khi chiến tranh kết thúc, thế giới đã chứng kiến sự
đối đầu giữa Liên Xô và các nước đồng minh phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, trong
thời kỳ chiến tranh lạnh.
Phe phát xít trong thời kỳ chiến tranh Lạnh được hình thành như là một phản
ứng của chính quyền Liên Xô và đồng minh châu Âu Đông dưới sự thống trị của Liên
Xô sau khi Đức đầu hàng vào cuối Thế chiến II. Trước đó, phong trào phát xít Đức
Nazi đã chiếm đóng nhiều khu vực và đẩy chính quyền Liên Xô rút lui khỏi nhiều khu 3
vực trong thời gian chiến tranh. Sau chiến tranh, chính quyền Liên Xô nhận thấy rằng
phát xít vẫn là một mối đe dọa đối với chính quyền và thể chế chính trị của họ. Trong
khi đó, Mỹ và các đồng minh phương Tây đã nhận thấy rằng phát xít và các phong
trào cực đoan có thể được sử dụng để đối phó với sự bành trướng của chính quyền
Liên Xô. Trong nỗ lực đối phó với sự lan rộng của phát xít, các nước phương Tây đã
thành lập các liên minh quân sự như NATO và đẩy mạnh các chính sách tăng cường
quân sự để đối phó với các phong trào cực đoan và các chính quyền thân phát xít.
Trật tự Ianta được thành lập vào năm 1949, là một liên minh quân sự chính trị
được thành lập nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh và thống nhất chính trị của các nước
đồng minh phương Tây trước sự đe dọa của chính quyền Liên Xô trong thời kỳ Chiến
tranh Lạnh. Trong thời gian Chiến tranh Lạnh, NATO trở thành một liên minh quân
sự quan trọng và có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và an ninh ở châu
Âu và Bắc Đại Tây Dương. NATO đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kiểm
soát căng thẳng giữa Liên Xô và các đồng minh phương Tây trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Cuộc chạy đua hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh là một
phần của sự cạnh tranh về quân sự giữa hai phe. Kể từ khi Mỹ thả bom nguyên tử lên
Nagasaki và Hiroshima vào năm 1945, quân đội Liên Xô đã bắt đầu phát triển chương
trình vũ khí hạt nhân. Đáp lại, Mỹ cũng bắt đầu phát triển chương trình vũ khí hạt
nhân, tạo ra cuộc chạy đua hạt nhân giữa hai phe. Mỹ đã chi hơn 2 nghìn tỷ USD để
phát triển và sản xuất vũ khí hạt nhân trong suốt Chiến tranh Lạnh. Điều này đã tác
động đến nền kinh tế Mỹ, gây ra tình trạng thiếu hụt ngân sách trong nhiều lĩnh vực
khác. Các chương trình phát triển vũ khí hạt nhân đã phải đánh đổi với các chương
trình quân sự khác, cũng như với các chương trình xã hội và giáo dục. Sản xuất vũ khí
hạt nhân cũng có tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe. Cả Mỹ và Liên Xô đã
thử nghiệm hàng trăm loại vũ khí hạt nhân trên đất liền và dưới biển. Những thử
nghiệm này đã gây ra sự ô nhiễm môi trường và sức khỏe đáng kể cho người dân sống
trong các khu vực bị ảnh hưởng. Hơn nữa, việc sản xuất và sử dụng vũ khí hạt nhân đã
gây ra lo ngại về nguy cơ chiến tranh hạt nhân và góp phần vào sự căng thẳng toàn
cầu trong suốt Chiến tranh Lạnh. 4
Một số sự kiện quan trọng trong thời kỳ này bao gồm:
Cuộc Khủng hoảng Suez năm 1956: Khi Israel, Anh và Pháp tấn công Ai Cập
vì quyết định của chính phủ Ai Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez. Liên Xô đã đe dọa
sử dụng vũ lực để bảo vệ Ai Cập, và Mỹ lên án cuộc tấn công.
Chiến tranh Triều Tiên năm 1950-1953: Khi Bắc Triều Tiên (được hậu thuẫn
bởi Liên Xô và Trung Quốc) xâm lược Nam Triều Tiên (được hậu thuẫn bởi Mỹ), dẫn
đến cuộc chiến kéo dài ba năm với hơn 36.000 binh sĩ Mỹ thiệt mạng.
Cuộc đại di cư của người Đức từ Đông sang Tây: Sau Thế chiến II, Liên Xô đã
thôn tính các vùng Đông Đức và đưa ra chính sách kinh tế chặt chẽ và kiểm soát dân
sự. Điều này dẫn đến một cuộc di cư đại chúng của người Đức tìm kiếm sự tự do ở Tây Đức.
Cuộc Cách mạng Cuba năm 1959: Khi Fidel Castro lật đổ chính phủ Mỹ ủng
hộ ở Cuba và thiết lập một chính quyền cộng sản, dẫn đến sự căng thẳng giữa Mỹ và
Cuba, và sau đó là cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. 2. Giai đoạn 2
Đầu những năm 1960, căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô gia tăng và nhiều
cuộc đối đầu xảy ra.
Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962: Một số tên lửa tầm xa của Liên Xô
được đặt ở Cuba, gần nhất đến Hoa Kỳ chỉ cách 90 dặm. Sau khi phát hiện ra điều
này, Hoa Kỳ đã áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế và đưa tàu chiến đến gần Cuba. Liên Xô
buộc phải rút tên lửa ra khỏi Cuba để tránh một cuộc xung đột lớn.
Chiến tranh Việt Nam: Liên Xô hỗ trợ Bắc Việt Nam trong cuộc chiến tranh
này, trong khi Hoa Kỳ và các đồng minh của họ hỗ trợ Nam Việt Nam. Chiến tranh
kéo dài từ năm 1955 đến 1975 và là một trong những sự kiện chính trong cuộc chiến tranh Lạnh. 5
Điều tra Watergate: Từ năm 1972 đến 1974, một vụ đột nhập vào trụ sở Đảng
Dân chủ Hoa Kỳ đã được phát hiện và được cho là do Tổng thống Nixon và chính
quyền của ông cố ý thực hiện. Vụ việc này đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị
ở Hoa Kỳ và ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.
Cuộc chiến Afghanistan: Từ năm 1979 đến 1989, Liên Xô đã chiến đấu với các
phe phản đối chính quyền ở Afghanistan. Hoa Kỳ và các đồng minh của họ đã hỗ trợ
các phần tử chống lại Liên Xô, tạo ra một sự cân bằng quân sự tại khu vực.
Trong quá trình thập niên 1960 và 1970, các bên tham gia Chiến tranh Lạnh
đấu tranh cho một hình mẫu mới và phức tạp hơn của các mối quan hệ quốc tế trong
đó thế giới không còn bị phân chia thành các khối đối đầu rõ rệt nữa. Liên xô đã hoàn
thành một sự cân bằng hạt nhân với Mỹ. Từ đầu giai đoạn hậu chiến, Tây Âu và Nhật
Bản nhanh chóng hồi phục từ những tàn phá của Thế chiến II và duy trì được sự tăng
trưởng kinh tế mạnh trong suốt thập niên 1950 và 60, với GDP trên đầu người đạt tới
mức của Hoa Kỳ, trong khi kinh tế Khối Đông Âu rơi vào trì trệ vào thập niên 19701
Trung Quốc, Nhật Bản, và Tây Âu; sự phát triển của dân tộc ở Thế giới thứ ba, và sự
không thống nhất ngày càng lớn bên trong liên minh các nước Xã hội chủ nghĩa đều là
điềm báo về một cơ cấu thế giới đa cực mới. Hơn nữa, Khủng hoảng năng lượng năm
1973 đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong sự thịnh vượng kinh tế của các cường quốc.
Sự gia tăng nhanh chóng của giá dầu đã tàn phá nền kinh tế của cả Mỹ và Liên Xô.
Vì vậy việc giảm căng thẳng vừa có lợi ích chiến lược vừa có lợi ích kinh tế
với cả hai phía trong cuộc Chiến tranh Lạnh, được nâng đỡ bởi lợi ích chung trong
việc tìm cách kiểm soát sự mở rộng và phổ biến các loại vũ khí hạt nhân. Mối quan hệ
giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã được cải thiện vào cuối những năm 1980. Một số yếu tố
đã đóng vai trò trong quá trình cải thiện này, bao gồm:
Thay đổi chính sách của Liên Xô: Trong những năm cuối thập niên 1980, Liên
Xô đã đưa ra các cải cách kinh tế và chính trị, nhằm giảm bớt sự căng thẳng với
phương Tây và cải thiện mối quan hệ với Hoa Kỳ.
1 Hardt & Kaufman 1995, tr. 16 6
Ký kết Hiệp ước SALT II: Hiệp ước SALT II được ký kết vào năm 1979 và
cung cấp các giới hạn cho sự phát triển vũ khí hạt nhân của cả hai bên. Tuy nhiên,
hiệp ước này không được phê chuẩn bởi Quốc hội Hoa Kỳ và không bao giờ được thực hiện.
Kết thúc cuộc chiến Afghanistan: Sau khi chiến tranh Afghanistan kết thúc vào
năm 1989, Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi khu vực và giảm sự tham gia quân sự của mình ở các vùng khác.
Sự lên ngôi của Tổng thống Gorbachev: Tổng thống Gorbachev đưa ra chính
sách cải cách rộng lớn nhằm cải thiện nền kinh tế và chính trị của Liên Xô, đồng thời
thúc đẩy các cuộc đối thoại và hợp tác với phương Tây.
Giảm căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô: Trong những năm 1970 và đầu những
năm 1980, các quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô đã giảm căng thẳng đáng kể. Điều này
được thể hiện qua việc hai bên tham gia đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân và giảm quân sự.
Điều chỉnh vị trí của các phe phái trong Liên Xô: Trong những năm 1980, Liên
Xô đã trải qua sự thay đổi lớn trong cách thức quản lý, điều chỉnh vị trí của các phe
phái bên trong, nhằm cải thiện nền kinh tế và hạn chế sự mất mát.
Phần III. Nguyên nhân dẫn đến giai đoạn hòa hoãn của chiến tranh lạnh
1, Hiệp định đình chiến
Sau 3 năm chiến tranh ác liệt, hiệp định đình chiến cuối cùng đã được ký kết
27/7/1953. Hai bên cùng trở lại với vị trí gần với lúc trước chiến tranh, và đều cho
rằng mình đã giành thắng lợi vì đã làm thất bại kế hoạch xâm lược của đối phương.
Thực chất cuộc chiến tranh này đã là vụ đụng đầu giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa, là sản phẩm của chiến tranh lạnh. Việc kí kết hiệp định đình
chiến phản ánh tình hình so với lực lượng giữa hai phe, và phản ánh nguyện vọng tha
thiết của nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới đấu tranh chống
lại những ý đồ muốn kéo dài mở rộng chiến tranh ở triều tiên và những nơi khác trên 7
thế giới. Người bị thiệt hại nhiều nhất trong chiến tranh là nhân dân triều tiên ở cả hai
miền Nam, Bắc bị tổn thất lớn lao về người và của.
2, Vấn đề ở Cuba:
Tình hình phát triển ở Cuba đã trực tiếp đánh vào quyền lợi tư bản độc quyền
Mỹ với tài sản trị giá khoảng 1 tỷ USD, và là một đòn đả kích mạnh mẽ vào chiến
lược Mỹ ở tây bán cầu. Chính phủ Mỹ, lúc đầu vẫn thừa nhận và quan hệ với chính
phủ Phi-đen Cat-xto-rô, nhưng dần dần tỏ ra rất lo ngại và nhanh chóng tìm cách trả
đũa lại bằng cách cấm vận thương mại, bao vây kinh tế và cắt quan hệ ngoại giao hoàn
toàn. Hơn nữa, chính phủ Mỹ còn tìm cách tiêu diệt các mạng Cu-ba đang có nguy cơ
lan rộng sang các nước khác ở châu mỹ latinh, Mỹ đã huấn luyện và vũ trang cho
người Cuba lưu vong đổ bộ lên vịnh hi-rôn ở phía nam . Ngày 17/4/1961 nhằm lật đổ
chính phủ phi đen, nhưng thất bại hoàn toàn. Hơn 90 lính đánh thuê bị chết và trên 1
nghìn tên bị bắt sau đó trung gian hòa giải của hội chữ thập đỏ quốc tế, được trả về mỹ
với khoản tiền bồi thường 53 triệu USD bằng lương thực và thuộc men. Một nơi xưa
nay vẫn là khu vực ảnh hưởng truyền thống của mỹ, chỉ cách 90 dặm, là một đòn đả
kích mạnh mẽ vào chính sách của đế quốc mỹ muốn biến châu Mỹ thành sân sau của mình.
3/10/1962 hai viện của quốc hội Mỹ tuyên bố trung thành với học thuyết tru
mon-ro cấm các nước bên ngoài châu Mỹ can thiệp vào công việc của Châu Mỹ, nếu
cần sẽ sử dụng vũ lực để ngăn chặn mọi hành động lật đổ xâm lược ở tây bán cầu.
Thực chất đây là tuyên bố chống lại các cuộc cách mạng của nhân dân Mỹ Latinh mà
trước tiên là cách mạng Cuba. Để bảo vệ thành quả cách mạng chính phủ Phi-đen cat-
xto-rô đẩy mạnh cải tạo và xây dựng XHCN, 1962 bộ trưởng quốc phòng và kinh tế
Cu-ba đã đi Mátxcơva yêu cầu Liên Xô có biện pháp bảo vệ Cuba chống Mỹ xâm
lược. Khơ-rut sop tuy muốn thúc đẩy chung sống hòa bình với Mỹ , nhưng vẫn muốn
thương lượng trên thế mạnh và đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ , Liên Xô đã cử chuyên gia
sang xây dựng căn cứ và triển khai tên lửa đạn đạo tầm trung trên lãnh thổ Cuba đã
giúp cuba bảo vệ độc lập của mình đang bị mỹ đe dọa, tối ngày 22/10/1962 tổng thống
ken-no-di đọc một bài diễn văn quan trọng trên vô tuyến truyền hình thông báo và lên 8
án những hoạt động của Liên Xô đã triển khai hàng loạt bệ phóng tên lửa tiến công ở
cuba , quyết định phong tỏa Cuba nhằm ngăn ngừa việc đưa vũ khí nguyên tử của
Liên Xô đến Cuba và gửi tối hậu thư đòi Liên Xô dỡ bỏ và rút tên lửa về nước. Liên
Xô ý thức được phản ứng mạnh mẽ của mỹ được chính phủ các nước phương Tây ủng
hộ và Mỹ La-tinh ủng hộ, ý thức được đầy đủ về nguy cơ khủng khiếp của một cuộc
chiến tranh hạt nhân toàn diện. . 26/2/1962 Liên Xô không tham khảo ý kiến của chính
phủ Cuba đề nghị giải quyết cuộc khủng hoảng theo điều kiện Liên Xô rút tên lửa và
nước dưới sự kiểm soát của quan sát viên Liên Hợp Quốc và cam kết sẽ không đưa tên
lửa trở lại Cuba và Mỹ cam kết không xâm lược Cuba. Dĩ nhiên chính phủ Cuba phản
đối kịch liệt và bác bỏ việc quan sát viên nước ngoài vào lãnh thổ của mình, coi đó là
vi phạm chủ quyền của Cuba, mâu thuẫn và quan hệ Cuba với liên xô rất căng thẳng
và đây cũng là 1 lý do là uy tín Liên Xô giảm sút , một nguyên nhân làm cho Khơ-rút- sốp bị hạ bệ.
3, Khủng hoảng trong hệ thống XHCN
a, Sự kiện Tiệp Khắc (9/1968)
Đảng cộng sản Trung Quốc đưa ra mô hình xây dựng xã hội chủ nghĩa mang
màu sắc Trung Quốc, thực chất là muốn bác bỏ “mô hình Liên Xô” .Tổng hợp tác
kinh tế Đảng cộng sản Rumani không tán thành quan điểm chuyên môn hóa sản xuất
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa , chủ trương độc lập về kinh tế và giữ vững chủ quyền
dân tộc , quyết giữ thế trung lập trong tranh chấp Xô-Trung , và không tán thành triệu
tập hội nghị các đảng cộng sản thân liên xô để liên án trung quốc. ở một số nước đông
âu khác ít nhiều điều có xu hướng đòi” dân chủ hóa” và độc lập trong quyết định
chính sách của mình, mạnh mẽ và sâu sắc nhất là Tiệp Khắc. Sự kiện này diễn ra song
song với tình hình tây âu đang nổi lên đấu tranh chống sự khống chế của Mỹ .Tình
hình diễn ra Tiệp Khắc lây lan sang Ba Lan và 3/1968 đã xảy ra xung đột giữa sinh
viên và cảnh sát tại đại học Vacsava là một nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo của Liên
Xô trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và như vậy là trái với lợi ích của Liên Xô.2 Việc
Liên Xô và bốn nước xã hội chủ nghĩa Ba Lan, Hung-ga-ri. CHDC Đức và Bun-ga-ri
đưa quân vào Tiệp Khắc là hành động bất đắc dĩ để cứu vãn chế độ xã hội chủ nghĩa ở
2 Thạc sĩ Vũ Dương Huân , giáo trình Lịch sử Quan hệ Quốc tế, 1945-1990 , trang 182 9
đó, không phù hợp với chuẩn mực trong quan hệ giữa các nước XHCN, can thiệp
công việc nội bộ của nước anh em, không được sự đồng tình của dư luận thế giới.
Ngay một số nước XHCN như Trung Quốc, Rumani, Amani cũng công khai lên án.
Trung quốc cho rằng đây là hành động xâm lược của “đế quốc xã hội Liên Xô”. Uy tín
của Liên Xô giảm sút và mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa càng sâu sắc thêm
qua sự kiện này. Nó cũng đánh dấu một bước khủng hoảng trong các nước xã hội chủ
nghĩa và phong trào cộng sản thế giới.
b, Vấn đề Xô-Trung
Đấu tranh chính trị nội bộ kéo dài trong “cách mạng văn hóa” và mâu thuẫn
chính trị với liên xô dẫn đến việc liên xô cắt mọi viện trợ quân sự và kinh tế làm trung
quốc vô cùng khó khăn. Ban lãnh đạo Trung Quốc đã kiên quyết động viên nhân dân
chịu đựng, điều chỉnh chính sách kinh tế khắc phục mọi hậu quả cho tới năm 1971
mới được phục hồi. Tuy gặp rất nhiều khó khăn kinh tế, lại bị Liên Xô cắt viện trợ, rút
chuyên gia về nước, Trung Quốc vẫn cố gắng xây dựng lực lượng vũ khí chiến lược,
chế tạo thành công bom nguyên tử và bom khinh khí (1967) và từng bước tách khỏi quỹ đạo Liên Xô.
Một vấn đề làm cho mâu thuẫn Xô-Trung thêm gay gắt là thái độ của Liên Xô
đối với sự tranh chấp Trung-Ấn về vấn đề Tây Tạng và biên giới Trung Quốc-Ấn độ.
Biên giới Trung-Ấn trở nên căng thẳng , đúng lúc đó Khơ-rút-sop tuyên bố trung lập
đối với tranh chấp Trung-Ấn và còn thông báo sẽ cho Ấn Độ vay một khoản tiền lớn
hơn bất cứ khoản nào đã cấp cho Trung Quốc. Đến năm 1962, mâu thuẫn Xô-Trung
xuất thêm bởi những sự kiện quốc tế lớn: khủng hoảng tên lửa ở Cuba .Ấn Độ được
Liên Xô cung cấp vũ khí và động cơ máy bay chiến đấu cho họ, trong khi vẫn tuyên
bố “triệt để trung lập” đối với xung đột biên giới Trung-Ấn. Điều này làm Trung Quốc
tức giận tố cáo Liên Xô đã viện trợ quân sự cho kẻ thủ của họ, trong khi ngừng mọi giúp đỡ cho Trung Quốc.
Tiếp đến những vụ xung đột trực tiếp lẻ tẻ dọc biên giới Xô-Trung thuộc vùng
tân cương phía Tây-Bắc Trung Quốc, mở đầu cuộc tranh chấp toàn diện về vấn đề
biên giới mà trung quốc cho rằng trước đây sa hoàng đã tước đoạt của trung quốc. 10
Năm 1965, ban lãnh đạo mới của Liên Xô có sáng kiến đề nghị cùng Trung Quốc lập
cầu hàng không và hành động thống nhất ủng hộ Việt Nam chống Mỹ nhưng Trung
Quốc cương quyết bác bỏ Liên Xô. Trong hội nghị trung ương thứ 11, Trung Quốc
kiên quyết không hợp tác và cố tình tách khỏi Liên Xô, để làm suy yếu hơn nữa ảnh
hưởng của Liên Xô trong phong trào cộng sản thế giới và phong trào giải phóng dân tộc.
Qua những sự kiện trên, quan hệ giữa Trung quốc và Liên xô trong một thời
gian dài đã chuyển từ đồng minh sang thù địch. Tuy là 2 nước xã hội chủ nghĩa nhưng
trong quan hệ đều xuất phát từ lợi ích dân tộc, lấy lợi ích bá quyền nước lớn quyết
định đường lối chính sách quốc tế, và rất ít khi chú ý đến lợi ích của các nước khác và
lợi ích chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đó gây hại to lớn
cho phong trào cách mạng của nhân dân thế giới, làm suy yếu hệ thống xã hội chủ
nghĩa. Hậu quả đương nhiên là Mỹ và các nước phương Tây ra sức khai thác quan hệ
căng thẳng Trung-Xô để phục vụ cho chính sách của họ. Mâu thuẫn Xô-Trung tiếp tục
rất xấu cho đến cuối thập kỷ 80 mới bắt đầu được cải thiện đôi chút. Quan hệ giữa các
nước xã hội chủ nghĩa thời kì này đã phát sinh nhiều vấn đề hết sức nghiêm trọng,
bước đầu của một cuộc khủng hoảng sâu sắc trong nội bộ. Các nước đế quốc đã lợi
dụng khai thác triệt để nhược điểm này để gây khó khăn cho phong trào giải phóng
dân tộc và hoạt động phá hoại ngay trong nội bộ các nước XHCN. 3
4, Tập hợp lực lượng mới ở châu âu, cuộc đấu tranh chống sự khống chế của Mỹ a, Về nước Pháp
Khi Đờ-gôn trở lại chính quyền, không muốn tiếp tục tình trạng bị Mỹ thao
túng ,đã cố gắng tìm giải pháp hòa bình cho cuộc chiến ở Algeria để tập trung giải
quyết những vấn đề lớn ở chính quốc , phục hồi uy tín và địa vị của pháp ở Châu Âu
và thế giới. Tổng thống Pháp đờ gôn là người khởi xướng việc tập hợp các nước
Châu Âu để đấu tranh với Mỹ.Cuộc tiến công của Đờ gôn vào đồng đôla Mỹ đã làm
cho sức mạnh của nó suy giảm nhưng không nhiều, và đồng Franc của Pháp cũng
không vì thế mà nâng cao uy tín.
3 Thạc sĩ Vũ Dương Huân , giáo trình Lịch sử Quan hệ Quốc tế, 1945-1990 , trang 191 11 b, Nước Anh
Vốn có quan hệ hữu nghị truyền thống với Mỹ, luôn ủng hộ chính sách Mỹ và
cạnh tranh với Pháp nhưng sau vì sợ bị cô lập nên không thể đứng ngoài các thể chế mới của Tây Âu. c, Nước Mỹ
Nếu so sánh giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, thì tốc độ phát triển của
các nước Tây Âu và Nhật Bản nhanh hơn Mỹ, luôn thay đổi không có lợi cho Mỹ. Từ
cuối những năm 50, tuy Mỹ vẫn là nước mạnh nhất về kinh tế tài chính và quân sự
trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, nhưng dần dần không còn chiếm ưu thế tuyệt đối.
Tốc độ tăng trưởng Mỹ 1956-1964 là 3.6 % trong lúc toàn thế giới tư bản là 5,25% ,
Tây Đức 7,3 % , Pháp 6,2 % và Italia 8,2% đặc biệt là Nhật 15,8%. Khoảng cách giữa
Mỹ và Tây Âu , Nhật Bản ngày càng thu hẹp , đồng đô la Mỹ trước đây vẫn là đồng
tiền ổn định , được nhiều nước dùng làm cơ sở thanh toán quốc tế, nhưng nền kinh
tế ngày càng suy yếu do những khó khăn trong và ngoài nước , nên đồng đôla ngày
càng mất giá , chính phủ Mỹ nhiều lần phá giá vào đầu thập kỉ 70 và cuối cùng tuyên
bố thả nổi đồng đô la theo thị trường quốc tế.Tư tưởng đấu tranh của Đờ gôn đã thắng
lợi với mong muốn cho nước Pháp có một chính sách độc lập hơn , chống lại sự
khống chế của Mỹ , cũng là bước đi đầu tiên trong việc phá bỏ thế hai cực trong quan
hệ quốc tế từ sau CTTG2 , địa vị quốc tế của Pháp được cải thiện4.
Bên cạnh đó, phía Mỹ do sa lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam , và so sánh
lực lượng đã thay đổi không cho phép Mỹ dùng ưu thế về vũ khí chiến lược để uy hiếp
và đe dọa Liên Xô như trước mà không bị đánh trả. Mặt khác lúc này phong trào giải
phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đang trở thành nguy cơ trực tiếp đe dọa chủ nghĩa
đế quốc, thực dân, Mỹ cũng phải chuyển hướng chiến lược chủ trương hòa hoãn và
sau này là hòa dịu với Trung Quốc vào đầu thập kỷ 1970 để tập trung đối phó với
phong trào giải phóng dân tộc và khoét sâu mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Cuộc gặp gỡ cấp cao 23-24/6/1967 ở Glassboro. Liên Xô chỉ đề cập vấn đề
chiến tranh Trung Đông và kiên quyết đòi quân đội Israel được Mỹ ủng hộ phải rút về
vệ trí nước khi nổ ra chiến sự. Cuộc gặp gỡ không đi đến kết quả gì, nhưng hai bên
4 Thạc sĩ Vũ Dương Huân , giáo trình Lịch sử Quan hệ Quốc tế, 1945-1990 , trang 208 12
hiểu rõ lập trường, quan điểm của nhau trong các vấn đề lớn. điều này cũng chứng tỏ
tuy tình hình thế giới lúc đó không thuộc lợi cho việc đẩy mạnh quan hệ hòa dịu giữ
Xô và Mỹ nhưng hai bên luôn muốn tiếp xúc, giữ cầu đối thoại và không muốn tình
hình tiếp tục căng thẳng hơn nữa.
Phần IV. Tác động của giai đoạn hòa hoãn trong tình hình thế giới hiện nay.
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, xu thế hòa hoãn Đông - Tây xuất hiện, với
nhiều cuộc gặp gỡ thương lượng (bí mật hoặc công khai) giữa Mỹ và Liên Xô, giữa
Đông Đức và Tây Đức, giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản chủ
nghĩa… là tiền đề, tác động đến tình hình thế giới hiện nay.
Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới hiện nay vẫn là xu thế chủ đạo:
1. Hòa bình, hợp tác và phát triển là nguyện vọng của nhân dân tiến bộ trên thế giới;
2. Kinh tế thay cho các cuộc chạy đua vũ trang, trở thành nội dung quan trọng trong quan hệ quốc tế;
3. Chiến tranh hiện nay có khả năng là chiến tranh hạt nhân, chiến tranh hủy diệt, không có kẻ thắng;
4. Những yêu cầu cấp thiết mang tính toàn cầu đã và đang tác động đến tất cả các
quốc gia chung tay giải quyết… Mặt khác:
1. Lợi ích quốc gia dân tộc ngày càng thể hiện rõ trong quan hệ quốc tế, đặc biệt
là lợi ích nước lớn ngày càng chi phối và dẫn đến tình hình căng thẳng: căng
thẳng Mỹ - Trung, cuộc cạnh tranh địa chính trị ở Biển Đông, căng thẳng
NATO - Nga, vấn đề Triều Tiên chưa có hồi kết, hiện tượng Anh rút khỏi Liên minh châu Âu…;
2. Sự chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu của các nước trên thế giới còn có
nhiều hạn chế: vấn đề dân nhập cư và tị nạn, vấn đề chủ nghĩa khủng bố và ly 13
khai chưa có lời giải… dẫn đến tình hình các châu lục còn có nhiều vụ căn
thẳng, hòa bình thiếu sự bền vững. Phần V: Kết luận
Sự giúp đỡ của Liên Xô đến các nước thuộc địa có phong trào giải phóng dân
tộc mạnh mẽ là vô cùng to lớn, trong đó có Việt Nam. Thông qua những trợ giúp đó,
các nước thuộc địa có được lợi thế giành chiến thắng và Liên Xô có thể được các đồng
minh về phía mình trong cuộc chiến tranh lạnh, tạo khối đoàn kết trong hệ thống chủ
nghĩa xã hội với các quốc gia trên thế giới.
Có thể cho rằng Mỹ đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh lạnh kéo dài hơn bốn
thập kỷ với Liên Xô, vươn lên trở thành quốc gia có sức ảnh hưởng nhất thế giới.
Chiến thắng này có thể hiểu được vì nhìn chung thì sau Chiến tranh Thế giới II, Mỹ đã
chiếm ưu thế hơn Liên Xô. Ví dụ, nếu như Mỹ mất 400.000 người trong Chiến tranh
thế giới lần thứ hai, thì Liên Xô thiệt hại đến 27 triệu nhân mạng. Nền kinh tế Mỹ
hưởng lợi từ cuộc chiến tranh này, trong khi kinh tế Liên Xô hầu như bị hủy hoại.
Sau giai đoạn hòa hoãn của chiến tranh lạnh, các quốc gia nhận thấy được sự
nguy hiểm của vũ khí hạt nhân và tầm quan trọng của xu thế hòa bình trong quan hệ
quốc tế. Để lại nhiều bài học trong quan hệ ngoại giao về sau như chú trọng hòa bình
và an ninh khu vực, sự cạnh tranh giữa các cường quốc quyết định bằng sự phát triển
của nền kinh tế quốc gia. Chiến tranh, dù là “nóng” hay “lạnh” đều mang lại những
thiệt hại về người và vật chất.
Xác định được mục tiêu chung của cả nhân loại trong thế kỷ XXI vẫn không hề
thay đổi, đó là hòa bình, dân chủ, bình đẳng, hợp tác, ổn định và phát triển. Vì vậy,
thiết lập trật tự thế giới mới theo xu hướng này đã và sẽ được cả thế giới đồng tình,
hưởng ứng, có tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội của
thế giới đầy biến động và đổi thay sâu sắc hiện nay.
Quan hệ quốc tế thời kỳ này không chỉ bị Liên Xô và Mỹ chi phối, mà bắt đầu
có những thế lực mới tác động vào, mâu thuẫn và thỏa hiệp, hợp tác và đấu tranh đan
xen nhau rất phức tạp. Thế giới hai cực hình thành từ sau CTTG-II bắt đầu rạn nứt,
mở đường cho sự hình thành một trật tự thế giới mới theo chiều hướng đa cực. 14