lOMoARcPSD| 45740413
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTTKT - THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
BÀI THẢO LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời
sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Nhóm thực hiện
: Nhóm 03
Mã lớp học phần
: 231_HCMI0121_15
lOMoARcPSD| 45740413
Danh sách thành viên nhóm 2
ST
T
Mã sinh
viên
Họ và tên
Công việc
Giảng
viên
đánh
giá
1
22D190033
Nguyễn Thành Đạt
Phần 1
2
22D190034
Đặng Đình Đông
Phản biện
3
22D190035
Ninh Văn Đức
Phần 2: 2.1
4
22D190037
Nguyễn Hoàng
Giang
Thuyết trình
5
22D190041
Thị Ngọc Hà
Powerpoint
6
22D190043
Trần Thu Hà
Phần 2: 1.1 +
1.3
7
22D190045
Đỗ Thị Hảo
Thuyết trình
8
22D190046
Lê Xuân Hạ
Phần 2: 2.3
9
22D190047
Mai Thị Thúy Hiền
Phần 2: 1.2 +
1.3
10
22D190048
Lương Đức Hiển
Thuyết trình
11
22D190056
Lê Nhật Hoàng
Phản biện
12
22D190057
Phan Minh Hoàng
Tổng hợp Word
+ Phần 3
13
22D190029
Tạ Thị Thu Huệ
Phản biện
14
22D190060
Đoàn Thị Thu
Huyền
Phần 2: 2.2
15
22D190062
Nguyễn Thị Ngọc
Huyền
Thuyết trình
MỤC LỤCPHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU: .................. Error! Bookmark not defined.
1.1. Cơ sở hình thành đề tài: ........................................................................ 1
1.2. Bối cảnh nghiên cứu: ............................................................................. 1
PHẦN 2: NỘI DUNG: ........................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN: ........................................................................... 3
1.1. Thế giới quan tôn giáo ........................................................................... 3
1.2. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin ........................................ 10
1.3. Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa
Mác ............................................................................................................... 13
lOMoARcPSD| 45740413
1
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN:2.1. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ................................................................................... 16
hiện nay ........................................................................................................ 16
2.2. Ảnh hưởng của tôn giáo tới đời sống xã hội ở Việt Nam ................. 19
2.3. Đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay ............................... 32
PHẦN 3: KẾT LUẬN: ....................................................................................... 38
Tài liệu tham khảo .............................................................................................. 39
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 39
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. 40
BIÊN BẢN HỌP NHÓM ..................................................................................... 41
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU:
1.1. Cơ sở hình thành đề tài:
Trong công cuộc xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nước ta hiện nay, luận nhận thức, vấn đề đổi mới duy luôn thu
hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Với sứ mệnh sự nghiệp đổi mới đất nước,
Nhà nước ta trước hết cần tập trung đổi mới tư tuy. Một trong những vấn đề đó là
vấn đề về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Nhằm để hiểu rõ hơn về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam đang diễn ra, nhóm 2 chúng
em dưới sự hướng dẫn của giảng viên Đào Thu Hà đã thực hiện đề tài nghiên cứu
“Mặc dù thế giới quan của tôn giáo đối lập với thế giới quan của chủ nghĩa Mác -
Lênin nhưng hiện nay, tôn giáo vẫn ảnh hưởng khá lớn trong đời sống hội
Việt Nam. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, hãy đề xuất các giải
pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
hội ở Việt Nam hiện nay.”
1.2. Bối cảnh nghiên cứu:
Trong đời sống tinh thần của con người, tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất
định. Tôn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân. Trong xã hội xã hội chủ
lOMoARcPSD| 45740413
2
nghĩa, tôn giáo độc lập với chính trị. Nhà nước quy định bảo đảm thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm quyền tự do theo hoặc không theo một
tín ngưỡng, tôn giáo nào, bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo mang tính chất tôn giáo
thuần tuý, không gắn với chính trị.
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp,
sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống tri lợi dụng tôn giáo phục vụ
cho mục đích của mình. Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại
đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong hội, lợi dụng
tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Vấn đề tôn giáo từ lâu đã
một trong những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam cũng như các nước trên toàn
thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, vấn đề tôn giáo đã từng blợi dụng cho mục
đích chính trị, chống phá cách mạng Việt Nam và ngày nay vẫn còn một số thành
phần tìm cách lợi dụng tôn giáo để chống lại Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa nước
ta. Chính thế mỗi người dân chúng ta cần phải những sự hiểu biết thấu
đáo và chính xác về tôn giáo để không bị kẻ gian lợi dụng sự tín ngưỡng tôn giáo
vào những mục đích xấu.
lOMoARcPSD| 45740413
3
PHẦN 2: NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1. Thế giới quan tôn giáo
1.1.1. Khái niệm, bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo một hình thái ý thức hội
phản ánh ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng
tự nhiên xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí. Ph. Ăngghen cho rằng: “Tất cả
mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh ảo - vào trong đầu óc của con người
- của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng
siêu trần thế”.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội - các tôn giáo cụ
thể (ví dụ: Công giáo, Tin Lành, Phật giáo...), với các tiêu chí bản sau: niềm
tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tôn
giáo); có hệ thông giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan,
nhân sinh quan, đạo đức, lễ nghi của tôn giáo; hệ thông sthờ tự; tổ chức
nhân sự, quản điều hành việc đạo (người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp hay
không chuyên nghiệp); hệ thống tín đồ đông đảo, những người tnguyện tin
theo một tôn giáo nào đó và được tôn giáo đó thừa nhận.
1.1.1.2. Bản chất của tôn giáo
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Tôn giáo
là một hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo
ra tôn giáo mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng,
suy nghĩ của họ. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lthuộc vào tôn
giáo, tuyệt đối hóa phục tùng tôn giáo điều kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng cho rằng, sản xuất vật chất các quan hkinh tế, xét đến cùng nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn
giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được
sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điêu kiện sống nhất định trong
lOMoARcPSD| 45740413
4
hội thay đổi theo những thay đổi của sở kinh tế. Về phương diện thế giới
quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan
duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù có sự khác biệt
về thế giới quan, nhưng những người cộng sản với lập trường mácxít không bao
giờ thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; ngược lại, luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khóng theo
tôn giáo của nhân dân. Trong những điều kiện cụ thể của hội, những người
cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng một
xã hội tốt đẹp hơn ở thê giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng
tín đồ cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tôn giáo.
Tôn giáo tín ngưỡng không đồng nhất, nhưng giao thoa nhất định.
Tín ngưỡng hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể
hiện niềm tin của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng tính thần
thánh, linh thiêng đcầu mong sự che chở, giúp đỡ. nhiều loại hình tín ngưỡng
khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; tín
ngưỡng thờ Mẫu...
Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một sở khoa học
nào. Nói cách khác là niềm tin về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, sự vật,
hiện tượng trên thực tế không mối liên hệ cụ thể, ràng, khách quan, tất
yếuChủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh hư ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự
nhiên hội trở thành siêu nhiên, thần bí. Ph. Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi
tôn giáo chẳng qua chỉ sự phản ánh ảo - vào trong đầu óc của con người -
của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là s
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng
siêu trần thế”.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội - các tôn giáo cụ
thể (ví dụ: Công giáo, Tin Lành, Phật giáo...), với các tiêu chí bản sau: niềm
tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tôn
giáo); có hệ thông giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan,
lOMoARcPSD| 45740413
5
nhân sinh quan, đạo đức, lễ nghi của tôn giáo; hệ thông sthờ tự; tổ chức
nhân sự, quản điều hành việc đạo (người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp hay
không chuyên nghiệp); hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự nguyện tin
theo một tôn giáo nào đó và được tôn giáo đó thừa nhận.
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Tôn giáo
là một hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo
ra tôn giáo mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng,
suy nghĩ của họ. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lthuộc vào tôn
giáo, tuyệt đối hóa phục tùng tôn giáo điều kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng cho rằng, sản xuất vật chất các quan hkinh tế, xét đên cùng nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn
giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được
sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điêu kiện sống nhất định trong
hội thay đổi theo những thay đổi của sở kinh tế. về phương diện thế giới
quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan
duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù có sự khác biệt
về thế giới quan, nhưng những người cộng sản với lập trường mácxít không bao
giờ thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; ngược lại, luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khóng theo
tôn giáo của nhân dân. Trong những điều kiện cụ thể của hội, những người
cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng một
xã hội tốt đẹp hơn ở thê giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng
tín đồ cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tôn giáo.
Tôn giáo tín ngưỡng không đồng nhất, nhưng giao thoa nhất định.
Tín ngưỡng hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể
hiện niềm tin của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng tính thần
thánh, linh thiêng đcầu mong sự che chở, giúp đỡ. nhiều loại hình tín ngưỡng
khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; tín
ngưỡng thờ Mẫu...
lOMoARcPSD| 45740413
6
Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một sở khoa học
nào. Nói cách khác là niềm tin về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, sự vật,
hiện tượng trên thực tế không mối liên hệ cụ thể, ràng, khách quan, nhưng
được bao phủ bởi các yếu tsiêu nhiên, thần thánh, ảo. Dị đoan là sự suy đoán,
hành động một cách tùy tiện, sai lệch những điều bình thường, chuẩn mực trong
cuộc sống.
tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần
thánh đến mức độ mê muội, cuồng tín, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch
quá mức, trái với các giả trị văn hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân,
xã hội và cộng đồng.
1.1.1.3. Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: Trong hội công xã nguyên thủy, do
lực lượng sản xuất chưa phát triển, trước thiên nhiên hùng vĩ tác động chi phôi
khiến cho con người cảm thấy yếu đuối bất lực, không giải thích được, nên con
người đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí.
Khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối kháng, có áp bức bất công, do không
giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp áp bức bóc lột bất công,
tội ác, v.v., cộng với lo sợ trước sự thống trị của các lực lượng xã hội, con người
trông chờ vào sự giải phóng của một lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế.
Nguồn gốc nhận thức: Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của
con người vtự nhiên, xã hội chính bản thân mình giới hạn. Khi
khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều khoa học
chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các
tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ
dân trí thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho
tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
chính sự tuyệt đối hóa, scường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người,
biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh.
lOMoARcPSD| 45740413
7
Nguồn gốc tâm lý: Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay
trong những lúc ôm đau, bệnh tật; ngay cả những may, rủi bất ngờ xảy ra, hoặc
tâm muốn được bình yên khi làm một việc lớn (ví dụ: ma chay, cưới xin, làm
nhà, khởi đầu sự nghiệp kinh doanh...), con người cũng dễ tìm đến với tôn giáo.
Thậm chí cả những tình cảm tích cực như tình yêu, lòng biết ơn, lòng kính trọng
đối với những người công với nước, với dân cũng dễ dẫn con người đến với
tôn giáo (ví dụ: thờ các anh hùng dân tộc, thờ các thành hoàng làng...).
1.1.1.4. Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo một hiện tượng xã hội tính lịch
sử, nghĩa sự hình thành, tồn tại phát triển khả năng biến đổi trong
những giai đoạn lịch sử nhất định để thích nghi với nhiều chế độ chính trị xã hội.
Khi các điều kiện kinh tế - hội, lịch sử thay đổi, tôn giáo cũng sự thay đổi
theo. Trong quá trình vận động của các tôn giáo, chính các điều kiện kinh tế -
hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn
giáo, hệ phái khác nhau.
Theo quan điểm ca chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào
đó, khi khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức
được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị
trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến
tất cả các dân tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ
biểu hiện ở số lượng tín đồ rất đông đảo (gần 3/4 dân số thế giới); còn thể hiện
chỗ, các tôn giáo nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng
nhân dân. tôn giáo hướng con người vào niềm tin hạnh phúc ảo của thế giới
bên kia, song nó luôn luôn phản ánh khát vọng của những người lao động về một
hội tự do, bình đẳng, bác ái. Mặt khác, nhiều tôn giáo tính nhân văn, nhân
đạo hướng thiện, vậy, được nhiều người các tầng lớp khác nhau trong xã
hội, đặc biệt là quần chúng lao động tin theo.
lOMoARcPSD| 45740413
8
Tính chính trị của tôn giáo: Khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản
ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người vbản thân thế giới xung
quanh mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo
chỉ xuất hiện khi hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sđối kháng về lợi
ích giai cấp. Trước hết, do tôn giáo sản phẩm của những điều kiện kinh tế
hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi
các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp
mình, chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính
trị tiêu cực, phản tiến bộ.
vậy, cần nhận rằng, đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm
thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực
chính trị - xã hội lợi dụng thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ.
1.1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã
có sự biến đổi trên nhiều mặt, vì vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đẳm bảo
các nguyên tắc sau:
- Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng
củanhân dân. Tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng
tối cao, đấng thiêng liêng nào đó họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tưởng.
Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tưởng
của nhân dân. Việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo thuộc quyền tự do
lựa chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc
tôn giáo, tổ chức giáo hội... được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành
vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người
dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể
hiện bản chất ưu việt của chế độ hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 45740413
9
không can thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín
ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo
hoạt động tôn giáo bình thường, các sở thờ tự, các phương tiện phục vụ
nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân được nnước hội chủ nghĩa
tôn trọng và bảo hộ.
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền
vớiquá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải
quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân
không chủ trương can thiệp vào công việc nội bộ của câc tôn giáo. Chủ nghĩa Mác
- Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản
thân tồn tại hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tưởng con người, phải
xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước hết phải xác lập
được một thế giới hiện thực không áp bức, bất công, nghèo đói thất học...
cũng như những tệ nạn nảy sinh trong hội. Đó một quá trình lâu dài, không
thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Phân biệt hai mặt chính trị tưởng của tôn giáo trong quá trình
giảiquyết vấn đề tôn giáo.
Trong hội công nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện thuần
tuý vtưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp - chính
trị ít nhiều đều in trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị tưởng thường
thể hiện và môì quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo bản thân mỗi tôn
giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bvới phản tiến bộ, phản ánh
mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa
những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của
nhân dân lao động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niêm tin, mức độ tin
giữa những người n ngưỡng, tôn giáo những người không theo tôn giáo,
cũng như nhũng người tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn
không mang tính đối kháng.
lOMoARcPSD| 45740413
10
Phân biệt hai mặt chính trị tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực
chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản
thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này trong thực tế không đơn
giản, bởi lẽ, trong đời sống hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản
chất, vấn đề chính trị tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau.
Mặt khác, trong xã hội có đổi kháng giai cấp, tôn giáo thường bị yếu tố chính trị
chi phối rất sâu sắc nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tưởng thuần túy
trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng
cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo.
- Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo.
Tôn giáo không phải một hiện tượng hội bất biến, ngược lại luôn
luôn vận động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế
hội - lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại
phát triển nhất định, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng
tôn giáo đối với đời sông hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các
giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của đời sông xã hội luôn có sự khác
biệt. vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử
đốì với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối vối từng tôn giáo cụ thể.
1.2. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin
1.2.1. Định nghĩa, cấu trúc nguồn gốc thế giới quan của chủ nghĩa
MácLênin
1.2.1.1. Định nghĩa
Thế giới quan khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình
cảm, niềm tin, tưởng xác định về thế giới vị trí của con người (bao hàm cả
nhân, hội nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy định nguyên
tắc, thái độ, giá trị tring định hướng nhận thức hoạt động thực tiễn của con
người.
lOMoARcPSD| 45740413
11
1.2.1.2. Nguồn gốc
Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống, là kết quả trực tiếp của qtrình
nhận thức, nhưng suy đến cùng, thế giới quan kết quả của cả hoạt động thực
tiễn với hoạt động nhận thức, của mối quan hệ giữa khách thể nhận thức với ch
thể nhận thức.
1.2.1.3. Cấu trúc
Thế giới quan bao gồm những thành phần cấu thành dưới đây:
- Tri thức: Đây là thành phần chủ yếu và trực tiếp
- Niêm tin: Được hình thành từ tri thức, qua quá trình rèn luyện, kiểmnghiệm
trong thực tiễn.
- Lý tưởng: Là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan.
1.2.2. Phân loại thế giới quan
Dựa vào những kết quả nghiên cứu của Mác và Lênin thì thế giới quan là gì
được chia thành ba loại hình.
Thứ nhất, thế giới quan tôn giáo
- Trong loại hình này, hai thành phần chủ yếu tạo nên thế giới quan tôngiáo
đó niềm tin tôn giáo. Hay nói cách khác tín ngưỡng. trong đó, tín
ngưỡng giữ vị trí bên trên lý trí, những cái ảo bên trên cái thực, cái thần lại vượt
lên trên con người.
Thứ hai, thế giới quan huyền thoại
- Thế giới quan huyền thoại là một cách thức nhìn nhận thế giới xungquanh
của người nguyên thủy trước đây. Trong đó, họ coi trọng những cảm xúc s
tưởng tượng, thần thánh hóa hòa quyện với những trí, hiện thực khi đánh giá
và đưa ra quan điểm của mình về thế giới xung quanh.
Thứ ba, thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học nguồn gốc hình thành trong một hội trìnhđ
phát triển cao hơn và hiện đại hơn so với hai loại hình còn lại.
- duy của con người về thế giới quan đã những phát triển hơn
theohướng tích cực văn minh. Con người xây dựng lên những hệ thống về khái
niệm, phạm trù, luận và quy luật trong thế giới quan triết học. Theo đó, con
lOMoARcPSD| 45740413
12
người đã tư duy logic hơn bằng cách chứng minh những quan điểm của mình
trước mọi sự vật, hiện tượng.
1.2.3. Vai trò của thế giới quan
Vai trò của thế giới quan là cùng quan trọng đối với sự phát triển của
con người và toàn xã hội.
- Thế giới quan không chỉ giúp con người trở nên có định hướng hơn, tưduy
một cách logic hơn còn giúp sự phát triển của hội tiến trình cụ thể và
theo hướng ngày càng hiện đại, văn minh.
- Sự định hướng trên được hiện diện trong mọi mặt, từ hoạt động nhận
thứcthế giới khách quan đến cuộc sống thực tiễn của con người.
Nhìn nhận hiện thực khách quan
- Thế giới quan giúp con người thể nhìn nhận lại chính mình nhìnnhận
được thế giới xung quanh. Từ đó xác định được những mục đích, ý nghĩa cuộc
sống và lựa chọn cách thức hoạt động để có thể đạt được mục đích, ý nghĩa đó.
- Khi thế giới quan đúng đắn thì nhân sinh quan cũng sẽ trở nên tích cực,trình
độ phát triển của thế giới sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
lOMoARcPSD| 45740413
13
1.3. Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa Mác
Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo thế giới quan chủ nghĩa Mác thể
hiện nhiều khía cạnh, bao gồm nguồn gốc của tri thức quyền uy, mục tiêu
cuộc sống, quan điểm về cuộc sống sau đời, quan điểm về tài sản và sở hữu, …
Những sự đối lập này thể hiện cách thế giới quan tôn giáo thế giới
quan chủ nghĩa Mác nhìn nhận đối phó với cuộc sống, giá trị, tồn tại con
người. Mặc dù có sự chênh lệch rõ ràng giữa hai thế giới quan này, họ đều có s
ảnh hưởng lớn đối với lịch sử và văn hóa của con người. Cụ thể như sau:
1.3.1. Về nguồn gốc của tri thức và quyền uy:
Thế giới quan tôn giáo: Tri thức và quyền uy thường xuất phát từ tôn thần
hoặc thần linh. Tôn giáo coi sự thánh thiêng tôn thần nguồn gốc của kiến
thức quyền lực. Lãnh đạo tôn giáo, như linh mục, thầy trò, hoặc giáo tôn
giáo, thường vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tâm linh
đạo đức.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác không chấp nhận tri thức và
quyền uy từ sự thánh thiêng. Thay vào đó, nó coi sự thay đổi xã hội và quyền lực
xã hội dựa trên mối quan hệ kinh tế và xã hội. Các nhà lãnh đạo trong chủ nghĩa
Mác thường là những người tồn tại trong môi trường xã hội cụ thể và thúc đẩy sự
thay đổi xã hội dựa trên lợi ích của tầng lớp công nhân.
1.3.2. Mục tiêu cuộc sống
Thế giới quan tôn giáo: Mục tiêu của cuộc sống trong thế giới quan tôn
giáo thường tìm kiếm ý nghĩa tâm linh sự cứu rỗi. Cuộc sống trần tục thường
được coi là một phần của sứ mệnh tôn thần mục tiêu cuối cùng là đạt được
cuộc sống sau đời tốt đẹp.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Mục tiêu cuộc sống trong chủ nghĩa Mác là
cải thiện điều kiện sống của tầng lớp công nhân và xây dựng một xã hội cộng sản
bình đẳng. Cuộc sống trần tục công việc lao động trở nên quan trọng để thúc
đẩy sự phát triển xã hội và đảm bảo công bằng.
1.3.3. Quan điểm về cuộc sống sau đời
lOMoARcPSD| 45740413
14
Thế giới quan tôn giáo: Cuộc sống sau đời thường được coi quan trọng
và làm định hình hành vi và đạo đức trong cuộc sống này. Hành vi tốt trong cuộc
sống này có thể dẫn đến sự cứu rỗi trong cuộc sống sau đời.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác không quan tâm đến cuộc
sống sau đời tập trung vào cải thiện cuộc sống xã hội trong hiện tại. Họ xem
xã hội cần được cải thiện trong cuộc sống này thay vì chờ đợi cuộc sống sau đời.
1.3.4. Quan điểm về tài sản và sở hữu
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường không đặt vấn đề lớn về tài sản
và sở hữu cá nhân. Tuy nhiên, một số tôn giáo có thể có hệ thống tài sản và quản
lý sở hữu riêng.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác coi tài sản shữu
nhân nguyên nhân gây ra sự mâu thuẫn hội tạo ra tầng lớp sản. Chủ
nghĩa Mác đề xuất loại bỏ sự sở hữu nhân trong hthống hội cộng sản để
đạt được công bằng xã hội.
1.3.5. Nguồn gốc của đạo đức và giá trị
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường định hình đạo đức giá trị của
con người dựa trên các nguyên tắc và quy tắc tôn thần. Các giá trị như lòng khoan
dung, tình thương và trung thực thường được coi trọng trong ngữ cảnh tôn giáo.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác coi giá trị và đạo đức hội
như một phản ánh của cấu hội kinh tế. Họ tập trung vào công bằng
hội và sự cải thiện của cuộc sống con người dựa trên thay đổi trong hệ thống sản
xuất và phân phối.
1.3.6. Quan điểm về sự tồn tại của cá nhân và cộng đồng
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường tôn trọng coi trọng sự tồn tại
nhân mối quan hệ nhân với thượng đế. Mỗi người một mối quan hệ
riêng với tôn thần và cuộc sống sau đời.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác tập trung vào cộng đồng và
tầng lớp hội. Họ thúc đẩy sự tập hợp của công nhân và cảm nhận rằng thay đổi
xã hội chỉ có thể đạt được thông qua hành động tập thể của mọi người.
lOMoARcPSD| 45740413
15
1.3.7. Thực hành và lễ kính
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường đi kèm với các lễ kính và nghi lễ
tôn giáo, như lễ hội, lễ cầu nguyện lễ kính tượng thần. Những hoạt động này
giúp duy trì và phát triển đạo đức tôn giáo và đạo đức cá nhân.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác tập trung vào hành động cụ
thể để thay đổi xã hội. Thay lễ kính, họ thúc đẩy các hành động đối chất như
cuộc biểu tình, cách mạng xã hội và cải thiện điều kiện làm việc của công nhân.
lOMoARcPSD| 45740413
16
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN: 2.1. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước
hiện nay
2.1.1. Tôn giáo ở Việt Nam
Về mặt dân cư, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo riêng của mình. Người Việt các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ
cúng ông tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người công với cộng đồng,
dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất tục thờ Mẫu của dân nông nghiệp lúa nước.
Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ (còn gọi là
tín ngưỡng sơ khai) nTô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên việc
Lão giáo, Nho giáo - những tôn giáo nguồn gốc phía Bắc thâm nhập; Công
giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo sau này đạo Tin
lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo thu hút người
theo đạo là điều dễ hiểu.
Việt Nam một quốc gia bao gồm những tôn giáo nguồn gốc từ phương
Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có nguồn gốc từ phương Tây nThiên
chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo
Hoà Hảo; tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi tổ chức
giáo hội), những hình thức tôn giáo sơ khai. Bên cạnh đó có những tôn giáo đã
phát triển và hoạt động ổn định xong cũng có những tôn giáo chưa ổn định, đang
trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ba
khu vực nói trên những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa
dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ n ngưỡng nguyên thủy thờ đa thần
với quan niệm vạn vật hữu linh thờ cúng theo phong tục tập quán truyền thống.
Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào những vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo, cụ thể:
Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay 1.043.678
người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme. Cộng đồng
lOMoARcPSD| 45740413
17
người Chăm theo Hồi giáo. khoảng gần 100 nghìn người Chăm, trong đó số
người theo Hồi giáo chính thống (gọi Chăm Ixlam) là 25.703 tín đồ, Hồi giáo
không chính thống (Chăm Bàni) 39.228 tín đồ. Ngoài ra còn hơn 30 nghìn
người theo đạo Bàlamôn (Bà Chăm). Hồi giáo chính thức truyền vào dân tộc
Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo đã góp phần quan trọng trong
việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, văn hóa của người
Chăm.
Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành. Hiện
nay khu vực Tây Nguyên gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công
giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
Cộng đồng dân tộc thiểu sTây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc biệt,
khoảng 20 năm trở lại đây đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo Tin lành
dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn Dao theo đạo Tin lành dưới tên gọi Thìn
Hùng.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân.
Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 8085%,
của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là người lao
động, người nông dân, tín đcác tôn giáo ở Việt Nam rất cần trong lao động
sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo
cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng to lớn của dân tộc.
Tín đồ các tôn giáo Việt Nam nhu cầu cao trong sinh hoạt tôn giáo,
nhất những sinh hoạt tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ phận
tín đồ của một số tôn giáo vẫn còn tín dị đoan, thậm chí cuồng tín dễ bị các
phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
2.1.2. Chính sách tôn giáo của Đng, Nhà nước hiện nay
- Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo nhu cầu tinh thần của một bộ
phậnnhân dân, đang sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
lOMoARcPSD| 45740413
18
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật.
- Thứ hai, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn
kếtdân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và
nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động tín
dị đoan, hoạt động trái pháp luật chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
- Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo công tác vận
độngquần chúng.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước; thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo
quyền lợi vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn
giáo.
- Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo không chỉ liên quan đến quần chúng tín đồ, chức sắc các
tôn giáo, mà còn gắn liền với công tác đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng
tôn giáo gây phương hại đến lợi ích Tổ quốc, dân tộc. Làm tốt công tác là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm hệ thống tổ chức đảng, chính
quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị do Đảng lãnh đạo.
- Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều quyền tự do hành đạo tại gia đình sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận
được hoạt động theo pháp luật được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTTKT - THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ BÀI THẢO LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời
sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Nhóm thực hiện : Nhóm 03
Mã lớp học phần : 231_HCMI0121_15 lOMoAR cPSD| 45740413
Danh sách thành viên nhóm 2 ST Mã sinh Họ và tên Công việc Nhóm Giảng T viên đánh giá viên đánh giá
1 22D190033 Nguyễn Thành Đạt Phần 1
2 22D190034 Đặng Đình Đông Phản biện 3 22D190035 Ninh Văn Đức Phần 2: 2.1 4 22D190037 Nguyễn Hoàng Thuyết trình Giang
5 22D190041 Lê Thị Ngọc Hà Powerpoint 6 22D190043 Trần Thu Hà Phần 2: 1.1 + 1.3 7 22D190045 Đỗ Thị Hảo Thuyết trình 8 22D190046 Lê Xuân Hạ Phần 2: 2.3
9 22D190047 Mai Thị Thúy Hiền Phần 2: 1.2 + 1.3
10 22D190048 Lương Đức Hiển Thuyết trình
11 22D190056 Lê Nhật Hoàng Phản biện 12 22D190057 Phan Minh Hoàng Tổng hợp Word + Phần 3
13 22D190029 Tạ Thị Thu Huệ Phản biện 14 22D190060 Đoàn Thị Thu Phần 2: 2.2 Huyền
15 22D190062 Nguyễn Thị Ngọc Thuyết trình Huyền
MỤC LỤCPHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU: .................. Error! Bookmark not defined.
1.1. Cơ sở hình thành đề tài: ........................................................................ 1
1.2. Bối cảnh nghiên cứu: ............................................................................. 1
PHẦN 2: NỘI DUNG: ........................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN: ........................................................................... 3
1.1. Thế giới quan tôn giáo ........................................................................... 3
1.2. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin ........................................ 10
1.3. Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa
Mác ............................................................................................................... 13 lOMoAR cPSD| 45740413
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN:2.1. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước
................................................................................... 16
hiện nay ........................................................................................................ 16
2.2. Ảnh hưởng của tôn giáo tới đời sống xã hội ở Việt Nam ................. 19
2.3. Đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay ............................... 32
PHẦN 3: KẾT LUẬN: ....................................................................................... 38
Tài liệu tham khảo .............................................................................................. 39
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 39
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. 40
BIÊN BẢN HỌP NHÓM ..................................................................................... 41
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU:
1.1. Cơ sở hình thành đề tài:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề đổi mới tư duy luôn thu
hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Với sứ mệnh sự nghiệp đổi mới đất nước,
Nhà nước ta trước hết cần tập trung đổi mới tư tuy. Một trong những vấn đề đó là
vấn đề về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Nhằm để hiểu rõ hơn về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam đang diễn ra, nhóm 2 chúng
em dưới sự hướng dẫn của giảng viên Đào Thu Hà đã thực hiện đề tài nghiên cứu
“Mặc dù thế giới quan của tôn giáo đối lập với thế giới quan của chủ nghĩa Mác -
Lênin nhưng hiện nay, tôn giáo vẫn có ảnh hưởng khá lớn trong đời sống xã hội
Việt Nam. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, hãy đề xuất các giải
pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã
hội ở Việt Nam hiện nay.”
1.2. Bối cảnh nghiên cứu:
Trong đời sống tinh thần của con người, tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất
định. Tôn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân. Trong xã hội xã hội chủ 1 lOMoAR cPSD| 45740413
nghĩa, tôn giáo độc lập với chính trị. Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm quyền tự do theo hoặc không theo một
tín ngưỡng, tôn giáo nào, bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo mang tính chất tôn giáo
thuần tuý, không gắn với chính trị.
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có
sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống tri lợi dụng tôn giáo phục vụ
cho mục đích của mình. Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại
đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã hội, lợi dụng
tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Vấn đề tôn giáo từ lâu đã là
một trong những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam cũng như các nước trên toàn
thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, vấn đề tôn giáo đã từng bị lợi dụng cho mục
đích chính trị, chống phá cách mạng Việt Nam và ngày nay vẫn còn một số thành
phần tìm cách lợi dụng tôn giáo để chống lại Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa nước
ta. Chính vì thế mà mỗi người dân chúng ta cần phải có những sự hiểu biết thấu
đáo và chính xác về tôn giáo để không bị kẻ gian lợi dụng sự tín ngưỡng tôn giáo
vào những mục đích xấu. 2 lOMoAR cPSD| 45740413 PHẦN 2: NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1. Thế giới quan tôn giáo
1.1.1. Khái niệm, bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh hư ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng
tự nhiên và xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí. Ph. Ăngghen cho rằng: “Tất cả
mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người
- của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội - các tôn giáo cụ
thể (ví dụ: Công giáo, Tin Lành, Phật giáo...), với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm
tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tôn
giáo); có hệ thông giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan,
nhân sinh quan, đạo đức, lễ nghi của tôn giáo; có hệ thông cơ sở thờ tự; có tổ chức
nhân sự, quản lý điều hành việc đạo (người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp hay
không chuyên nghiệp); có hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự nguyện tin
theo một tôn giáo nào đó và được tôn giáo đó thừa nhận.
1.1.1.2. Bản chất của tôn giáo
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Tôn giáo
là một hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo
ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng,
suy nghĩ của họ. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào tôn
giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng tôn giáo vô điều kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn
giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được
sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điêu kiện sống nhất định trong xã 3 lOMoAR cPSD| 45740413
hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ sở kinh tế. Về phương diện thế giới
quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan
duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù có sự khác biệt
về thế giới quan, nhưng những người cộng sản với lập trường mácxít không bao
giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; ngược lại, luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khóng theo
tôn giáo của nhân dân. Trong những điều kiện cụ thể của xã hội, những người
cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng một
xã hội tốt đẹp hơn ở thê giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng
tín đồ cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tôn giáo.
Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất, nhưng có giao thoa nhất định.
Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể
hiện niềm tin của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần
thánh, linh thiêng để cầu mong sự che chở, giúp đỡ. Có nhiều loại hình tín ngưỡng
khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; tín ngưỡng thờ Mẫu...
Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một cơ sở khoa học
nào. Nói cách khác là niềm tin về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, sự vật,
hiện tượng trên thực tế không có mối liên hệ cụ thể, rõ ràng, khách quan, tất
yếuChủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh hư ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự
nhiên và xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí. Ph. Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi
tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người -
của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội - các tôn giáo cụ
thể (ví dụ: Công giáo, Tin Lành, Phật giáo...), với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm
tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tôn
giáo); có hệ thông giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, 4 lOMoAR cPSD| 45740413
nhân sinh quan, đạo đức, lễ nghi của tôn giáo; có hệ thông cơ sở thờ tự; có tổ chức
nhân sự, quản lý điều hành việc đạo (người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp hay
không chuyên nghiệp); có hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự nguyện tin
theo một tôn giáo nào đó và được tôn giáo đó thừa nhận.
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Tôn giáo
là một hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo
ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng,
suy nghĩ của họ. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào tôn
giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng tôn giáo vô điều kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế, xét đên cùng là nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn
giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được
sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điêu kiện sống nhất định trong xã
hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ sở kinh tế. về phương diện thế giới
quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan
duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù có sự khác biệt
về thế giới quan, nhưng những người cộng sản với lập trường mácxít không bao
giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; ngược lại, luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khóng theo
tôn giáo của nhân dân. Trong những điều kiện cụ thể của xã hội, những người
cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng một
xã hội tốt đẹp hơn ở thê giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng
tín đồ cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tôn giáo.
Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất, nhưng có giao thoa nhất định.
Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể
hiện niềm tin của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần
thánh, linh thiêng để cầu mong sự che chở, giúp đỡ. Có nhiều loại hình tín ngưỡng
khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; tín ngưỡng thờ Mẫu... 5 lOMoAR cPSD| 45740413
Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một cơ sở khoa học
nào. Nói cách khác là niềm tin về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, sự vật,
hiện tượng trên thực tế không có mối liên hệ cụ thể, rõ ràng, khách quan, nhưng
được bao phủ bởi các yếu tố siêu nhiên, thần thánh, hư ảo. Dị đoan là sự suy đoán,
hành động một cách tùy tiện, sai lệch những điều bình thường, chuẩn mực trong cuộc sống.
Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần
thánh đến mức độ mê muội, cuồng tín, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch
quá mức, trái với các giả trị văn hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và cộng đồng.
1.1.1.3. Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: Trong xã hội công xã nguyên thủy, do
lực lượng sản xuất chưa phát triển, trước thiên nhiên hùng vĩ tác động và chi phôi
khiến cho con người cảm thấy yếu đuối và bất lực, không giải thích được, nên con
người đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí.
Khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối kháng, có áp bức bất công, do không
giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức bóc lột bất công,
tội ác, v.v., cộng với lo sợ trước sự thống trị của các lực lượng xã hội, con người
trông chờ vào sự giải phóng của một lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế.
Nguồn gốc nhận thức: Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của
con người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi mà
khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học
chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các
tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ
dân trí thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho
tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
chính là sự tuyệt đối hóa, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người,
biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh. 6 lOMoAR cPSD| 45740413
Nguồn gốc tâm lý: Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay
trong những lúc ôm đau, bệnh tật; ngay cả những may, rủi bất ngờ xảy ra, hoặc
tâm lý muốn được bình yên khi làm một việc lớn (ví dụ: ma chay, cưới xin, làm
nhà, khởi đầu sự nghiệp kinh doanh...), con người cũng dễ tìm đến với tôn giáo.
Thậm chí cả những tình cảm tích cực như tình yêu, lòng biết ơn, lòng kính trọng
đối với những người có công với nước, với dân cũng dễ dẫn con người đến với
tôn giáo (ví dụ: thờ các anh hùng dân tộc, thờ các thành hoàng làng...).
1.1.1.4. Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch
sử, nghĩa là nó có sự hình thành, tồn tại và phát triển và có khả năng biến đổi trong
những giai đoạn lịch sử nhất định để thích nghi với nhiều chế độ chính trị xã hội.
Khi các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi
theo. Trong quá trình vận động của các tôn giáo, chính các điều kiện kinh tế - xã
hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào
đó, khi khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức
được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị
trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến
ở tất cả các dân tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ
biểu hiện ở số lượng tín đồ rất đông đảo (gần 3/4 dân số thế giới); mà còn thể hiện
ở chỗ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng
nhân dân. Dù tôn giáo hướng con người vào niềm tin hạnh phúc hư ảo của thế giới
bên kia, song nó luôn luôn phản ánh khát vọng của những người lao động về một
xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Mặt khác, nhiều tôn giáo có tính nhân văn, nhân
đạo và hướng thiện, vì vậy, được nhiều người ở các tầng lớp khác nhau trong xã
hội, đặc biệt là quần chúng lao động tin theo. 7 lOMoAR cPSD| 45740413
Tính chính trị của tôn giáo: Khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản
ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới xung
quanh mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo
chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi
ích giai cấp. Trước hết, do tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh tế xã
hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi
các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp
mình, chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính
trị tiêu cực, phản tiến bộ.
Vì vậy, cần nhận rõ rằng, đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm
thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực
chính trị - xã hội lợi dụng thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ.
1.1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã
có sự biến đổi trên nhiều mặt, vì vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đẳm bảo các nguyên tắc sau: -
Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
củanhân dân. Tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng
tối cao, đấng thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng.
Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng
của nhân dân. Việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do
lựa chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc
tôn giáo, tổ chức giáo hội... được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành
vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người
dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể
hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa 8 lOMoAR cPSD| 45740413
không can thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín
ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo
và hoạt động tôn giáo bình thường, các cơ sở thờ tự, các phương tiện phục vụ
nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân được nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ. -
Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền
vớiquá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải
quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà
không chủ trương can thiệp vào công việc nội bộ của câc tôn giáo. Chủ nghĩa Mác
- Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản
thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải
xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước hết là phải xác lập
được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học...
cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, và không
thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. -
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình
giảiquyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện thuần
tuý về tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp - chính
trị ít nhiều đều in rõ trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường
thể hiện và có môì quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh
mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa
những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của
nhân dân lao động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niêm tin, mức độ tin
giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không theo tôn giáo,
cũng như nhũng người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn
không mang tính đối kháng. 9 lOMoAR cPSD| 45740413
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực
chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản
thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này trong thực tế không đơn
giản, bởi lẽ, trong đời sống xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản
chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau.
Mặt khác, trong xã hội có đổi kháng giai cấp, tôn giáo thường bị yếu tố chính trị
chi phối rất sâu sắc nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần túy
trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng
cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. -
Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại nó luôn
luôn vận động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế xã
hội - lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và
phát triển nhất định, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng
tôn giáo đối với đời sông xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các
giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của đời sông xã hội luôn có sự khác
biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử
đốì với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối vối từng tôn giáo cụ thể.
1.2. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin
1.2.1. Định nghĩa, cấu trúc và nguồn gốc thế giới quan của chủ nghĩa MácLênin
1.2.1.1. Định nghĩa
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình
cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và vị trí của con người (bao hàm cả
cá nhân, xã hội và nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy định nguyên
tắc, thái độ, giá trị tring định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. 10 lOMoAR cPSD| 45740413
1.2.1.2. Nguồn gốc
Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống, là kết quả trực tiếp của quá trình
nhận thức, nhưng suy đến cùng, thế giới quan là kết quả của cả hoạt động thực
tiễn với hoạt động nhận thức, của mối quan hệ giữa khách thể nhận thức với chủ thể nhận thức.
1.2.1.3. Cấu trúc
Thế giới quan bao gồm những thành phần cấu thành dưới đây:
- Tri thức: Đây là thành phần chủ yếu và trực tiếp
- Niêm tin: Được hình thành từ tri thức, qua quá trình rèn luyện, kiểmnghiệm trong thực tiễn.
- Lý tưởng: Là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan.
1.2.2. Phân loại thế giới quan
Dựa vào những kết quả nghiên cứu của Mác và Lênin thì thế giới quan là gì
được chia thành ba loại hình.
Thứ nhất, thế giới quan tôn giáo
- Trong loại hình này, hai thành phần chủ yếu tạo nên thế giới quan tôngiáo
đó là niềm tin và tôn giáo. Hay nói cách khác là tín ngưỡng. Và trong đó, tín
ngưỡng giữ vị trí bên trên lý trí, những cái ảo bên trên cái thực, cái thần lại vượt lên trên con người.
Thứ hai, thế giới quan huyền thoại
- Thế giới quan huyền thoại là một cách thức nhìn nhận thế giới xungquanh
của người nguyên thủy trước đây. Trong đó, họ coi trọng những cảm xúc và sự
tưởng tượng, thần thánh hóa hòa quyện với những lý trí, hiện thực khi đánh giá
và đưa ra quan điểm của mình về thế giới xung quanh.
Thứ ba, thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học có nguồn gốc hình thành trong một xã hội có trìnhđộ
phát triển cao hơn và hiện đại hơn so với hai loại hình còn lại.
- Tư duy của con người về thế giới quan đã có những phát triển hơn
theohướng tích cực và văn minh. Con người xây dựng lên những hệ thống về khái
niệm, phạm trù, lý luận và quy luật trong thế giới quan triết học. Theo đó, con 11 lOMoAR cPSD| 45740413
người đã tư duy có logic hơn bằng cách chứng minh những quan điểm của mình
trước mọi sự vật, hiện tượng.
1.2.3. Vai trò của thế giới quan
Vai trò của thế giới quan là gì là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
con người và toàn xã hội.
- Thế giới quan không chỉ giúp con người trở nên có định hướng hơn, tưduy
một cách logic hơn mà còn giúp sự phát triển của xã hội có tiến trình cụ thể và
theo hướng ngày càng hiện đại, văn minh.
- Sự định hướng trên được hiện diện trong mọi mặt, từ hoạt động nhận
thứcthế giới khách quan đến cuộc sống thực tiễn của con người.
Nhìn nhận hiện thực khách quan
- Thế giới quan giúp con người có thể nhìn nhận lại chính mình và nhìnnhận
được thế giới xung quanh. Từ đó xác định được những mục đích, ý nghĩa cuộc
sống và lựa chọn cách thức hoạt động để có thể đạt được mục đích, ý nghĩa đó.
- Khi thế giới quan đúng đắn thì nhân sinh quan cũng sẽ trở nên tích cực,trình
độ phát triển của thế giới sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. 12 lOMoAR cPSD| 45740413 1.3.
Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa Mác
Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa Mác thể
hiện ở nhiều khía cạnh, bao gồm nguồn gốc của tri thức và quyền uy, mục tiêu
cuộc sống, quan điểm về cuộc sống sau đời, quan điểm về tài sản và sở hữu, …
Những sự đối lập này thể hiện cách mà thế giới quan tôn giáo và thế giới
quan chủ nghĩa Mác nhìn nhận và đối phó với cuộc sống, giá trị, và tồn tại con
người. Mặc dù có sự chênh lệch rõ ràng giữa hai thế giới quan này, họ đều có sự
ảnh hưởng lớn đối với lịch sử và văn hóa của con người. Cụ thể như sau:
1.3.1. Về nguồn gốc của tri thức và quyền uy:
Thế giới quan tôn giáo: Tri thức và quyền uy thường xuất phát từ tôn thần
hoặc thần linh. Tôn giáo coi sự thánh thiêng và tôn thần là nguồn gốc của kiến
thức và quyền lực. Lãnh đạo tôn giáo, như linh mục, thầy trò, hoặc giáo sư tôn
giáo, thường có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tâm linh và đạo đức.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác không chấp nhận tri thức và
quyền uy từ sự thánh thiêng. Thay vào đó, nó coi sự thay đổi xã hội và quyền lực
xã hội dựa trên mối quan hệ kinh tế và xã hội. Các nhà lãnh đạo trong chủ nghĩa
Mác thường là những người tồn tại trong môi trường xã hội cụ thể và thúc đẩy sự
thay đổi xã hội dựa trên lợi ích của tầng lớp công nhân.
1.3.2. Mục tiêu cuộc sống
Thế giới quan tôn giáo: Mục tiêu của cuộc sống trong thế giới quan tôn
giáo thường là tìm kiếm ý nghĩa tâm linh và sự cứu rỗi. Cuộc sống trần tục thường
được coi là một phần của sứ mệnh tôn thần và mục tiêu cuối cùng là đạt được
cuộc sống sau đời tốt đẹp.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Mục tiêu cuộc sống trong chủ nghĩa Mác là
cải thiện điều kiện sống của tầng lớp công nhân và xây dựng một xã hội cộng sản
bình đẳng. Cuộc sống trần tục và công việc lao động trở nên quan trọng để thúc
đẩy sự phát triển xã hội và đảm bảo công bằng.
1.3.3. Quan điểm về cuộc sống sau đời 13 lOMoAR cPSD| 45740413
Thế giới quan tôn giáo: Cuộc sống sau đời thường được coi là quan trọng
và làm định hình hành vi và đạo đức trong cuộc sống này. Hành vi tốt trong cuộc
sống này có thể dẫn đến sự cứu rỗi trong cuộc sống sau đời.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác không quan tâm đến cuộc
sống sau đời và tập trung vào cải thiện cuộc sống xã hội trong hiện tại. Họ xem
xã hội cần được cải thiện trong cuộc sống này thay vì chờ đợi cuộc sống sau đời.
1.3.4. Quan điểm về tài sản và sở hữu
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường không đặt vấn đề lớn về tài sản
và sở hữu cá nhân. Tuy nhiên, một số tôn giáo có thể có hệ thống tài sản và quản lý sở hữu riêng.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác coi tài sản và sở hữu cá
nhân là nguyên nhân gây ra sự mâu thuẫn xã hội và tạo ra tầng lớp tư sản. Chủ
nghĩa Mác đề xuất loại bỏ sự sở hữu cá nhân trong hệ thống xã hội cộng sản để
đạt được công bằng xã hội.
1.3.5. Nguồn gốc của đạo đức và giá trị
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường định hình đạo đức và giá trị của
con người dựa trên các nguyên tắc và quy tắc tôn thần. Các giá trị như lòng khoan
dung, tình thương và trung thực thường được coi trọng trong ngữ cảnh tôn giáo.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác coi giá trị và đạo đức xã hội
như một phản ánh của cơ cấu xã hội và kinh tế. Họ tập trung vào công bằng xã
hội và sự cải thiện của cuộc sống con người dựa trên thay đổi trong hệ thống sản xuất và phân phối.
1.3.6. Quan điểm về sự tồn tại của cá nhân và cộng đồng
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường tôn trọng và coi trọng sự tồn tại
cá nhân và mối quan hệ cá nhân với thượng đế. Mỗi người có một mối quan hệ
riêng với tôn thần và cuộc sống sau đời.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác tập trung vào cộng đồng và
tầng lớp xã hội. Họ thúc đẩy sự tập hợp của công nhân và cảm nhận rằng thay đổi
xã hội chỉ có thể đạt được thông qua hành động tập thể của mọi người. 14 lOMoAR cPSD| 45740413
1.3.7. Thực hành và lễ kính
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường đi kèm với các lễ kính và nghi lễ
tôn giáo, như lễ hội, lễ cầu nguyện và lễ kính tượng thần. Những hoạt động này
giúp duy trì và phát triển đạo đức tôn giáo và đạo đức cá nhân.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác tập trung vào hành động cụ
thể để thay đổi xã hội. Thay vì lễ kính, họ thúc đẩy các hành động đối chất như
cuộc biểu tình, cách mạng xã hội và cải thiện điều kiện làm việc của công nhân. 15 lOMoAR cPSD| 45740413
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN: 2.1. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước hiện nay
2.1.1. Tôn giáo ở Việt Nam
Về mặt dân cư, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ
cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng,
dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước.
Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ (còn gọi là
tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên việc
Lão giáo, Nho giáo - những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập; Công
giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo và sau này đạo Tin
lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo thu hút người
theo đạo là điều dễ hiểu.
Việt Nam là một quốc gia bao gồm những tôn giáo có nguồn gốc từ phương
Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên
chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo
Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức
giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Bên cạnh đó có những tôn giáo đã
phát triển và hoạt động ổn định xong cũng có những tôn giáo chưa ổn định, đang
trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba
khu vực nói trên có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa
dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa thần
với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập quán truyền thống.
Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào những vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo, cụ thể:
Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có 1.043.678
người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme. Cộng đồng 16 lOMoAR cPSD| 45740413
người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100 nghìn người Chăm, trong đó số
người theo Hồi giáo chính thống (gọi là Chăm Ixlam) là 25.703 tín đồ, Hồi giáo
không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ. Ngoài ra còn có hơn 30 nghìn
người theo đạo Bàlamôn (Bà Chăm). Hồi giáo chính thức truyền vào dân tộc
Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo đã góp phần quan trọng trong
việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, văn hóa của người Chăm.
Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành. Hiện
nay ở khu vực Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công
giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc biệt,
khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo Tin lành
dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn Dao theo đạo Tin lành dưới tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân.
Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 8085%,
của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là người lao
động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù trong lao động
sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo
cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng to lớn của dân tộc.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh hoạt tôn giáo,
nhất là những sinh hoạt tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ phận
tín đồ của một số tôn giáo vẫn còn mê tín dị đoan, thậm chí cuồng tín dễ bị các
phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
2.1.2. Chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước hiện nay -
Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phậnnhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. 17 lOMoAR cPSD| 45740413
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật. -
Thứ hai, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kếtdân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và
nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín
dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. -
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận độngquần chúng.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước; thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo
quyền lợi vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. -
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo không chỉ liên quan đến quần chúng tín đồ, chức sắc các
tôn giáo, mà còn gắn liền với công tác đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng
tôn giáo gây phương hại đến lợi ích Tổ quốc, dân tộc. Làm tốt công tác là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm hệ thống tổ chức đảng, chính
quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị do Đảng lãnh đạo. -
Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận
được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền 18