


























Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN: THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ SỰ VẬN
DỤNG CỦA SINH VIÊN NGUYỄN HỒNG NHUNG 11225027 TRONG GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC LÀM, THẤT NGHIỆP CỦA SINH VIÊN ĐÃ TỐT NGHIỆP Họ và tên : Nguyễn Hồng Nhung Mã sinh viên : 11225027 Lớp : LLN1105(122)_45
Người hướng dẫn : TS. Lê Ngọc Thông MỤC LỤ Hà Nội , năm 2023
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU & CẢM ƠN.......................................................................................4
PHẦN 2: NỘI DUNG................................................................................................................5 I.
Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của Triết
học Mác – Lênin.....................................................................................................................5
1. Vật chất........................................................................................................................5
1.1 Định nghĩa vật chất....................................................................................................6 1.2
Phương thức tồn tại của vật chất...........................................................................7
1.2.1 Vận động.............................................................................................................7
1.2.2 Không gian và thời gian......................................................................................9
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác – Lênin........9
2. Ý thức.........................................................................................................................10 2.1
Nguồn gốc của ý thức.........................................................................................10
2.1.1 Nguồn gốc tự nhiên...........................................................................................10
2.1.2 Nguồn gốc xã hội..............................................................................................10 2.2
Bản chất của ý thức.............................................................................................11 2.3
Kết cấu của ý thức...............................................................................................12 2.3.1
Theo chiều ngang.........................................................................................12 2.3.2
Theo chiều dọc.............................................................................................12
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức..........................................................................13
3.1 Vật chất quyết định ý thức.......................................................................................13 3.2
Ý thức tác động trở lại vật chất...........................................................................14
4. Ý nghĩa phương pháp luận.........................................................................................15
II. Vận dụng quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của Triết học
Mác – Lênin để giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp.........16
1. Đặt vấn đề...................................................................................................................16
2. Thực trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp......................................................16
3. Nguyên nhân thất nghiệp của sinh viên hiện nay......................................................19 3.1
Cung lao động nhiều hơn so với nhu cầu tuyển dụng.........................................19 3.2
Sinh viên thiếu kinh nghiệm làm việc thực tế và kĩ năng mềm..........................19 3.3
Không có định hướng nghề nghiệp trước khi học..............................................19 2 3.4
Sinh viên thiếu mối liên hệ với nhà tuyển dụng, chưa chủ động nắm bắt thông
tin với nhà tuyển dụng...................................................................................................20 3.5
Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội...................................20
3.6 Hiện tượng nhảy việc ở giới trẻ ngày nay...............................................................21
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xin việc của sinh viên...............................21 4.1
Bằng cấp chuyên môn.........................................................................................21 4.2
Kinh nghiệm làm việc thực tế.............................................................................22 4.3
Trình độ ngoại ngữ..............................................................................................22 4.4
Kỹ năng mềm - lợi thế hòa nhập với môi trường làm việc.................................22 4.5
Sử dụng thành thạo công nghệ thông tin:...........................................................23
5. Giải pháp cho vấn đề việc làm và thất nghiệp của sinh viên hiện nay......................23 5.1
Đối với sinh viên.................................................................................................23 5.2
Đối với nhà trường..............................................................................................24 5.3
Đối với nhà nước.................................................................................................25
PHẦN 3: KẾT LUẬN..............................................................................................................25
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................26 3
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU & CẢM ƠN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh
mẽ, thì vấn đề việc làm trong giới trẻ đang trở thành một vấn đề quan trọng. Chính vì thế,
nhiệm vụ được đặt ra cho ngành giáo dục cũng như toàn xã hội đó là việc đáp ứng được
nguồn nhân lực vững vàng về kiến thức chuyên môn, kỹ năng trong các công việc nhất định
và chắc chắn không thể thiếu đó chính là kiến thức về nhận thức chính trị, tư tưởng. Và do
đó, các bộ môn Lý luận chính trị được đưa vào giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu đó, và Triết
học Mác – Lênin góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nhiệm vụ này.
Hiện nay, Triết học nói chung là một bộ phận gắn liền và không thể tách rời trong bất kỳ hình
thái kinh tế - xã hội nào. Với những vấn đề Triết học về mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức; giữa tồn tại và tư duy luôn là cơ sở, nền tảng, là phương hướng cho các hoạt
động thực tiễn, đưa lý luận vào xây dựng và phát triển xã hội.
Là một sinh viên Kinh tế, là công dân nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang theo
học các bộ môn thuộc học phần Lý luận chính trị cùng với kinh nghiệm bản thân trong các
cuộc thi về môn Lịch Sử, bản thân em thông qua bài tập lớn này muốn tìm hiểu sâu hơn, kỹ
hơn về Triết học Mác – Lênin. Cụ thể hơn là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức,
để rồi từ đó vận dụng quan điểm này để giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên
đã tốt nghiệp hiện nay. Và vì những lý do trên, em chọn đề bài số 10 trong số 11 đề bài từ
GVHD là TS. Lê Ngọc Thông.
Nội dung bài tập lớn của em sẽ được thể hiện qua 2 phần lớn chính là: I.
Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin. II.
Vận dụng quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của Triết
học Mác – Lênin để giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp
Trong quá trình thực hiện bài tập lớn, thông qua nguồn tham khảo chính là giáo trình Triết
học Mác – Lênin (dành cho bậc Đại học hệ không chuyên Lý luận chính trị) do Bộ Giáo dục
và Đào tạo làm chủ biên và những nguồn tham khảo khác được trích dẫn tương ứng trong
bài, chắc hẳn bài làm sẽ không thể không tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự 4
đóng góp cũng như là lượng thứ với lần làm bài tập lớn đầu tiên này. Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN 2: NỘI DUNG I.
Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của
Triết học Mác – Lênin. 1. Vật chấ
1.1 Định nghĩa vật chất
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I Lênin định nghĩa
vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa của V.I. Lênin bao gồm các nội dung như sau:
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.
Mọi sự vật hiện tưởng đều thuộc phạm trù của vật chất , đều là các dạng tồn tại đặc biệt của
vật chất. Nhưng không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng đặc biệt của vật chất.
Thứ hai, vật chất (dưới hình thức cụ thể của nó) là cái khi tác động vào các giác quan con
người thì đem lại cho con người cảm giác. Tuy nhiên không phải tất cả sự vật , hiện tượng
quá trình trong thế giới khi tác động lên giác quan con người thì đem lại cho con người cảm
giác. Con người thông qua cảm giác để đánh giá về sự tồn tại của vật chất. Cũng như khẳng
định được, phân biệt được giữa vật chất và ý thức. Hai khái niệm này tách rời nhau, và mang
đến các dạng tồn tại khác hoàn toàn. Khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan
của con người. Vật chất là cái được ý thức phản ánh bằng cảm giác thỏa mãn với khái niệm trên.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Là kết quả của sự khái
quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện
tượng. Khi đó, hướng đến các giải thích cho sự tồn tại bên cạnh ý nghĩa trong xác định. Nên
nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Vật chất có dạng tồn tại
cố định hoặc không, nhưng được đảm bảo cho cảm giác phản ánh.
1.2 Phương thức tồn tại của vật chất: 5
Phương thức tồn tại của vật chất là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật chất. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vận động là cách thức tồn tại, đồng thời là hình thức
tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. 1.2.1 Vận động
Với tư cách là một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi
nói chung. Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Sự tồn tại của vật chất là bằng cách vận động,
tức là vật chất luôn trong quá trình biến đổi không ngừng. Thế giới vật chất, từ thiên thể
khổng lồ đến những hạt cơ bản vô cùng nhỏ, từ giới vô cơ đến hữu cơ, từ hiện tượng tự nhiên
đến hiện tượng xã hội, mọi thứ luôn ở trong trạng thái không ngừng vận động. Chúng (các sự
vật, hiện tượng) là một thể thống nhất, có kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các khuynh
hướng, các bộ phận tương tác qua lại với nhau gây ra biến đổi. Vậy ra, vận động của vật chất
là tự thân nó tạo ra và tự nó mang tính phổ biến. Thông qua vận động, vật chất biểu hiện sự
tồn tại của nó với các loại hình dạng phong phú, muôn vẻ, vô tận. Do vậy nên con người chỉ
nhận thức được sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động. Vận
động là thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất, nó tồn tại vĩnh viễn, không
thể tạo ra và cũng không thể bị triệt tiêu.
*Những hình thức vận động cơ bản của vật chất: Một hình thức vận động cụ thể thì có thể
mất đi và chuyển hóa thành hính thức vận động khác. Hình thức vận động hết sức đa dạng,
được biểu hiện với quy mô, trình độ và tính chất hết sức khác nhau.
Ph.Ăngghen dựa vào thành tựu khoa học thời đại mình, đã chia vận động của vật chất thành
năm hình thức cơ bản là: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Cơ sở phân chia đó dựa
trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ của tổ chức vật chất
các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh (hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở
của hình thức vận động thấp và bao hàm cả hình thức vận động thấp); hình thức vận động
cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và không thể quy về hình thức vận động
thấp. Việc phân chia như thế có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phân chia đối tượng và
xác định mối liên hệ giữa các ngành khoa học, và vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự
tương quan giữa các hình thức vận động của vật chất. Các hình thức vận động tồn tại trong
mối liên hệ không thể tách rời nhau; giữa hình thức vận động cao và thấp luôn tồn tại một 6
hình thức vận động trung gian (đây chính là mắt khâu chuyển tiếp giữa các hình thức vận
động). Kết cấu vật chất là nhất định và được đặc trưng bởi một hình thức vận động riêng biệt
của nó. Do đó, việc thấy rõ mối liên hệ giữa các hình thức vận động là quan trọng nhưng
cũng cần phải phân biệt sự khác nhau nhau về chất của chúng.
Trong tương lai có thể sẽ có nhiều hình thức vận động mới được tìm ra nhờ vào sự phát triển
của trình độ tổ chức vật chất, tuy nhiên vẫn phải dựa vào những nguyên tắc căn bản của sự
phân loại. Việc nghiên cứu sự thống nhất và khác nhau của các hình thức vận động của vật
chất vừa có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc; giúp con
người đề phòng và khắc phục sai lầm trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn xã hội.
*Vận động và đứng im. Sự vận động không ngừng, tồn tại vĩnh viễn của vật chất không thể
bị triệt tiêu mà còn bao hàm cả sự đứng im tương đối. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, đứng im là một trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những
mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện
tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất. Đứng im là một trạng thái
mang tính tạm thời, trong mối quan hệ nhất định, với một hình thức vận động cụ thể. Đứng
im cũng là một trạng thái tĩnh – chuyển động trong cân bằng và trong sự ổn định nhất thời.
Đứng im tuy chỉ mang tính nhất thời, nhưng nó lại chứng thực cho sự tồn tại thật của vật
chất, là cơ sở cho quá trình vận động chuyển của vật chất. Không một sự vật hay hiện tượng
nào có thể tạo ra chuyển động cũng như nó sẽ không bao giờ mất đi. Vận động và đứng im
thể hiện sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập; vận động là tuyệt đối còn đứng im có
tính chất tương đối. Sự vật và hiện tượng khác nhau, vì vậy mà trong cùng một sự vật, hiện
tượng nhưng trong những mối quan hệ khác nhau, ở các hoàn cảnh khác nhau việc đứng im
cũng khác nhau. Do vậy, phải nghiên cứu vận động và đứng im của sự vật, hiện tượng theo thời gian, địa điểm.
1.2.2 Không gian và thời gian
Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Không gian là kích thước của không
gian mà một vật thể chiếm giữ (dài, rộng và cao) và thời gian là độ dài tồn tại, mức độ tiến
hóa. Nghĩa là tính ba chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một
chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
V.I. Lê-nin đã viết rằng: "Trong thế giới không có gì khác ngoài vật chất chuyển động, và vật
chất vận động không thể chuyển động ngoài không gian và thời gian". Vật chất tồn tại khách
quan, do đó không gian và thời gian cùng tồn tại khách quan. Không gian và thời gian là hai
thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau của vật chất vận động. Vì không tách rời 7
nhau nên thực chất không gian và thời gian là một thể thống nhất không gian – thời gian. Vật
chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian. Không gian và thời gian nói chung là vô
tận, xét cả phạm vi lẫn tính chất. Còn đối với một sự vật, hiện tượng cụ thể thì chúng có tận
cùng và hữu hạn. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian, thời gian là
cơ sở lý luận khoa học để phản bác lại những quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời hai phạm
trù trên với vật chất vận động. Và quan niệm đó cũng quán triệt nguyên tắc phương pháp
luận về tính lịch sử trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác – Lênin
Định nghĩa vật chất của V.I Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng; tính đúng đắn; cung cấp nguyên tắc thế giới quan
và phương pháp luận khoa học để chống lại chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm
trù này. Nó còn tạo sợi dây liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử để tạo thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo nên nền tảng lý luận khoa
học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của duy vật lịch sử.
Dẫn chứng: Tháng 9/1995 tại Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN), theo các lý
thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành một thực nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử.
Thực nghiệm chứng tỏ phản nguyên tử cũng là thực tại khách quan, con người ngày càng
nhận thức được một cách sâu sắc hơn những kết cấu phức tạp của thế giới vật chất. 2. Ý thức II.1
Nguồn gốc của ý thức
Theo C.Mác khẳng định quan điểm duy vật biện chứng về ý thức: “ý niệm chẳng qua chỉ là
vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”
Ý thức được xác định từ hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
2.1.1 Nguồn gốc tự nhiên
Bộ não có cấu trúc tinh vi, nặng khoảng 370g cùng với 14-15 tỷ tế bào thần kinh và các chức
năng của nó ,cũng như các mối quan hệ khách quan của thế giới và con người, được xác định
là những yếu tố tự nhiên là sự bắt nguồn và cũng là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Sự hình
thành ý thức của con người đối với thế giới khách quan là do sự tác động của thế giới khách
quan vào bộ não con người tạo cơ hội cho sự hình thành tư duy. Như vậy, có thể cho rằng, sự
phản ánh thế giới khách quan của con người được coi là ý thức. 8
Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài các hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não .Bộ
não người là cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ não người. Ý thức
phụ thuộc vào hoạt động của bộ não và vì thế khi bộ não có vấn đề thì hoạt động ý thức sẽ
không được bình thường hay bị ảnh hưởng. Do đó không thể tách ý thức với hoạt động của não bộ.
Nếu chỉ có bộ não mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ não phản ứng lại sự
tác động này thì không thể có ý thức. Phản ánh là thuộc tính chung của các đối tượng vật
chất, tính chất này được biết đến. thể hiện ở mối quan hệ và tác động qua lại giữa các vật lý.
Kết quả của phản xạ phụ thuộc vào hai đối tượng - tác nhân và vật nhận tác động .Vật nhận
tác động thì luôn mang thông tin của vật tác động .Sự tác động bên ngoài đồng thời bộ não
người là cơ quan phản ánh tạo nên ý thức đó chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
2.1.2 Nguồn gốc xã hội
Sự tiến hoá của giới tự nhiên ở các mức độ mới tạo nên tiền đề có năng lực phản
ánh, thế nhưng nó chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Chỉ có từ thực tiễn, đặc biệt là hoạt
động thực tiễn của con người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định cho sự hình thành của ý thức.
Để tồn tại, con người – một giống loài đặc biệt trong xã hội luôn biết tạo ra những thứ vật
phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Ph.Ăngghen chỉ ra động lực xã hội trực tiếp
thúc đẩy ra đời của ý thức trước hết là lao động; sau lao động và cũng đồng thời với lao động
chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hệ thống các tín hiệu vật lý chứa thông tin với nội dung
có ý thức. Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với công việc lao động. Công việc lao động ngay
từ đầu nó đã có tính xã hội. Sở dĩ hai động lực đó được Ph.Ăngghen chỉ ra vì chúng kích
thích bộ óc của con vượn, dần dần bộ óc vượn ấy chuyển thành bộ óc con người. Thông qua
hoạt động cải tạo thế giới khách quan mà con người từng bước nhận thức được thế giới và có ý thức sâu sắc về nó.
Chung quy lại, ý thức ra đời là kết quả của quá trình lịch sử tiến hoá lâu dài của nhân loại,
của lịch sử trái đất; nó cũng là kết quả tất yếu của thực tiễn xã hội và lịch sử của loài người.
Trong thực tế, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần; nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ. Nếu chỉ
nhấn mạnh một trong hai nguồn gốc, dù là từ tự nhiên hay chỉ xã hội thì sẽ dẫn đến quan
điểm sai lầm, phiến diện có dấu hiệu của chủ nghĩa duy tâm hoặc duy vật biện chứng; không
giải thích đúng bản chất của hiện tượng ý thức và của đời sống con người nói chung. Nghiên
cứu nguồn gốc của ý thức là phương pháp tìm hiểu bản chất của ý thức và khẳng định bản
chất xã hội của ý thức. 9 II.2
Bản chất của ý thức
Thứ nhất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa ở chỗ: Ý
thức là hình ảnh của thế giới khách quan, được thế giới khách hàng quy định cả về nội dung
và về hình thức biểu hiện, nhưng nó không có biểu hiện như thế giới khách quan mà nó trở
thành phương tiện thông tin dưới lăng kính chủ quan con người.
Thứ hai, ý thức là sự phản ánh năng động và sáng tạo thế giới khách quan. Tính năng động,
sáng tạo của sự hiểu biết còn có thể hiện ở việc con người đưa ra những tác động đối với sự
vật một cách có hệ thống, hợp lý và đúng theo nhu cầu của mình.
Thứ ba, ý thức là một hiện tượng xã hội và có tính chất xã hội. Sự hình thành và tồn tại của
ý thức đi liền với hoạt động thực tế, chịu sự chi phối của những quy luật tự nhiên và của các
quy tắc xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và điều kiện sinh hoạt của đời sống xã hội. II.3
Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau. Có thể phân chia
kết cấu đó theo nhiều “lát cắt” khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận. Ở đây, có thể chia cấu trúc
đó theo hai chiều sau đây: theo chiều ngang và theo chiều dọc.
II.3.1 Theo chiều ngang
Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí… + Tri thức + Ý chí thái độ
+ Trạng thái tâm lý (tình cảm và chú ý)
Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, là cốt lõi. Tri thức là kết quả của quá trình con người
nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau
như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người…và có nhiều cấp độ khác nhau như tri
thức cảm tính và tri thức lý tính, tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học vv
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người
với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt
động của con người và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con 10
người. Tri thức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì
tri thức mới biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
II.3.2 Theo chiều dọc
Tự ý thức: đó là quá trình con người tự nhận thức bản thân mình. Như vậy, tự ý thức cũng là
ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, song đây là ý thức về bản thân mình trong mối
quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý (chủ yếu là hoạt động nhận thức ở cả hai trình độ cảm
tính và tư duy) tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại có liên quan trực
tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sư kiểm soát của chủ thể ấy.
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển. Lĩnh vực vô thức là lĩnh
vực các hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được
trong một lúc nào đó. Chúng liên quan đến những hoạt động xảy ra bên ngoài phạm vi của lý
trí hoặc chưa được con người ý thức đến
*Vấn đề trí tuệ nhân tạo AI: Artificial Intelligence
Phù hợp với sự phát triển của đất nước, khoa học công nghệ hiện đại đã phát triển vượt bậc,
tạo nên các máy móc, thiết bị không những thay thế lao động chân tay mà thay thế một phần
lao động trí óc. AI là một ngành của khoa học máy tính liên quan đến việc tự động hóa các
hành vi thông minh. AI là một bộ phận của khoa học máy tính và do đó nó phải được đặt trên
những nguyên lý lý thuyết vững chắc, có khả năng ứng dụng được của lĩnh vực này.
Hiện tại, AI dùng để nói đến các máy tính có mục đích không nhất định và ngành khoa học
nghiên cứu về các lý thuyết và ứng dụng của trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, máy móc không thể
tái tạo hiện thực khách quan như con người, cho nên dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng
nữa cũng không thể hoàn thiện như bộ óc con người. Con người là thực thể tự nhiên – xã hội
có ý thức, là chủ thể tạo nên các giá trị vật chất và tinh thần, quyết định sự hình thành và phát
triển của xã hội. Con người có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và là chủ thể có ý
thức. Do vậy cần có nhận thức đúng về con người để bảo vệ, chăm lo cho con người toàn
diện cả về vật chất và tinh thần, đặc biệt là giới trẻ.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1 Vật chất quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa, tách rời ý thức và tinh thần bẩm sinh của con người
thành một lực lượng thần bí và tiên nghiệm; dễ dẫn người ta đến con đường “ngu dân”. Mặt 11
khác, chủ nghĩa duy vật siêu hình tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, đề cao tính một chiều của vật
chất, phủ nhận tính độc lập của ý thức; không chỉ ra những hành động thiết thực để cải tạo hiện thực khách quan.
Trên cơ sở phép biện chứng duy vật và những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các
nhà lý luận Mác - Lênin đã khắc phục những hạn chế, sai sót để đưa ra những khái quát đúng
đắn về chủ đề này. Hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất và ý thức.
Theo quan điểm của Mác-Lênin: “Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó
vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất”
Có thể thấy vai trò quyết định thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Ý thức được “sinh ra” từ vật chất, bởi vì
ý thức dường như luôn gắn liền với sự xuất hiện của con người. Ý thức chỉ là kết quả của
một quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao
là bộ não người. Không thể có ý thức nào có trước con người, và không có ý thức nào bên
ngoài con người, độc lập với con người. Chắc hẳn thế giới xung quanh chúng ta là tự nhiên
và một xã hội phi nhân loại có thể tạo ra ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức dưới mọi hình thức của nó suy cho
cùng là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan, và yếu tố quyết định nội dung mà ý thức
đáp ứng trước hết là hành động xã hội thực tiễn. Ý thức chỉ là hình ảnh của khách quan.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai đặc trưng bản
chất của ý thức. Phản hồi tích cực, kỷ luật tự giác, sáng tạo qua thực tiễn.
Thứ tư, vật chất quyết định sự hoạt động và phát triển của ý thức. Mọi sự tồn tại và phát triển
đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất, vật chất sớm muộn cũng biến đổi thì ý thức
cũng phải biến đổi theo. Trong xã hội, kinh tế phát triển cũng quy định văn hóa phát triển;
đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
3.2 Ý thức tác động trở lại vật chất
Khẳng định vật chất quyết định ý thức, nhưng chủ nghĩa Mác không bao giờ đánh giá thấp
vai trò của ý thức. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là một chiều mà là mối
quan hệ qua lại với nhau.
Trong mối quan hệ với vật chất thì ý thức có tác động đến vật chất qua hoạt động thực tiễn của con người. 12
Do ý thức là ý thức của con người cho nên nói về vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con
người. Trái với các nhà triết học duy tâm muốn biến ý thức của con người thành động lực của
lịch sử, Các mac và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xưa nay, tư tưởng không thể đưa người ta
vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được, trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể
đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi”. Thật vậy, bản
thân ý thức tự nó không làm thay đổi cái gì trong thực tế. Muốn thay đổi hiện thực thì con
người cần có các hoạt động vật chất. Song, tất cả hoạt động của con người đều được ý thức
điều khiển, nên vai trò của ý thức không phải là tạo ra hoặc biến đổi thế giới vật chất mà nó
cung cấp cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở đó con người xác định
mục tiêu, đưa ra phương huớng, lập kế hoạch và sử dụng phương pháp, biện pháp, công cụ,
phương tiện, v.v. nhằm hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự ảnh
hưởng của mình lên vật chất và hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức trở lại vật chất theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Khi con người nhận thức đúng
đắn, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực và ý chí thì hành động của con
người phù hợp với các quy luật khách quan, con người mới vượt qua được thử thách, trong
quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là tác dụng tích cực của ý
thức. Nếu ý thức con người không phản ánh hiện thực khách quan, bản chất và các quy luật
khách quan của nó thì phương hướng hoạt động của con người ngay từ đầu đã đi ngược lại
các quy luật khách quan và những hoạt động đó có tác động tiêu cực với hoạt động thực tiễn,
đối với hiện thực khách quan.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động.
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt
động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải
thể hiện những thuộc tính, quy luật. Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của
mình, con người phải căn cứ vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương
hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành công.Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói
quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
Thứ hai, phải phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người. Con
người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy
khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường 13
xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng. Con người tuyệt
đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào lười suy nghĩ, lười
lao động. Đặc biệt, công tác giáo dục tư tưởng cần được xem trọng, nâng cao trình độ khoa
học, bồi dưỡng ý chí cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Việc tiếp thu tri thức nhân loại,
tri thức khoa học cần phải có chọn lọc; phải biết kết hợp hài hòa lợi ích từ cá nhân, tập thể cho đến xã hội.
II. Vận dụng quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của Triết
học Mác – Lênin để giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp 1. Đặt vấn đề
Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, bên cạnh những thuận lợi cũng có không ít những
khó khăn, tiêu cực, ví dụ tình trạng sinh viên sau khi ra trường thất nghiệp ngày càng gia
tăng trong cơ chế thị trường hiện nay.
Đất nước càng phát triển, một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, bên
cạnh công nghệ sản xuất kinh doanh hiện đại, chính là lực lượng lao động, trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay, sức mạnh của lực lượng lao động là sinh viên được đào tạo trong
các trường đại học, cao đẳng..., nguồn lực trẻ của đất nước rất năng động và có năng lực
trong công việc. Vì vậy, sinh viên là nguồn nhân lực hết sức quan trọng mà chúng ta cần phải
biết sử dụng hợp lý và hiệu quả. Tuy nhiên, tình trạng sinh viên sau khi ra trường thất nghiệp
hiện nay đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Vấn đề này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người có một quan điểm khác
nhau. Điều này xảy ra là vì về mặt nhận thức chủ thể chưa nhìn nhận vấn đề một cách toàn
diện, tổng thể mà chỉ nhìn ở một phía nhất định. Do vậy bài tiểu luận này em sẽ “Vận dụng
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức triết học Mác – Lênin để giải quyết vấn đề việc làm và
thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp”.
Như chúng ta đã biết, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Nhân tố
vật chất giữ vai trò là cơ sở, quyết định, còn nhân tố ý thức là có tác dụng trở lại đối với nhân
tố vật chất. Trong nhiều trường hợp, nhân tố ý thức có tác dụng quyết định đến sự thành bại
của hoạt động con người. Điều này thể hiện rõ trong việc sinh viên nên nhìn nhận bản thân
trong bối cảnh sau khi ra trường ở Việt Nam hiện nay.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất có thể diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu ý thức của sinh viên mới ra trường có khả năng nhận thức đúng, có nghị lực, có
tri thức khoa học thì hành động của con người sẽ phù hợp với các quy luật khách quan, con
người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình,
thế giới được cải tạo. Ngược lại, nếu ý thức của sinh viên mới ra trường phản ánh không
đúng bản chất, quy luật và hiện thực khách quan sẽ dẫn đến hướng hành động của con người
đi ngược lại các quy luật khách quan điều này dẫn đến các ảnh hưởng tiêu cực đối với hoạt
động thực tiễn và hiện thực khách quan. Như vậy, vận dụng nội dung và ý nghĩa phương 14
pháp luận của quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức để lý giải về vấn đề giải quyết việc
làm cho những sinh viên vừa ra trường chính là việc xác định vật chất và ý thức trong
trường hợp này, đồng thời nhận định được mối quan hệ biện chứng của chúng và tác động
của ý thức đối với vật chất diễn ra theo chiều hướng nào. Cụ thể trong trường hợp này, ý thức
tác động đến vật chất theo chiều hướng tích cực.
Vật chất ở đây chính là điều kiện hoàn cảnh của những sinh viên mới ra trường. Họ là những
người trẻ, vừa rời ghế nhà trường, kinh nghiệm sống chưa nhiều, khả năng thích nghi với
công việc kém và chịu thiệt thòi về mặt kinh tế trong xã hội. Hoàn cảnh sống khó khăn dẫn
đến môi trường học tập kỹ năng hạn chế, họ không được tiếp cận những kỹ năng mềm cơ
bản, chưa được thực nghiệm trong cuộc sống.
Chính vì hoàn cảnh vật chất như vậy, những sinh viên ấy buộc phải đối mặt với hai lựa chọn:
ủ rũ, than vãn, luôn cảm thấy bất công về hoàn cảnh sống của mình; hoặc đương đầu với
nghịch cảnh, cố gắng phấn đấu học hành trong điều kiện hạn chế để vươn lên trong học tập
kỹ năng, thích nghi với môi trường sống mới, trở thành những con người tài giỏi, ưu tú trong
cuộc đời và đóng góp cho tương lai đất nước sau này. Và trong trường hợp này, sinh viên
mới ra trường nên lựa chọn chinh phục thành công, vượt qua gian khó. Ý chí ở đấy chính là
thái độ tích cực, lạc quan, không ngần ngại khó khăn và quyết tâm đổi đời. Từ ý chí, nhận
thức đúng đắn ấy dẫn đến những hành động tích cực, đó là sự học tập nghiêm túc, chăm chỉ,
cần mẫn cùng việc tích lũy kinh nghiệm, va chạm trong cuộc sống để ngày một phát triển, cải
thiện rồi vươn lên trong những lĩnh vực họ theo đuổi. Hay nói cách khác, những hoạt động từ
ý chí ấy đã giúp họ trở thành những người thành công, vượt qua những trở ngại hay chính bản thân mình.
2. Thực trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp
Từ khi đất nước ta có chính sách mở cửa giao lưu hợp tác với các nước trong khu vực cũng
như các nước trên thế giới, kinh tế chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần tự do cạnh
tranh phát triển đã phát huy rất nhiều mặt tích cực. Mặt tích cực đáng chú ý là sự cố gắng
vươn lên của lớp thanh niên mới để có thể đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của công việc.Sự
mở rộng phát triển kinh tế thị trường thực sự đã mang lại những cơ hội việc làm cho sinh
viên có khả năng, có năng lực, linh hoạt. Nhưng không phải mọi sinh viên ra trường đều có
việc làm và đây là một vấn đề đang được quan tâm của xã hội.
Theo kết quả khảo sát từ Báo cáo đánh giá việc làm sinh viên tốt nghiệp năm 2020 của Trung
tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực, Bộ Giáo dục và Đào tạo, có khoảng 80 -90% sinh
viên tùy từng cơ sở đào tạo sau khi tốt nghiệp từ 3 tháng đến 1 năm đã có việc làm. Kết quả
khảo sát sinh viên tốt nghiệp đại học cho thấy tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm chiếm
88,3% trong tổng số sinh viên trả lời phỏng vấn. Những sinh viên tốt nghiệp với thứ hạng
càng cao chiếm tỷ lệ có việc làm càng cao. Số liệu cho thấy sinh viên tốt nghiệp thuộc nhóm
ngành Y - Dược chiếm tỷ lệ có việc làm cao nhất, lên tới 96,3%. Tiếp theo là nhóm Khoa học 15
xã hội, Kinh tế, Luật, Nông - Lâm - Ngư nghiệp với tỉ lệ 89,6%. Xếp cuối là nhóm ngành
Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật, Công nghệ, Thể dục thể thao, Nghệ thuật chỉ đạt tỷ lệ 84 %.
Như vậy, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng chưa có việc làm và đang tìm việc chiếm
gần 20%. Con số này khá cao, nếu so với tỷ lệ thất nghiệp chung của nhóm thanh niên ở độ
tuổi 20 - 24 trong cả nước năm 2019 là 6,1%.
Với tấm bằng CĐ, ĐH trên tay nhiều SV không thể tìm được những việc làm ổn định. Nhiều
SV ở các vùng quê chấp nhận tìm kiếm một công việc tạm thời để làm lấy tiền trụ lại thành
phố xin việc ổn định sau. Các công việc mà họ làm đa phần là không cần đến bằng cấp như:
Chạy bàn tại các quán cafe, quán ăn hay làm nhân viên trực điện thoại, đi gia sư… Chỉ là
những công việc đơn giản nên lương không đủ ăn song để xin được một chỗ làm như vậy cũng không hề dễ.
Nhiều SV ra trường không xin được việc làm đã chọn giải pháp học lên cao học hoặc dành
thời gian và tiền bạc đi học thêm các kỹ năng như tiếng Anh, tin học, nghiệp vụ thư ký,
nghiệp vụ sư phạm, nghiệp vụ báo chí… để có thêm cơ hội tìm kiếm việc làm trong tương
lai. Cũng có nhiều SV ra trường đã tìm được việc làm sau một vài tháng đầu vật lộn nhưng
hầu hết trong số họ không mấy ai được làm công việc theo đúng chuyên ngành mình đã học.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tỷ lệ có việc làm đúng chuyên ngành của SV khối tự nhiên
là khoảng 60%, còn các trường thuộc khối xã hội thấp hơn nhiều. Một nghiên cứu gần đây
cho thấy cứ 100 SV khối xã hội mới tốt nghiệp chỉ có khoảng 10 người tìm được công việc
đúng chuyên môn. Số còn lại làm những công việc khác để lo cho cuộc sống và chờ cơ hội.
Để xin được những công việc khác này, SV phải học thêm nhiều kiến thức có thể khác rất xa
chuyên môn đã học. Như vậy việc làm cho SV sau khi ra trường thực sự là vấn đề xã hội nan giải. 16
Sau đây là phần phân tích thực trạng vấn đề việc làm của sinh viên đã tốt nghiệp Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân năm 2021 của em:
Đợt khảo sát được thực hiện vào tháng 12 năm 2021 đối với 4093 sinh viên vừa tốt nghiệp
trong vòng gần 1 năm trở lại (từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 8 năm 2021), kết quả cho thấy
có hơn 90% sinh viên đã có được việc làm.
Trong tổng số 22 ngành học của Nhà trường, 3 ngành học có tỷ lệ sinh viên có việc làm cao
nhất ngay sau khi tốt nghiệp ra trường, đó là: Khoa học máy tính, Quản trị nhân lực và
Marketing. Đây là những ngành được đánh giá là có sức hút lớn đối với sinh viên và thực tế
tình hình việc làm đã cho thấy hiệu quả của chương trình đào tạo của Nhà trường và tính gắn
kết trong hoạt động đào tạo của Nhà trường với nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó những ngành
được cho là thế mạnh trước đây thì tỉ lệ có việc làm vẫn rất cao như: Kế toán (92,35%); Quản trị KD (92,36%);…
Cũng theo kết quả khảo sát, gần 58% việc làm của sinh viên trong diện khảo sát này là ở khu
vực tư nhân, hơn 8% trong khu vực Nhà nước, gần 12% có yếu tố nước ngoài, đặc biệt có
gần 2% tự tạo việc làm, điều này phản ánh xu hướng khởi nghiệp kinh doanh trong sinh viên
Nhà trường. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh viên có việc làm đúng với chuyên môn đào tạo chỉ chiếm
xấp xỉ 29% trong khi tỷ lệ sinh viên có việc làm không liên quan đến ngành học chiếm gần
22%. Qua đó ta thấy được thực trạng sinh viên làm trái ngành nghề của nước ta là một vấn đề nan giải.
Kết quả khảo sát Việc làm của Sinh viên tốt nghiệp trong vòng 1 năm vào năm 2021 của
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã cho thấy bức tranh nhiều điểm sáng về tình trạng việc 17
làm của sinh viên ngay sau khi tốt nghiệp và cũng sẽ là căn cứ quan trọng để Nhà trường
điều chỉnh chương trình và chỉ tiêu đào tạo các ngành, đặc biệt mở thêm một số ngành mới
đáp ứng nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
3. Nguyên nhân thất nghiệp của sinh viên hiện nay
3.1 Cung lao động nhiều hơn so với nhu cầu tuyển dụng
Theo thống kê, hiện nay ở Việt Nam có hơn 700 trường đại học, học viện, cao đẳng đào tạo
nhiều ngành nghề khác nhau. Việc có thêm nhiều cơ sở đào tạo (trường cao đẳng, đại học)
ra đời dẫn đến số lượng sinh viên được đào tạo ở cùng các ngành, chuyên ngành ngày càng
nhiều, cung vượt cầu. Bên cạnh đó, tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp có nhiều khó khăn, nhu cầu tuyển dụng lao động bị thu hẹp; đối với các cơ quan, tổ
chức nhà nước, nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức ngày càng có yêu cầu cao hơn về
chất lượng. Thực tế cho thấy, số lượng ứng viên đăng ký dự tuyển hàng năm để tìm việc làm
khá đông, song kết quả số người đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng còn rất hạn chế.
Chênh lệch cung - cầu việc làm, chất lượng không bằng số lượng là những nguyên nhân
chính khiến hàng vạn sinh viên ra trường thất nghiệp, làm trái ngành nghề.
3.2 Sinh viên thiếu kinh nghiệm làm việc thực tế và kĩ năng mềm
Hiện nay, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoa, kỷ nguyên công công nghệ, kỷ
nguyên của 4.0 xâm nhập vào Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài hoặc có yếu tố nước
ngoài ngày càng nhiều. Những doanh nghiệp này yêu cầu ở sinh viên không chỉ là trinh độ
chuyên môn mà còn kỹ năng mềm. Do đó đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến
sinh viên ra trường thất nghiệp.
Vì vậy, trong quá trình học trên ghế nhà trường, đa số sinh viên tranh thủ học ngoại ngữ và
tin học để lấy được bằng chứng nhận làm cơ sở cho xin việc sau khi ra trường.
Tuy nhiên, nhiều nhà tuyển dụng lại yêu cầu sinh viên có được nhiều kinh nghiệm các kinh
nghiệm xử lý tình huống như: Giao tiếp tiếng Anh, đàm phán, xử lý vấn đề, làm việc nhóm,
… hơn là giấy từ chứng nhận đó.
3.3 Không có định hướng nghề nghiệp trước khi học
Ở Việt Nam, việc lựa chọn nghề phụ thuộc khá nhiều vào định hướng của các bậc cha mẹ.
Với tâm lý luôn muốn chở che, bảo vệ con, nhiều bậc cha mẹ thường thiên về những ngành
"an toàn", đem lại thu nhập cao như giáo viên, bác sỹ, . .. còn con cái họ cũng vậy, cha mẹ
thích ngành gì con học ngành đấy. Mặt khác, xu hướng xã hội cũng là một điều đáng bàn. 18
Một số bạn trẻ lại có xu hướng lao theo những nghề "hot" để theo kịp trào lưu, mà không
phải là đam mê và đúng sở thích.
Những thông tin trên như là một hồi chuông báo động về thực trạng chọn nghề hiện nay khi
mà nhiều học sinh hoàn toàn không có một định hướng nghề cho bản thân, không hiểu mình
muốn gì và sẽ làm gì sau này, đâu là điểm mạnh và điểm yếu của bản thân? Không biết định
hướng và chọn cho mình ngành học phù hợp, sinh viên sẽ dẫn đến sự chán nản, thành tích
học tập đi xuống, không có niềm yêu thích và tâm huyết và từ đó dẫn đến làm trái ngành và
thất nghiệp. Vì vậy, việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông đóng vai trò rất
cần thiết đối với sự nghiệp trong tương lai.
3.4 Sinh viên thiếu mối liên hệ với nhà tuyển dụng, chưa chủ động nắm bắt thông tin
với nhà tuyển dụng.
Trong một nền kinh tế thế giới ngày càng năng động và hội nhập toàn cầu, các công ty mới
liên tục được tạo ra và các công ty hiện tại đang tự đổi mới. Kết quả là, lực lượng lao động
của các công ty và vai trò công việc đã thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, một phần không
nhỏ sinh viên có tâm lý tự ti, ngại va chạm, bị động và ỷ lại vào người thân hoặc chưa có sự
chuẩn bị kĩ hành trang để thay đổi và bắt kịp với xu hướng hội nhập mới nên họ chưa nắm
được thông tin và mối liên hệ với nhà tuyển dụng.
3.5 Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội
Trong thời gian qua, việc tiếp cận xã hội hóa giáo dục cho phép nhiều trường đại học tư được
mở ra rộng kích thích cạnh tranh giữa các trường nhà nước và trường tư. Do đó, một số
trường đại học tư vì lợi nhuận chỉ cấp bằng, họ không đào tạo “đúng và trúng”. Điều này làm
nảy sinh số người tốt nghiệp cao nhưng không có kỹ năng để làm việc trong công việc. Bên
cạnh đó, thành tích của các cấp học dưới đẩy lên các cấp học trên đã khiến những người làm
giáo dục bất chấp hậu quả mà chính người học và xã hội phải gánh là tạo ra những sản phẩm
không đủ chất lượng, dẫn đến hậu quả đầu ra của đội ngũ nhân lực nước ta yếu và nền giáo
dục Việt Nam ngày càng tụt hậu.
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần thực hành mà
quá đặt nặng lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các trường vẫn theo lối tư
duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn…
3.6 Hiện tượng nhảy việc ở giới trẻ ngày nay
Hiện tượng "nhảy việc" đang trở nên phổ biến hơn trong giới trẻ và vấn đề này cần được
quan tâm, phân tích kỹ hơn vì thế hệ này đang và sẽ trở thành lực lượng đóng vai trò chính 19
trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà trong những năm tới. Có một vài lý do giải thích cho hiện tượng trên:
Thứ nhất là do môi trường làm việc không phù hợp. Ví dụ, sếp không ổn, không thích nghi
được với văn hóa công ty, bất đồng với đồng nghiệp...
Thứ hai là do không tìm thấy hứng thú trong công việc. Có nhiều người đi làm rồi mới nhận
ra công việc khác xa với mô tả khi phỏng vấn, dẫn đến cảm giác chán chường và muốn nhảy việc.
Lý do thứ ba là do không có định hướng cụ thể, không biết mình thật sự muốn gì.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng: “Nhảy việc trong một thời gian ngắn thường đến từ sự
kém phù hợp với năng lực.” Đa số các bạn trẻ nhảy việc là do chưa tìm hiểu kỹ công ty,
doanh nghiệp mình làm việc, chưa thực sự hiểu rõ ngành mình làm. Các bạn thường chỉ quan
tâm đãi ngộ hay hướng về những người thành công đi trước trong ngành này mà bỏ quên sự
phù hợp với năng lực của bản thân, bỏ quên những rủi ro và tính cạnh tranh gắt gao trong
ngành. Tuy có nhu cầu học hỏi và phát triển nhưng nhiều bạn lại ngại bị phê bình, không
chịu được áp lực phải thay đổi, hiểu được vấn đề của bản thân nhưng mơ hồ, bảo thủ về cách
giải quyết hay tự tin thái quá về năng lực của bản thân... Đây là một biểu hiện rất rõ về việc
đánh giá cái tôi quá cao của Gen Z trong mắt các thế hệ trước.
Tuy nhiên, thế hệ trẻ ngày nay có nhận thức tốt hơn rất nhiều về sức khỏe tinh thần, các đặc
điểm của một môi trường làm việc lý tưởng, hay những giá trị cá nhân mà các bạn đề cao.
Họ cần lộ trình thăng tiến rõ ràng, được phát triển bản thân, họ quan tâm đến việc được học
hỏi, nâng cao kỹ năng chuyên nghiệp để phát triển trong tương lai. Chính vì thế, doanh
nghiệp đảm bảo các chính sách, đào tạo và tạo nhiều cơ hội thăng tiến sẽ thu hút và giữ chân nhân viên.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xin việc của sinh viên
4.1 Bằng cấp chuyên môn
Bằng cấp tuy không phải là yếu tố quan trọng nhưng lại là tấm vé thông hành đầu tiên giúp
nhà tuyển dụng tìm được ứng viên phù hợp. Các yêu cầu đủ điều kiện phải được nêu rõ trong
quảng cáo việc làm. Trên thực tế, có rất nhiều nhân tài làm trái ngành được đào tạo nhưng lại
thể hiện kỹ năng rất tốt. Vì vậy, bằng cấp không nhất thiết phải thuộc lĩnh vực chính xác,
nhưng các công việc tương tự có thể được chấp nhận.
4.2 Kinh nghiệm làm việc thực tế 20
Đây mới là điều mà nhà tuyển dụng mong muốn ứng viên sở hữu nhất. Những ứng viên giỏi
sẽ biết cách dùng kinh nghiệm làm việc thực tế để khỏa lấp những hạn chế về bằng cấp, giới
tính. Những ngành mang tính đại trà cho phép ứng viên sở hữu kinh nghiệm ở vị trí tương
đương, trong lĩnh vực tương tự. Những ngành mang tính đặc thù cao luôn đòi hỏi ứng viên
phải làm đúng lĩnh vực mà nhà tuyển dụng đang hoạt động. Những ngành khó tuyển, nhà
tuyển dụng chấp nhận những ứng viên có ít thiếu sót nhất để đào tạo, bổ sung thêm.
Do đó, các kỳ thực tập là một lợi thế rất lớn giúp sinh viên vượt qua các kỳ tuyển dụng gắt
gao cũng như không bị ngỡ ngàng khi bắt tay vào việc. Bởi kỳ thực tập là thời điểm tốt nhất
để sinh viên học hỏi được những kinh nghiệm trong lĩnh vực mà mình quan tâm. Về cơ bản,
quá trình thực tập cũng gần giống như quá trình đào tạo cho một nhân viên mới trong công ty.
4.3 Trình độ ngoại ngữ
Ngoại ngữ là yêu cầu mang tính cần thiết khi ứng tuyển việc làm. Giữa xu thế “đa quốc gia
hóa” của các công ty, biết ít nhất một ngoại ngữ sẽ giúp ứng viên nổi bật, dễ dàng nhận được
công việc phù hợp với khả năng, trình độ bản thân, việc tìm kiếm các thông tin tuyển dụng sẽ
mở rộng nhiều vị trí hấp dẫn. Việc học ngoại ngữ cần đạt được mục đích đó là phục vụ học
tập, làm việc, giao tiếp và giải trí lành mạnh.
4.4 Kỹ năng mềm - lợi thế hòa nhập với môi trường làm việc
Kỹ năng giao tiếp linh hoạt: Nếu những ngành giao tiếp nhiều như sales, quan hệ công
chúng,… bắt buộc sở hữu kỹ năng giao tiếp xuất sắc thì những ngành nghề khác cũng đòi hỏi
ở ứng viên kỹ năng này ở mức độ không nhỏ. Bởi lẽ, kỹ năng giao tiếp không chỉ thể hiện
trong lúc làm nhiệm vụ, mà cả khi: Đối thoại cùng đồng nghiệp; thảo luận, đề xuất chiến
lược phát triển cho phòng ban; phối hợp triển khai kế hoạch cùng những bộ phận khác toàn
doanh nghiệp; ngay cả việc giải quyết những mâu thuẫn trong công việc cũng luôn đòi hỏi kỹ
năng giao tiếp nơi nhân viên.
Làm việc nhóm: Hiện nay, mô hình làm việc nhóm đang ngày càng phổ biến. Mỗi hoạt động
sản xuất - kinh doanh là chuỗi kết nối nhiều yếu tố đóng góp từ các cá nhân, phòng ban khác
nhau. Chính vì vậy, một ứng viên cần sở hữu khả năng làm việc nhóm hiệu quả. Để đánh giá
tiêu chí này, kinh nghiệm cùng những thành tích mà ứng viên đạt được trong quá trình làm
việc trước đó chính là cơ sở đánh giá đầu tiên. 21
Kỹ năng trình bày (thể hiện và vận dụng trí tuệ, công nghệ, bản lĩnh), quản lý thời gian...
Đặc biệt, kỹ năng quản lý thời gian giúp các bạn sinh viên không sa đà vào mạng xã hội, giải
trí, do đó làm việc thiếu hiệu quả, giảm năng suất. Trong quá trình học tập, sinh viên cần
tham gia các chương trình ngoại khóa sôi nổi, các câu lạc bộ, các lớp học,... để rèn luyện kỹ năng mềm.
Kỹ năng giải quyết vấn đề: Bất cứ công việc nào cũng sẽ có những khó khăn, thách thức đến
từ những sự cố bất ngờ, nằm ngoài kế hoạch. Những câu hỏi tình huống thực tế luôn được sử
dụng trong các kỳ phỏng vấn cũng vì mục đích này. Tiêu chí đánh giá không nằm trọn ở sự
hoàn hảo trong câu trả lời, mà nằm phần lớn ở khả năng tư duy, biết cách tìm hướng giải quyết của ứng viên.
4.5 Sử dụng thành thạo công nghệ thông tin:
Những phần mềm chuyên dụng trong công việc, một phần sẽ được truyền đạt nơi giảng
đường, một phần tự học thêm, một phần sẽ do công ty đào tạo. Và cũng có nhiều kỹ năng sử
dụng công nghệ thông tin mà ứng viên tự tìm hiểu, dù không phải chuyên môn ngành nghề,
nhưng lại là điều không thể không biết, ví dụ như: nhắn tin zalo, skype, facebook, tạo tài
khoản trao đổi trên diễn đàn,…
Nhà tuyển dụng kiểm tra ứng viên thông qua bài kiểm tra kỹ năng sử dụng phần mềm nếu
cần thiết. Thông thường, ứng viên sẽ phải tự hoàn thiện trong quá trình công tác. Tuy nhiên,
đây là một trong những thử thách đối với ứng viên tại nơi làm việc mới.
5. Giải pháp cho vấn đề việc làm và thất nghiệp của sinh viên hiện nay
5.1 Đối với sinh viên
Thứ nhất, học sinh; sinh viên cần định hướng sơ bộ về nghề nghiệp của mình trong tương lai.
Học sinh, sinh viên cần thay đổi nhận thức, hiểu được đầu ra của ngành học. Học sinh, sinh
viên cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam mê, yêu thích của bản thân và phù
hợp với khả năng của mình. Đồng thời, các giảng viên của nhà trường nên kết hợp cùng với
lãnh đạo của các doanh nghiệp trao đổi và định hướng nghề nghiệp phù hợp với từng tân sinh
viên, dựa trên việc phân tích tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích...của từng cá nhân để đưa
ra lời khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với mình, có cơ hội việc là tốt nhất và
phát huy được năng lực cao nhất.
Thứ hai, kinh nghiệm thực tế trong các công ty là rất quan trọng. Nâng cao chất lượng giáo
dục và kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên cần có sự kết nối giữa sinh viên và nhà trường. 22
Việc học đi đôi với thực hành, học đến đâu có thể thực hành đến đó để việc giảng dạy không
còn mang ý nghĩa trừu tượng mà còn mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên cần thực hiện
nghiêm túc trong quá trình đi kiến tập, thực tập. Nếu sinh viên coi hoạt động kiến tập, thực
tập cho hết môn thì sẽ không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết mà không có thực tế.
Thứ ba, sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Sự
nghiêm khắc trong quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự rèn luyện tính cách, kỹ
năng đồng thời đạt kết quả tốt trong quá trình học tập, sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc
chuyên môn ngay sau khi ra trường.
Thứ tư, ngoài những kiến thức được học tại trường, sinh viên nên bổ sung cho mình những
kỹ năng mềm để hòa đồng và thích nghi ngay với môi trường làm việc mới. Vì vậy, ngay
trong quá trình học tập tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng, sinh viên phải thường xuyên
tham gia các hoạt động xã hội, nghề nghiệp, để nâng cao các kỹ năng cơ bản như: kỹ năng
giao tiếp, thuyết trình cùng với một số kỹ năng mềm khác cần có đó là: kỹ năng xử lý tình
huống, kỹ năng quản lý, lãnh đạo, giao tiếp tự tin, làm việc theo nhóm, các kỹ năng về tin
học, ngoại ngữ phục vụ cho công việc sau này. Đồng thời, nên có công việc làm thêm để có
sự trải nghiệm. Như vậy, sau khi ra trường được tuyển dụng vào các cơ quan doanh nghiệp,
sinh viên sẽ tự tin hơn với tấm bằng đại học và kinh nghiệm làm việc ở một môi trường hoàn toàn mới.
Thứ năm, trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, thời đại của hội nhập quốc tế, kiến
thức, kỹ năng sử dụng CNTT, kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) là hết
sức cần thiết. Đây là một công cụ quan trọng, thiết yếu để sinh viên tiếp cận với những tiến
bộ của khoa học kỹ thuật, mở rộng tầm nhìn ra thế giới.
5.2 Đối với nhà trường
Thứ nhất, với mục tiêu nhất quán là nâng cao chất lượng giáo dục bằng việc thực hiện đồng
bộ các giải pháp (Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học, xây dựng đội ngũ
nhà giáo, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công tác quản lý...) để xây dựng chiến lược
phát triển. Trong tương lai, trường cần mở thêm nhiều ngành đào tạo đáp ứng nhu cầu giáo
dục và nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực của địa phương.
Thứ hai, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường với các cơ quan, doanh nghiệp, xí nghiệp, đơn vị
sản xuất trong việc tìm hiểu nhu cầu công việc, hoàn thiện và điều chỉnh nội dung chương
trình đào tạo; phối hợp và hợp tác thực tập và hỗ trợ sinh viên tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp. 23
5.3 Đối với nhà nước
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp và bảo đảm đối
xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, quản lý đình
công... Người lao động có quyền được trả công theo số lượng và chất lượng công việc mà họ
bỏ ra, đồng thời phải được đảm bảo về nơi ở. cũng như các điều kiện về môi trường làm việc
và phúc lợi khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, chính quyền và doanh nghiệp phải quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ lao động có
tay nghề, trình độ, văn hóa cao cho lực lượng lao động trẻ khỏe, nhất là ở khu vực nông thôn,
để cung cấp dịch vụ cho lao động địa phương ở các vùng kinh tế trọng điểm, khu công
nghiệp, du lịch, dịch vụ và lao động xuất khẩu.
Thứ ba, đa dạng hóa các loại thị trường, lớp nghề trong nước, tư nhân và quốc tế; thực hiện
cơ chế thị trường trong giáo dục nghề nghiệp, từng bước hình thành thị trường giáo dục nghề
nghiệp theo pháp luật. Quy hoạch tổng thể đầu tư hệ thống dạy nghề và trang thiết bị đào tạo
nhân lực trực tiếp đang được triển khai. Đặc biệt là việc xây dựng các trường trung cấp
chuyên nghiệp trên toàn quốc.
Thứ tư, triển khai thực tế đề án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác định chỉ tiêu
tuyển sinh hàng năm đối với giáo dục thường xuyên, giáo dục đại học và giáo dục đại học
trên cơ sở nhu cầu thị trường lao động, năng lực học tập và việc làm của sinh viên tốt
nghiệp. chỉ đạo các cơ sở giáo dục đầu tư nâng cao các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo
dục, phối hợp với người sử dụng lao động xây dựng chương trình đào tạo gắn liền giữa lý
thuyết và thực hành, xây dựng tiêu chuẩn sản xuất, hỗ trợ sinh viên thực tập và đánh giá sinh
viên tốt nghiệp theo yêu cầu của thị trường lao động. 24 PHẦN 3: KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có trước ý
thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác động qua lại này chỉ được
thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức
với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng
các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện như sau: Điều kiện hoàn cảnh sống của
sinh viên mới ra trường rất khó khăn xuất hiện trước, quyết định đến ý chí của họ. Ý chí
quyết tâm vươn lên trong học tập chính là kết quả của vật chất. Nếu không phải sống trong
hoàn cảnh khó khăn ấy, chưa chắc họ đã có được quyết tâm, nghị lực cao đến thế để vươn lên
trong cuộc đời. Bởi con người thường nhận ra giá trị của những gì mình có khi ta đã mất đi
hoặc chưa từng có được gì.
Mặt khác, ý chí cũng tác động ngược trở lại đến vật chất. Hành vi phấn đấu học tập, làm việc
chăm chỉ dẫn đến thành công của họ trong cuộc sống. Từ định hướng hoạt động đúng đắn, ý
thức tác động đến hoạt động của con người, là yếu tố theo chốt dẫn đến kết quả tốt đẹp trong
trường hợp này. Cụ thể, nhờ ý chí kiên cường, không chấp nhận số phận dẫn đến hành động
trong thực tiễn là việc học tập chăm chỉ và để nhận được những thành công rực rỡ.
Như vậy, khi nghiên cứu về những tấm gương của sinh viên mới ra trường, vươn lên trở
thành những người thành đạt đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ta có
một nhận thức bao quát và toàn diện hơn. Cuộc sống không phải luôn may mắn với tất cả
mọi người. Khi mà trong xã hội vẫn luôn có những người phải chịu hoàn cảnh khó khăn cả
về vật chất lẫn thể chất. Tuy nhiên, điều đó cũng không thể ngăn cản họ vươn lên trong cuộc
sống bằng chính tinh thần và nghị lực sống mãnh liệt của mình.
Vận dụng quan điểm của Triết học về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, trong bối cảnh
toàn cầu hóa, và xu thế hội nhập, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, thì vấn đề
việc làm trong giới trẻ đang trở thành một vấn đề quan trọng, với nhiều vấn đề đặt ra. Việt
Nam là nước có cơ cấu dân số tương đối trẻ, đây là một thế mạnh rất lớn để thực hiện mục
tiêu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” dựa trên lợi thế và tiềm năng của nguồn nhân lựv. Ở
Việt Nam, những khó khăn trong tìm kiếm cơ hội việc làm, đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng 25
của đối tượng sinh viên mới ra trường đang là một trở lực, gây lãng phí nguồn nhân lực. Tuy
nhiên, điều đó không thể giải quyết được trong một sớm một chiều, mà đây là vấn đề xuyên
suốt của xã hội từ thời kì này qua thời kì khác cần được Nhà nước quan tâm và giải quyết. 26
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lê-nin, NXB Chính trị (2007)
2. Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, Tạp chí triết học số 3/2007
3. Thực trạng và một số giải pháp việc làm cho sinh viên trường đại học công đoàn sau khi tốt nghiệp, 4.
Thân Trung Dũng (2015), Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp - một vấn đề xã
hội nan giải, nguồn: http://tadri.org 5.
Trịnh Thị Định, Nguyễn Huyền Anh (2018), Khảo sát chất lượng sinh viên thất
nghiệp tại Việt Nam: Một số suy nghĩ về thực tiễn và giải pháp,nguồn:
http://www.vnseameo.org/bblam/forum/EMD/Trinh_Thi_Dinh_VN.pdf 6.
ThS. NGUYỄN THỊ THU TRANG (Khoa Kinh tế tài nguyên và môi trường, Trường
Đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội) (2017) Sinh viên thất nghiệp sau khi ra
trường - Nguyên nhân và cách khắc phục, nguồn: https://tapchicongthuong.vn/bai-
viet/sinh-vien-that-nghiep-sau-khi-ra-truong-nguyen-nhan-va-cach-khac-phuc- 48972.htm 7.
LƯƠNG THANH HÀ (Học viện Ngân hàng) (2022), Các nhân tố ảnh hưởng đến khả
năng xin việc làm của sinh viên sau khi ra trường, nguồn:
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/cac-nhan-to-anh-huong-den-kha-nang-xin-viec-
lam-cua-sinh-vien-sau-khi-ra-truong-88987.htm 8.
Báo cáo Khảo sát tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp năm 2021, Phòng công
tác chính trị và quản lý sinh viên NEU (2021), nguồn:
https://phongctctqlsv.neu.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/phongctctqlsv/Kh
%E1%BA%A3o%20s%C3%A1t%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20h%E1%BB
%8Dc/BC-khao-sat-viec-lam-SVTN-2020.pdf 27