lOMoARcPSD| 61464806
CHƯƠNG I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG
1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm trong việc
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
Dựa trên tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, Ph.Ăngghen cho rằng: “Vấn đề
cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ
giữa duy tồn tại”(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2002, t.20, tr.403), hay giữa ý thức với vật chất.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất, (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau,cái nào
quyết định cái nào?
Mặt thứ hai, (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả
năng nhận thức thế giới hay không?
Việc giải quyết vấn hai mặt vấn đề bản của triết học xuất phát điểm
của các trường phái lớn: chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy vật; khtri luận
(thuyết thể biết) bất khả tri luận (không thể biết). Ngoài ra còn chủ nghĩa
nhị nguyên và hoài nghi luận.
Chủ nghĩa duy vật trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất
của thế giới vật chất; vật chất tính thứ nhất, ý thức tính thhai; vật chất
có trước ý thức và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học cho rằng: bản chất của thế giới
tinh thần; ý thức tính thứ nhất, vật chất tính thứ hai; ý thức trước
quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm hai trào hình thức bản Chủ nghĩa duy tâm khách
quan chnghĩa duy tâm chủ quan.Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận
tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức đó được quan niệm là
tinh thần khách quan, ý thức khách quan trước tồn tại độc lập với giới tự
nhiên con người. Những đại biểu của trào lưu này là Platon, Hêghen, Tômat
Đacanh… Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con
người, khẳng định ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập
lOMoARcPSD| 61464806
phụ thuộc vào cảm giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này G.Beccơli,
D.Hium.
Ngoài sự phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta còn
phân biệt:
Thuyết nhất nguyên là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ một
bản nguyên, thực thể vật chất hoặc thực thể tinh thần trước quyết định.
Tùy theo quan niệm cho rằng vật chất hay tinh thần thực thể của thế giới
thuyết nhất nguyên hai hình thức tương ứng: thuyết nhất nguyên duy vật
thuyết nhất nguyên duy tâm.
Thuyết nhị nguyên cho rằng hai thực thể vật chất ý thức song song
tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau.
Thuyết đa nguyên khuynh hướng triết học cho rằng nhiều sở, nhiều
bản nguyên của tồn tại, chúng không phụ thuộc lẫn nhau.
Trong việc giải quyết mặt thứ hai vấn đề bản của triết học hai khuynh
hướng đối lập nhau là thuyết khả tri và thuyết bất khả tri. Đa số các nhà triết học
khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới, có khả năng đạt
được chân khách quan. Một scác nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn
bộ khả năng nhận thức của con người. Những nhà triết học này thuộc thuyết bất
khả tri (có nghĩa là không thể nhận thức được). Đại biểu của khuynh hướng này
là Protagor, D.Hium, I.Cantơ…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật tồn tại phát triển
nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học thực tiễn, đồng thời thường gắn với
lợi ích của giai cấp lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật không
chỉ tổng kết, khái quát kinh nghiệm và thành tựu mà con người đạt được mà còn
định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng-hình thức phát triển cao nhất của
chủnghĩa duy vật.
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa
duy vật được hình thành phát triển với ba hình thức bản chủ nghĩa duy
vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
a. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời kỳ cổ đại. Họ thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất
lOMoARcPSD| 61464806
vật chất với một hay dạng tồn tại cụ thể của vật chất, coi đó là thực thể đầu tiên,
bản nguyên của trụ. Đó sự nhận thức mang tính trực quan nhưng chủ
nghĩa duy vật chất phác Scó ưu điểm là đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích
giới tự nhiên mà không viện đến một thần linh hay một đấng sáng tạo nào để giải
thích thế giới.
b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình hình thức bản của chủ nghĩa duy vật,
phát triển rõ nét từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX,
nó gắn với thời kỳ cơ học cổ điển phát triển mạnh, do đó chịu sự tác động mạnh
mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Đặc điểm của chủ nghĩa duy vật
siêu hình là nhận thức thế giới nmột cỗ máy cơ giới mỗi bộ phận tạo nên
luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Nếu biến đổi thì chỉ có sự tăng, giảm đơn
thuần về số lượng, do những nguyên nhân bên ngoài gây ra.
Tuy chưa phản ánh đúng hiện thực trong mối liên hệ phổ biến sự phát
triển nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần vào việc chống lại thế giới
quan duy tâm tôn giáo, nhất giai đoạn lịch schuyển tiếp từ thời Trung cổ
sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác Ph.Ăngghen xây dựng tnhững
năm 40 của thế kỷ XIX được V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng ra đời trên sở kế thừa tinh hoa trong lịch sử triết học, dựa trên sở
những thành tựu của khoa học tnhiên vậy, đã khắc phục được hạn chế của
chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Trên cơ sở phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến sự phát triển, chủ
nghĩa duy vật biện chứng là công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
cách mạng.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ
VẬT CHẤT, Ý THỨC MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT Ý THỨC
1. Vật chất
a. Phạm trù vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã lịch sử phát triển trên 2500
năm và có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người:
lOMoARcPSD| 61464806
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, sđầu tiên ca mọi
tồn tại bản nguyên tinh thần, còn vật chất sản phẩm của bản nguyên tinh thần
ấy. Chnghĩa duy tâm phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan, cho
rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sựphức hợp” những cảm
giác của con người.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại đã đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ
thể của vật chất. Thí dụ: nước (quan niệm của Talet); không khí (quan niệm
Anaximen); lửa (quan niệm của Hêraclit); nguyên tử (quan niệm của Đêmôcrit);
đất, nước, lửa, gió (quan niệm của triết học Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ
(quan niệm trong Thuyết ngũ hành ở Trung Quốc).
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử
khối lượng. Với quan niệm vật chất mt hay một số chất tự , đầu tiên, sản
sinh ra vũ trụ chứng tỏ các nhà duy vật trước C.Mác đã đồng nhất vật chất với vật
thể. Hạn chế này tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để. Họ
chỉ duy vật khi giải quyết những vấn đề của tự nhiên nhưng lại duy tâm thần
khi giải thích các hiện tượng xã hội.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học làm cho các
quan điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Nhiều páht minh trong vật
học thời kỳ này đã làm đảo lộn quan niệm cũ về vật chất, đó là:
Rơnghen (Đức) phát hiện ra tia X (1895); A.H.Beccơren (1852-1908), nhà
vật học Pháp M.Quyri (1867-1934), phát minh ra hiện tượng phóng xạ trong
chất uranium (1896); S.J.Tômxơn phát hiện ra điện tử (1897); nhà bác học Đức
Kaufman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử; thuyết tương đối hẹp của
A.Anhxtanh...
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan
trong vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện
tượng vật và cho rằng vật chất tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, các nhà triết học
duy tâm chủ quan lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của
thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng
tạo ra thế giới, sở tồn tại của chủ nghĩa duy vật không còn nữa. Tình hình đó
đòi hỏi V.I.Lênin phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật. Trong tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đưa ra
định nghĩa vật chất kinh điển:
“Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác ca chúng tachép lại, chụp
lOMoARcPSD| 61464806
lại, phản ánh tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb
Tiến bộ, Matxcơva,1976, t.18, tr.151)
Từ định nghĩa vật chất có thể khẳng định:
Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách phạm trù triết học
với những dạng biểu hiện c thể của vật chất. Vật chất với cách phạm t
triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những
mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cáichung, vô hạn,
tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, hiện tượng chỉ là
những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có qtrình phát sinh, phát triển
chuyển hóa. vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một sdạng
biểu hiện cụ thể của vật chất.
Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất thuộc tính khách quan,
tức thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc o ý thức con
người, dù con người có nhận thức được nó hay không.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên
cảm giác con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của
con người. Ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất
cái được ý thức phản ánh.
Phương pháp định nghĩa V.I.Lênin dùng để định nghĩa vật chất đối
lập vật chất với phạm trù ý thức, chỉ ra thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với
ý thức.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
Một là, với việc m ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất thuộc tính
khách quan, V.I.Lênin đã phân biệt skhác nhau giữa vật chất vật thể, khắc
phục được sự hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung
cấp căn cứ nhận thức khoa học cho sự phát triển của triết học các khoa học
khác và là sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử. Hai là,
với việc khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người
trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh” V.I
Lênin khẳng định vật chất tính thứ nhất, ý thức tính thứ hai đồng thời thừa
nhận khả năng của con người có thể nhận thức được thực tại khách quan.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
lOMoARcPSD| 61464806
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động phương
thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật
chất.
Vận động là phương thức tn tại của vật chất
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu
là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,t
bao gồm tất cả mọi sthay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.519.)
Định nghĩa trên của Ph.Ăngghen cho thấy vận động là phương thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, thông qua vận động mà các dạng
cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tthân
vận động và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.
Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể
có vật chất không vận động, cũng nkhông thể có vận động ngoài vật chất. Các
thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.
Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức các dạng khác nhau của vật chất chỉ
có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua
vận động; về một vật thể không vận động tkhông nói cả”(Sđd, t.20,
tr.743)
Các hình thức vận động của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học thời đại mình, Ph.Ăngghen phân chia
vận động thành năm hình thức vận động cơ bản:
Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của
nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh…
Vận động hóa học sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp phân
giải của các chất.
Vận động sinh vật vận động của các thể sống như sự trao đổi chất,
đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa…
lOMoARcPSD| 61464806
Vận động hội sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, n
hóa…của đời sống xã hội.
Các hình thức vận động bản trên được sắp xếp theo thtự ttrình độthấp
đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận
động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hmật
thiết với nhau trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức
vận động thấp bao hàm trong những hình thức vận động thấp hơn. Trong
sự tồn tại của nh, mỗi sự vật thể nhiều hình thức vận động khác nhau
song bản thân bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất
có. Bằng việc phân loại các hình thức vận động bản, Ph.Ăngghen đã đặt
cơ sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp loại, hợp ngành khoa học.
Vận động và đứng im:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vận động tuyệt đối, vĩnh
viễn nhưng điều đó không nghĩa phủ nhận sđứng im, cân bằng ; song đứng
im, cân bằng chỉ hiện tượng tương đối, tạm thời thực chất đứng im, cân bằng
chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im tương đối đứng im, cân bằng chỉ xảy trong một số quan hệ
nhất định, chkhông phải trong tất cả mọi quan hệ. Đứng im, cân bằng chỉ xảy
ra trong một hình thức vận động.
Đứng im là tạm thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất
định, ngay trong đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng
im trạng thái đặc biệt của vận động, đó vận động trong thế cân bằng, ổn định,
vận động chưa làm thay đổi bản về chất, vvị trí, hình dáng, kết cấu của sự
vật
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật
chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không
tồn tại trong không gian và thời gian.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều
tồn tại ở một vị trí nhất định, một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài)
lOMoARcPSD| 61464806
nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay
dưới, bên phải hay bên trái…) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy gọi không gian. Mặt khác sự tồn tại của
sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển
hóa… những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ph.Ăngghen cho rằng: “Các hình thức bản của mọi tồn tại không gian
thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức như tồn tại ngoài
không gian”, do đó có thể hiểu:
- Vật chất, không gian thời gian không tác rời nhau, không
khônggian thời gian không vật chất cũng như không thể sự vật, hiện
tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
- Không gian, thời gian những tính chất chung như những tính
chấtcủa vật chất đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
- Không gian thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều dài, chiều
rộng)cònthời gian ch một chiều (từ quá khứ đến tương lai). Tính ba chiều của
không gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng
tính và quá trình diễn biến ca vật chất vận động.
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, song, những dạng
biểu hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất
với nhau.
Quan điểm duy tâm giải thích sự thống nhất của thế giới một thực thể
tinh thần đầu tiên (Ý niệm, Thượng đế) hoặc từ cảm giác của con người.
Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới vật chất,
thế giới thống nhất ở tính vật chất.
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất
cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh
ra và không bị mất đị.
lOMoARcPSD| 61464806
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều mối liên hệ thống nhất với
nhau, đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn
gốc vật chất và chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến ca vật
chất.
Nhận thức trên ý nghĩa quan trọng, không chỉ định hướng cho con
người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho việc tiếp tục
nhận thức tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
2. Ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Trên sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn hội, chnghĩa
duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất
của ý thức để rút ra vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.
Quan điểm duy tâm khách quan cho rằng nguồn gốc của ý thức từ một lực
lượng siêu tự nhiên (Ý niệm, Brahman, Thượng đế, Trời, v.v.).
Quan điểm duy tâm chủ quan cho rằng ý thức là cái vốn có của con người,
không do thần thánh ban cho, cũng không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
Quan điểm duy vật siêu hình coi ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý
thức cũng như gan tiết ra mật”.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời kết quả của quá
trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên hội. Ý thức hai nguồn gốc nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ của con người với thế giới
khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra
quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
Về bóc người: Ý thức thuộc tính của dạng vật chất tổ chức cao
bộ óc người, chức năng của bộ óc, kết quả hoạt động sinh thần kinh của
bộ óc. Bộ não người kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Bộ
óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh thần kinh của bộ óc càng hiệu quả, ý
thức con người càng phong phú và sâu sắc. Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình
độ phản xạ, bản năng, tâm động vật, trong khi đó bộ óc người khả năng phản
ánh thế giới bằng tư duy trừu tượng.
lOMoARcPSD| 61464806
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, ng tạo: Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan, thế giới khách quan tác động
đến bộ óc người, hình thành quá trình phản ánh.
Phản ánh stái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại với nhau giữa chúng.
Những đặc điểm được tái tạo dạng vật chất nhận sự tác động bao giờ cũng
mang thông tin của dạng vật chất tác động được gọi là cái phản ánh; còn dạng vật
chất tác động được gọi là cái được phản ánh. Cái phản ánh và cái được phản ánh
không tách rời nhau, không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh những dạng
cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ đặc điểm chứa đựng thông tin của
dạng vật chất đó ở một dạng vật chất khác.
Phản ánh thuộc tính của tất cả các dạng vật chất và được thể hiện dưới
nhiều hình thức, những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật
chất.
Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật
chất sinh được thể hiện qua những biến đổi về cơ, , hóa khi sự tác động
qua lại với nhau giữa các dạng vật chất sinh. Hình thức phản ánh này mang
tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự
nhiên hữu sinh được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ng, phản xạ. Tính
kích thích phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều
hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, cấu trúc…khi nhận sự tác động
trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật hệ thần kinh
tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần
kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi sự tác động từ bên ngoài môi
trường lên cơ thể sống.
Phản ánh tâm phản ứng của động vật hệ thần kinh trung ương được
thực hiện trên sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động, ng tạo: là hình thức phản ánh cao nhất trong các
hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất,
tổ chức cao nhất là bộ óc người. Là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông
tin, xử thông tin để tạo ra các thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.
lOMoARcPSD| 61464806
Sự phản ánh này được gọi là ý thức. Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong
các hình thức phản ánh của vật chất.
Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy
nhiên, ý thức không phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng
phản ánh. Để ý thức phải não người thế giới khách quan. Ngoài ra còn
phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngôn ngữ.
Lao động
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên
nhằm thay đổi giới tnhiên cho phù hợp với nhu cầu con người; quá trình trong
đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa
mình với giới tự nhiên.
Trong qtrình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm
cho thế giới khách quan bộc lộ ra những thuộc tính, những kết cấu, những quy
luật vận động của nó biểu hiện thành những hiện tượng nhất định con người
thể quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác
quan, tác động o bộ óc con người, tạo ra khả ng hình thành những tri thức
nói riêng và ý thức nói chung.
Lao động còn quá trình phát triển bản thân con người, biến vượn thành
người. Trong lao động con người phải suy nghĩ, tính toán đề ra mục đích, tìm
kiếm phương pháp phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm thành
công và thất bại. Đó chính là phương thức phát triển của ý thức.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan thông qua quá trình lao động
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung
ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành
viên trong quá trình lao động làm nảy sinh nhu cầu phải phương tiện để biểu
đạt, nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy trừu tượng, là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất, nhờ ngôn ngữ con người có thể tổng kết tri thức, kinh nghiệm, truyền
đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
lOMoARcPSD| 61464806
Tóm lại: ý thức ra đời do hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên, đó kết quả
sự tiến hóa của bộ não thuộc tínhh phản ánh của nó. Nguồn gốc hội của ý
thức lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên tiền đề vật chất không thể
thiếu được của ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết định trực tiếp
đối với sự ra đời của ý thức.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức
Bản chất của ý thức
Ý thức sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong
đầu óc con người, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn
giản, máy móc. Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện chỗ ý thức khả
năng phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con ngườikhả
năng biến đổi hình nh (cảm tính lý tính) ca sự vật trong đầu óc của mình,
tạo ra mô hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức hình ảnh
của thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình
thức biểu hiện nhưng không còn y nguyên như thế giới khách quan đã được
cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh
nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người. Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ
vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người được cải biến đi trong
đó”
(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
t.23, tr.35)
Ý thức là mt hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các
quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động,
ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Kết cấu của ý thức
Ý thức kết cấu phức tạp, nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu
của ý thức. Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành
nó thì ý thức bao gồm: tri thức, tình cảm, ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan
trọng nhất.
lOMoARcPSD| 61464806
Tri thức toàn bộ sự hiểu biết của con người, kết quả của quá trình nhận
thức, sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều tri thức, được tri thức định hướng.
Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức phương tiện
tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức thể chia thành tri thức về tựnhiên,
tri thức xã hội, tri thức nhân văn.
Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức tri thức được chia thành: tri
thức đời thường, tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm tri thức luận, tri
thức cảm tính và tri thức lý tính.
Tình cảm những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, hình thành
từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của
ngoại cảnh.
Tình cảm biểu hiện phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người,
động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức thực tiễn. Tùy vào từng đối tượng
nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các quan hệ
hình thành nên các loại tình cảm khác nhau như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm
mỹ, tình cảm tôn giáo…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người
Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong
thực tiễn đó con người tgiác được mục đích của hành động nên tự đấu
tranh với mình ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. thể
coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình, nó điều chỉnh hành vi để con
người hướng đến mục đích một cách tự giác.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức mối quan hệ biện chứng với nhau song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các
yếu tố khác.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
lOMoARcPSD| 61464806
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức
là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức
là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức của con người không phải sản phẩm chủ quan thuần tuý, cũng
không phải nguồn gốc từ một lực lượng siêu tự nhiên. là kết quả của sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
Các yếu ttạo thành nguồn gốc tự nhiên hội của ý thức đều do bản
thân thế giới vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất tạo ra, do đó vật chất
là nguồn gốc của ý thức
Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sbiến đổi của ý
thức là sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất. Vật chất không chỉ quyết
định nội dung còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sbiến
đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người:
Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất vai tcủa con người. Bản
thân ý thức tự không trực tiếp làm thay đổi được hiện thực, muốn thay đổi hiện
thực cần phải hoạt động vật chất. Song do mọi hoạt động của con người đều
được ý thức chỉ đạo, nên ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan trên sđó giúp con người xác định mục tiêu, phương hướng, lựa chọn
biện pháp, công cụ ... để thực hiện mục tiêu của mình.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, tri thức khoa học, nghị lực, ý chí,hành
động hợp quy luật khách quan ttác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn, cải
tạo được thế giới, đạt được mục đích của mình.
Nếu ý thức phản ánh sai hiện thực khách quan, khiến cho hành động của
con người đi ngược lại quy luật khách quan tnhững tác động ấy sẽ mang lại tác
động tiêu cực đi với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Chính thế, trong hoạt động thực tiễn, ngoài việc nhận thức đúng quy luật
khách quan, còn cần phải phát huy cao độ tính năng động chquan, đồng thời
lOMoARcPSD| 61464806
chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa chquan, duy ý chí, chống lại những tư
tưởng lạc hậu, phản động, phản khoa học.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên sở quan điểm vbản chất vật chất của thế giới; bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút
ra ý nghĩa phương pháp luận là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi
hỏi phải xuất phát tthực tế khách quan, tôn trọng hành động theo khách quan
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan xuất phát
từ tính khách quan của vật chất, thái độ tôn trọng hiện thực khách quan căn
bản tôn trọng quy luật; nhận thức hành động theo quy luật khách quan. Trong
nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác
định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải
lấy thực tế khách quan làm sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất,
tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa
học, mặt khác phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học đồng
thời phải tu dưỡng rèn luyện bản thân mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan
phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục
bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa
học...trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61464806
CHƯƠNG I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm trong việc
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
Dựa trên tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, Ph.Ăngghen cho rằng: “Vấn đề
cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ
giữa tư duy và tồn tại”(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2002, t.20, tr.403), hay giữa ý thức với vật chất.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất, (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau,cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai, (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả
năng nhận thức thế giới hay không?
Việc giải quyết vấn hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm
của các trường phái lớn: chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật; khả tri luận
(thuyết có thể biết) và bất khả tri luận (không thể biết). Ngoài ra còn có chủ nghĩa
nhị nguyên và hoài nghi luận.
Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất
của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất
có trước ý thức và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học cho rằng: bản chất của thế giới
là tinh thần; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai trào hình thức cơ bản là Chủ nghĩa duy tâm khách
quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận
tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức đó được quan niệm là
tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và tồn tại độc lập với giới tự
nhiên và con người. Những đại biểu của trào lưu này là Platon, Hêghen, Tômat
Đacanh… Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con
người, khẳng định ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà lOMoAR cPSD| 61464806
phụ thuộc vào cảm giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này là G.Beccơli, D.Hium.
Ngoài sự phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta còn phân biệt:
Thuyết nhất nguyên là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ có một
bản nguyên, là thực thể vật chất hoặc thực thể tinh thần có trước và quyết định.
Tùy theo quan niệm cho rằng vật chất hay tinh thần là thực thể của thế giới mà
thuyết nhất nguyên có hai hình thức tương ứng: thuyết nhất nguyên duy vật và
thuyết nhất nguyên duy tâm.
Thuyết nhị nguyên cho rằng có hai thực thể vật chất và ý thức song song
tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau.
Thuyết đa nguyên là khuynh hướng triết học cho rằng có nhiều cơ sở, nhiều
bản nguyên của tồn tại, chúng không phụ thuộc lẫn nhau.
Trong việc giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh
hướng đối lập nhau là thuyết khả tri và thuyết bất khả tri. Đa số các nhà triết học
khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới, có khả năng đạt
được chân lý khách quan. Một số các nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn
bộ khả năng nhận thức của con người. Những nhà triết học này thuộc thuyết bất
khả tri (có nghĩa là không thể nhận thức được). Đại biểu của khuynh hướng này
là Protagor, D.Hium, I.Cantơ…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật tồn tại và phát triển có
nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với
lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật không
chỉ tổng kết, khái quát kinh nghiệm và thành tựu mà con người đạt được mà còn
định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng-hình thức phát triển cao nhất của chủnghĩa duy vật.
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa
duy vật được hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy
vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
a. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời kỳ cổ đại. Họ thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất lOMoAR cPSD| 61464806
vật chất với một hay dạng tồn tại cụ thể của vật chất, coi đó là thực thể đầu tiên,
là bản nguyên của vũ trụ. Đó là sự nhận thức mang tính trực quan nhưng chủ
nghĩa duy vật chất phác Scó ưu điểm là đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích
giới tự nhiên mà không viện đến một thần linh hay một đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới.
b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật,
phát triển rõ nét từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX,
nó gắn với thời kỳ cơ học cổ điển phát triển mạnh, do đó chịu sự tác động mạnh
mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Đặc điểm của chủ nghĩa duy vật
siêu hình là nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới mà mỗi bộ phận tạo nên
nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Nếu có biến đổi thì chỉ có sự tăng, giảm đơn
thuần về số lượng, do những nguyên nhân bên ngoài gây ra.
Tuy chưa phản ánh đúng hiện thực trong mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần vào việc chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ
sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng từ những
năm 40 của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng ra đời trên cơ sở kế thừa tinh hoa trong lịch sử triết học, dựa trên cơ sở
những thành tựu của khoa học tự nhiên vì vậy, đã khắc phục được hạn chế của
chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Trên cơ sở phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ
nghĩa duy vật biện chứng là công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức và thực tiễn cách mạng.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ
VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 1. Vật chất a. Phạm trù vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500
năm và có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người: lOMoAR cPSD| 61464806
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi
tồn tại là bản nguyên tinh thần, còn vật chất là sản phẩm của bản nguyên tinh thần
ấy. Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan, cho
rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sựphức hợp” những cảm giác của con người.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại đã đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ
thể của vật chất. Thí dụ: nước (quan niệm của Talet); không khí (quan niệm
Anaximen); lửa (quan niệm của Hêraclit); nguyên tử (quan niệm của Đêmôcrit);
đất, nước, lửa, gió (quan niệm của triết học Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ
(quan niệm trong Thuyết ngũ hành ở Trung Quốc).
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tửvà
khối lượng. Với quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, sản
sinh ra vũ trụ chứng tỏ các nhà duy vật trước C.Mác đã đồng nhất vật chất với vật
thể. Hạn chế này tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để. Họ
chỉ duy vật khi giải quyết những vấn đề của tự nhiên nhưng lại duy tâm thần bí
khi giải thích các hiện tượng xã hội.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học làm cho các
quan điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Nhiều páht minh trong vật lý
học thời kỳ này đã làm đảo lộn quan niệm cũ về vật chất, đó là:
Rơnghen (Đức) phát hiện ra tia X (1895); A.H.Beccơren (1852-1908), nhà
vật lý học Pháp và M.Quyri (1867-1934), phát minh ra hiện tượng phóng xạ trong
chất uranium (1896); S.J.Tômxơn phát hiện ra điện tử (1897); nhà bác học Đức
Kaufman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử; thuyết tương đối hẹp của A.Anhxtanh...
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan
trong vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện
tượng vật lý và cho rằng vật chất tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, các nhà triết học
duy tâm chủ quan lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của
thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng
tạo ra thế giới, cơ sở tồn tại của chủ nghĩa duy vật không còn nữa. Tình hình đó
đòi hỏi V.I.Lênin phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật. Trong tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đưa ra
định nghĩa vật chất kinh điển:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng tachép lại, chụp lOMoAR cPSD| 61464806
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb
Tiến bộ, Matxcơva,1976, t.18, tr.151)
Từ định nghĩa vật chất có thể khẳng định:
Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học
với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất với tư cách là phạm trù
triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những
mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cáichung, vô hạn,
vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, hiện tượng chỉ là
những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển
và chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng
biểu hiện cụ thể của vật chất.
Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan,
tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con
người, dù con người có nhận thức được nó hay không.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên
cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của
con người. Ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là
cái được ý thức phản ánh.
Phương pháp định nghĩa mà V.I.Lênin dùng để định nghĩa vật chất là đối
lập vật chất với phạm trù ý thức, chỉ ra thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với ý thức.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
Một là, với việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính
khách quan, V.I.Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc
phục được sự hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung
cấp căn cứ nhận thức khoa học cho sự phát triển của triết học và các khoa học
khác và là cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử. Hai là,
với việc khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người
trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh” V.I
Lênin khẳng định vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai đồng thời thừa
nhận khả năng của con người có thể nhận thức được thực tại khách quan.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất lOMoAR cPSD| 61464806
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương
thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu
là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.519.)
Định nghĩa trên của Ph.Ăngghen cho thấy vận động là phương thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, thông qua vận động mà các dạng
cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tự thân
vận động và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.
Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể
có vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất. Các
thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.
Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ
có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua
vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả”(Sđd, t.20, tr.743)
Các hình thức vận động của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen phân chia
vận động thành năm hình thức vận động cơ bản:
Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của
nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh…
Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.
Vận động sinh vật là vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất,
đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa… lOMoAR cPSD| 61464806
Vận động xã hội là sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa…của đời sống xã hội.
Các hình thức vận động cơ bản trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độthấp
đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận
động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật
thiết với nhau trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức
vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong
sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau
song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất
mà nó có. Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Ăngghen đã đặt
cơ sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp loại, hợp ngành khoa học. Vận động và đứng im:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh
viễn nhưng điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự đứng im, cân bằng ; song đứng
im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng
chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy trong một số quan hệ
nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi quan hệ. Đứng im, cân bằng chỉ xảy
ra trong một hình thức vận động.
Đứng im là tạm thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một hay một số quan hệ nhất
định, ngay trong đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng
im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định,
vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật
chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không
tồn tại trong không gian và thời gian.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều
tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) lOMoAR cPSD| 61464806
nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay
dưới, bên phải hay bên trái…) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian. Mặt khác sự tồn tại của
sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển
hóa… những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ph.Ăngghen cho rằng: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian
và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài
không gian”, do đó có thể hiểu: -
Vật chất, không gian và thời gian không tác rời nhau, không có
khônggian và thời gian không có vật chất cũng như không thể có sự vật, hiện
tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian. -
Không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính
chấtcủa vật chất đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. -
Không gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều dài, chiều
rộng)cònthời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ đến tương lai). Tính ba chiều của
không gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng
tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, song, những dạng
biểu hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau.
Quan điểm duy tâm giải thích sự thống nhất của thế giới ở một thực thể
tinh thần đầu tiên (Ý niệm, Thượng đế) hoặc từ cảm giác của con người.
Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất,
thế giới thống nhất ở tính vật chất.
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là
cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh
ra và không bị mất đị. lOMoAR cPSD| 61464806
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn
gốc vật chất và chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của vật chất.
Nhận thức trên có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ định hướng cho con
người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho việc tiếp tục
nhận thức tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật. 2. Ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Trên cơ sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn xã hội, chủ nghĩa
duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất
của ý thức để rút ra vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.
Quan điểm duy tâm khách quan cho rằng nguồn gốc của ý thức từ một lực
lượng siêu tự nhiên (Ý niệm, Brahman, Thượng đế, Trời, v.v.).
Quan điểm duy tâm chủ quan cho rằng ý thức là cái vốn có của con người,
không do thần thánh ban cho, cũng không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
Quan điểm duy vật siêu hình coi ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý
thức cũng như gan tiết ra mật”.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của quá
trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ của con người với thế giới
khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra
quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc. Bộ não người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Bộ
óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý
thức con người càng phong phú và sâu sắc. Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình
độ phản xạ, bản năng, tâm lý động vật, trong khi đó bộ óc người có khả năng phản
ánh thế giới bằng tư duy trừu tượng. lOMoAR cPSD| 61464806
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo: Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan, thế giới khách quan tác động
đến bộ óc người, hình thành quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại với nhau giữa chúng.
Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất nhận sự tác động bao giờ cũng
mang thông tin của dạng vật chất tác động được gọi là cái phản ánh; còn dạng vật
chất tác động được gọi là cái được phản ánh. Cái phản ánh và cái được phản ánh
không tách rời nhau, không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là những dạng
cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của
dạng vật chất đó ở một dạng vật chất khác.
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất và được thể hiện dưới
nhiều hình thức, những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật
chất vô sinh được thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động
qua lại với nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang
tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự
nhiên hữu sinh được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính
kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều
hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, cấu trúc…khi nhận sự tác động
trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh
tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần
kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi
trường lên cơ thể sống.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được
thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động, sáng tạo: là hình thức phản ánh cao nhất trong các
hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có
tổ chức cao nhất là bộ óc người. Là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông
tin, xử lý thông tin để tạo ra các thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. lOMoAR cPSD| 61464806
Sự phản ánh này được gọi là ý thức. Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong
các hình thức phản ánh của vật chất.
Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy
nhiên, ý thức không phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng
phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách quan. Ngoài ra còn
phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngôn ngữ. Lao động
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên
nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người; là quá trình trong
đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa
mình với giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm
cho thế giới khách quan bộc lộ ra những thuộc tính, những kết cấu, những quy
luật vận động của nó biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người
có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác
quan, tác động vào bộ óc con người, tạo ra khả năng hình thành những tri thức
nói riêng và ý thức nói chung.
Lao động còn là quá trình phát triển bản thân con người, biến vượn thành
người. Trong lao động con người phải suy nghĩ, tính toán đề ra mục đích, tìm
kiếm phương pháp và phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm thành
công và thất bại. Đó chính là phương thức phát triển của ý thức.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan thông qua quá trình lao động Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung
ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành
viên trong quá trình lao động làm nảy sinh nhu cầu phải có phương tiện để biểu
đạt, nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy trừu tượng, là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất, nhờ ngôn ngữ con người có thể tổng kết tri thức, kinh nghiệm, truyền
đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác. lOMoAR cPSD| 61464806
Tóm lại: ý thức ra đời do hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên, đó là kết quả
sự tiến hóa của bộ não và thuộc tínhh phản ánh của nó. Nguồn gốc xã hội của ý
thức là lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên là tiền đề vật chất không thể
thiếu được của ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết định trực tiếp
đối với sự ra đời của ý thức.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong
đầu óc con người, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn
giản, máy móc. Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả
năng phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả
năng biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình,
tạo ra mô hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh
của thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình
thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được
cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh
nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người. Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ
là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”
(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35)
Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các
quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động,
ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu
của ý thức. Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành
nó thì ý thức bao gồm: tri thức, tình cảm, ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. lOMoAR cPSD| 61464806
Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng.
Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương tiện
tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức về tựnhiên,
tri thức xã hội, tri thức nhân văn.
Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức tri thức được chia thành: tri
thức đời thường, tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri
thức cảm tính và tri thức lý tính.
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, hình thành
từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh.
Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người,
là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tùy vào từng đối tượng
nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các quan hệ mà
hình thành nên các loại tình cảm khác nhau như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm
mỹ, tình cảm tôn giáo…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người
Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong
thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hành động nên tự đấu
tranh với mình và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể
coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình, nó điều chỉnh hành vi để con
người hướng đến mục đích một cách tự giác.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức lOMoAR cPSD| 61464806
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức
là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức
là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức của con người không phải là sản phẩm chủ quan thuần tuý, cũng
không phải có nguồn gốc từ một lực lượng siêu tự nhiên. Nó là kết quả của sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức đều do bản
thân thế giới vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất tạo ra, do đó vật chất
là nguồn gốc của ý thức
Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý
thức là sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất. Vật chất không chỉ quyết
định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người:
Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò của con người. Bản
thân ý thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi được hiện thực, muốn thay đổi hiện
thực cần phải có hoạt động vật chất. Song do mọi hoạt động của con người đều
được ý thức chỉ đạo, nên ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan trên cơ sở đó giúp con người xác định mục tiêu, phương hướng, lựa chọn
biện pháp, công cụ ... để thực hiện mục tiêu của mình.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, ý chí,hành
động hợp quy luật khách quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn, cải
tạo được thế giới, đạt được mục đích của mình.
Nếu ý thức phản ánh sai hiện thực khách quan, khiến cho hành động của
con người đi ngược lại quy luật khách quan thì những tác động ấy sẽ mang lại tác
động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Chính vì thế, trong hoạt động thực tiễn, ngoài việc nhận thức đúng quy luật
khách quan, còn cần phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan, đồng thời lOMoAR cPSD| 61464806
chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chống lại những tư
tưởng lạc hậu, phản động, phản khoa học.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới; bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút
ra ý nghĩa phương pháp luận là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi
hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo khách quan
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan là xuất phát
từ tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng hiện thực khách quan mà căn
bản là tôn trọng quy luật; nhận thức và hành động theo quy luật khách quan. Trong
nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác
định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải
lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất,
tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa
học, mặt khác phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học đồng
thời phải tu dưỡng rèn luyện bản thân mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan
và phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục
bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa
học...trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.