-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Giáo trình môn Lịch sử mỹ thuật thế giới
Tài liệu gồm 38 trang, có 2 chương chính của Đại học Mỹ thuật công nghiệp với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Lịch sự mỹ thuật thế giới 2 tài liệu
Đại học Mỹ thuật Công nghiệp 42 tài liệu
Giáo trình môn Lịch sử mỹ thuật thế giới
Tài liệu gồm 38 trang, có 2 chương chính của Đại học Mỹ thuật công nghiệp với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sự mỹ thuật thế giới 2 tài liệu
Trường: Đại học Mỹ thuật Công nghiệp 42 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Mỹ thuật Công nghiệp
Preview text:
lOMoARcPSD| 10435767 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG I: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY VÀ CỔ ĐẠI......................................3 Mở
đầu..........................................................................................................................3 Mục
tiêu........................................................................................................................4
..........................................................................................................4
BÀI 1: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY ....................................................................5
1. Khái niệm, có sở nghiên cứu nghệ thuật Nguyên thủy............................................5
2. Đặc điểm của mỹ thuật Nguyên thủy.......................................................................6
2.1. Đặc điểm về đối tượng nghệ thuật ...........................................................................6
2.2. Tính tả thực...............................................................................................................7
2.3. Đặc điểm về kỹ thuật, chất liệu................................................................................7
3. Một số di tích nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ tiêu biểu.......................................8
BÀI 2: MỸ THUẬT AI CẬP CỔ ĐẠI........................................................................9
1. Một số nét khái quát về lịch sử và địa lý Ai Cập ....................................................9
2. Nghệ thuật kiến trúc Ai Cập Cổ đại ......................................................................10
3. Nghệ thuật Điêu khắc Ai Cập Cổ đại.....................................................................11
4. Nghệ thuật Bích hoạ Ai Cập Cổ đại.......................................................................12
5. Kiến trúc Ai Cập cổ đại .........................................................................................12
5.1. Kim tự tháp Kê ốp (Chéops)...................................................................................12
5.2. Lăng Vua Tút tan kha môn.....................................................................................13
5.3. Tượng Nhân sư (Sphinx). ......................................................................................14
5.4. Tượng Viên thư lại Kai...........................................................................................14
5.5. Tượng ông xã trưởng Bolét - gỗ (khoảng 4500 năm).............................................14
5.6. Bức chạm gỗ mạ vàng ...........................................................................................15
5.7. Bích hoạ Ai Cập......................................................................................................15
5.8. Đền Kác nác (Karnak) thờ thần Mặt trời A.Mon....................................................16
6. Đặc điểm của mỹ thuật Ai Cập cổ đại....................................................................16
BÀI 3: MỸ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI....................................................................19
1. Khái quát về mỹ thuật Hy Lạp cổ đại....................................................................19
2. Nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại.......................................................................20 lOMoARcPSD| 10435767
3. Nghệ thuật Điêu khắc Hy Lạp cổ đại ....................................................................21
3.1 . Thời cổ sơ (Thế kỷ VII - VI trước công
nguyên)..................................................21
3.2 . Thời cổ điển (Thế Kỷ V - IV trước công
nguyên).................................................22
3.3 Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III - II trước công
nguyên)........................................22
4. Nghệ thuật hội hoạ, đồ hoạ Hy Lạp.......................................................................23
BÀI 4: MỸ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI .....................................................................25
1. Những ảnh hưởng góp phần hình thành nền mỹ thuật La Mã cổ đại....................25
2. Sự sáng tạo trong mỹ thuật la mã cổ đại................................................................25
2.1 Kiến trúc La mã cổ đại............................................................................................25
2.2 Điêu khắc La Mã cổ đại ........................................................................................27
3. Đặc điểm của mỹ thuật La Mã cổ đại....................................................................28
CHƯƠNG II: MỸ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI ........................................30
Mở đầu........................................................................................................................30
Mục tiêu:.....................................................................................................................30
.......................................................................................................30
BÀI 1 : MỸ THUẬT TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI.......................................................31
1. Mỹ thuật Trung Quốc.............................................................................................31
1.1. Văn hóa, xã hội......................................................................................................31
1.2. Những quan niệm, học thuyết tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp tới mỹ thuật Trung
Quốc cổ..........................................................................................................................32
1.3. Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật.............................................................34
1.4. . Nghệ thuật Điêu khắc ...........................................................................................36 lOMoARcPSD| 10435767 LỜI NÓI ĐẦU
Nghệ thuật tạo hình có từ bao giờ? Đó là một câu hỏi luôn được đặt ra và cũng có
nhiều cách trả lời. Mặc dù vậy, cũng không thể có một câu trả lời hoàn toàn chính xác. Có
phải ngay từ buổi bình minh của xã hội loài người, con người đã biết làm nghệ thuật? Buổi
bình minh ấy là lúc nào? con người thời kỳ nguyên thuỷ trên thế giới và ở Việt Nam đã
làm nghệ thuật ra sao? Từ khi xuất hiện đến nay, nghệ thuật tạo hình đã phát triển như thế
nào? Trả lời những câu hỏi và hiểu rõ được các vấn đề trên sẽ là những bước khởi đầu
trong quá trình học tập và nghiên cứu lịch sử mỹ thuật.
Vậy, Mỹ thuật là gì?
Theo từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông thì “Mỹ thuật là từ dùng để chỉ các loại
hình nghệ thuật tạo hình chủ yếu là Hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa và trang trí. Đó
là những ngành nghệ thuật phản ánh cái đẹp bằng màu sắc, đường nét, hình khối, .… Mỹ
thuật là một trong những ngành nghệ thuật ra đời sớm nhất.
Hội họa là loại hình nghệ thuật diễn tả không gian ba chiều lên mặt phẳng hai chiều
bằng các ngôn ngữ đặc trưng như hình khối, màu sắc, đường nét, bố cục. Điêu khắc lại có
tiếng nói riêng đó là hình khối. Một tác phẩm điêu khắc được làm bằng các chất liệu như
đá, gỗ, đồng, đất nung, .… Nếu Hội họa, điêu khắc có tình độc bản thì đồ họa lại là loại
hình nghệ thuật có khả năng nhân bản với yếu tố ngôn ngữ đặc trưng là nét, mảng, chấm,
. … Kiến trúc là loại hình nghệ thuật thẩm mỹ môi trường. Cái đẹp của tác phẩm kiến trúc
biểu hiện ở sự tạo dáng kiến trúc, ở đường nét, hình khối ở tỉ lệ kiến trúc. Nghệ thuật trang
trí chính là nghệ thuật làm đẹp. Vì vậy, nó gắn liền với nhiều lĩnh vực: con người và cuộc
sống. Trang trí cũng sử dụng ngôn ngữ tạo hình như hình vẽ, màu sắc, họa tiết, .… Các
loại hình nghệ thuật kể trên đều có một tiếng nói chung đó là tạo hình, tạo khối bằng một
hoặc nhiều yếu tố ngôn ngữ tạo hình. Một hình thức hoạt động mà có hai tên gọi, hoặc ta
có thể hiểu rằng sự phát triển của mỹ thuật cũng chính là sự phát triển của nghệ thuật tạo hình.
Người Hy Lạp xưa nổi tiếng về mỹ thuật. Nhưng sự tạo tác của họ lúc đầu vốn không
nghiên cứu, học tập, chỉ dựa vào trực giác để phân biệt cái đẹp, cái xấu của vật tự nhiên;
có điều cảm giác của họ nhạy bén cho nên thành tựu của họ rất kỳ diệu. Bởi vì hễ là loài
người, thì ai cũng có đủ hai đặc tính; một là cảm thụ, hai là sáng tác. Nói cảm thụ, ví như
trông thấy mặt trời buổi sáng nhô lên mặt biển, hay hoa thơm cỏ lạ mơn mởn thắm tươi,
thì ai lại cũng lĩnh hội được cảm xúc trước thiên nhiên tươi đẹp. Rồi một vài người có tài
biết đem cái cảnh đã cảm xúc ấy tái hiện thành tác phẩm mới. Thế là sáng tác. Cho nên 1 lOMoARcPSD| 10435767
sáng tác nảy sinh ra từ suy nghĩ. Không có suy nghĩ tức là không có mỹ thuật. Song vật tự
nhiên mà mình trông thấy không phải đã mười phân vẹn mười; hoa có khi héo, rụng; rừng
có khi hoang vu, bẩn, cho nên trong khi tái hiện thành cái mới phải cải tạo thêm cho thích
hợp. Như thế là mỹ hóa, tức là làm cho đẹp hơn. Nếu không mỹ hóa thì cũng không phải
là mỹ thuật. Cho nên mỹ thuật có ba yếu tố: một là vật tự nhiên, hai là suy nghĩ sắp xếp, ba là mỹ hóa.
Lịch sử Mỹ thuật là gì?
Môn học lịch sử mỹ thuật là môn học nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển
của các loại hình nghệ thuật tạo hình theo tiến trình thời gian lịch sử. Sau khi nghiên cứu
và học lịch sử mỹ thuật sẽ giúp chúng ta biết được các giai đoạn phát triển của mỹ thuật.
Nhờ thành tựu của nhiều ngành khoa học tự nhiên cũng như xã hội, chúng ta có thể dựng
lại bức tranh về cuộc sống con người từ thời nguyên thuỷ. Trên cơ sở đó giúp con người
ngày nay hiểu về đời sống sinh hoạt cũng như thẩm mỹ của con người. Mỹ thuật, hay nói
đúng hơn là nghệ thuật tạo hình, đã ra đời hàng nghìn năm trước đây. Do xuất hiện trong
quá trình lao động nên nó đã trở thành hình thức thể hiện ý nghĩa, tình cảm của con người,
trở thành một phương tiện đắc lực của sự nhận thức hiện thực. 2 lOMoARcPSD| 10435767
CHƯƠNG I: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY VÀ CỔ ĐẠI Mở đầu
Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã cũng là lúc nhà nước xuất hiện. Xã hội loài
người đã tiến thêm lên một bước. Điều kiện xã hội thay đổi, tôn giáo tín ngưỡng thay đổi
hay nói một cách khác cuộc sống con người thay đổi. Loài người bước vào một thời đại
mới: Thời kỳ cổ đại. Mọi sự thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi của mỹ thuật.
Cùng với sự ra đời của những nhà nước đầu tiên như Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp,
La Mã, rất nhiều phát minh, nghiên cứu về Toán học, Thiên văn học, Văn học, Sử học, ...
cũng lần lượt ra đời.
Con người đã có nhiều phương tiện để giao tiếp. Chữ viết xuất hiện đã đánh dấu
bước phát triển lớn của con người thời cổ đại, đồng thời là một phương tiện giúp con người
hiện đại dễ dàng lần theo dấu vết người xưa để tìm hiểu về nghệ thuật nhanh hơn, chính
xác hơn. Như ở Ai Cập, sau khi Săm-pô-li-ôn (Champolion) tìm cách giải mã được chữ
viết Ai Cập, dường như lịch sử nghệ thuật Ai Cập được nhìn lại, rõ ràng và đúng đắn hơn.
Con người hiện đại có nhiều căn cứ hơn để nghiên cứu lịch sử nghệ thuật của các thời đại trước.
Các công trình kiến trúc, điêu khắc hay những bức tranh tường còn lại cho nhân loại
ngày nay thấy được sự sáng tạo tuyệt vời của con người thời cổ đại. Không những thế,
ngày nay chúng ta bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại cũng chưa khám phá
hết sự hùng vĩ, kỳ bí trong cách xây dựng các công trình kiến trúc vĩ đại của nghệ thuật cổ
đại. Tưởng như những giải thích mang màu sắc thần thoại là hết sức hợp lý về những thành
tựu của nghệ thuật cổ đại.
Tại sao người Ai Cập cổ đại chỉ có sức lực và hai bàn tay mà xây dựng nên kim tự
tháp vĩ đại như Kê-ốp, Kê-phơ-ren, ...?
Tại sao thời kỳ cổ đại cách chúng ta hàng mấy ngàn năm mà con người đã tạo ra
được những pho tượng hoàn thiện và đẹp đẽ như tượng vệ nữ Mi-lô, người ném đĩa?
Rất nhiều câu hỏi được đặt ra về nghệ thuật cổ đại. Nội dung chương II sẽ phần nào
trả lời câu hỏi đó. Tuy vậy do cấu trúc chương trình, Chương II chỉ đề cập đến nghệ thuật
cổ đại Ai Cập, Hy Lạp, La Mã. Nghệ thuật phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn 3 lOMoARcPSD| 10435767
Độ sẽ được giải quyết và trình bày ở chương VI và cũng là chương cuối của phần lịch sử nghệ thuật thế giới. Mục tiêu -
Giúp sinh viên nắm được những đặc điểm cơ bản của Nghệ thuật Nguyên thủy.
Biết được một số di tích tiêu biểu. -
Giúp sinh viên hiểu được nguyên nhân và các yếu tố hình thành các nền mỹ thuật cổ đại. -
Sự phát triển của nghệ thuật cổ đại nói chung và của các nền nghệ thuật Ai
Cập, Hy Lạp, La Mã cổ đại. -
Những đặc điểm chung của nghệ thuật Ai Cập, Hy Lạp, La Mã. -
Nắm được một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của ba nền mỹ thuật cổ đại. Đặc
biệt là các tác giả, tác phẩm được giới thiệu trong chương trình môn Nghệ thuật ở THCS. -
Bước đầu biết cách nghiên cứu phân tích và đánh giá một tác phẩm mỹ thuật. 4 lOMoARcPSD| 10435767
BÀI 1: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY
1. Khái niệm, có sở nghiên cứu nghệ thuật Nguyên thủy
Nguyên thủy là khởi nguyên hay còn gọi là khởi đầu, sơ khai. Là thời kỳ này sinh
và phát triển của chế độ công xã đầu tiên. Nguyên thủy còn có tên gọi khác là tiền sử hay thời kỳ đồ đá.
Những con người đầu tiên xuất hiện được tiến hoá từ những giống vượn người. Quá
trình tiến hoá đó diễn ra rất chậm, trải qua hàng triệu năm. Họ có những ưu thế lớn đó là
bộ não lớn, đôi tay khỏe và khéo léo. Đặc biệt họ có thể đứng thẳng. Khoảng một triệu năm
trước đây con người đã đứng thẳng, thoát thai khỏi giới động vật. Hình thức sơ khai nhất
của xã hội loài người được hình thành: Xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Công cụ lao động
của các cư dân đầu tiên này đều được làm từ đá. Vì vậy, theo khảo cổ học thời kỳ này được
gọi là thời kỳ đồ đá, gồm ba giai đoạn: Đồ đá cũ - đồ đá giữa và đồ đá mới. Ở thời kỳ đồ
đá cũ con người sống bằng săn bắt và đánh cá. Họ biết chế tạo công cụ lao động. Trải qua
một thời gian dài với người Crôma nhông, dấu hiệu về sự làm đẹp đã xuất hiện. Họ chú ý
tới cách ăn mặc, trang trí vách hang bằng các hình vẽ thú vật và họ còn làm những bức
tượng nhỏ bằng nhiều chất liệu như ngà, xương, …. Tộc người này sống vào cuối thời kỳ
đồ đá cũ. Phải chăng đây là lúc nghệ thuật tạo hình xuất hiện và một đời sống thẩm mỹ đã
dần được hình thành? Không ai có thể khẳng định một cách chắc chắn nghệ thuật tạo hình
bắt đầu ra sao và từ bao giờ. Tuy vậy căn cứ trên các hình vẽ tìm thấy ở một số hang động
như Antamira (Tây ban nha) Látxcô (Pháp), một số bức tượng phụ nữ đã được xác định
niên đại có thể cho ta hình dung về sự ra đời của nghệ thuật tạo hình trong đời sống nguyên
thuỷ. Từ 30.000 năm đến 10.000 năm trước công nguyên đã bắt đầu để lại những dấu vết
về nghệ thuật tạo hình, theo như cách gọi của chúng ta ngày nay.
Cách chúng ta hơn 5.000 năm trước đây, con người mới phát hiện ra chữ viết, lúc
đầu chỉ là những hình vẽ tượng trưng, những ký hiệu để trao đổi. Ví dụ hình tròn có chấm
ở giữa là mặt trời ( ), …. Dần dần các chữ tượng hình xuất hiện. Như vậy thì từ “Nghệ
thuật tạo hình” hay “Mỹ thuật” như ta thấy ngày nay xuất hiện sau những hình vẽ trên vách
hang động thời tiền sử rất nhiều. Khi con người thời tiền sử vẽ hoặc khắc vạch lên vách,
trần hang động nơi họ sinh sống có lẽ họ cũng chưa nghĩ rằng đó là những tác phẩm nghệ
thuật tạo hình. Những hình vẽ đó gắn với cuộc sống, với các đồ vật, nơi sinh hoạt của con
người. Về một mặt nào đó, trong tư duy nguyên thuỷ việc vẽ hình cũng giống như việc săn
bắt hay các công việc khác. Nó không chỉ mang ý nghĩa nghệ thuật mà còn gắn với cái có
ích. Ngoài ra nghệ thuật tạo hình lúc này còn gắn với những tín ngưỡng, ma thuật. Theo E. 5 lOMoARcPSD| 10435767
H. Gombrich, tác giả cuốn “Câu chuyện nghệ thuật” thì “Tranh và tượng được họ dùng
để thực hành pháp thuật”. “Những người thợ săn thời kỳ này nghĩ rằng chỉ cần vẽ hình con
mồi và có lẽ tấn công chúng bằng giáo mác hay rìu đá, những con thú thật sẽ khuất phục
sức mạnh của họ”. Tất nhiên đây là sự phỏng đoán của con người ngày nay khi nghiên cứu
về 2 lịch sử mỹ thuật của thời nguyên thuỷ.
Ngoài hai ý nghĩa trên, các hình vẽ còn có ý nghĩa là những thông tin nhắn gửi cho
các thế hệ sau về cuộc sống, sinh hoạt của con người thời tiền sử. Ví dụ qua các hình vẽ
thú vật như bò rừng, ngựa, voi, ma mút, … cho chúng ta biết về các động vật thời nguyên
thuỷ, ở bức tranh khác ta được chứng kiến cách đánh cá, cách quăng lưới, cách sử dụng
các con cá mồi lớn. Thậm chí con người thời kỳ đó vẽ chỉ để giải trí. Những con người đầu
tiên có mặt ở khắp nơi trên thế giới: Người Olduvai ở Đông phi, người Bắc Kinh (Trung
Quốc), người Nêanđéctan (Đức), người Crôma nhông (Pháp), …. Dấu vết về nghệ thuật
của họ vì vậy cũng trải ra trên một địa bàn rất rộng lớn: từ Châu Phi, Châu Á đến Châu Âu (Bắc Âu).
2. Đặc điểm của mỹ thuật Nguyên thủy
2.1. Đặc điểm về đối tượng nghệ thuật
Trong các hình vẽ còn lại trên vách, hang, động nơi con người thời nguyên thuỷ sinh
sống chủ yếu là các hình thú hoặc đơn lẻ hoặc bầy đàn, ở một số tác phẩm đã có ý thức bố
cục các hình tượng theo một chủ đề nhất định. Người nguyên thuỷ đã rất thành công khi
vẽ con vật. Nhất là các hoạt động của chúng được diễn tả khá điêu luyện và rất sống động.
Đối tượng chủ yếu trong nghệ thuật giai đoạn này là các con thú như ngựa, bò, hươu, tuần
lộc, … điều này có thể lý giải được. Với cuộc sống nguyên thuỷ, các con vật đó đã góp
phần nuôi dưỡng con người, chúng là nguồn thức ăn chính của họ, là đối tượng gần gũi
nhất đối với con người.
Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ thực tế, người nguyên thuỷ cũng không thể vượt quá
cuộc sống hiện thực của mình, tầm hiểu biết của mình. Cuộc sống ấy hướng vào những gì
gần gũi, thân quen nhất. Đó chính là sự tìm hiểu các loài thú để có thể săn bắt được, hoặc
tránh xa những con thú nguy hiểm, dữ tợn, .… Tất cả những điều đó được thể hiện qua
hình vẽ. Nghệ thuật nguyên thuỷ vì vậy mới chỉ dừng lại ở việc diễn tả một cách tài tình
các con thú. Hình tượng con người cũng được đề cập tới, nhưng nghệ sĩ nguyên thuỷ đã sử
dụng các sơ đồ hoá, hoặc phong cách hoá đơn giản và ước lệ khi vẽ con người.
Ngược lại trong điêu khắc lại phát hiện thấy hầu hết là tượng người, mà chủ yếu là
phụ nữ, được phát hiện nhiều nơi trên thế giới. Tượng có thể có kích thước to nhỏ khác 6 lOMoARcPSD| 10435767
nhau. Cái nhỏ nhất khoảng 3,5cm, cái lớn nhất khoảng 23cm. Các bức tượng này được làm
bằng nhiều chất liệu như ngà, sừng, xương, đá hoặc đất nung chúng có chung đặc điểm là:
Tỉ lệ chung chưa được chú ý, chưa cân đối. Phần đầu và tay chân không được diễn tả kỹ.
Phần được chú trọng nhất là phần thân cùng với sự cường điệu phóng đại các chi tiết:
Ngực, mông, bụng. Phần chân dung hầu như không được diễn tả. Có lẽ các nghệ sĩ khi làm
những pho tượng này đã bị chi phối bởi những suy nghĩ đặc biệt, mang theo tinh thần tư duy nguyên thuỷ.
2.2. Tính tả thực
Phong cách bao trùm mỹ thuật nguyên thuỷ là phong cách tả thực. Nghệ sĩ nguyên
thuỷ đã đi từ đơn giản đến phức tạp dần. Nhưng dù đơn giản hay phức tạp họ đều đi đến
một cái đích: Đó là cố gắng diễn tả đối tượng một cách đúng nhất và sống động nhất. Điều
này chứng tỏ sự quan sát kiên trì và chính xác những đặc điểm của đối tượng. Sở dĩ người
nguyên thuỷ thích tả thực vì những bức vẽ đó chưa đơn thuần là nghệ thuật mà nó còn gắn
liền với nhiều chức năng khác. Những chức năng đó đòi hỏi hình vẽ phải chính xác, phải
giống thực một cách tối đa. Lúc ban đầu, hình vẽ được diễn tả bằng nét là chính.
Người thời nguyên thuỷ chú ý nhất đến đường sống lưng của con vật. Có thể nói đó
chính là trục tạo dáng cho hình tượng nghệ thuật. Sau này, khi tư duy đã phát triển, con
người biết tìm ra các màu vẽ, rồi tìm cách diễn tả chỗ đậm, chỗ sáng. Từ nét đậm nhạt,
màu sắc, từ những hình đơn lẻ đến các bức tranh có ý thức bố cục, đề tài, đó chính là sự
phát triển của mỹ thuật thời nguyên thuỷ thông qua loại hình nghệ thuật vẽ hình, chạm
khắc hình lên vách, trần hang động.
Cùng với phong cách tả thực, các nghệ sĩ nguyên thuỷ còn biết cách điệu, ước lệ
hoá, sơ đồ hoá. Lấy bức chạm “Một đàn hươu qua sông” trên một mảnh xương tìm thấy ở
hang Mê - ri làm ví dụ. Tác giả đã rất giỏi khi chạm hình 3 con hươu đầu đàn và một con
cuối đà, ở giữa tác giả chỉ diễn tả các cặp sừng cao dần, phía dưới dùng các gạch chéo với
cách làm như vậy tác giả đã cho chúng ta thấy một đàn hươu rất đông đang di chuyển. Các
hoa văn gạch chéo, hay những cặp sừng như một rừng cây đã thay thế cho những con hươu
giữa đàn. Như vậy trong bức chạm này, tác giả của nó đã dùng bút pháp tượng trưng, ước
lệ xen với lối tả thực đạt tới trình độ cao.
2.3. Đặc điểm về kỹ thuật, chất liệu
Một vấn đề đặt ra: Người nguyên thuỷ vẽ bằng gì? Và cách họ vẽ ra sao? Màu vẽ
được gọi là mầu thổ hoàng. Đó là một loại màu được chế tạo bằng cách mài các khoáng
chất thành bột rồi pha với nước. Màu đỏ lấy từ đá hematite (ôxit sắt hay đất son) màu trắng 7 lOMoARcPSD| 10435767
từ đá Kalin hoặc phấn, màu đen từ dioxýt mangan hay than đá. Một số cộng đồng người
còn biết đun nóng các khoáng chất để tạo ra màu mới. Đôi khi để có chất kết dính màu thổ
hoàng người nguyên thuỷ đã biết dùng mỡ, hoặc tuỷ sống động vật và nhựa cây. Kỹ thuật
vẽ thì đơn giản, có thể dùng que, tay để vẽ. Chất liệu của điêu khắc phong phú lơn. Có thể
họ khắc, chạm lên xương, sừng, ngà voi hay đá mềm, ….
3. Một số di tích nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ tiêu biểu
Ngày nay chúng ta đã tìm được trên một trăm hang động có hình vẽ. Phần lớn đều
nằm ở miền Bắc Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Tuy vậy có hai hang còn lưu giữ
nhiều hình vẽ đẹp. Đó là hang Anta - mi - ra (Tây Ban Nha) và hang Látxcô (Pháp). Đây
được coi là hai bảo tàng lớn của nguyên thuỷ. Hang Anta - mi - ra được phát hiện năm
1863 do một sự tình cờ. Sau 16 năm tìm hiểu, nghiên cứu về các hình vẽ bò rừng ở trong
hang con người thế kỷ XIX mới tin rằng hang Anta - mi - ra chính là một trong những địa
điểm nổi tiếng của mỹ thuật thời nguyên thuỷ. Trong hang có nhiều hình vẽ con bò rừng
(Bi đông) trong các dáng khác nhau và rất sống động. Ngoài những đặc điểm được miêu
tả chính xác các hình vẽ này còn được thể hiện với những đường nét mềm mại, đậm nhạt
sinh động. Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật còn gọi hang Anta - mi - ra là “Toà tiểu giáo
đường Xicxtin của thời nguyên thuỷ”.
Hang Latxcô (Pháp) lại do một nhóm trẻ em đi chơi trong khu rừng Latxcô, do một
sự bất ngờ chúng tìm thấy một chiếc hang lớn. Trên vách và trần hang chúng thấy có nhiều
hình vẽ thú vật. Trong đó rõ và đẹp nhất là hình ngựa, bò, …. Ngựa ở hang Latxcô được
thể hiện có màu sắc và đậm nhạt gợi khối. Những hình vẽ này thành công đến mức người
ta có thể ví nó với hình vẽ ngựa của các hoạ sĩ Trung Quốc, những bậc thầy về diễn tả con vật.
Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng lối vẽ màu ở đây khá độc đáo. Màu được thổi
lên hình vẽ qua một ống sậy hoặc ống xương.
Các hình vẽ được tô màu đỏ là chủ yếu. Trên hình vẽ có một số mảng màu được cạo
bớt đi để diễn tả khối, tạo sự sinh động cho hình tượng. Các tranh vẽ còn lại đến ngày nay
được định tuổi từ khoảng 15.000 đến 10.000 năm trước công nguyên.
Bên cạnh hình thú, ở đây còn có hình tượng con người: Những người đi săn bị
thương ở giữa các con vật, hình người ném lao hoặc hình người nhảy múa với mặt nạ thú, …. 8 lOMoARcPSD| 10435767
BÀI 2: MỸ THUẬT AI CẬP CỔ ĐẠI
1. Một số nét khái quát về lịch sử và địa lý Ai Cập
Khoảng năm 3100 trước công nguyên, Ai Cập cổ đại đã ra đời ở vùng Đông bắc
Châu Phi. Đây là quốc gia gần như sớm nhất được hình thành, nó nằm dọc theo hai bên bờ
con sông Nil, dòng sông mang nước cho ruộng đồng, bùn đất của sông Nil có thể thai thác
làm gạch, làm đồ gốm, dòng sông còn là nguồn giao thông quan trong của đất nước. Tháng
6 có mưa lớn ở vùng xích đạo, nước dòng sông lên cao tràn bờ, lúc nước rút để lại trên mặt
đất lớp phù sa màu mỡ. Điều này tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển.
Ai Cập tiền sử chia làm hai phần: Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập. Đến năm 3100
trước công nguyên thống nhất, đánh dấu bằng sự chinh phục của Pharaông Nácme. Lịch
sử Ai Cập đã chứng kiến 3 giai đoạn hoàng kim, văn hoá nghệ thuật phát triển hơn. Cổ
vương quốc (3100 - 2160 TCN), thời trung vương quốc (2133 - 1625 TCN), thời Tân quốc
(1567 - 1085TCN) với các đời vua từ XVIII đến XX. Từ triều vua thứ XXI trở đi quyền
lực của các vua Ai Cập bị sa sút rõ rệt, quốc gia lại bị chia thành nhiều quốc gia tự trị. Thời
đại cuối cùng là Pôlêmê (Poléméc: 323 - 31 TCN).
Nền văn minh Ai Cập được hình thành và phát triển ngay từ thời kỳ đầu tiên. Lúc
này mọi yếu tố như chữ viết, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, khoa học Ai Cập đã phát triển
và hoàn thiện. Năm 1822, một nhà Ai Cập học người Pháp là Giăng Phờrăng xoa Sămpôli
đã đọc được phần viết bằng chữ tượng hình Ai Cập trên tấm đá Rosette tìm thấy năm 1799.
Từ đó giải mã được chữ tượng hình Ai Cập, và lịch sử mỹ thuật Ai Cập dần được hé mở.
Người Ai Cập có nhiều thành tựu về khoa học: Toán học, Thiên văn học, y học….
sớm phát triển. Về toán học đã sớm nghiên cứu về phương trình bậc nhất trong tri thức đại
số, hình học đã biết các hình tam giác vuông, chữ nhật và số Pi (ð = 3,1416), … dùng thước
đo bằng gang tay, … Làm ra lịch, … Những thành tựu ấy đã giúp ta hiểu vì sao người Ai
Cập lại có thể xây được các kim tự tháp lớn như các kim tự tháp còn tồn tại trên đất nước Hy lạp đến ngày nay.
Về tôn giáo, tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại: Họ thờ rất nhiều vị thần, tôn giáo
đa thần giáo phát triển.
Các vị thần hầu hết là đại diện cho lực lượng siêu nhiên chi phối đời sống nông
nghiệp như Thần mặt trời, Thần sông Nil, … và các thần động vật: Thần bò đực, Thần diều
hâu, Thần cá sấu, … người Ai Cập còn có lòng tin vào sự bất diệt của linh hồn, do đó nghi
lễ chôn cất của họ rất phức tạp. Vì quan niệm đó, hình thành tục ướp xác. 9 lOMoARcPSD| 10435767
Tuy vậy với thủ tục và chi phí tốn kém nên hầu hết chỉ có các vua và những người
có đủ tiền mới được ướp xác. Xác ướp sẽ được giữ gìn trong lăng mộ với kích thước đồ
sộ, chất liệu bền vững là kim tự tháp. Tôn giáo, tín ngưỡng có ảnh hưởng đến đời sống,
nghệ thuật của Ai Cập.
2. Nghệ thuật kiến trúc Ai Cập Cổ đại
Thời kỳ đầu tiên, các kim tự tháp xây bằng gạch có bậc thang. Trải qua thời gian
phát triển, dần xuất hiện đá thay thế. Kim tự tháp đá được gọi là cổ nhất là của vua Giôxê
(Djoser), do “Kiến trúc sư” Imhôtép, quan đại thần của vua thiết kế và xây dựng. Tháp
được xây bằng đá, cao 60m, làm thành 6 bậc thang, những bậc này tượng trưng như những
tầng bậc đưa linh hồn vua lên tới trời cao. Cạnh đáy khoảng 71m.
Từ nguyên mẫu kim tự tháp Giôxê, các lăng mộ sau này đều được xây dựng thành
hình khối chóp, đáy là hình vuông, 4 mặt đều trơn nhẵn, không có bậc thang. Từ thời Tân
quốc người Ai Cập không xây dựng các kim tự tháp ở giữa sa mạc, mà xây chúng trong
thung lũng các vua và hoàng hậu.
Những ngôi đền thờ của Ai Cập được xây dựng với đồ án kiến trúc đơn giản gồm:
cổng đền là một khối kiến trúc lớn được phủ đầy các hoa văn trang trí; Từ cổng vào đền
chính điện ta phải đi trên con đường thần (thần đạo). Chính điện là một căn phòng lớn với
những hàng cột bao quanh còn được gọi là phòng cột. Trên các di tích còn lại, cho thấy
người Ai Cập thời cổ đại đã tạo ra nhiều kiểu dáng cột: cột hình bó sậy, hình hoa súng,
hình cây Thốt Nốt, … Các đền thờ này được xây dựng ở hai bên bờ sông Nil, chủ yếu ở
phía Nam như đền: Kác nác, Luxo, Abuximben… Kim tự tháp và đền thờ Ai Cập đều mang
vẻ đẹp của sự đồ sộ, vững chắc và vĩnh hằng. Điều này bộc lộ một phần ở hình thức vĩ đại
của các thể loại kiến trúc Ai Cập cổ đại.
3. Nghệ thuật Điêu khắc Ai Cập Cổ đại
Ở thời kỳ cổ đại, các loại hình nghệ thuật gắn bó với nhau rất chặt chẽ trong một
tổng thể. Đi cùng với kiến trúc là điêu khắc, là tranh tường.
Điêu khắc và tranh vẽ làm đẹp, làm tăng ý nghĩa cho các công trình kiến trúc. Vì
vậy, cùng với hai loại kiến trúc lăng mộ và đền miếu thờ. Bên cạnh các kim tự tháp có rất
nhiều tượng nhân sư đầu người mình sư tử. Thần thoại có bao nhiêu thần thì người Ai Cập
cũng nghĩ ra bấy nhiêu hình thức thể hiện các vị thần ấy. Thường thì họ ghép hai yếu tố
người và thú với nhau để tạo ra một hình tượng linh thiêng như tượng nhân sư, …đầu chó
mình người, chim ưng, …. 10 lOMoARcPSD| 10435767
Trong các ngôi mộ đều có đặt tượng chân dung của chủ nhân các ngôi mộ. Tượng
này có thể thay thế cho xác chết, làm cho linh hồn tồn tại, vì vậy tượng được làm giống thực tối đa.
Phong cách tả thực nổi rõ trong điêu khắc thời cổ vương quốc. Kiểu người nông
nghiệp thô đậm. Sang thời kỳ trung và nhất là thời kỳ tân vương quốc tính chất trọng thực
trong điêu khắc Ai Cập đã giảm bớt. Tỷ lệ các pho tượng được kéo dài, tạo dáng thanh
mảnh hơn cho tượng. Cái đẹp, mềm mại, duyên dáng được đưa vào điêu khắc. Tượng đặt
ở lăng mộ hay đền thờ đều có kích thước tương ứng với kích thước ở đền hay kim tự tháp.
Một thể loại khác của điêu khắc là phù điêu. Trong nghệ thuật Ai Cập phù điêu rất
phát triển. Hình tượng người, thần, … trong phù điêu được thể hiện theo những ước lệ tạo
hình. Hình tượng nhân vật được diễn tả ở nhiều điểm nhìn khác nhau biểu hiện ở một hình
nhưng đầu mặt nhìn nghiêng, mắt và vai luôn hướng ở chính diện, bàn chân nhìn nghiêng, ….
Sự kết hợp đó đã tạo nên những hình tượng rất đặc biệt, mang đặc điểm của nghệ
thuật Ai Cập. Nó đã khiến cho nghệ thuật Ai Cập mang tính dân tộc và không giống cách
tạo hình của dân tộc nào trên thế giới.
Như vậy, nghệ thuật điêu khắc Ai Cập vừa mang tính hiện thực, vừa mang tính ước
lệ và chịu ảnh hưởng của tư tưởng thần bí, tôn giáo.
4. Nghệ thuật Bích hoạ Ai Cập Cổ đại
Ngay từ thời kỳ cổ vương quốc, bên cạnh những bức chạm nổi có tô màu còn có
nhiều tranh vẽ trên tường (bích hoạ). Trong các bức tranh này ngoại trừ tính ước lệ trong
cách tạo hình như đã đề cập ở nghệ thuật điêu khắc tất cả các yếu tố khác đều đạt tới vẻ
đẹp hoàn thiện. Màu sắc trong sáng, tươi tắn với những nhịp điệu phong phú của mảng
sáng tối, đậm nhạt, của màu sắc và của đường nét. Hình tượng các con vật được diễn tả tỉ
mỉ, chính xác và hài hoà đến đáng khâm phục. Tuy vậy những bức tranh tường này vẫn
bộc lộ cảm xúc sâu sắc của các tác giả khi vẽ tranh. Tính khoa học rất cao trong nghệ thuật
tranh tường song không thô cứng mà vẫn rất mềm mại, giàu sức sống động. Nội dung được
chuyển tải là tôn giáo, là các cuộc tế lễ, cầu đảo, hoặc sinh hoạt của con người rất phong
phú. 5. Một số tác phẩm và công trình nghệ thuật tiêu biểu
5. Kiến trúc Ai Cập cổ đại 11 lOMoARcPSD| 10435767
5.1. Kim tự tháp Kê ốp (Chéops)
Nằm ở phía Tây sông Nil, bên sa mạc Ghida (Ghiga) ngày nay, còn sừng sững ba
kim tự tháp: Kim tự tháp Kê ốp, Kêphren và Mykênrinốt. Trong số đó kim tự tháp Kê ốp
lớn nhất. Nó được xếp vào một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Đây là lăng mộ xây
cho vua Kê ốp, ông vua thứ hai của vương triều IV khoảng giữa năm 2650 TCN. Kim tự
tháp Kê ốp cao 137m, do 225 vạn tảng đá vôi xây nên, Mỗi tảng đá nặng từ 2 - 2,5 tấn,
tảng lớn nhất nặng 15,25 tấn. Đỉnh kim tự tháp là một hình vuông bằng phẳng không có
dấu hiệu của sự dở dang hay sói mòn. Hình vuông ấy có kích thước mỗi cạnh 10m, được
lát bằng 9 phiến đá vuông.
Theo các nhà khoa học trong kim tự tháp Kê ốp có 1/5 thể tích là những khoang
trống có chứa cát. Bốn mặt của kim tự tháp theo bốn hướng Bắc, Nam, Đông, Tây. Người
Ai Cập vẫn coi kim tự tháp là cái la bàn khổng lồ. Cho đến ngày nay, với khoa học kỹ thuật
phát triển người ta vẫn còn ngạc nhiên về tài xây dựng kim tự tháp của người Ai Cập cổ.
Theo cách hiểu thông thường thì kim tự tháp là lăng mộ của các Pharaông Ai Cập. Tuy vậy
đến nay cũng chưa phát được thi thể của các vua. Bằng cách nào có thể đưa những phiến
đá nặng lên cao 140m như vậy? Việc khai thác đá, vận chuyển đá đến nơi làm kim tự tháp
đã có thể coi là một kỳ công. Họ còn phải đẽo các phiến đá, mài nhẵn để có thể xếp lên
nhau cho thật khít, các tảng đá được xếp lên nhau, hầu như không có kẽ hở, không có vật
liệu kết dính, ấy vậy mà các lăng mộ vĩ đại ấy vẫn sừng sững tồn tại đến ngày nay. 12 lOMoARcPSD| 10435767
Bên cạnh kim tự tháp Kê ốp còn có kim tự tháp Kêphren và kim tự tháp Mykêrinốt
có hình dáng tương tự, nhưng nhỏ hơn. Kêphren có cạnh đáy khoảng 215m, cao 134m.
Mykêrinốt là nhỏ nhất, cạnh đáy khoảng 105m, cao khoảng 60m.
Kim tự tháp là công trình kiến trúc tiêu biểu thể hiện tài năng của người Ai Cập.
Đồng thời nó cũng thể hiện quyền lực rất lớn của Pharaông Ai Cập. Tuy vậy để có được
công trình đó phải có sự hy sinh của bao nhiêu nô lệ. Đứng về mặt lịch sử nó là lăng của
các Pharaông Ai Cập. Nhưng đồng thời về mặt nào đó, nó như một đài kỷ niệm một lời
nhắc nhủ đến mai sau về sức lao động sáng tạo, bền bỉ của người Ai Cập thời cổ đại.
5.2. Lăng Vua Tút tan kha môn
Do quan niệm của người Ai Cập về sự vĩnh hằng, về thế giới bên kia, nên các ngôi
mộ của Pharaông còn là nơi chứa nhiều đồ quý giá. Nó làm tăng ham muốn chiếm kho
báu, dẫn đến nhiều vụ cướp phá những ngôi mộ xảy ra. Ngày 26/11/1922, nhà khảo cổ học
Hô uốt Các tơ (Howard carter) là người phát hiện ra ngôi mộ còn nguyên vẹn của ông vua
trẻ Tút tan kha môn, qua đó cho ta biết về nghi thức tang lễ của thời Tân vương quốc.
Lăng của Tút tan kha môn gồm nhiều căn phòng được bịt kín bằng gạch. Có lẽ sau
khi tiến hành tang lễ người ta bắt đầu xây kín các cửa thông các gian phòng với nhau. Khi
khai quật mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Người ta đã phát hiện ra một chiếc quan tài bằng
đá rất lớn trong đó có 3 quan tài khác bằng vàng, cái nọ lồng trong cái kia. Khoảng trống
giữa các lớp quan tài là nước thơm đã đông cứng. Xác của Pharaông còn nguyên vẹn.
5.3. Tượng Nhân sư (Sphinx).
Bên cạnh lăng Kêphren ở Ghi - da có một bức tượng lớn. Tượng đầu người mình sư
tử. Tượng cao 20m, dài gần 60m. Hình tượng nhân sư là hình tượng mang tính chất thần
bí, biểu hiện sức mạnh vô địch. Sức mạnh được tạo bởi quyền lực của nhà vua và sức mạnh
thể chất của chúa sơn lâm. Đó cũng là sự kết hợp giữa trí tuệ và hành động. Tượng được
làm bằng đá khối. Hơn ba ngàn năm trôi qua, tượng nhân sư đã được tu sửa rất nhiều lần.
5.4. Tượng Viên thư lại Kai
Ở Ai Cập nghề được coi trọng và ngưỡng mộ là nghề viết chữ. Thư lại là người rất
quan trọng và có nhiều nhiệm vụ: có thể giữ hồ sơ thuế, các vụ xét xử và nhiều loại văn bản khác.
5.5. Tượng ông xã trưởng Bolét - gỗ (khoảng 4500 năm)
Khí hậu Ai Cập khô, nóng, độ ẩm thấp. Vì vậy ngay cả chất liệu gỗ cũng bền vững
với thời gian. Tượng ông xã trưởng là pho tượng gỗ cổ nhất Ai Cập còn lại đến ngày nay.
Tượng được diễn tả trong tư thế đang bước đi, tay trái chống gậy, mắt nhìn thẳng. Khối 13 lOMoARcPSD| 10435767
căng tròn, thể hiện người đẫy đà, thô, mập theo kiểu người làm nghề nông. Riêng đôi mắt,
để tăng thêm phần sống động, người Ai Cập cổ đã nghĩ ra kỹ thuật gắn bột thuỷ tinh.
Tượng vua Rahôtép và vợ là hoàng hậu Nophre (cuối triều vua thứ III). Nhìn thẳng
hai pho tượng được làm theo nguyên tắc nhìn ngay ngó thẳng của Ai Cập. Cả hai pho tượng
đều được tạc từ khối đá nguyên, ngồi tĩnh lặng, tay bó vào thân. Tượng được tô màu: Vua
màu đậm, hoàng hậu mắt sáng hơn. Mắt được khảm và vẽ đậm, trông giống như người
thật. Nhìn nghiêng ta có thể cảm nhận được sức sống tràn trề trên hai cơ thể, chất da thịt sống động gợi cảm.
Nói đến nghệ thuật điêu khắc Ai Cập, không thể bỏ qua tượng hoàng hậu Nephéctiti
vợ vua Akhênatôn. Nhiều tượng chân dung của bà được giữ đến ngày nay, đã đánh dấu sự
chuyển biến trong phong cách nghệ thuật Ai Cập. Tượng mang nhiều chất hiện thực, sống
động, bớt vẽ trang nghiêm, quy tắc như thời cổ vương quốc.
5.6. Bức chạm gỗ mạ vàng
Mặt sau chiếc ngai trong mộ diễn tả cảnh Pharaôn Túttankhamôn và vợ (Khoảng 1350 TCN)
Túttankhamôn là người kế vị ngai vàng Akhênatôn, ông lên ngôi từ bé và mất sớm.
Lăng mộ của ông là một trong những lăng mộ đẹp nhất của Ai Cập. Trong lăng của ông
khi khai quật, các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Người ta đem chúng về và
trưng bày trong 11 văn phòng lớn ở bảo tàng Cairô mới hết. Trong đó có chiếc ngai, mặt
sau ngai có bức chạm gỗ, được sơn mạ vàng, nó diễn tả cảnh vua và hoàng hậu. Từ dáng
ngồi của nhà vua, đến cách tạo hình và bộ lộ tình cảm của hoàng hậu ta đã thấy có sự thay
đổi trong quan niệm nghệ thuật cũng như quan niệm sống của người Ai Cập. Tỉ lệ của
hoàng hậu không nhỏ hơn vua. Trên đầu họ là thần mặt trời hiện diện là một quả cầu vàng,
với những tia sáng là những cánh tay nhỏ vươn xuống chúc phúc cho 2 người. Các bức
chạm khối nổi nhẹ nhàng, đường nét mềm mại, tỉ lệ tương đối cân đối, hài hoà. Hình tượng
nhân vật đã bớt nặng nề và mang tính chất hiện thực phóng khoáng hơn thời kỳ trước.
5.7. Bích hoạ Ai Cập
Tác phẩm: “Cuốn sách của người chết” được vẽ trong mộ của một viên quản gia
kiêm thư lại của Hoàng gia thuộc vương triều thứ 19 (1320 - 1290 TCN). Một sự kết hợp
tuyệt vời của đường nét và màu sắc trong tranh. Tác giả đã chỉ cho người chết con đường,
cách thức để đi tới thế giới vĩnh cửu của thần Ôdirít.
Toàn bộ tranh được chia làm 3 phần: Phía trên là các vị thần thẩm định, mỗi vị đại
diện cho một quận của Ai Cập. Phía dưới là người chết được thần ướp xác Amubít dẫn 14 lOMoARcPSD| 10435767
đường. Nội dung chính trong bức tranh này thể hiện người chết sẽ nhận được sự phê chuẩn
của thần trí tuệ. Cuối cùng thần Amubít sẽ đưa người đó đến thần Ôdirít, người cai quản dưới lòng đất.
Tranh vẽ toàn mảng bẹt, phẳng. Cái đẹp ở đây là nhịp điệu của mảng trắng, đậm
trong tranh, sự kết hợp giữa hình và chữ.
Tranh “Săn chim”: Nhân vật trong tranh được vẽ với tỷ lệ lớn nhất, nhỏ hơn là vợ
và con gái anh ta. Tỷ lệ của các nhân vật được thể hiện theo chỗ đứng, địa vị của nhân vật
trong xã hội, tôn giáo, hoặc gia đình.
Người Ai Cập chưa diễn tả nhân vật theo như luật xa gần. Họ có quan niệm riêng,
mang tính dân tộc đậm nét. Tác giả đã rất giỏi khi thể hiện một cách chính xác cây, hoa
đặc trưng của Ai Cập và các giống thú, chim, bướm, … màu sắc tươi sáng, nhẹ nhàng.
Những bức tranh này còn biểu hiện sự tuyệt vời về đường nét trong tác phẩm.
Chạm gỗ nắp quan tài, Sách của người chết, Bên phải, tranh dưới: Săn chim
5.8. Đền Kác nác (Karnak) thờ thần Mặt trời A.Mon
Là một trong những ngôi đền đẹp nhất của Ai Cập cổ đại, được xây dựng trong thời
kỳ Tân vương quốc. Theo cấu trúc chung của các đền miếu thờ ở Ai Cập.
Phía bên ngoài là cổng đền: thường là cột tháp với những bức tường hai bên. Đi qua
sân rộng hình chữ nhật là phòng cột đỡ trần nhà, có mái che. Sau cùng là hậu cung. Phòng
chính trong đến Kác nác có diện tích khoảng 5000m2 với 16 hàng cột đỡ trần nhà, gồm 134 cột đá lớn, …
Qua một vài kích thước cụ thể như vậy ta thấy vẻ đẹp hùng vĩ của kiến trúc đền thờ Ai Cập. 15 lOMoARcPSD| 10435767
Trên các cây cột có khắc đầy các hình vẽ, trên cổng đền, ở mọi chỗ trên kiến trúc là
những phù điêu chạm nổi kẻ vẽ các cuộc chinh chiến của nhà vua. Nói liền đền Kác nác
với đền Lu xô là hai dãy tượng Xphanh đấu cừu kéo dài trên 2000m.
6. Đặc điểm của mỹ thuật Ai Cập cổ đại
Mỹ thuật Ai Cập cổ đại suốt 3000 năm tồn tại không có những biến động lớn. Ngay
từ thời cổ vương quốc nghệ thuật dã có những thành tựu đáng khâm phục ở mọi lĩnh vực
kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Sở dĩ như vậy vì trong nghệ thuật người Ai Cập có những
quan niệm, những quy định, các nghệ sĩ khi sáng tác phải tuân thủ nghiêm ngặt. Vì vậy
tính chất dân tộc thể hiện đậm nét trong các loại hình nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Điều đó
góp phần hình thành một số đặc điểm chúng cho nghệ thuật tạo hình.
Nghệ thuật Ai Cập luôn hướng tới sự vĩnh hằng, sự trường tồn. Điều này thể hiện
trong kiến trúc, điêu khắc và bích hoạ. Các tác phẩm nghệ thuật của Ai Cập được làm bằng
chất liệu bền vững và chúng tồn tại cho tới tận ngày hôm nay. Quan niệm, lòng tin vào sự
bất diệt của linh hồn đã chi phối mạnh mẽ tới nghệ thuật tạo hình và tạo ra những tác phẩm
nghệ thuật bất hủ, xứng đáng là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.
Nghệ thuật Ai Cập mang nặng tính chất tôn giáo. Thông qua các phần còn lại ta thấy
các nghệ sĩ Ai Cập đã rất ưu tiên đề tài tôn giáo, tín ngưỡng.
Bị ảnh hưởng của thần thoại, tôn giáo họ đã sáng tác ra nhiều hình tượng thần bí,
siêu thực như hình tượng các vị thần đầu thú mình người, tượng nhân sư đầu người mình
sư tử. Chính đặc điểm thứ nhất đã tạo ra tiền đề nảy sinh đặc điểm thứ hai.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ đã chi phối nghệ thuật Ai Cập trong hai lĩnh vực điêu
khắc (phù điêu) và bích hoạ. Các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập đã được thể hiện
hoặc nhìn chính diện nghiêm trang, ngay ngắn hoặc là sự kết hợp của đầu mặt nghiêng,
thân thẳng chân nghiêng. Hai bàn chân nhìn nghiêng và được nhìn từ phía ngón cái là một
đặc điểm đặc biệt trong các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập. Sở dĩ người Ai
Cập tạo hình như vậy vì họ quan niệm về sự toàn vẹn của hình tượng. Họ muốn trên một
hình tượng nhưng có thể nhìn thấy nhân vật ở tất cả các hướng. Mặt khác các hướng chọn
để diễn tả phải là hướng mà các đặc điểm được thể hiện rõ đặc trưng nhất. Ví dụ con mắt
nhìn nghiêng không cho thấy rõ “mắt” bằng con mắt nhìn thẳng; Bàn chân nhìn từ phía
ngón cái và nghiêng có đặc điểm hơn, … Như vậy người Ai Cập đã rất khéo chọn lựa và
khéo sắp xếp. Nhìn thoáng qua ta thấy hình vẽ Ai Cập có dạng vặn và nhiều chi tiết tưởng
như không hợp lý phải nghiên cứu kỹ mới thấy sự sáng tạo và tài năng của người Ai Cập
khi tạo hình. Như vậy mới có cái nhìn đúng đắng về giá trị của nghệ thuật Ai Cập. 16 lOMoARcPSD| 10435767
Trong nghệ thuật Ai Cập, các loại hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, bích hoạ
luôn gắn bó với nhau. Nghệ thuật Ai Cập là nghệ thuật tổng hợp trong đó kiến trúc phát
triển sớm nhất và mạnh nhất. Điêu khắc và tranh vẽ gắn với kiến trúc. Tất cả đều thống
nhất phong cách và hoà hợp trong một tổng thể hoàn chỉnh.Tất cả những đặc điểm trên đã
kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cho nghệ thuật tạo hình Ai
Cập. Tuy nó bị chi phối bởi tôn giáo, bởi ý tưởng về sự vĩnh hằng, hay siêu hình thần bí
thì nghệ thuật Ai Cập vẫn rất phong phú về thể loại.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ mặc dù theo các nghệ sĩ suốt trong quá trình sáng tạo
và phát triển. Nhưng không vì thế mà nghệ thuật Ai Cập đơn điệu và không thay đổi. Trái
lại phong cách nghệ thuật Ai Cập mặc dù vẫn thống nhất nhưng vẫn có sự chuyển biến
phong cách qua các thời kỳ từ cổ đến trung và tân vương quốc. Có một điều chắc chắn
rằng, nghệ thuật Ai Cập thống nhất và phát triển theo một hướng đi riêng, có thay đổi song
vẫn giữ được đặc điểm, quan niệm tạo hình của mình.
Nghệ thuật Ai Cập là một nền nghệ thuật sáng tạo, để lại nhiều thành tựu, kỳ quan
cho thế giới và mang đậm sắc thái dần .
Ai cập xứng đáng là cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại như người ta vẫn đánh
giá từ nhiều thế kỷ trước. Nữ hoàng Ne phititi 17 lOMoARcPSD| 10435767
BÀI 3: MỸ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Khái quát về mỹ thuật Hy Lạp cổ đại
Sau Ai Cập cổ đại, vào khoảng thế kỷ XVIII TCN, ở phía bên kia Địa Trung Hải,
Hy Lạp ra đời, lãnh thổ của nó bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Ê Giê và
vùng Tây Tiểu á. Hy Lạp không thuận lợi về nông nghiệp song lại tốt trong việc giao thông
trên biển. Với tài nguyên dồi dào đã tạo điều kiện cho Hy Lạp phát triển thủ công nghiệp
và ngoại thương. Nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nền văn minh Hy Lạp trong đó có nghệ thuật tạo hình.
Cho đến tận ngày nay, khi nhắc đến Hy Lạp người ta sẽ nghĩ ngay đến đền thờ Pác
Tê Nông (Parthénon), đến các pho tượng trên biển của Hy Lạp như tượng người ném đĩa,
tượng vệ nữ Mi lô, … nghệ thuật Hy Lạp đã phát triển và để lại nhiều thành tựu vĩ đại.
Thành tựu của nghệ thuật tạo hình Hy Lạp vừa biểu hiện sự sáng tạo tuyệt vời của
người Hy Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hy Lạp về trí tuệ trong tạo hình.
Con người thời nay không chỉ khâm phục trước những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của
Hy Lạp. Họ đã tìm thấy trong nền nghệ thuật cổ đại này một tư tưởng nhân văn cao thượng,
một nền nghệ thuật hiện thực, ca ngợi giá trị và vẻ đẹp của con người. Đây là cơ sở để xây
dựng một nền văn hoá mới, thấm đẫm những tư tưởng nhân văn.
Nhà nước Hy Lạp cổ đại là xã hội chiếm hữu nô lệ chứa đựng những tư tưởng dân
chủ tiến bộ, là Nhà nước thông bang, ở đó có hai vua với quyền lực như nhau, vừa là thủ
lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ và người xử án. Chế độ xã hội ở đây là chế độ dân chủ chủ nô,
chế độ đó, mở đường cho các nhà khoa học, những nghệ sĩ, những công dân tự do này
được phát triển tài năng, trí sáng tạo. Điều này giúp nghệ thuật cũng như khoa học Hy Lạp
cổ đại phát triển mạnh.
Nghệ thuật Hy Lạp còn được nuôi dưỡng bằng một nguồn đất đặc biệt - nguồn thần
thoại Hy Lạp. Quan niệm của người Hy Lạp về thế giới thần linh giống như thế giới con
người. Đó là quan niệm “thần nhân đồng hình”. Quan niệm này chi phối tới việc xây cất
các công trình kiến trúc. Những câu chuyện gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nghệ sĩ
tạo hình. Họ tìm thấy ở đây chất thơ, chất cảm xúc, thúc đẩy họ sáng tạo ra những tác phẩm
nghệ thuật bất hủ, thấm đượm tinh thần nhân văn.
Năm 776 TCN thế vận hội lần đầu tiên tổ chức tại Hy Lạp. Phong trào rèn luyện sức
khoẻ để trở thành các chiến binh dũng mãnh đồng thời tạo ra những cơ thể đẹp đẽ cân đối.
Đó là nguồn mẫu hình lý tưởng cho các nghệ sĩ Hy Lạp nghiên cứu sáng tạo ra tỷ lệ vàng
cho hình tượng con người. Hội tụ tất cả những yếu tố trên là điều kiện tuyệt vời cho sự 18 lOMoARcPSD| 10435767
phát triển của văn hoá, nghệ thuật Hy Lạp. Nghệ thuật Hy Lạp nhất là kiến trúc và điêu
khắc đã đạt tới đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỷ VII đến V TCN.
2. Nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại
Trong đời sống của người Hy Lạp thời cổ đại, tôn giáo đóng vai trò quan trọng. Họ
thờ rất nhiều vị thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ gần như toàn thể các
công trình xây dựng có giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất thuộc về tôn giáo. Kích thước đền
thờ vừa phải, không quá lớn đồ sộ. Nó cũng giống nghệ thuật kiến trúc Ai Cập ở chỗ kiến
thức kiến trúc chính là kiến thức cột. Kiến trúc Hy Lạp có 3 thức cột chính:
Thức Đôríc, thức Iônic, và thức Corinthian. Sự khác nhau giữa các thức cột này được
phân biệt bởi phần đầu cột và các khía rãnh.
Cột Đôríc có hai mươi khía rãnh khá rộng. Hai mươi bốn đôi khi là bốn tám khái
của cột Ioníc sâu hơn, khít hơn. Cột Đôríc ra đời sớm nhất và phát triển ở Pðloponnêse và
các khu dân cư ở miền Nam ý và đảo Sixin (Sicile).
Phong cách Iôníc thanh mảnh và duyên dáng hơn. Phần đầu cột được trang trí bằng
hình guột cột Đôríc Iônic Côranhtiêng trang trí. ở thời Hy Lạp hoá thức Cô ranh tiêng
được sử dụng nhiều. Phần đầu cột được trang trí bằng những hoạ tiết và cách điệu mềm mại và trang nhã.
Đền thờ Pác-tê- non (Partenon) được khởi công trên đồi Acrôpôn (Acropolis) thờ
nữ thần Atêna (Athena): là đền thờ kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn của thức Đô níc và
sự duyên dáng nhẹ nhàng của thức Iônic.
Đền Pác- tê- nông (Partenon)
Vẻ đẹp của Pác tê non thể hiện trong sự cân đối, hài hoà về tỷ lệ giữa các bộ phận
kiến trúc. Nó còn bộc lộ trong sự đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên
những đường thẳng với trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu dạng trụ ngang.
Kiến trúc cân đối hài hoà của Pác tê non được trang điểm thêm đẹp đẽ, lộng lẫy bằng các
tác phẩm điêu khắc của Phi đi át và các học trò của ông. Tác giả của Pác tê non là Ichtinốt và Can Li Crát. 19 lOMoARcPSD| 10435767
Ngoài Pác tê non, Hy Lạp còn rất nhiều đền thờ nổi tiếng: Đền thờ thần Dớt ở Péc
Gam Ô Lym Pia và đền thờ thần biển cả Pô Dây Đon (Poseidon) ở phía Nam Aten, …
Cho tới thế kỷ VI TCN, các đền thờ của Hy Lạp đều được làm bằng gỗ hoặc gạch.
Đến thế kỷ V, người Hy Lạp chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch lộng lẫy và sang
trọng, với bốn mặt đền là các hàng cột đá. Kiến trúc tôn giáo là thể loại biểu hiện tài năng
của người Hy Lạp. Bên cạnh đó họ còn quy hoạch đô thị, xây dựng các nhà hát, thành luỹ,
… vào thời kỳ các thế kỷ IV - II TCN. Từ thế kỷ IV trong kiến trúc Hy Lạp còn phát triển
loại kiến trúc lăng mộ, có những lăng lớn, đẹp đẽ được xếp vào một trong 7 kỳ quan của
thế giới cổ đại như lăng vua Mô xô lơ (Mausole) ở Halicácnat (Halicrnasse).
Kiến trúc Hy Lạp nói chung là vẻ đẹp trang nhã, mực thước, trong sáng với kết cấu
kiến trúc chính là phong cột trên mặt bằng hình chữ nhật. 3. Nghệ thuật Điêu khắc Hy Lạp cổ đại
3.1 . Thời cổ sơ (Thế kỷ VII - VI trước công nguyên)
Cũng giống như kiến trúc, điêu khắc Hy Lạp cũng được phát triển qua 3 thời kỳ. ở
thời kỳ cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản, trước đó nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã
bắt đầu những bước đi dò dẫm từ thế kỷ X - VIII. Phần lớn là các tượng nhỏ bằng đồng
thanh, đồng nung, hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng các con vật, con
người hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đôi khi còn có những tượng
bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kỳ này gắn liền với tôn giáo.
Trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp xuất hiện 2 loại tượng: Tượng nam khoả thân
và nữ mặc áo dài. Những tượng này được thể hiện trong dáng đứng thẳng, hai tay buông
theo thân. Tượng trong dáng tĩnh, nghiêm trang cân đối. Tỷ lệ cơ thể cũng như hình khối
chưa chuẩn mực, chất liệu sử dụng là đá.
Thời gian này, trong điêu khắc Hy Lạp vẫn thấy những ảnh hưởng của ước lệ tạo
hình phương Đông. Tượng “nhìn ngay ngó thẳng” và gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng.
Sang thế kỷ VI trong phong cách làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng thẳng đứng
như cây cột dần được thay thế bằng những pho tượng dáng động từ đơn giản đến phức tạp
dần. Nửa đầu thế kỷ V, điêu khắc Hy Lạp được đánh dấu bằng các tác phẩm chạm nổi ở
đền thờ thần diễn tả 12 chiến công người anh hùng Hecquyn (Hercules). Con người được
diễn tả ở nhiều tư thế vận động khác nhau, sinh động. Hình tượng điêu khắc đã thoát khỏi
sự chi phối của ước lệ tạo hình cơ sở. Nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp bước vào thời kỳ mới. 20 lOMoARcPSD| 10435767
3.2 . Thời cổ điển (Thế Kỷ V - IV trước công nguyên)
Từ giữa thế kỷ V thành bang A ten đã phát triển trở thành trung tâm lớn của Hy Lạp
cả về chế độ xã hội cũng như văn hoá nghệ thuật. Người đứng đầu về điêu khắc thời này
là Phi đi át (Phiđias), Pô ly clét (Polycléte) và Mirông.
Pôlyclét dành nhiều thời gian cho nghiên cứu và sáng tạo của mình cho việc tìm ra
tỷ lệ chuẩn cân đối, hài hoà của cơ thể nam giới. Tiêu biểu là tượng Đôripho (Doryphore)
người lực sỹ vác giáo: có tỷ lệ 7 đầu, cân đối, hài hoà của các tỷ lệ giữa đầu, thân, tay,
chân, sự mềm mại, sống động của hệ thống cơ, chất đá đã biến thành da thịt, có cảm nhận
được sự vững chắc của cơ thể, sự chuẩn xác về giải phẫu tạo hình kết hợp với cái đẹp của đường nét, hình khối.
Mirông lại nghiên cứu dáng động của hình tượng con người. Tiêu biểu là tượng
“người ném đĩa” cho ta hình ảnh của một lực sĩ cường tráng đang vận động hết sức của cơ
thể để vung tay ném đĩa, ở đó có sự phối hợp cái đẹp về dáng, về hình, về tỷ lệ. Trong sự
phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn chính diện. Sự kết hợp đã tạo ra sự chuyển động
và vẻ đẹp hoàn mỹ cho tác phẩm.
Người ném đĩa - Mi ron
Sang thế kỷ IV, điêu khắc Hy Lạp lại tiến thêm một bước, nếu ở thời kỳ trước các
tác giả muốn đạt đến độ mẫu mực về tỷ lệ, hình khối, tạo dáng động thì thế kỷ này họ lại
muốn tăng thêm chất liệu thực cho tượng, bớt chất lý tưởng hoá với đại biểu là: Xcopa
(Scopas), Pra Xi Ten (Praxitéle), Li Xíp (Lisippe), Mô Xô Lơ, … tác phẩm của ông như
(Hernes), Héc Mét, tượng nữ thần săn bắn ác Tê Mít và đặc biệt là các tượng vệ nữ như vệ
nữ của cơ thể nữ. Đến đây các nghệ sĩ Hy Lạp đã phô diễn vẻ đẹp tuyệt mỹ mà tạo hoá đã
ban tặng cho “phái yếu” qua những pho tượng khoả thân. Có lẽ cũng vì lẽ đó mà khi tìm
thấy hai pho tượng vô danh: Vệ nữ Mi lô và tượng nữ thần chiến thắng ở Xa Mô Crát: Hai
phong cách và hai vẻ đẹp khác nhau: Một lý tưởng hoà và một tràn đầy, hiện thực.
3.3. Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III - II trước công nguyên)
Ở thời kỳ này, Aten không còn là trung tâm cường thịnh duy nhất như thời trước,
trên những miền đất mới ở Tiểu á và Bắc phi mọc lên những trung tâm mới. Điêu khắc
cũng như điêu khắc đều muốn tìm đến một phong cách mới. Hoặc tiếp tục phong cách của
giai đoạn trước nhưng đẩy cao hơn về mặt biểu hiện những tình cảm đau thương, bi thảm
như những tác phẩm “người lính Gô loa bị trọng thương” hay người chiến binh gô loa giết 21 lOMoARcPSD| 10435767
vợ và tự sát”, … Trong pho tượng này gây ấn tượng mạnh cho thị giác và cảm xúc. Hoặc
phức tạp hơn trong phong cách diễn tả, hoặc cường điệu hoá. Thể loại thường gặp trong
điêu khắc thời Hy Lạp hoá là nhóm tượng và phù điêu lớn
Phù điêu trên riềm mũ cột đền thờ Pðcgam dài khoảng 120m, bao quanh đền thờ,
diễn tả cuộc giao chiến giữa các thần linh và những người khổng lồ. Mọi hình tượng đều
được diễn tả bằng kỹ thuật điêu luyện, hình khối mạnh mẽ, cường độ dữ dội trong động tác.
Nhóm tượng Lao Cun: Mang đầy chất bi tráng, diễn tả một cảnh tượng khủng khiếp
về số phận con người. Nhóm tượng diễn tả 3 nhân vật, mỗi người mang một nét đẹp riêng.
Ngoài cái đẹp lý tưởng về hình thể, tác giả còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về tính cách, về
sự bộc lộ nội tâm. Qua hình dáng, thái độ khác nhau của 3 nhân vật đã bộc lộ nỗi khiếp sợ,
đau đớn, kiệt sức của 3 cha con. Sức căng vặn của 3 cơ thể, kết hợp với đường cong ngoằn
ngoèo của hai con rắn đã tạo nên nhóm tượng có bố cục chặt chẽ, gắn bó thể hiện nội dung sâu sắc
4. Nghệ thuật hội hoạ, đồ hoạ Hy Lạp
Nghệ thuật hội hoạ Hy Lạp hầu như không còn giữ được tác phẩm nào, các tác giả,
tác phẩm danh tiếng của họ còn được lưu truyền trong sách, truyện ta biết được tên tuổi:
Apenlơ, Giơxít, Pôlinhơ, … với đề tài chủ yếu là lịch sử và thần thoại Hy Lạp. Các tác
phẩm được vẽ với phong cách tả thực, sinh động. Ngoài ra có một nguồn tài liệu khá phong
phú cho nghệ thuật vẽ hình mang tính đồ hoạ, đó là những hình vẽ trên những chiếc bình
cổ Hy Lạp. Bình cổ Hy Lạp có nhiều kiểu dáng đẹp. Điều đáng chú ý là các hình vẽ trang
trí trên đồ gốm cổ Hy Lạp có hai cách trang trí: Hình vẽ đen trên nền trắng sáng hoặc hình
vẽ màu đỏ trên nền gốm đen. Các hoạ sĩ trang trí lưu ý đặc biệt đến yếu tố nét, mảng trong
các hình vẽ. Đề tài thay đổi qua các thời kỳ: Thần thoại, duyên dáng, đa tình, lịch sử, …
Gốm cổ Hy Lạp
Qua ba loại hình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa của Hy Lạp cổ đại ta có
thể thấy rõ đặc điểm đặc trưng nhất của nghệ thuật Hy Lạp đó là một nền nghệ thuật gắn
liền với thần thoại, mà thần thoại Hy Lạp vừa giải thích, mô phỏng tự nhiên, xã hội vừa là
những trang viết huyền thoại về lịch sử Hy Lạp. Quan niệm thần nhân đồng hình đã dẫn
đến đặc điểm lớn cho nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Tính chất tôn giáo, thần thoại bộc lộ ở nội
dung, đề tài. Nhưng qua các hình tượng nhân vật các tác giả lại muốn ca ngợi vẻ đẹp của 22 lOMoARcPSD| 10435767
con người, một vẻ đẹp hoàn thiện cả về ngoại hình và nội tâm. Các nghệ sĩ Hy Lạp đã bỏ
được công thức chi phối trong nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu, những ước lệ tạo hình cơ
sở để tiến tới một nền nghệ thuật hiện thực giàu tính nhân văn. Các loại hình nghệ thuật
tạo hình đều phát triển và có thành tựu cao, để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm vô giá. Đó
là nền móng, là cơ sở cho nghệ thuật tạo hình châu âu sau này. 23 lOMoARcPSD| 10435767
BÀI 4: MỸ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI
1. Những ảnh hưởng góp phần hình thành nền mỹ thuật La Mã cổ đại
Nền mỹ thuật La mã được hình thành do nhiều nguồn ảnh hưởng. Có hai nguồn nghệ
thuật chính tạo nên dòng văn hoá La mã cổ đại là Hy Lạp và nghệ thuật của người
Êtơrúcxcơ, một tộc người sống ở các quốc gia đô thị ở Bắc mỹ và chịu ảnh hưởng của
người Hy Lạp, họ có thành tựu về đúc đồng. Điều đó góp phần tạo nên sự phát triển của
La mã về điêu khắc, nhất là tượng chân dung.
Người La mã đã học theo người Hy Lạp rất nhiều lĩnh vực về thần thoại, văn học,
sử thi, .… Mặc dù vậy, trong nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác La mã có những sáng tạo
riêng và góp rất lớn cho khoa học và nghệ thuật tạo hình. Nhất là nghệ thuật kiến trúc.
Sự phát triển và giàu có của La mã góp phần thúc đẩy sự ra đời và đạt đến đỉnh cao
của một số loại hình nghệ thuật mang đặc điểm đặc trưng của La mã. Vì vậy có thể khẳng
định rằng, nền văn hoá La mã là nơi hội tụ của nhiều tinh hoa văn hoá của nhiều vùng khác
nhau trên thế giới. Song nó vẫn có những sáng tạo riêng rất về nghệ thuật.
2. Sự sáng tạo trong mỹ thuật la mã cổ đại
2.1 Kiến trúc La mã cổ đại
Có thể nói nghệ thuật kiến trúc La mã đã phát triển phù hợp với nhu cầu của người
La mã. Nó có nhiều điểm khác với Hy Lạp và nhất là Ai Cập. ở Hy Lạp những công trình
xây dựng to lớn và tráng lệ thì nhà ở La mã lại nhỏ bé khiêm tốn. ở Ai Cập cũng chỉ chú ý
đến các kiến trúc “nhà ở cho linh hồn”, và thần linh, còn nhà cho con người cũng đơn giản.
Với La mã thì khác, họ xâm chiếm được vùng nào, họ cho xây dựng, quy hoạch đô thị, tạo
tiện nghi cho cuộc sống của mình. Trong kiến trúc La mã, kiến trúc thế tục được đặc biệt
chú trọng và phát triển.
Các thể loại kiến trúc phong phú. Trong đó nói lên là các kiến trúc công cộng như
trụ sở Viện nguyên lão, đề thờ, cửa hàng, kho chứa, nhà tắm, … Ngoài ra còn có kiến trúc
phục vụ cho nhu cầu về mặt tinh thần cho con người, nhất là để tôn vinh chiến công, chiến
tích của các hoàng đế La mã, như các khải hoàn môn, trụ biểu, đấu trường, nhà hát, … Bên
cạnh đó họ còn sáng tạo trong thể loại nhà ở tập thể. Đi theo với kiến trúc, trong quy hoạch
đô thị người La mã đã chú ý đến các công trình cấp thoát nước.
Đấu trường Côlidê (Colisée) - Rôma: Là một đấu trường lớn nhất La mã cổ đại, được
xây dựng theo hình dạng elíp: vòng ngoài có kích thước 188 x 156m. Sân đấu bên trong là
86 x 54m. Mặt ngoài cao 49m gồm 4 tầng, 3 tầng dưới mỗi tầng có 80 vòm uốn. 24 lOMoARcPSD| 10435767
Sức chứa của đấu trường lên tới 50.000 người. Đây là sự kết hợp các thể thức kiến trúc của
Hy Lạp. Tầng 1 là biến thể của thức Đôníc, tầng 2 là một cột theo kiểu Iôníc, tầng 3 là kiểu
thức Côranhtiêng, tầng 4 sử dụng mảng đặc là chính. Thỉnh thoảng có chỗ cửa nhỏ, kết cấu
theo kiểu nhẹ dần lên. Bên cạnh những hàng cột theo kiểu Hy Lạp là các vòm cuốn bán
nguyệt mang đặc trưng kiến trúc La mã. Sự kết hợp đó đã tạo cho mặt ngoài đấu trường
một dáng vẻ đặc biệt, phản ánh được một cách rõ nét đặc điểm của nghệ thuật La mã.
Khải hoàn môn: Thường được bố cục 3 cổng vòm. Nổi bật là cổng chính ở giữa, hai
bên là hai cổng nhỏ. Chúng thường có kích thước lớn, độ rộng và sử dụng nhiều vòm, vòng
cung, thường được xây bằng gạch, đá vôi, ngoài bọc bằng đá cẩm thạch, … Khải hoàn môn
thường được xây dựng để tôn vinh và ghi lại chiến thắng của các hoàng đế La mã. Vì vậy
trang trí ở đây là phù điêu và chỉ phủ kín mặt ngoài kiến trúc. Nó không mang giá trị vật
chất cụ thể mà là biểu trưng cho các hoàng đế, khẳng định quyền bá chủ dành cho người
chiến thắng: Khải hoàn môn Trujan (114 – 129), Titus, Séptimiút (203), …
Trong tất cả thể loại kiến trúc La mã, họ đều sử dụng vòm cuốn nhiều kiểu. Người
La mã tỏ ra có biệt tài trong việc xây dựng mái vòm với kỹ thuật điêu luyện, có sự kết hợp
của nhiều vật liệu: Gạch, đá, … Họ xây dựng nhiều nhà tắm công cộng, phong tranh, thư
viện, … phục vụ cho nhu cầu của con người.
Cầu dẫn nước: Qua sông Gard, cao 49m, dài 274m, gồm 3 tầng móng, lớp dưới có
6 cống vòm, lớp 2 có 11 cổng vòm, trên cùng là 35 cổng vòm, các cổng vòm này không
giống nhau. Cầu móng có độ nghiêng thích hợp để lúc nào cũng có nước chảy. Được xây
bằng gạch, đá để mộc. Điều này tạo vẻ đẹp cho tác phẩm nghệ thuật này. Do tướng quân
và thống đốc La mã Aguriba, bạn và anh em cọc chèo với hoàng đế Augustua xây dựng.
Kiến trúc La mã có nhiều đặc điểm khác hoàn toàn Hy Lạp. Nếu kiến trúc Hy Lạp
có vẻ đẹp đơn giản, bình dị với đường thẳng là chính thì kiến trúc La mã lại có vẻ đẹp hùng
vĩ, đồ sộ với những vòm cuốn, vòng cung nhiều loại: Trong nghệ thuật kiến trúc, thể loại
kiến trúc dân dụng phát triển nhất và đã để lại trên đất ý ngày nay nhiều công trình danh
tiếng, chứng tỏ tài năng về mặt kiến trúc của người La mã cổ đại.
2.2. Điêu khắc La Mã cổ đại
2.2.1. Thể loại tượng tròn
Ở La mã tượng chân dung, mà nhất là chân dung các hoàng đế đặc biệt phát triển.
Thành tựu này khởi nguồn từ một tục lệ lâu đời của người La mã, tục lệ mang tính tín
ngưỡng, tôn giáo: Tục lệ thờ cúng tổ tiên, cha mẹ. Trong nhà người La mã cổ có một chiếc
tủ đựng chân dung bằng sáp của những người thân đã qua đời. Giống như người Ai Cập 25 lOMoARcPSD| 10435767
cổ, họ tin rằng những chân dung hình ảnh đó có linh hồn. Họ cũng tin rằng những con
người đó vẫn tồn tại và hiện diện trong cuộc sống gia đình, tham gia vào mọi sinh hoạt của
những người còn sống. Khi có tang lễ, người ta khiêng cả chiếc tủ đựng chân dung thờ đó
đi theo đám tang. Lúc đầu người ta dùng sáp nóng đổ lên mặt người hòng có sự chính xác
và chân dung giống thực một cách tối đa. Sau này họ tạo ra được các pho tượng, vẫn mang
theo tinh thần trọng thực. Nhờ những hiểu biết về cấu trúc và đặc điểm của đầu người qua
việc đổ trực tiếp bằng sáp nóng. Có thể nói tượng chân dung La mã mang tính tả thực cao
độ và là tượng mang tính đặc tả tính cách nhân vật. Tuy nhiên cũng không thể bỏ qua sự
kết hợp với tính chất lý tưởng hoá trong một số bức tượng chân dung của La mã cổ đại.
Tính chất đó có thể biểu hiện ở hình dáng, trang phục, hay các pho tượng nhỏ kèm theo.
Tượng Hoàng đế Ô guýt ở Prima - Poóta 20 - 17: Nhà điêu khắc đã rất giỏi khi thể
hiện các nếp gấp mềm mại, buông rủ trên cánh tay trái của Ô guýt, tay phải Ô guýt giơ cao,
tay trái cầm cây gậy quyền lực dưới chân phải là biểu tượng tiểu thần tình yêu cưỡi trên cá
đô phin (cá heo). Đấy chính là nét lý tưởng hoá trong các pho tượng La mã.
Tuy vậy dù dưới hình thức nào thì các pho tượng đó vẫn mang tính hiện thực. Dưới
các hình thức đó, các công dân La mã vẫn nhận ra những nét tính cách riêng của các vị
hoàng đế của mình. Bên cạnh các chân dung hoàng đế La mã vừa mang tính hiện thực vừa
mang tính lý tưởng hoá còn có một loại chân dung hoàn toàn mang tính hiện thực một cách
sâu sắc. Loại chân dung này mang đậm chất La mã hơn. Chân dung kiểu này trong nghệ
thuật điêu khắc Hy Lạp chưa thấy xuất hiện.
2.2.2. Thể loại chạm nổi
Nghệ thuật La mã mang tính chất tôn vinh ca ngợi các hoàng đế La mã, hoặc họ
được thần thánh che trở, hoặc họ là những bậc vĩ nhân. Trong những bức chạm nổi mang
tính chất lịch sử đó, với chủ đề xoay quanh chuyện thần thoại, mang tính tập thể và khái
quát chung, ở La mã lại là vai trò cá nhân tôn vinh cá nhân. Điều này được thể hiện trong
các trụ tưởng niệm, hay phù điêu trang trí ở bề mặt các khải hoàn môn.
Một hình thức thứ hai sử dụng diện phù điêu trang trí nhiều là những cái quách dùng
trong các tang lễ. Hình thức này mang theo phong cách của từng xưởng sản xuất, từng
vùng trên đất La mã. Điều này cũng quy định sự khác nhau giữa các mảng phù điêu. Có
thể dùng nhiều hình tượng nhân vật, sắp đặt các hình tượng thưa hay dày thể hiện những
đoạn thần thoại, hay các vị thần, hoặc trang trí bằng các tràng hoa và nhiều hình tượng khác rất phong phú. 26 lOMoARcPSD| 10435767
3. Đặc điểm của mỹ thuật La Mã cổ đại
Năm 1748, các nhà khảo cổ học đã khai quật được hai thành phố cổ của La mã là
Pompêi và Hðcquilamin (Hercularcum)bị núi lửa huỷ diệt. Pompêi bị vùi dưới lớp tro, đá
dày 9m. Hai thành phố này hầu như còn nguyên vẹn như trong cái ngày đáng sợ đó. Điều
đáng ngạc nhiên hơn là có một số bức tranh còn giữ được sau vụ núi lửa đó. Đó là những
bức tranh ghép mảnh. Một trong những thể loại tranh được người La mã yêu thích. Họ
dùng chủ yếu là các mảnh đá đẹp, quý, sẵn có ở địa phương để ghép thành tranh trang trí.
Tranh ghép mảnh có thể chỉ dùng đen trắng và cũng có tranh dùng đá màu. Vào thời kỳ
này, có lẽ tranh tường mang tính chất trang trí là phù hợp và được phát triển. Tranh trên
giá chưa xuất hiện. Điều này đưa tới một đặc điểm của nghệ thuật La mã. Trong mỹ thuật
La mã hai loại hình nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phát triển. Đông thời ở hai loại hình
này, thông qua một số thể loại đã biểu hiện sự sáng tạo của con người thời cổ đại.
Kiến trúc La mã phát triển với nhiều thể loại phong phú, đáp ứng nhu cầu cả về mặt
vật chất và tinh thần cho cuộc sống của người La mã. Kích thước của chúng thường là to
lớn, đồ sộ. Có sự ảnh hưởng của kiến trúc Hy Lạp qua các hình thức cột được sử dụng.
Kiến trúc La mã đặc biệt thành công trong việc ghép các tảng đá hình cái nêm để tạo nên
các vòm mái, vòng cung. Vật liệu sử dụng có thể là gạch, hoặc kết hợp gạch và đá. Kiến
trúc thường đi sóng đôi với điêu khắc cả ở thể loại tượng tròn cũng như chạm nổi. Đôi khi
chúng còn gắn bó với nhau thành một tổng thể, một tác phẩm hoàn chỉnh: làm tôn ý nghĩa
và vẻ đẹp của cái kia lên rất nhiều. Qua sự phát triển của mỹ thuật La mã, ta thấy được cái
Đẹp mang tính chất hoành tráng, cao cả của La mã. Khác hẳn với cái Đẹp thanh lịch tao
nhã, nhẹ nhàng của nghệ thuật Hy Lạp. Điêu khắc La mã đặc biệt sáng tạo trong thể loại
tượng chân dung và những phù điêu mang tính lịch sử. Tính chất lịch sử và nhân văn được
bộc lộ rõ ràng.Mỹ thuật Hy Lạp và La mã xứng đáng là những nền mỹ thuật đi tiên phong
tìm tòi, để diễn tả hiện thực thông qua các đề tài thần thoại, tôn giáo, … Đây chính là cơ
sở phát triển mỹ thuật trong các giai đoạn sau, kể từ thời Phục hưng.
Câu hỏi - Bài tập
1. Hãy phân tích những yếu tố góp phần hình thành mỹ thuật Ai Cập cổ đại (hoàn
cảnh lịch sử, địa lý, tôn giáo ...).
2. Hãy nêu sự phát triển của Ai Cập cổ đại. (kiến trúc, điêu khắc, hội họa)
3. Phân tích đặc điểm của mỹ thuật Ai Cập cổ đại.
4. Nói nghệ thuật Ai Cập là đơn điệu và không thay đổi có được không? Tại sao? 27 lOMoARcPSD| 10435767
CHƯƠNG II: MỸ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI Mở đầu
Nếu ở phương Tây thời kỳ Cổ đại có những nền văn minh phát triển, để lại nhiều
tác phẩm nghệ thuật kiệt xuất cho thế giới thì ở phương Đông vào thời kỳ đó, thậm chí
sớm hơn, cũng có nhiều nền văn minh phát triển như văn minh Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản, ... Mặc dù cũng là những nước ở châu Á, nhưng do đặc điểm về dân tộc, phong tục,
tôn giáo, lịch sử của từng nước khác nhau, sự phát triển về nghệ thuật cũng rất khác nhau.
Điều đó tạo nên sự phong phú đa dạng cho nghệ thuật châu Á. Văn minh Trung Quốc và
Ấn Độ được coi là những nền văn minh đầu tiên của loài người cùng với nền văn minh
Lưỡng Hà, Ai Cập. Có một điểm giống nhau giữa các nền văn minh này, đó là tất cả mọi
trung tâm văn minh kể trên đều nằm ở lưu vực của các con sông lớn như Ti-grơ, Ơ-phrát,
sông Nin, sông Ấn, sông Hằng, sông Hoàng Hà. Mặc dù vậy mỗi nền văn minh lại mang
những bản sắc dân tộc đậm đà. Chương này sẽ giúp các bạn tìm hiểu về nghệ thuật phương
Đông với ba nền mỹ thuật tiêu biểu: -
Mỹ thuật Trung Quốc- Mỹ thuật Ấn Độ - Mỹ thuật Nhật Bản.
Tuy vậy, để phù hợp với chương trình mỹ thuật ở trung học cơ sở, chương này chỉ
đi vào giới thiệu một cách khái quát về ba nền mỹ thuật này và một số tác giả, tác phẩm
tiêu biểu của nó, để giúp sinh viên có đủ kiến thức giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh Trung học cơ sở. Mục tiêu: -
Giúp sinh viên nắm được một cách khái quát về ba nền mỹ thuật ở Châu Á:
Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản. -
Những nhân tố hình thành ba nền mỹ thuật Châu Á tiêu biểu. -
Đặc điểm của từng nền mỹ thuật. -
Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản.
BÀI 1 : MỸ THUẬT TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Mỹ thuật Trung Quốc
1.1. Văn hóa, xã hội.
Nếu ở Phương Tây thời kỳ cổ đại có những nền văn minh phát triển để lại nhiều tác
phẩm nghệ thuật kiệt xuất cho thế giới thì ở Phương Đông vào thời kỳ đó cũng có nhiều
nền văn minh phát triển như văn minh ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản. Mặc dù cùng là 28 lOMoARcPSD| 10435767
những nước ở Châu á, nhưng do đặc điểm về dân tộc, phong tục, tôn giáo, lịch sử của từng
nước khác nhau, do đó sự phát triển về nghệ thuật cũng rất khác nhau. Điều đó tạo nên sự
phong phú đa dạng cho nghệ thuật châu á. Văn minh Trung Quốc và ấn Độ được coi là hai
trong những nền văn minh đầu tiên của loài người cùng với văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập.
Trung Quốc là một nước lớn ở phía Đông của châu á. Cách chúng ta khoảng 500.000
năm ở vùng Chu Khẩu Điếm (phía Tây Nam Bắc Kinh) đã có con người sinh sống. Đó là
người vượn Bắc Kinh. Qua những dấu vết còn lại được tìm thấy ta biết người Bắc Kinh đã
biết dùng lửa. Theo truyền thuyết, vào khoảng ba, bốn ngàn năm trước đây có một tộc
người sinh sống ở dưới chân núi Hoa và ven sông Hạ. Cộng đồng này được gọi là người
Hoa, mặc người Hạ ngày nay. Thời kỳ phát triển của người Hoa Hạ là thời kỳ Tam Hoàng
ngũ đế. Ở đây truyền thống văn hoá của dân tộc mình. Ngay từ thời kỳ xa xưa họ đã có
nhiều thành tựu về thiên văn học, lịch pháp, y học, triết học và các khoa học tự nhiên, văn
học. Bốn phát minh lớn của Trung Quốc trong khoa học kỹ thuật là phát minh ra giấy, kỹ
thuật in chữ rời, là bàn và thuốc súng. Số Pi được Acsimet tính tới số thập phân thứ 4 và
người phương Tây đã dừng lại ở vị trí số xấp xỉ của số Pi. Vào thế kỷ thứ V, cha con nhà
toán học Tổ Xung Chi đã dùng một cách tính tìm ra trị số pi đến con số thập phân thứ 10.
Ngoài ra về mặt nghệ thuật tạo hình Trung Quốc cũng cống hiến cho nhân loại nhiều tác
phẩm nổi tiếng. Trung Quốc có nhiều loại hình tạp kỹ, hội hoạ, bích hoạ, điêu khắc kiến
trúc vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Đặc biệt ở thời kỳ cổ đại Trung Quốc có nhiều nhà tư
tưởng đã cho ra đời nhiều học thuyết, trào lưu tư tưởng lớn như Khổng Tử, Mặc Tử, Lão
Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, … với những học thuyết như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp
gia, … Những học thuyết tư tưởng này sẽ có ảnh hưởng đến sự hình thành đặc điểm của
nền mỹ thuật Trung Quốc. Tất cả mọi yếu tố: điều kiện địa lý, dân cư, lịch sử, sự xuất hiện
chữ viết, những thành tựu về khoa học kỹ thuật, những trào lưu tư tưởng lớn, … đã là cơ
sở hình thành nền văn minh Trung Hoa cổ đại. Lịch sử Trung Quốc được chia ra làm nhiều thời kỳ:
- Thời Tam hoàng ngũ đế (theo truyền thuyết): tam hoàng gồm Phục Hy, Nữ
Oa, Thần Nông. Khoảng thế kỷ 27 TCN có nhiều bộ lạc lớn do liên minh nhiều bộ
lạc nhỏ. Đây cũng chính là thời kỳ Ngũ đế gồm: Hoàng đế, Đế Cao Dương, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn.
- Nhà Hạ (21 - 16T CN): Thời kỳ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc.
- Nhà Thương: là thời kỳ phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ. Qua các lần
khai quật các di chỉ cho nhiều di vật quý. Đặc biệt là “giáp cốt văn” - đó là các bản 29 lOMoARcPSD| 10435767
văn tự, những lời khấn nguyện, … về sinh hoạt chính trị, xã hội Trung Quốc thời
nhà Thương. - Nhà Chu (1066 - 221 TCN): Gốm Tây Chu, Đông Chu (Xuân Thu,
Chiến Quốc) - Nhà Tần (221 - 206 TCN): Mở đầu cho thời kỳ phong kiến.
- Nhà Hán (206 TCN - 220 SCN) là thời kỳ phát triển thịnh trị của chế độ
phong kiến Trung Quốc. Là một đế quốc hùng mạnh nhất, rộng lớn trong lịch sử Trung Quốc.
- Thời Tam Quốc (220 – 280) gồm 3 nước: Nguỵ - Thục - Ngô - Nhà Tấn (265 - 420)
- Thời Nam Bắc Triều (420 - 589)
- Nhà Tuỳ (581 - 618). Tiếp đó là một loạt các triều đại lần lượt thay thế nhau.
Sang nhà Tuỳ đến nhà Đường (618 - 907). Thời Ngũ đại ở miền Bắc và Thập quốc ở miền
Nam (907 - 960). Tống (960 - 1279). Nguyên (1271 - 1368). Minh (1368 - 1644) và nhà
Thanh do người Mãn Châu thành lập từ 1644 - 1911 kết thúc. Đồng thời đây cũng là triều
đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc. Suốt từ khi nhà Hạ ra đời đến 1911 với cuộc
cách mạng tư sản Tân Hợi lịch sử Trung Quốc trải qua hai thời kỳ: Chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
1.2. Những quan niệm, học thuyết tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp tới mỹ thuật Trung
Quốc cổ 1.2.1. Nho gia
Trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc xuất hiện nhiều nhà tư tưởng
lớn, trong đó có Khổng Tử, người sáng lập ra Nho gia. Sau ông có nhiều nhà tư tưởng khác
như Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, … đã hoàn chỉnh học thuyết này.
Khổng Tử (551 - 479 TCN) tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ.
Ông sống thời Xuân Thu. Tư tưởng của ông gồm triết học, đạo đức, đường lối trị nước và
giáo dục. Triết học có thể chi phối mọi mặt của con người. Đạo đức theo Khổng Tử gắn
với các mặt Nhân - Lễ - Nghĩa - Tín - Dũng. Trong đó quan trọng nhất là Nhân. Hạt nhân
đạo lý của Khổng Tử là khái niệm người quân tử. Ông đề cao lối sống tôn trọng trật tự xã
hội đồng thời là phù hợp với trật tự thiên nhiên. Khổng Giáo đề cao lý trí. Nó cung cấp cho
nghệ thuật, thơ ca một diện rộng đề tài về đạo đức xã hội mang nhiều ý nghĩa giáo huấn.
Nó hướng con người vào những hoạ sĩ để khôi phục trật tự xã hội và xây dựng quốc gia
vững mạnh. Người quân tử phải là tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mỹ thuật Trung
Quốc bị ảnh hưởng của tử tưởng Nho gia thể hiện ở hai đặc điểm, đó là tính mực thước và 30 lOMoARcPSD| 10435767
tính đăng đối. Hình tượng các hiền nhân quân tử các hiền nữ, … thường xuất hiện trong
mỹ thuật, nhất là ở các lăng mộ đời Hán. 1.2.2. Đạo gia
Người đề xướng học thuyết đạo gia là Lão Tử, sống vào thời kỳ Xuân Thu và Trang
Tử là người kế tục. Học thuyết của Lão Tử lại nặng nề việc giải thích vũ trụ, vạn vật. Ông
cho rằng nguồn gốc vạn vật, vũ trụ là một vật sinh ra trước trời đất gọi là Đạo. Từ Đạo mà
sinh ra tất cả. Lão Tử còn đưa ra các mặt đối lập trong thế giới khách quan như cứng -
mềm, tĩnh - động, yếu - mạnh… Đạo vừa là nhịp điệu, vừa là sự chuyển động của vũ trụ,
vừa là cuộc sống vừa là hư không. Lão Tử lấy ví dụ về sự thống nhất của: “có - không”.
Ông ví như cái nhà: hình thể là có, nhưng trong có là khoảng trống không và như vậy mới
tạo thành nhà, … Tinh thần này cũng ảnh hưởng đến một thể loại tranh Trung Quốc. ở loại
tranh này khoảng trống nhiều hơn khoảng vẽ màu. Điều đó tạo ra sự hài hoà, thống nhất
giữa có và không. Theo tinh thần của đạo gia, sự cân bằng giữa các mặt đối lập như tĩnh -
động (dáng), cứng - mềm (khối), nóng - lạnh (màu sắc), chắc chắn - chông chênh (thế), …
đã tạo ra các kiệt tác mỹ thuật. Phải chăng những tác phẩm như thế đã mang theo tư tưởng
triết học biện chứng của Lão Tử. 1.2.3. Phật giáo
Phật giáo có nguồn gốc từ ấn Độ, vào Trung Quốc từ đầu công nguyên. Đến đời
Đường phát triển thành quốc giáo. Khi vào Trung Quốc, Phật giáo đã được Trung Quốc
hoá, vì vậy mang theo tinh thần và tư tưởng của dân tộc Trung Hoa. Nó gặp tư tưởng của
Đạo giáo và cùng tác động mạnh mẽ đến thơ và hoạ. Do Đạo phật phát triển, nhiều kiến
trúc chùa được xây dựng. Cùng với kiến trúc Phật giáo là nghệ thuật bích hoạ và điêu khắc
Phật giáo cũng phát triển. Bích hoạ Đôn Hoàng là mảng tranh rất nổi tiếng của mỹ thuật
Trung Quốc, mang tinh thần Phật giáo và phục vụ cho Phật giáo.
Từ thời cổ đại, ở Trung Quốc đã xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng. Đặc biệt thời
Xuân Thu - Chiến Quốc đã diễn ra sự tranh giành nhau ảnh hưởng giữa các trường phái
đó. Tuy vậy, đối với mỹ thuật ba trào lưu tư tưởng triết học và tôn giáo là Nho gia, Đạo
gia, Phật giáo đã trực tiếp ảnh hưởng và góp phần tạo nên những đặc điểm của mỹ thuật Trung Quốc. 31 lOMoARcPSD| 10435767
1.3. Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật 1.3.1. Kiến trúc
1.3.1.1 Kiến trúc cung điện
Trong danh sách các di sản văn hoá thế giới, Trung Quốc có nhiều công trình nghệ
thuật được ghi nhận bên cạnh các công trình nổi tiếng của nhiều nước khác trên thế giới
như: Lăng Hoàng đế - Khu di tích Khổng Tử - Vạn Lý Trường Thành - Lăng mộ nhà Tần
- Trường An, Tháp Lục Hoà, Tam Lăng, Cố cung, Thiên đàn, Di Hoà viên, …
Nghệ thuật kiến trúc cổ đại Trung Quốc phát triển với sáu thể loại kiến trúc gồm
kiến trúc cung điện, tôn giáo, lăng mộ, làm viên, đàn miếu và nhà ở.
Ngay từ thời nhà Thương, nhà Chu đã có những kiến trúc cung điện với quy mô
nhỏ. Từ thời nhà Trần trở đi, kiến trúc cung điện đã phát triển và được xây dựng thành một
quần thể kiến trúc với nhiều chức năng riêng biệt. Có thể kể đến một số kinh đô nổi tiếng
như Lạc dương, Khai phong, Trường An, Tử cấm thành. Từ thế kỷ XIII, nhà Nguyên đã
cho xây dựng Hoàng Thành gồm các cung điện có quy mô lớn ở trung tâm Bắc Kinh. Đến
thời nhà Minh Hoàng Thành được xây dựng với vật liệu chính là gỗ. Ngoài ra còn có đá,
ngói lưu ly, gạch, … Năm 1417, triều đình huy động số lượng nhân công, thợ rất lớn để
xây dựng Tử cấm thành với diện tích rộng 720.000 m2: 1.000 ngôi nhà, 9.000 gian, rộng
160.000 m. Công trình này được xây dựng trong 3 năm gồm các công trình chính như: Ngọ
Môn, Điện Thái Hoà, cung Càn Thanh, điện Giao Thái, Ngự hoa viên, điện Dương Tâm,
… Đến thời nhà Thanh, trong thành Bắc Kinh còn được xây dựng thêm nhiều cung điện,
lâu đài tráng lệ. Từ khi nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời vẫn lấy Bắc Kinh làm
thủ đô. Thủ đô Bắc Kinh với Cố cung, Di hoà viên, Vạn lý trường thành, Thập tam lăng,
Thiên đàn, … đã trở thành những di sản văn hoá thế giới thu hút đông đảo du khách quốc
tế khi đến thăm Trung Quốc.
1.3.1.2. Kiến trúc Phật giáo
Vật liệu chủ yếu của kiến trúc cổ Trung Quốc là gỗ. Kiến trúc gỗ có nhiều ưu điểm
nhưng không tránh khỏi một số hạn chế. Hạn chế lớn nhất là tồn tại không được lâu như
kiến trúc gạch hay đá. Gỗ dễ bị mối mọt, cháy, … Vì vậy kiến trúc cổ Trung Quốc hầu hết
đã bị phá huỷ. Đến nay còn rất ít các di tích cổ. Có thể kể một vài công trình chùa cổ như:
Nam thuyền tự (xây dựng năm 782), Phật Quang Tự (857), … Trong kiến trúc Phật giáo
Trung Quốc có một thể loại kiến trúc đặc biệt. Đó là thể loại chùa được tạo ra từ những
quả núi, thường được gọi là chùa hang như chùa hang Mạc Cao, hay còn gọi là Thiên Phật
động (động ngàn Phật) ở tỉnh Cam Túc. Thiên Phật động được bắt đầu xây dựng từ thế kỷ 32 lOMoARcPSD| 10435767
IV đến tận thế kỷ XIV. Trong X thế kỷ đó các nhà tu hành đã đào được một nghìn hang
nhỏ trong lòng núi và trang trí cho Thiên Phật động bằng tranh vẽ trên vách hang và tượng
cũng được đục ra từ núi. Đến nay Trung Quốc còn bảo tồn được 496 hang. Năm 1987 động
nghìn Phật được ghi vào danh sách các di sản của văn hoá thế giới. Kiến trúc Phật giáo của
Trung Quốc thường được xây dựng theo đồ án đơn giản. Phần quan trọng nhất trong chùa
là Phật điện. Ngôi chùa sớm nhất của kiến trúc Phật giáo Trung Quốc là chùa Bạch mã.
Tương truyền đây là nơi đầu tiên các cao tăng ấn Độ đến truyền đạo Phật. Điện Phật nổi
tiếng còn lại đến ngày nay là điện phật chùa Phật Quang ở Ngũ Đài Sơn, thuộc tỉnh Sơn
Tây, một trong hai công trình lớn bằng gỗ được xây dựng sớm nhất.
Một phần khác không kém phần quan trọng trong kiến trúc chùa là tháp. Tháp được
truyền từ ấn Độ vào Trung Quốc. Nhưng vào Trung Quốc, nó kết hợp với kiến trúc Trung
Quốc và tạo ra phong cách riêng cho tháp Trung Quốc.
Trong nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc còn các thể loại kiến trúc khác như kiến trúc
đàn miếu thờ núi sông, trời đất, đế vương, tổ tiên và cầu mùa. Đền miếu là nơi thờ các danh
thần, danh tướng, văn nhân có công với dân, với nước. Gia miếu, từ đường cúng tế tổ tiên.
Về thể loại đàn miếu có thể kể đến công trình kiến trúc nổi tiếng là “Thiên đàn” xây dựng
năm Minh Vĩnh Lạc thứ 18 (1420). Rộng 4184 mẫu, gấp 4 lần diện tích Tử Cấm Thành.
Kiến trúc Thiên Đàn gồm 2 phần: phần kiến trúc dành cho việc tế trời, nằm ở phía Đông,
phía Tây là Trai cung, nơi Hoàng đế đến tắm gội và ăn chay trước khi làm lễ tế trời vào
ngày Đông chí hàng năm. Đàn là một đài cao 3 tầng, xây bằng đá, một nhóm kiến trúc khác
ở Thiên đàn là điện Kỳ niên, nơi vua đến làm lễ cầu được mùa hàng năm vào giữa mùa hạ.
1.3.1.3. Kiến trúc lăng tẩm của các Hoàng đế Trung Hoa
Người Trung Quốc cũng như mọi tộc người Châu á khác đều rất coi trọng việc xây
dựng lăng mộ cho người chết. Các Hoàng đế lo việc này từ khi mới lên ngôi. Những lăng
tẩm còn lại của các hoàng đế cho ta biết lăng một Trung Hoa cổ thường gồm 2 phần: Phần
nổi trên mặt đất và phần chìm trong lòng đất (ngoại cung hoặc địa cung). Thập tam lăng là
khu lăng mộ của nhà Minh đã được ghi vào danh sách di sản thế giới. Chu vi của Thập
Tam lăng là 40km, ba mặt Bắc - Đông - Tây là núi. Vào lăng phải qua cổng gồm 5 cửa,
cao 29m, có 6 cột chạm khắc rồng mây tinh xảo. Hai bên đường thần đạo có 12 cặp tượng
thú bằng đá và 12 tượng người đá gồm 4 văn, 4 võ và 4 công thần. ở khu Thập tam lăng
còn có Định lăng hay còn gọi là cung điện ngầm rất nổi tiếng. Cung điện ngầm được xây
dựng ở độ sâu cách mặt đất 27m, diện tích 1195m2. Tất cả những điều trên cho ta thấy tài 33 lOMoARcPSD| 10435767
năng của người Trung Hoa cổ về mặt kiến trúc. Thập tam lăng của nhà Minh chỉ là một ví
dụ. Ngoài ra còn rất nhiều công trình lăng tẩm khác.
Ngoài các công trình kiến trúc gỗ, trong kiến trúc Trung Hoa cổ còn thể loại kiến
trúc gạch, đá. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của thể loại này là Vạn lý trường thành.
Trường thành được xây dựng từ 3, 4 trăm năm TCN. Năm 221 TCN Tần Thuỷ Hoàng cho
xây dựng nối liền các đoạn thành ở phía Bắc ba nước Tần - Yên - Triệu, đồng thời cho xây
dài thêm hoàn thành dãy trường thành dài trên 5.000km. Đây là công trình lớn nhất thế
giới do sức người xây dựng nên. Chiều cao bình quân của trường thành là 9m, nóc rộng
5,5m, đủ cho 10 người dàn hàng hoặc 5 kỵ binh một hàng qua lại dễ dàng. Trải qua mấy
nghìn năm Trường thành vẫn đứng sừng vững và thu hút mọi người ở Trung Quốc cũng
như trên thế giới đến đây chiêm ngưỡng.
1.4 . Nghệ thuật Điêu khắc
Nghệ thuật điêu khắc của Trung Quốc xuất hiện từ rất sớm. Sớm nhất là thể loại điêu
khắc trên ngọc hay còn gọi là ngọc điêu có cách đây 6.000 năm. Điêu khắc đá được phát
hiện sớm nhất ở An Dương Hầu gia trang (Hà Nam), cuối đời Thương như bức Thạch điêu
đầu hổ mình người cao hơn 37cm. Ngay từ thời Ân Chu đã tìm thấy nhiều đồ đồng, đồ
chạm ngọc, đồ gốm trắng hình dáng đẹp, trang trí tỉ mỉ. Các hoa văn rồng, hoa lá, chim thú
được cách điệu cao. Từ thời Hán, đạo Phật được truyền vào Trung Quốc. Cùng với việc
xây dựng các công trình kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc cũng phát triển với nhiều thể loại:
tượng phật, tượng thờ, tượng sư tử và các bức phù điêu rất đẹp thể hiện đề tài lịch sử như
Chu Công giúp Thành Vương, … Nhà điêu khắc nổi tiếng thời Đường là Dương Huệ Chi,
ông là người mở đầu cho điêu khắc tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay và 500 tương la hán. 34 lOMoARcPSD| 10435767
Trong số các tượng Phật có pho rất to lớn như tượng Phật Đại lư xá ở Long môn cao
17m thể hiện Phật ngồi tĩnh toạ bằng chất liệu đá, tỷ lệ đẹp và tình cảm tự nhiên. Tuy vậy
đấy chưa phải là bức tượng lớn nhất. ở Nhạc Sơn -Tứ Xuyên có pho tượng Phật đứng cao
36m, ở Đông Hoàng (Cam Túc), có tượng Phật bằng đá mềm cao 33m, …
Bức tượng phật được coi là bức tượng khổng lồ, lớn nhất thế giới là pho tượng phật
Di Lặc ngồi cao 71m tại vùng núi Lạc Sơn (tỉnh Tứ Xuyên), được tạc vào đời Đường thế kỷ thứ VIII.
Tượng Phật ngồi lưng tựa vào vách núi phía Tây lăng Văn Sơn. Do đó tượng phật
được gọi là Lăng Vân Đại phật hay Lạc Sơn Đại Phật. Đầu tượng cao 14m, rộng 10m, chân
dung siêu phàm, lý tưởng nét mặt phương phi, kỳ vĩ. Mỗi mắt dài 3,3m, cân đối với độ cao
từ bàn chân lên đầu gối (28m).
Cùng với tượng, phù điêu cũng biểu hiện tài năng của người Trung Hoa cổ. Bức phù
điêu “Chiêu lăng lục tuấn” (Lăng Đường Thái Tông) diễn tả 6 con ngựa mà khi còn sống
Đường Lý Thế Dân thường cưỡi đi chinh chiến. Sáu con tuấn mã được diễn tả trong 6 tư
thế đứng, đi, chạy, rong ruổi, … rất sinh động. Nhà nghiên cứu mỹ thuật phi Hoanh đã ví
“Chiêu lăng lục tuấn” với ngựa ở đền Pác tê nông (Hy Lạp).
Năm 1974 ở gần Lâm Đồng (Trung Quốc) những người nông dân đã vô tình phát
hiện một số tượng đất nung người và ngựa. Sau đó tiến hành khai quật, Trung Quốc đã tìm
được hàng ngàn pho tượng to bằng người thật. Có tất cả 8.000 pho tượng đất nung, cao từ 35 lOMoARcPSD| 10435767
1,6m đến 1,7m trong trang phục của nhiều binh chủng như bộ binh, xạ thủ bắn cung, nỏ
đá, kỵ binh, chiến xa, chiến mã. Họ được chôn bên cạnh Tần Thuỷ Hoàng.
Những pho tượng này đều được vẽ màu nhưng qua 2.000 năm màu sắc cũng bị phai đi
nhiều. Những pho tượng này chúng ta có thể biết về trang phục, lịch sử, là nguồn tư liệu
về quân phục, trang bị và vũ khí của quân đội thời Tần.
Lăng mộ Tần Thủy Hoàng 36