-
Thông tin
-
Quiz
Giáo trình môn triết học Mác - Lênin | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Chương 1: chủ nghĩa duy vật lịch sử và vai trò của nó trong đời sống xã hội. 1.1. Những tư tưởng triết học xã hội trước Mác. Quan niệm duy vật lịch sử là một phát minh vĩ đại của C.Mác, là kết quả tất yếu trong sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Đây là sự kế thừa
những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Giáo trình môn triết học Mác - Lênin | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Chương 1: chủ nghĩa duy vật lịch sử và vai trò của nó trong đời sống xã hội. 1.1. Những tư tưởng triết học xã hội trước Mác. Quan niệm duy vật lịch sử là một phát minh vĩ đại của C.Mác, là kết quả tất yếu trong sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Đây là sự kế thừa
những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
MỤC LỤC Trang Chương 1
Chủ nghĩa duy vật lịch sử và vai trò của nó trong đời 2 sống xã hội Chương 2 Xã hội và tự nhiên 14 Chương 3
Sản xuất vật chất - biện chứng giữa lực lượng sản xuất 33 và quan hệ sản xuất Chương 4
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội 45 Chương 5
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội 60 Chương 6
Giai cấp và đấu tranh giai cấp 73 Chương 7
Dân tộc, mối quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại 91 Chương 8 Cách mạng xã hội 104 Chương 9 Nhà nước 119
Chương 10 Con người - cá nhân - xã hội 141
Chương 11 Ý thức xã hội 163
Chương 12 Khoa học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 192
Chương 13 Tiến bộ xã hội 213 0 Chương 1
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Cuộc cách mạng trong triết học về xã hội
1.1. Những tư tưởng triết học xã hội trước Mác
Quan niệm duy vật lịch sử là một phát minh vĩ đại của C.Mác, là kết
quả tất yếu trong sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Đây là sự kế thừa
những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đồng thời là kết quả sự phản
ánh yêu cầu của thực tiễn xã hội.
Từ thời cổ đại các nhà triết học đã muốn làm sáng tỏ bản chất đời
sống xã hội và có những mầm mống, những yếu tố của quan niệm về lịch sử.
Trong lịch sử triết học phương Đông, các nhà triết học đã đặt vấn đề rất sớm
tìm hiểu về con người và xã hội. Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đi tìm nỗi khổ
của con người trong đời sống tâm linh, tìm cách giải thoát con người bằng
siêu thoát cá nhân. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại đi tìm nguyên nhân
biến động, rối loạn xã hội trong bản tính con người. Theo tư tưởng triết học
Nho gia, bản tính con người có thiện, có ác.
Các nhà triết học phương Tây thời cổ đại như Hêracrít (485- 425
TCN); Platôn (472-347 TCN); Xôcơrát (469- 425 TCN); Đêmôcơrit (460-370
TCN), Arixtốt (384-322 TCN)…bước đầu đã thể hiện phương pháp lịch sử
trong nghiên cứu xã hội. Đặc biệt là về ý tưởng xây dựng một thể chế chính
trị - xã hội trong đó việc quản lý nhà nước phải do các nhà triết học và khoa học.
Một số nhà triết học thời trung cổ đã giải thích lịch sử theo quan niệm
thần học như Ôguytxtanh (354- 430), Phôma Acvinxki. Theo họ, lịch sử xã
hội là sự thể hiện của “mệnh trời”; cuộc sống của xã hội loài người là một tấm
bi kịch của cuộc đấu tranh gữa các thiện và cái ác.
Đến thời kì Phục hưng, trong tư tưởng của một số nhà triết học đã có
những yếu tố triết học lịch sử. Điều đó được thể hiện trong quan điểm của
các nhà triết học cùng với các nhà nghiên cứu văn hoá lịch sử khác. Họ tìm 1
cách thoát khỏi quan điểm thần học, cố gắng xem xét lịch sử xã hội một
cách tổng quan nền văn hoá lịch sử, đi sâu vào khía cạnh tinh thần của cá
nhân con người. Hécđơ(1744 - 1803) coi sự phát triển xã hội là tiếp tục lịch
sử tự nhiên. Xã hội là một chỉnh thể, quy luật xã hội cũng mang tính chất
tự nhiên và bản tính con người gắn với xã hội. Rútxô (1712 - 1778) chứng
minh rằng sở hữu tư nhân là nguyên nhân của bất bình đẳng, của đối kháng
xã hội và của sự xuất hiện nhà nước. Ông coi sự vận động xã hội diễn ra
theo một trật tự tự nhiên, trong dó mọi người đều có quyền bình đẳng. Đặc
biệt, Ông có tư tưởng về biện chứng giữa tiến bộ và thoái bộ, giữa bình
đẳng và bất bình đẳng trong tiến trình lịch sử, về một xã hội lý tưởng với
một nền dân chủ trực tiếp và một nhà nước tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân…Xanh Ximông (1760 - 1825) đã bảo vệ quan điểm về sự phát triển có
quy luật của lịch sử; về tác dụng của chế độ tư hữu và giai cấp trong sự
phát triển xã hội; về mục đích giải phóng giai cấp công nhân; về tư tưởng
nền sản xuất có kế hoạch là cơ sở của chế độ xã hội tương lai.
Trong triết học cổ điển Đức đã có những yếu tố biện chứng về lịch sử.
Tiêu biểu là tư tưởng triết học của Hêghen (1770-1831). Theo Hêghen, toàn
bộ lịch sử là sự tự phát triển của “lý tính trong lịch sử” nhằm mục đích nhận
thức tinh thần thế giới. Biện chứng của lịch sử xã hội là sự chuyển hoá lẫn
nhau của cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên. Sự vận động của lịch sử là quá trình
được cấu thành từ hành động của những cá nhân theo đuổi những mục đích và
lợi ích riêng. Quá trình tự nhận thức tinh thần thế giới trải qua những giai
đoạn phát triển ứng với trình độ của ý thức về tự do. Hêghen còn đi gần đến
quan niệm duy vật lịch sử về bản chất của lao động, về ý nghĩa của lao động
đối với sự hình thành con người và xã hội.
Trong tư tưởng triết học của Phoiơbắc, con người được xem xét một
cách trừu tượng phi lịch sử, quan hệ xã hội nghèo nàn. Phoiơbắc phủ nhận
quan niệm cho rằng "thượng đế" sáng tạo ra con người. Ông cho rằng, môi
trường hoàn cảnh có tác động to lớn đến ý thức con người nhưng không nhận
thấy bản chất xã hội của con người và vai trò hoạt động thực tiễn trong nhận 2
thức, cải tạo thế giới của con người. Triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc
là không triệt để, duy vật về tự nhiên nhưng duy tâm về xã hội.
Như vậy, lịch sử tư tưởng triết học trước Mác đã có những tư tưởng
triết học xã hội có giá trị, làm tiền đề, điều kiện để triết học mácxít kế thừa,
phát triển quan niệm duy vật lịch sử. Tuy nhiên, do hạn chế lịch sử và các
nguyên nhân khác nhau, các nhà triết học trước Mác đã giải thích lịch sử trên
lập trường duy tâm, định mệnh. Họ đi tìm nguyên nhân của sự phát triển lịch
sử ở tư tưởng; coi cá nhân, anh hùng quyết định sự phát triển lịch sử . Từ đó,
họ quy tính tích cực của con người vào hoạt động tinh thần và tìm biện pháp
cải tạo xã hội ở lĩnh vực tinh thần.
Khuyết điểm chung của các nhà triết học duy vật trước Mác là phương
pháp tư duy siêu hình trong xem xét bản chất con người và xã hội. Họ quy bản
chất con người vào bản tính tự nhiên, tộc loại của các cá nhân riêng biệt. Phương
pháp tư duy siêu hình đã dẫn đến tuyệt đối hoá vai trò của hoàn cảnh địa lý trong
sự phát triển xã hội hoặc áp dụng quy luật tự nhiên, sinh học một cách máy móc
vào đời sống xã hội. Đặc biệt trong xem xét bản chất con người và xã hội, các nhà
triết học trước Mác đã thiếu tính thực tiễn, không xuất phát từ thực tiễn, không
hiểu vai trò hoạt động thực tiễn có tính cách mạng của con người.
1.2. Sự sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xuất phát từ thực tiễn xã hội, trực tiếp là
thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân để sáng tạo ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Hoạt động thực tiễn của C.Mác và Ph.Ăngghen là một điều
kiện quan trọng trong sự hình thành các quan điểm duy vật lịch sử của hai
ông. Tuy nhiên, bước chuyển lập trường từ duy tâm sang duy vật, từ dân chủ
cách mạng sang cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen có ý nghĩa
quyết định đến sự hình thành các quan điểm duy vật lịch sử.
Con đường nghiên cứu của C.Mác là từ nghiên cứu kiến trúc thượng tầng
xã hội dẫn đến tất yếu tìm nguyên nhân trong đời sống vật chất của xã hội.
Ngược lại, Ph.Ăngghen xuất phát từ nghiên cứu cơ sở kinh tế, đi đến phê phán
chế độ tư hữu, tìm hiểu về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Điểm gặp nhau của
hai ông là cùng bắt đầu từ phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp vô sản. 3
Tiền đề nghiên cứu triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen là xuất phát từ
con người hiện thực, sống, hoạt động thực tiễn. Đây là điểm khác căn bản của
hai ông trong nghiên cứu về lịch sử so với quan điểm duy tâm, siêu hình.
Lôgic lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen là đưa thực tiễn vào triết học,
có quan niệm đúng đắn về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với đời sống
xã hội. Từ đó giải đáp được những bí ẩn, bế tắc của mọi lý luận triết học cũ.
Đặc biệt hai ông lý giải một cách khoa học trên lập trường duy vật biện chứng
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại
xã hội; luận giải được vai trò của sản xuất vật chất và chỉ ra những qui luật
vận động phát triển của xã hội loài người, thực chất nó là những qui luật phản
ánh hoạt động thực tiễn của con người trong lịch sử.
Những luận điểm xuất phát của quan niệm duy vật lịch sử được C.
Mác tóm tắt trong tác phẩm “Lời tựa góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị”. Nguyên lý đầu tiên của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sản xuất vật chất,
đây là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội. Tiền đề mọi
lịch sử xã hội là con người hiện thực, con người thực tiễn, trước hết là thực
tiễn lao động sản xuất. Sản xuất vật chất là phương thức cơ bản biểu hiện bản
chất con người và lối sống xã hội. Phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là chìa khoá để nhận thức quy luật xã hội cùng với phép
biện chứng quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng, từ đó thấy sự phát triển xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Biện chứng giữa tính thứ nhất của tồn
tại xã hội và tính thứ hai của ý thức xã hội cho thấy, xã hội là hình thái vận
động khách quan- chủ quan của vật chất. Thừa nhận tính quy luật của sự phát
triển xã hội, Vai trò của quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo mọi quá
trình lịch sử... Đó là những luận điểm quan trọng nhất phản ánh bản chất của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Như vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là
một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học nhân loại.
2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống triết học duy vật biện chứng
về xã hội, một bộ phận hợp thành triết học Mác, làm cho triết học Mác
sâu sắc, hoàn bị và triệt để. Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu xã hội 4
với tính cách là một chỉnh thể. Xã hội là một bộ phận đặc biệt của tự
nhiên, lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa
người với người làm nền tảng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu đời sống xã hội với tính cách là
một chỉnh thể, vạch ra những quy luật, những động lực chung nhất của sự
vận động, phát triển xã hội.
Đời sống xã hội với tính cách một chỉnh thể là khách thể nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật
chất, là nấc thang phát triển cao nhất của các hệ thống sống, là sản phẩm của
sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Xã hội tồn tại dưới những hình
thái hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, hoặc những xã hội riêng biệt cụ thể (của
một dân tộc, một thời đại).
Con người là sự phát triển cao nhất của tự nhiên, là chủ thể của lịch sử,
và bằng hoạt động của mình con người làm ra lịch sử, tạo ra xã hội. Xã hội là
một chỉnh thể bao gồm sự tồn tại của con người cá nhân và các tập hợp người;
sự tồn tại của các phương thức, cách thức quan hệ giữa người với người. Sự
hình thành phát triển của con người và xã hội là hai mặt của một quá trình
thống nhất. Điều đó đưa lại hệ quả tất yếu là có thể nhận thức được quy luật
xã hội và bản chất đời sống xã hội, nhận thức được bản chất con người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch ra những quy luật, những động lực
chung nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Hệ thống quy luật xã hội
tồn tại ở các cấp độ khác nhau. Các quy luật chi phối toàn bộ đời sống xã
hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
với kiến trúc thượng tầng; về sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một tiến trình lịch sử - tự nhiên; về vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong tiến trình lịch sử…Các quy luật chi phối xã hội có
giai cấp như quy luật đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội
có đối kháng giai cấp; quy luật cách mạng xã hội là hình thức chuyển biến
về chất của các hình thái kinh tế - xã hội…Các quy luật chi phối một hình
thái kinh tế - xã hội như quy luật về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên 5
chủ nghĩa xã hội; quy luật về đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy luật về vai trò tăng lên của quần
chúng nhân đân trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa…
Hệ thống động lực phát triển xã hội được xem xét ở các phương diện
tiếp cận khác nhau. Tiếp cận từ phương diện giải quyết những mâu thuẫn biện
chứng của xã hội như mâu thuẫn giữa lực lương sản xuất với quan hệ sản
xuất; mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng của xã hội; mâu
thuẫn giữa các giai cấp cơ bản trong xã hội có đối kháng giai cấp…Tiếp cận
từ những lực lượng xã hội cơ bản thì động lực của sự phát triển xã hội là các
chủ thể mà hoạt động của họ thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã
hội, như quần chúng nhân dân; những cá nhân, anh hùng, lãnh tụ; các giai cấp
cách mạng và lực lượng tiến bộ...Tiếp cận từ những nhân tố thúc đẩy sự phát
triển, như sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tiến bộ của khoa học và kỹ
thuật…Tiếp cận từ những nhân tố thúc đẩy tính tích cực nhận thức và hoạt
động của con người thì động lực của lịch sử là lợi ích, dân chủ, trí tuệ, sự phát
triển tự do và toàn diện của cá nhân…
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học, chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã chỉ ra những quy luật, những động lực phát triển xã hội. Đây là
một phát minh vĩ đại của C.Mác, đem lại một cuộc cách mạng trong triết học về xã hội.
3. Đặc điểm quy luật xã hội
3.1. Đặc trưng của quy luật xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra những quy luật của sự vận động,
phát triển xã hội. Là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên, sự phát triển của
xã hội vừa tuân theo quy luật tự nhiên, vừa tuân theo quy luật xã hội. Giữa
quy luật xã hội và quy luật tự nhiên có sự khác nhau. Quy luật tự nhiên được
hình thành thông qua vô số tính tự phát, mù quáng của những tác động trong
tự nhiên. Quy luật tự nhiên tồn tại trước khi xuất hiện xã hội loài người và tác
động cả những nơi không có con người và xã hội. Còn quy luật xã hội được
hình thành trên cơ sở hoạt động xã hội mang tính tự giác, có ý thức của con
người. Quy luật xã hội chỉ được hình thành khi xuất hiện xã hội loài người và 6
chỉ tồn tại phát huy tác dụng ở đâu có con người là chủ thể hoạt động. Không
có hoạt động của con người thì không có xã hội và không có quy luật xã hội.
Quy luật xã hội là quy luật hoạt động của con người theo đuổi mục đích của
mình. Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong tự nhiên (chừng nào chúng ta không
xét ảnh hưởng ngược trở lại của con người đối với tự nhiên) chỉ có những
nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau, và chính trong sự tác động
lẫn nhau ấy mà quy luật chung biểu hiện ra…Trái lại, trong lịch sử xã hội,
nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là chỉ là con người có ý thức, hành động có
suy nghĩ hay có nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định thì không
có gì xảy ra mà lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn”1.
Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, khách quan, tất yếu,
phổ biến giữa các hiện tượng và các quá trình xã hội. Quy luật xã hội mang
đầy đủ những đặc trưng cơ bản của quy luật nói chung, đó là tính khách quan;
tính xu hướng; tính tất yếu và tính phổ biến…nhưng được biểu hiện cụ thể
trong đời sống xã hội và gắn với vai trò của con người.
Tính khách quan của quy luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt
động của con người nhưng không lệ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá
nhân, một lực lượng xã hội nào. Quy luật xã hội không tồn tại bên ngoài con
người, được thực hiện trong những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định,
trong quan hệ con người với tự nhiên; con người với con người. Những quan
hệ đó là khách quan đối với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi thế hệ, mỗi con
người khi họ theo đuổi mục đích của bản thân mình và không lệ thuộc vào ý
chí, động cơ tư tưởng của bất cứ chủ thể nào. Ph.Ăngghen chỉ rõ, con người
sáng tạo ra lịch sử trong những hoàn cảnh nhất định mà con người phải thích
ứng và trên cơ sở những quan hệ thực tế đang tồn tại. Còn V.I.Lênin cho rằng,
con người đứng trước thế giới và bị những điều kiện khách quan của thế giới
quy định hoạt động của mình.
Quy luật xã hội mang tính xu hướng. Theo tư tưởng của Ph.Ăngghen,
quá trình vận động, phát triển của đời sống xã hội chịu sự tác động phức tạp
của nhiều ý muốn, mục đích khác nhau của con người và các lực lượng xã
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995, t. 21, tr.435. 7
hội, thậm chí là chồng chéo lên nhau, trái ngược nhau. Song, tổng hợp những
lực tác động lẫn nhau đó, tạo thành xu hướng vận động chung của lịch sử,
trong đó lực hoạt động của số đông người chiếm ưu thế. Quy luật xã hội chỉ
phản ánh mục đích hoạt động của khối đông người, phù hợp xu hướng phát
triển tất yếu của lịch sử, những xu hướng này là khách quan và không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của một ai và của một lực lượng xã hội nào.
Quy luật xã hội mang tính tất yếu, bởi vì nó phản ánh những mối liên
hệ bản chất của đời sống xã hội, do vậy nó là cái nhất thiết phải xảy ra. Cái tất
yếu phải thông qua cái ngẫu nhiên là hình thức tồn tại. Cơ sở của tính tất yếu
trong quy luật xã hội là những mối quan hệ xã hội mà trước hết là quan hệ sản
xuất vật chất, đây là quan hệ được hình thành một cách tất yếu, để thoả mãn
nhu cầu sống của con người, nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội.
Quy luật xã hội mang tính phổ biến, bởi vì nó phản ánh cái nhất thiết
phải xảy ra trong nhóm loại, tức là cái phổ biến, cái lặp lại giữa các hiện
tượng, quá trình xã hội. Tính phổ biến của quy luật xã hội có nhiều cấp độ
khác nhau do quan hệ của con người trong xã hội có nhiều cấp độ khác nhau.
Loại quan hệ xã hội tồn tại phổ biến cho mọi hình thái kinh tế - xã hội như
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng; quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội…
Loại quan hệ xã hội chỉ tồn tại trong một số hình thái kinh tế-xã hội như quan
hệ giai cấp, quan hệ dân tộc…Loại quan hệ xã hội chỉ dành riêng cho một
hình thái kinh tế - xã hội như quan hệ giữa giai cấp chủ nô và nô lệ; giữa địa
chủ và nông dân; giữa tư sản và vô sản…Loại quan hệ xã hội chỉ dành riêng
cho từng lĩnh vực cụ thể như quan hệ trong các lĩnh vực riêng biệt về kinh tế,
chính trị, đao đức, pháp quyền…Tính tất yếu và tính phổ biến của quy luật xã
hội tuỳ thuộc vào mức độ quan trọng và phổ biến của các mối quan hệ xã hội
mà các quy luật thể hiện.
3.2. Đặc điểm riêng của quy luật xã hội
Quy luật xã hội tồn tại và tác động trong những điều kiện lịch sử - xã
hội nhất định. Khi những điều kiện tồn tại tất yếu của xã hội mất đi thì quy
luật không còn tồn tại nữa. Chẳng hạn quy luật đấu tranh giai cấp chỉ tồn tại
trong điều kiện các xã hội dựa trên cơ sở chế độ tư hữu, phản ánh những mối 8
quan hệ cơ bản trong xã hội có đối kháng giai cấp. Tuy nhiên, chế độ tư hữu
của từng hình thái kinh tế - xã hội riêng biệt lại có những biểu hiện cụ thể
khác nhau, phản ánh những quan hệ sản xuất và quan giai cấp khác nhau, trên
cơ sở những trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất khác
nhau. Khi xã hội không còn chế độ tư hữu, không còn giai cấp thì quy luật đó
không còn tồn tại. Như vậy, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, các điều kiện
lịch sử không lặp lại nguyên xi, nên qui luật xã hội thường có những hình
thức biểu hiện khác nhau, thậm chí bị biến dạng.
Trong xã hội, mọi hoạt động của con người đều do lợi ích chi phối. Lợi
ích là động lực của mọi hoạt động con người. Do vậy, lợi ích là một yếu tố
quan trọng trong cơ chế hoạt động của quy luật xã hội. Hoạt động của mỗi
người nhằm theo đuổi những mục đích riêng, do bị chi phối bởi những lợi ích
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nhưng quy luật xã hội là quy luật hoạt
động của số đông con người trong thời gian dài, là kết quả bị chi phối bởi
tổng hợp những lợi ích chung mà không lệ thuộc vào lợi ích của một cá nhân
riêng lẻ nào cả. Quy luật xã hội tồn tại và phát huy tác dụng thông qua hoạt
động của con người theo đuổi lợi ích của mình nhưng vẫn mang tính khách quan.
Đặc điểm nhận thức quy luật xã hội phải có phương pháp khái quát
hoá và trừu tượng hoá cao. Bởi vì, nhận thức quy luật xã hội là nhận thức
hoạt động của số đông con người trong thời gian dài nên không thể dùng thực
nghiệm, kiểm nghiệm trong phòng thí nghiệm được, càng không thể dùng
những công thức để phân tích, chứng minh một cách đơn thuần được. C.Mác
chỉ ra rằng: “Khi phân tích những hình thái kinh tế, người ta không thể dùng
kính hiển vi hay những chất phản ứng hoá học được. Sức trừu tượng hoá phải
thay thế cho cả hai cái đó”1.
Để đạt được sự phát triển lâu bền của xã hội, con người vừa phải tuân theo
quy luật xã hội, vừa phải tuân theo quy luật của tự nhiên. Bởi vì, con người tồn tại
trong môi trường xã hội và môi trường tự nhiên. Dân số - môi trường - sự phát
triển xã hội là một thể thống nhất thường xuyên tác động lẫn nhau. Nhận thức và
vận dụng quy luật xã hội là một vấn đề rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi con người
không chỉ có năng lực nhận thức, mà còn phải có bản lĩnh khoa học và kinh
1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1993, t. 23, tr.16 9
nghiệm thực tiễn. Mặt khác, con người trong hoạt động của mình cần tạo điều
kiện cho hệ thống quy luật tự nhiên và quy luật xã hội phát huy tác dụng để đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của cả hệ thống tự nhiên và xã hội.
4. Vai trò của chủ nghĩa duy vật lịch sử
4.1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận khoa học trực tiếp cho nhận thức và cải tạo xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một phát minh vĩ đại của C.Mác, đem
lại một cuộc cách mạng trong triết học về xã hội, làm cho triết học Mác trở nên
triệt để, hoàn bị, thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra những quy luật, những động lực
phát triển xã hội, mang lại một ý nghĩa xã hội mới cho triết học Mác. Đó là triết
học mang bản chất khoa học và cách mạng; có sự thống nhất giữa lý luận và
phương pháp, giữa hệ tư tưởng và khoa học.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của giai cấp công nhân và các Đảng cộng sản trong xác định các vấn đề
chiến lược và sách lược của cách mạng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận cho các khoa học xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã đặt các
khoa học xã hội trên một nền tảng khoa học vững chắc, đẩy lùi các quan điểm
duy tâm, siêu hình trong nhận thức về lịch sử - xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
trực tiếp cho khoa học quân sự, góp phần trực tiếp hình thành phát triển phương
pháp nghiên cứu khoa học cho người cán bộ cách mạng và cán bộ quân đội, giúp
họ nâng cao trình độ khoa học, tư duy lý luận, lập trường giai cấp, bản chất cách
mạng, là vũ khí tinh thần sắc bén trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay.
4.2. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan, phương
pháp luận khoa học trong xem xét, giải quyết những vấn đề của thời
đại và của Việt Nam hiện nay 10
Quan niệm duy vật lịch sử là cơ sở triết học xã hội để xem xét và giải
quyết những vấn đề của thời đại và của cách mạng Việt Nam. Trong nhận
thức thời đại hiện nay, chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học để nhận
thức chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đó là các vấn đề, như bản chất, mâu thuẫn, sự
vận động, xu hướng, sự diệt vong tất yếu, quá trình phủ định biện chứng của
chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, là cơ sở khoa học cho việc nhận thức và khắc
phục sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới hiện nay, như thành tựu,
khuyết điểm, nguyên nhân khủng hoảng và con đường khắc phục khủng
hoảng của chủ nghĩa xã hội.
Đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, chủ nghĩa duy vật
lịch sử góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là những vấn đề, về quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; về định hướng xã hội
chủ nghĩa trên các lĩnh vực phát triển; về nội dung và hình thức đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ; về biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; về vấn đề con người và phát
huy nhân tố con người; về vấn đề văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển kinh tế - xã hội, .v.v.. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong
những cơ sở lý luận khoa học để “giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ
tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”1.
4.3. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận khoa học trực tiếp đối với lý luận và thực tiễn quân sự
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học cho đổi mới tư duy về bảo
vệ Tổ quốc, xây dựng củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr.69. 11
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học
cho việc nhận diện bản chất các cuộc chiến tranh, kể cả các cuộc chiến tranh
công nghệ cao, chiến tranh cục bộ, chiến tranh khu vực, vấn đề khủng bố và chống khủng bố…
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
khoa học trong giải quyết mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong sức
mạnh chiến đấu của quân đội trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao, về
chuyển hoá so sánh lực lượng giữa ta và địch trong điều kiện mới hiện nay.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học cho lý luận và thực tiễn về
phát huy vai trò của nhân tố tinh thần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học cho vấn đề xây dựng quân đội về chính trị và tiếp
tục hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội trong thời kỳ mới.
Do tình hình quốc tế, trong nước đang có những biến đổi nhanh chóng,
sâu sắc, bởi vậy nó đặt ra những yêu cầu mới cần phải phát triển chủ nghĩa duy
vật lịch sử để đáp ứng vai trò là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và
cách mạng cho lý luận - thực tiễn của sự nghiệp đổi mới đất nước và xây dựng Quân đội ta hiện nay. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử là nội dung cơ bản của bước
ngoặt cách mạng do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện trong triết học?
2. Đối tượng nghiên cứu và vai trò của chủ nghĩa duy vật lịch sử đối với
đời sống xã hội?
3. Đặc điểm của qui luật xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề
đối với hoạt động quân sự ? 12 Chương 2 XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN
Sự hình thành của xã hội không tách rời quá trình phát triển của giới tự
nhiên và xã hội chính là bộ phận đặc thù được tách ra hợp qui luật của tự nhiên.
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội bao trùm, xuyên suốt quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy, nghiên cứu sự vận động, phát triển của xã
hội không thể không nghiên cứu mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên.
1. Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên
Theo nghĩa rộng, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách
quan và vận động, phát triển theo những qui luật vốn có của nó. Theo nghĩa
hẹp, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan, nhưng không kể
đến hình thái vận động xã hội. Tự nhiên bao gồm toàn bộ những điều kiện
thiên nhiên, hoàn cảnh địa lý tồn tại độc lập và có tác động trực tiếp đến xã
hội. Con người tồn tại với tư cách là chủ thể nhận thức và biến đổi tự nhiên.
Nhưng cho dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, xã hội vẫn là một bộ phận đặc
thù không tách rời của tự nhiên.
Trước C.Mác, có những quan niệm cho rằng xã hội là do những lực
lượng siêu nhiên, thần bí sinh ra; hoặc cho xã hội là sự cộng lại, gộp lại của
các cá nhân. Đây là những quan niệm duy tâm, siêu hình về xã hội, những
quan niệm đó không cho phép nhận thức một cách đúng đắn quá trình vận
động, phát triển của lịch sử xã hội.
Bác bỏ những quan điểm sai lầm trên, bằng tổng kết thực tiễn lịch sử
C.Mác đã khẳng định: “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện
tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau"1.
Theo C.Mác, "Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm
của sự tác động qua lại giữa những con người"2. Bởi vậy, theo nghĩa rộng, xã hội
là bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, nấc thang phát triển cao nhất của các
hệ thống sống, là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người với người. Còn
theo nghĩa hẹp, xã hội được hiểu là một kiểu hệ thống xã hội cụ thể trong lịch sử.
1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1996, t.46, tr.355.
2 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1996, t..27, tr. 657 13
Như vậy, xã hội là bộ phận đặc thù của thế giới vật chất được tách ra
một cách hợp qui luật của tự nhiên; là hình thức tổ chức vật chất cao nhất
trong quá trình tiến hoá liên tục, lâu dài và phức tạp của tự nhiên. Xã hội
không chỉ là bộ phận đặc thù của tự nhiên, của vật chất, mà còn là hình thái
vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan
hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng.
Sự hình thành con người và sự hình thành xã hội là hai mặt của một
quá trình thống nhất, diễn ra trong tác động qua lại qui định lẫn nhau. Lịch sử
hình thành xã hội và lịch sử bản thân con người không tách rời nhau. Và hơn
thế, lịch sử xã hội còn là sự tiếp tục của lịch sử tự nhiên. Từ khi xuất hiện con
người và xã hội loài người đến nay, lịch sử của tự nhiên không chỉ phụ thuộc
vào sự tác động bởi các yếu tố tự nhiên, mà nó ngày càng chịu sự chi phối
mạnh mẽ của yếu tố xã hội. Mặt khác, sự phát triển của lịch sử xã hội không
thể tách rời các yếu tố tự nhiên, bởi chỉ có trong mối quan hệ với tự nhiên và
quan hệ với nhau, con người mới làm ra lịch sử của mình. Thực tế cho thấy,
con người không chỉ là chủ thể cải tạo, biến đổi tự nhiên mà nó còn là trung
tâm của mọi sự biến động lịch sử xã hội. Đề cập tới vấn đề này Ph.Ăngghen
khẳng định: "Có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử ra thành
lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời
nhau. Chừng nào loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên
quy định lẫn nhau"1. Song bản thân xã hội còn có một quá trình phát triển lịch
sử của riêng nó, quá trình đó được thể hiện ở sự vận động, biến đổi và phát
triển không ngừng của các hình thái kinh tế - xã hội, các chế độ xã hội trong
suốt chiều dài của lịch sử. Quá trình phát triển này chịu sự chi phối của các
qui luật chung, cơ bản tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại.
Theo C.Mác, mỗi giai đoạn phát triển đặc thù của lịch sử nhân loại,
hay của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, đều được đặc trưng bởi một tổng thể
quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức xã hội của một
phương thức sản xuất nhất định, còn cái quyết định đến nội dung của phương
thức sản xuất là lực lượng sản xuất. Và lực lượng sản xuất lại chính là biểu
hiện của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trình độ phát triển của lực
11. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 3, tr. 25. 14
lượng sản xuất là biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên, là thước đo năng lực
thực tiễn của con người trong quá trình cải biến tự nhiên. Như vậy, trong hoạt
động sản xuất vật chất của con người tất yếu hình thành hai mối quan hệ, đó
là quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất. Cả hai mối quan hệ trên đều tồn tại khách quan và do đó,
xã hội với tư cách là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người
cũng được hình thành một cách tất yếu khách quan.
Với tư cách vừa là bộ phận đặc thù của tự nhiên, vừa là sản phẩm của
sự tác động lẫn nhau giữa người với người, quá tình tồn tại, vận động và phát
triển của xã hội vừa chịu sự chi phối của các qui luật tự nhiên; vừa phải tuân
theo những qui luật chỉ vốn có đối với xã hội. Mà trước hết là hai qui luật cơ
bản tác động trong toàn bộ tiến trình vận động, phát triển của lịch sử nhân
loại, qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa xã hội và tự nhiên
2.1. Sự thống nhất biện chứng giữa xã hội và tự nhiên
Thế giới vật chất tồn tại vô cùng đa dạng và phức tạp, trong đó có ba yếu
tố cơ bản cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất và có tác động biện chứng
với nhau, đó là: giới tự nhiên, con người và xã hội loài người. Cả ba yếu tố cơ
bản trên đều là những dạng thức, đặc tính, các mối quan hệ khác nhau của thế
giới vật chất đang vận động, trong đó tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại
khách quan; xã hội là một kết cấu vật chất đặc thù, đồng thời là sản phẩm của sự
tác động qua lại lẫn nhau giữa người với người; còn con người chỉ là một thực
thể vật chất đặc biệt có ý thức, là chủ thể có khả năng cải tạo tự nhiên và biến đổi
xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của mình, bởi vậy các yếu tố trên có mối
quan hệ vật chất thống nhất với nhau.
Thế giới vật chất luôn vận động, biến đổi không ngừng, nhưng sự vận
động của nó được diễn ra với các hình thức cụ thể trong trạng thái ổn định
tương đối, vì vậy đây là sự vận động có qui luật và tuân theo qui luật. Tất cả
các quá trình diễn ra trong tự nhiên, trong xã hội và con người đều phải chịu 15
sự chi phối, tác động của những qui luật chung, phổ biến nhất định. Sự hoạt
động của các qui luật đó đã nối liền các yếu tố trong thế giới thành một chỉnh
thể thống nhất, không ngừng vận động, phát triển, tác động qua lại với nhau,
là nguyên nhân và kết quả của nhau. Hơn nữa, xét về nguồn gốc, hệ thống tự
nhiên và xã hội được hình thành trong quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới
vật chất, sự thống nhất của hệ thống đó được xây dựng trên cơ sở cấu trúc liên
hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được đảm bảo bởi cơ chế hoạt động của chu
trình sinh học. Nghĩa là, tự nhiên và xã hội không tồn tại tách rời nhau, mà
thường xuyên tác động qua lại với nhau trong một hệ thống thống nhất. Sự
vận động, phát triển của các yếu tố trong hệ thống đó chịu sự chi phối của các
qui luật khách quan trên cơ sở tính thống nhất vật chất của thế giới.
Sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên là sự thống nhất động, sự thống
nhất đó được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người, mà trước
hết là hoạt động sản xuất vật chất. Bằng hoạt động sản xuất vật chất, xã hội đã
tham ra vào chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin với tự nhiên.
Trong sản xuất vật chất, thì phương thức sản xuất mà trước hết là lực lượng sản
xuất là yếu tố cơ bản quyết định trình độ phát triển của xã hội. Nhưng lực lượng
sản xuất không phải là yếu tố đối lập với tự nhiên, mà nó là biểu hiện của mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Do đó, trình độ phát triển của xã hội và
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên luôn có sự phụ thuộc, chế ước lẫn
nhau. Hay nói cách khác, các mối quan hệ giữa con người với con người và giữa
con người với tự nhiên luôn có sự thống nhất biện chứng, phụ thuộc và tác động lẫn nhau.
Thông qua hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động sản xuất vật chất,
vai trò của con người và xã hội ngày càng tăng lên đối với sự biến đổi và phát
triển của tự nhiên. Và cũng chính thông qua quá trình sản xuất vật chất con
người đã tách mình ra khỏi tự nhiên. Tuy nhiên, để duy trì sự thống nhất giữa
xã hội và tự nhiên, đòi hỏi tất yếu con người phải biết điều khiển một cách có
ý thức mối quan hệ giữa mình với tự nhiên. Để đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của hệ thống tự nhiên và xã hội, con người vừa phải nhận thức được
mình là một bộ phận không tách rời của giới tự nhiên; vừa phải nhận thức, 16
vận dụng chính xác các qui luật của tự nhiên và xã hội trong hoạt động thực
tiễn. Về vấn đề này, Ph. Ăngghen chỉ rõ: "Chúng ta không hoàn toàn thống trị
được tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một
người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương
thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong
lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ
chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được qui
luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những qui luật đó một cách chính xác"1.
Như vậy, xã hội và tự nhiên cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống
nhất, có tác động qua lại biện chứng với nhau. Mối quan hệ biện chứng giữa
xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết và quan trọng
nhất là phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội; phụ thuộc vào nhận thức,
vận dụng các qui luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Tác động biện chứng giữa xã hội và tự nhiên còn được biểu hiện cụ thể ở vai
trò của tự nhiên đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội và sự tác động của xã
hội đối với tự nhiên.
2.2. Vai trò của tự nhiên đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Cùng tồn tại trong một hệ thống thống nhất, thường xuyên tác động qua
lại với nhau, tự nhiên luôn có vai trò quan trọng không thể thiếu đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Tự nhiên, mà trước hết là môi trường địa lý là
điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất ra mọi của
cải vật chất; đồng thời nó là yếu tố cơ bản trong những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Môi trường địa lý, một bộ phận của tự nhiên mà con người
sống trong đó, bao gồm: đất, nước, không khí, lớp thổ nhưỡng, giới động vật
và thực vật, .v.v.. Những yếu tố địa lý đó được con người thu hút vào quá
trình sản xuất xã hội tạo ra của cải vật chất và những điều kiện cần thiết cho
đời sống xã hội. Do vậy, môi trường địa lý luôn có vai trò là nền tảng tự nhiên của đời sống xã hội.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1994, t.20, tr.655. 17
Tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội loài người, vai trò
này của nó không có gì thay thế được và cũng không bao giờ mất đi. Chỉ có
tự nhiên mới cung cấp được cho con người những thứ cần thiết nhất cho sự
sống và các điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất vật chất, như tài
nguyên, đất đai, khoáng sản, .v.v.. Ph.Ăngghen khẳng định: “Công nhân
không thể sáng tạo ra cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới
hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu, trong đó lao động của anh ta được thực
hiện, trong đó hoạt động lao động của anh ta triển khai, từ đó và nhờ đó, lao
động của anh ta sản xuất sản phẩm"1. Ngày nay, với sự phát triển của khoa
học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại con người đã cải biến mạnh mẽ giới tự
nhiên, tạo ra được nhiều sản phẩm mới và vật liệu mới không có sẵn trong tự
nhiên để thoả mãn các nhu cầu tồn tại, phát triển xã hội. Nhưng xét đến cùng,
thành phần tạo nên các sản phẩm và vật liệu mới đó cũng đều có từ tự nhiên.
Các yếu tố của tự nhiên không chỉ tác động trực tiếp đến quá trình sản
xuất ra của cải vật chất, nó còn tác động tới quá trình phát triển kinh tế nói chung
và phân công lao động xã hội; tác động cả đến các quan hệ giao lưu kinh tế, văn
hoá trong nước và quốc tế của các quốc gia, dân tộc, .v.v.. Sự tác động của tự
nhiên đến xã hội là hiện tượng có tính lịch, càng trở về quá khứ xa xưa thì ảnh
hưởng của tự nhiên, của môi trường địa lý đến xã hội càng lớn. Khi xã hội càng
phát triển, năng lực chinh phục, cải tạo tự nhiên của con người tăng lên thì con
người và xã hội càng ít bị phụ thuộc vào sức mạnh tự phát của tự nhiên. Tác
động của tự nhiên đến xã hội theo hai chiều hướng cơ bản, hoặc là tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình sản xuất và đời sống xã hội; hoặc là gây ra các khó khăn,
trở lực cho sự tồn tại, phát triển xã hội. Nhưng yếu tố tự nhiên chỉ tác động, ảnh
hưởng đến sự phát triển xã hội chứ không thể quyết định sự phát triển của xã
hội. Theo Ph.Ăngghen, lịch sử phát triển của xã hội về căn bản khác với lịch sử
phát triển của tự nhiên, trong tự nhiên chỉ có những nhân tố vô thức và mù quáng
tác động lẫn nhau; còn trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt động hoàn toàn là
những con người có ý thức, hoạt động của họ luôn có mục đích và ý định tự
giác. Vì vậy, quá trình vận động, phát triển của xã hội một mặt chịu sự tác động
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t.42, tr.130. 18
của các qui luật tự nhiên; nhưng mặt khác, quá trình vận động, phát triển của xã
hội luôn chịu ảnh hưởng quyết định bởi các qui luật nội tại của nó.
Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và môi trường địa lý đến sự tồn tại,
phát triển của xã hội là rất to lớn, song sẽ là sai lầm nếu đi tuyệt đối hoá vai trò
của môi trường địa lý. Sai lầm đó sẽ đi đến thuyết "Quyết định luận địa lý", cho
điều kiện địa lý quyết định đến sự tồn tại, phát triển của xã hội. Trong thời kỳ đế
quốc chủ nghĩa thuyết "Quyết định luận địa lý" đã bị lợi dụng, phát triển thành
thuyết "Địa lý chính trị" hết sức phản động. Thuyết này đã sử dụng nhân tố địa
lý để biện hộ cho chính sách xâm lược, hiếu chiến của các nước đế quốc. Họ cho
rằng, việc đi xâm lược các nước khác là cần thiết để mở rộng "không gian sinh
tồn" cho phù hợp với vị trí địa lý của nó. Rồi cho hoàn cảnh địa lý quyết định,
nên các dân tộc "văn minh" thống trị các dân tộc "mông muội" là đương nhiên
và nó trở thành cơ sở cho sự phân biệt về dân tộc, về chủng tộc.
Như vậy, tự nhiên luôn là tiền đề, điều kiện tất yếu của sự tồn tại và
phát triển xã hội. Tác động của tự nhiên vào đời sống xã hội theo các qui luật
của tự nhiên, diễn ra một cách tự phát, "mù quáng" theo hai chiều thuận
nghịch. Bởi vậy, con người cải tạo tự nhiên phải trên cơ sở nắm vững các qui luật của tự nhiên.
2.3. Sự tác động của xã hội vào tự nhiên
Là bộ phận đặc thù của tự nhiên, tồn tại và phát triển trong môi trường
của tự nhiên, do vậy tác động của xã hội đến tự nhiên mang tính tất yếu khách
quan. Trong quan hệ biện chứng với tự nhiên, yếu tố xã hội luôn tác động,
biến đổi tự nhiên nhanh chóng và mạnh mẽ. Xã hội tác động đến tự nhiên
thông qua hoạt động thực tiễn của con người, mà trước hết là hoạt động sản
xuất vật chất. Trong hoạt động sản xuất vật chất con người đã thu nhận tất cả
các đối tượng của tự nhiên, sử dụng những công cụ, phương tiện thích hợp do
mình sáng tạo ra tác động vào tự nhiên và cải biến chúng để phục vụ cho nhu
cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Trong sản xuất vật chất, thì lao
động sản xuất là hành vi lịch sử đầu tiên để phân biệt sự khác nhau về chất
giữa con người và con vật; giữa xã hội loài người với thế giới loài vật. Mặt
khác, lao động sản xuất còn là yếu tố cơ bản, đầu tiên và quan trọng nhất tạo 19