TÀI LIỆU MI HỌC ĐẠI CƯƠNG
MỤC LỤC
Chương 1. học với cách một khoa học
I. Đối tượng nghiên cứu của học.......................................................................... 5
1. Phương diện từ ngữ, thuật ng................................................................................. 5
2. Lược sử các tưởng học việc xác định đối tượng nghiên cứu của học. 5
3. Định nghĩa học (Theo quan điểm mác t)
II. Quan hệ thẩm với hiện thực…........................................................................8
1. Giải thích thuật ngữ “quan h thẩm với hiện thực”…...................................8
2. Bản chất của sự khai thác thẩm .....................................................................9
3. Tính chất của sự khai thác thẩm mĩ..................................................................10
Chương 2. Khách thể thẩm
I. Cái bi kịch….......................................................................................................... 13
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ.........................................................................13
2. Khái niệm về cái bi kịch…...............................................................................13
3. Phân loại bi kịch…........................................................................................... 13
4. Đặc trưng thẩm của i bi kịch…................................................................14
5. Các sắc thái khác nhau của cái bi kịch….........................................................14
6. Cái bi kịch trong nghệ thuật.............................................................................16
II. Cái hùng ............................................................................................................ 17
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ......................................................................17
2. Khái niệm về cái hùng .................................................................................17
3. Đặc trưng thẩm của i hùng .................................................................17
4. Cái hùng trong nghệ thuật..........................................................................18
III. Cái đẹp…..............................................................................................................19
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ........................................................................19
2. Khái niệm về cái đẹp….................................................................................. 19
3. Bản chất của cái đẹp….................................................................................. 19
4. Các loại cái đẹp khách quan…......................................................................20
5. Cái đẹp khách quan màu sắc chủ quan trong quan niệm về cái đẹp…....22
3
IV. Cái hài...................................................................................................................24
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ..................................................................24
2. Khái niệm về cái hài..................................................................................... 24
3. Đặc trưng thẩm của i i....................................................................24
4. Cái hài trong nghệ thuật.............................................................................25
V. Cái xấu...............................................................................................................25
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ...................................................................25
2. Khái niệm v cái xấu…..............................................................................25
3. Đặc trưng thẩm của i xấu…..............................................................26
4. Cái xấu trong nghệ thuật...........................................................................26
Chương 3. Chủ thể thẩm mĩ.....................................................................................27
I. Khái niệm chủ thể thẩm c yếu tố biểu hiện chủ thể thẩm ........ 27
I. Phân loại chủ thể thẩm mĩ...........................................................................28
Chương 4. Nghệ thuật............................................................................................... 30
I. Nhận thức chung về nghệ thuật...................................................................30
1. Khái niệm về nghệ thuật...........................................................................30
2. Bản chất, đặc trưng của nghệ thuật..........................................................32
II. Sự phân chia nghệ thuật thành các loại hình, loại thể.............................34
Tài liệu tham khảo….............................................................................................. 36
4
6. Cái đẹp trong nghệ thuật................................................................................22
CHƯƠNG 1
HỌC VỚI CÁCH MỘT KHOA HỌC
I. Đối tượng nghiên cứu của học
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ
- Theo nghĩa Hán Việt, “mĩ” nghĩa “đẹp”, “tốt” (VD: nhân, lệ,
miều, quan; vị, tục...). Trong cách dùng phổ biến, “mĩ học” được hiểu
khoa học về cái đẹp. Từ “mĩ học trong tiếng Hán được nhập vào từ Nhật Bản hồi
đầu thế k XX (do Giang Triệu Dân dịch), bắt nguồn từ tiếng phương Anh
“aesthetics” (Tiếng Đức: esthetik; tiếng Pháp: esthétique). T này được Baumgacten
(1714 1762) dùng lần đầu tiên vào năm 1735 trong một công trình nghiên cứu của
ông nhan đề Những suy xét về triết học quan hệ tới việc xây dựng thi ca
(Baumgacten tiếp tục phát triển thuật ngữ này trong cuốn học xuất bản 1755
1758). Trong tiếng Hoa, “aesthetics” còn thể dịch “thẩm học”, tức môn
khoa học nghiên cứu sự nhận thức cái đẹp; cảm giác, tri giác của con người về cái
đẹp (nói rộng ra, đó môn khoa học nghiên cứu lĩnh vực thẩm mĩ).
- Về định nghĩa học, hiện vẫn còn tồn tại ba ý kiến chủ yếu (với những
điểm khả thủ nhất định):
+ học khoa học nghiên cứu về cái đẹp;
+ học triết học nghệ thuật, nghiên cứu các nguyên lí chung trong sáng
tác thưởng thức nghệ thuật;
+ học khoa học nghiên cứu các quan hệ thẩm mĩ;
2. Lược sử tưởng học việc xác định đối tượng nghiên cứu của học
* phương Tây
- Plang (427 347 TCN)
+ Không thể tìm thấy thuyết Platông một hệ thống học được xây dựng
hoàn chỉnh. chỉ những cơ sở, thậm c mầm mống của một thuyết về nghệ
thuật. tưởng “mĩ học” của Platông thể hiện qua những lời bàn về i đẹp nghệ
thuật.
+ Trên sở thế giới quan “duy tâm”, Platông cho rằng, cái đẹp đích thực
không tồn tại trên thế giới này thế giới của ý niệm. Chỉ cái đẹp của ý niệm
mới cái đẹp tuyệt vời, vĩnh viễn, đối lập với cái đẹp của sự vật cảm tính.
Platông p phán gay gắt quan niệm cho rằng cái đẹp cái đẹp trong thực tế (như
người con gái đẹp, con ngựa đẹp, con chim đẹp,...). Theo Platông, cái đẹp không
phải một thực thể trần gian cái thuần nhất với bản thân nó; tồn tại nơi
được duy. Chủ thể nhận thức cái đẹp đó linh hồn bất tử. Phương pháp nhận
thức hồi tưởng. Cái đẹp được do sự hồi tưởng của con người về một tiền
kiếp còn chung sống với thần linh. Về linh hồn, Platông cho đó sản phẩm của linh
hồn trụ được tạo ra bởi Thượng đế. Mỗi linh hồn trụ trú một sao trên trời,
sau đó bay xuống trần gian nhập vào thể xác tạo ra con người. Khi nhập vào thể
xác con người thì nó quên hết mọi thứ q khứ. thế nhận thức con người sự hồi
tưởng về những linh hồn đã quên lãng.
5
- Về nghệ thuật, Platông cho đó sự “bắt chước” nhưng thực chất không
phải bắt chước sự vật cảm tính bắt chước ý niệm. Người nghệ bắt chước
sự vật cảm tính chính sự vật cảm tính lại bắt chước ý niệm. Sự vật cảm tính chỉ
hình bóng của ý niệm. Do vậy, nghệ thuật “bắt chước của cái bắt chước”, “cái
bóng của cái bóng”,... Platông cho nghệ thuật xuất phát từ nguồn cảm hứng do thần
thánh tạo nên mới cao quí. Ông chủ trương nghệ thuật chỉ phục vụ tầng lớp chủ
nô, quí tộc, phục vụ tôn thờ thần thánh với những bài hát ca ngợi thần thánh. Ông
cũng phủ nhận thành tựu của Hôme, Etsin, Xôphôclơ, Ơripit,... Platông coi trọng âm
nhạc, đạo (các loại hình nghệ thuật mang tính “trừu tượng”, “gián cách”) hơn hội
hoạ, văn chương.
- Arítxtốt (384 322 TCN)
+ Arítxtốt nhà bách khoa tinh thông nhiều lĩnh vực. Trước ông, c vấn đề
nghệ thuật cái đẹp mới chỉ được bàn đến một cách lẻ tẻ (qua Pitago, Xôcrat,
Đêmôcrit, đặc biệt Platông). Chỉ tới Arítxtốt, những vấn đề trên mới được xây
dựng thành một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt, một bộ n khoa học. học của
Arítxtốt tập trung trong Chính trị học (quyển 8), Tu t học, đặc biệt trong Nghệ
thuật thi ca.
+ Trên sở thế giới quan duy vật, Arítxtốt đã hệ thống h triết học của
Platông những chỗ khác xa người thầy. học của Arítxtốt triết học về ngh
thuật, cụ thể hơn, đó triết học nghiên cứu các qui tắc trong sáng tạo nghệ thuật.
Cái đẹp với Arítxtốt cái đẹp hiện thực. Nghệ thuật sự tả thực tế (“bắt
chước”, “mô phỏng” sửa đổi thực tế), trong đó, hội hoạ nghệ thuật bắt chước
cái bề ngoài còn âm nhạc thơ ca các loại hình thể bắt chước tính cách một
cách sâu sắc đầy đủ hơn cả.
Arítxtốt nghiên cứu vấn đề bắt chước của nghệ thuật với đời sống trên cả ba
phương diện:
* Vật liệu (chất liệu) để bắt chước: đá, sơn màu, lời i.
* Đối tượng để bắt chước: con người (người tốt, người tồi).
* Phương thức bắt chước:
+ tái hiện sự kiện (t sự, anh hùng ca)
+ biểu hiện nội tâm (trữ tình)
+ tái hiện xung đột, biểu hiện nội tâm (kịch)
Arítxtốt cho bi kịch loại hình nghệ thuật cao quí nhất nâng cao con
người, tác dụng “thanh lọc”, “tẩy rửa” (carthasis) được tất cả những xấu xa,
thấp kém trong con người.
- Căng - (1724 1804)
+ Căng - người sáng lập Ch nghĩa duy tâm cổ điển Đức, người đề ra
thuyết “bất khả tri” “vật tự nó”. học của Căng - tập trung trong cuốn Phê
phán năng lực của phán đoán (1790).
+ Căng - coi đối tượng nghiên cứu của học cái đẹp. Đoạn tuyệt với
một truyền thống của học truy tìm những đặc điểm khách quan của cái đẹp,
Căng - tập trung phân tích các điều kiện chủ quan trong tiếp thu cái đẹp. Trong
cảm thụ cái đẹp, ông tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan. Cái đẹp, theo ông,
6
cái mang lại sự thích thú, những khoái cảm tư, không vụ lợi. Sự cảm thụ cái
đẹp cảm thụ cái thuần khiết, nằm ngoài mọi lợi ích thực tiễn (thông qua sự đánh
giá của chủ thể theo thị hiếu). Về hoạt động nghệ thuật, Căng - cũng có những ý
kiến sâu sắc. Ông cho người làm nghệ thuật phải thiên tư. Ông phân biệt nghệ
thuật với thủ công cho nghệ thuật hoạt động tự do, tính chất t chơi còn thủ
công hoạt động làm mướn.
- Hêghen (1770 - 1831)
Hêghen n triết học “duy tâm khách quan” nổi tiếng của Đức. tưởng
học của ông tập trung trong cuốn Mĩ học. Hêghen cho đối tượng nghiên cứu của
học cái đẹp song ông chỉ coi trọng cái đẹp trong nghệ thuật, con cái đẹp trong
tự nhiên thì ông cho nhàm chán, không đầy đủ, “rất đỗi thiếu sót”. Hêghen
người nghiên cứu sâu sắc đặc trưng của các loại hình nghệ thuật. Ông khẳng định:
Đặc trưng của một loại hình nghệ thuật bắt nguồn từ tính đặc t của chất liệu
loại hình nghệ thuật đó sử dụng. Ông cho nghệ thuật s nhận thức chân đời
sống qua hình thức cụ thể - cảm tính (hình thức hình tượng cụ thể, cảm tính, sinh
động, tính).
- Sécnưsevski (1828 1889)
Tsécnưsevski nhà học dân chủ cách mạng nổi tiếng người Nga.
tưởng học của Sécnưsevski được trình bày tập trung trong luận án
Tiến của ông nhan đ Quan hệ thẩm của nghệ thuật với hiện thực (1855).
Sécnưsevski cho rằng: cái đẹp hình thành trong cuộc sống cuộc sống con
người. Trên sở coi “cái đẹp cuộc sống”, Sécnưsevski đã hướng nghệ thuật vào
cuộc đấu tranh của nhân dân. Ông đặc biệt coi trọng tính nhân dân của nghệ thuật.
Sécnưsevski giải thích sự phát sinh của nghệ thuật không chỉ xuất phát từ nhu cầu về
cái đẹp xuất phát từ toàn bộ nhu cầu nói chung của con người. Ông khẳng định,
ngoài việc tái hiện, giải thích đời sống, tác phẩm nghệ thuật còn nhiệm vụ phán
xử các hiện tượng đời sống hội. Sécnưsevski rất sâu sắc trong những lời bàn về
nội dung đặc trưng của nghệ thuật.
* phương Đông
- Khổng Tử (551 479 TCN)
tưởng học của Khổng Tử chủ yếu thể hiện qua những lời bàn về nghệ
thuật, chính xác hơn: về vai trò, chức năng của nghệ thuật. Ông cho nghệ thuật
vai trò quan trọng trong việc nhận thức đời sống, biểu lộ tưởng, cảm xúc của con
người, khả năng tác động mạnh mẽ tới đời sống hội con người. Trong Luận
ngữ, ông viết: “Thi khả hứng, khả quan, khả quần, khả oán”. Về cái đẹp,
ông coi cái đẹp luôn bao hàm s đánh g về đạo đức, về bản chất. Trong cái đẹp,
ông đề cao cái “thiện” hơn cái “mĩ” (với ý nghĩa hình thức đẹp). Trong Luận ngữ
14 lần Khỏng Tử dùng chữ “mĩ” t tới 10 lần ý chỉ cái “thiện”.
- Mặc Tử (479 381 TCN)
Mặc Tử thừa nhận cái đẹp khả năng tác động vào con người
thông qua cảm xúc, đặc biệt qua nghệ thuật. Song với cách một đại diện
tưởng cho thợ thủ công, người nghèo, Mặc Tử coi cái đẹp thứ xa hoa, chỉ dành
cho những người giàu sang, không mang lại một chút lợi ích thực tiễn thiết thực
7
nào cho con nời, đặc biệt người nghèo. Do thế, ông cực lực phản đối sự trau dồi
nghệ thuật, đặc biệt âm nhạc múa.
“Nghệ thuật trò vui cho kẻ no nê. không nuôi kẻ đói lòng, không giúp
ấm cho kẻ trần truồng”
- Trang Tử (369 286 TCN)
Trang Tử coi cái đẹp thứ tồn tại trong t nhiên (“tự nhiên chi mĩ”),
nguồn gốc trời đất (kể c con người cũng một phần tử của tự nhiên). Cái đẹp
không giới hạn, lớn lao, đại như trời đất; cái không vụ lợi, tương đối, chủ
quan, không thể nhận thức được. Theo ông, con người càng gần gũi với tự nhiên bao
nhiêu t càng hạnh phúc bấy nhiêu.
- Lưu Hiệp (465 520)
Lưu Hiệp coi cái đẹp bản tính tự nhiên của hiện thực khách quan, cái
hài hoà, rực rỡ. Nghệ thuật, văn chương cái đẹp do con người làm ra, tinh tuý
của cuộc đời. Ông đòi hỏi tác phẩm văn học sự sâu sắc về nh cảm, tính trong
sáng, tính chân thực về tưởng cái đẹp hình thức.
tưởng học của Trung Quốc tiếp tục được phong phú các thời kì
sau.
* học mác t
Các nhà học mác xít tiếp tục phát triển các tưởng tiến bộ trong
học của nhân loại. Đến đây, học được xem môn khoa học nghiên cứu bao quát
các quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực nghiên cứu đặc biệt hình thái
mức độ cao của những quan hệ này, đó nghệ thuật.
3. Định nghĩa hc
học môn khoa học nghiên cứu toàn bộ những qui luật bản phổ
biến nhất của đời sống thẩm mĩ, bao gồm: khách thể thẩm mĩ, chủ thể thẩm
nghệ thuật, trong đó, cái đẹp phạm trù bản trung tâm, hình tượng tiếng
nói đặc trưng, nghệ thuật đỉnh cao của những thành tựu sáng tạo thẩm mĩ, tưởng
thẩm điểm tựa của sự sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật.
II. Quan hệ thẩm của nghệ thuật với hiện thực
1. Giải thích thuật ng quan hệ thẩm với hiện thực”
- Quan hệ thẩm với hiện thực quan hệ của con người với hiện thực
trong tất cả các hoạt động (thực tiễn, tinh thần) nhằm cải tạo thế giới xung quanh
mình theo qui luật của cái đẹp - qui luật của sự hài hoà, hoàn thiện, vươn tới cái
giá trị Chân Thiện cao nhất.
- Việc cải tạo, đồng hoá, “nhân hóa” (assimilation) thế giới xung quanh,
biến thành thế giới của mình, cho nh, để ngày càng hoàn thiện mình hơn chính
biểu hiện quan trọng nhất của bản chất người. Con người trông thấy mình qua cái
thế giới mà mình tạo nên. Trong lúc đồng a đối tượng về mặt thẩm mĩ, con người
cũng nhận thức về mình, tự ngắm mình qua đối tượng. Sự đồng hóa đối tượng mang
lại cho con người những khoái cảm tinh thần tận. Mác viết: “Súc vật chỉ sản xuất
dưới sự thống trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó thì con người sản xuất
ngay cả khi thoát khỏi nhu cầu đó, chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó t mới sản xuất
theo ý nghĩa chân chính của từ đó (...) Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo
8
nhu cầu của giống loài nó, còn con người thì thể sản xuất theo thước đo của
bất cứ giống loài nào đâu cũng thể áp dụng thước đo cho đối tượng; do đó
con người cũng nhào nặn vật chất theo các qui tắc của cái đẹp” (Bản thảo kinh tế
triết học 1844).
+ Trong hoạt động thực tiễn, con người đồng hoá thế giới để tạo ra các sản
phẩm, vật phẩm không những thoả mãn nhu cầu thực dụng còn thoả mãn nhu
cầu tinh thần (nhu cầu thẩm mĩ) của con người. Qui luật của cái đẹp kết tinh ngày
một cao trong sản phẩm điều này tỉ lệ thuận với trình độ nhận thức (trong đó
nhận thức thẩm mĩ) của con người. thể tìm thấy điều này ngay trong các vật
phẩm người ta dùng hàng ngày như cái bát, cái đĩa, cái lọ hoa, cái đèn, ngôi nhà,...
+ Trong lĩnh vực đồng h thế giới về mặt tinh thần, đặc biệt trong nghệ
thuật, con người không chỉ phản ánh, sáng tạo cái đẹp còn sáng tạo ra các phẩm
chất thẩm phong phú khác n cái bi, cái hùng, cái hài, cái xấu (với những sắc
thái biểu hiện khác nhau). Nghệ thuật khuyên người ta cái nên theo, nên tránh; bồi
đắp kinh nghiệm sống, năng lực nhận thức; nâng cao trình đ thị hiếu thẩm mĩ;
tạo ra cái để mua vui; giúp con người giao tiếp rộng rãi;... để họ sống ngày một tốt
đẹp, hoàn thiện hơn. Sự đa dạng của các loại hình, loại thể nghệ thuật biểu hiện
trình độ cao của các mối quan h thẩm của con người với hiện thực nhằm đáp
ứng nhu cầu thẩm ngày càng đa dạng của con người.
thể nhận thấy, các quan hệ thẩm của con người với hiện thực rất
đa dạng, phong p và nghệ thuật chính hình thái cao nhất của quan hệ thẩm
của con người với hiện thực. Bản chất của nghệ thuật bộc lộ chỗ nhận thức
tác động tới đời sống bằng thẩm nhằm biến đổi, cải tạo đời sống cho phù hợp với
những mục tiêu, những tưởng hội thẩm nhất định, nhân bản hơn, cho
phù hợp với những ước khát vọng chính đáng của con người.
2. Bản chất của sự khai thác thẩm
a. Mặt khách quan của sự khai thác thẩm
- học mác xít khẳng định: sự nhìn nhận, đánh giá của chủ thể đối với
đối tượng trước hết phải dựa trên những đặc tính thẩm khách quan của đối tượng
đó, tức thừa nhận vấn đề “tố chất thẩm mĩ”. T chất thẩm thể hiện chỗ bản
thân đối tượng thẩm với những đặc tính về kết cấu, hình dáng, màu sắc, sự cân
xứng, hài hòa… thể đ xuất chủ thể một sự đánh g thẩm tương ứng như
thế này hay khác. Chẳng hạn như khi ta nói một viên ngọc đẹp thì do “bản thân
đẹp”, tức bản thân một sự đối xứng, tỉ lệ, u sắc, sự hài hoà,... th gợi ra
cho chủ thể một sự đánh giá thẩm tích cực. Vấn đề cái bi, cái hùng, cái hài, cái
xấu cũng cần được nhìn nhận n thế. Khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của yếu
tố ch quan trong đánh g thẩm thế tất sẽ dẫn tới những ngộ nhận, sai lầm.
- Trong đời sống khách thể, đối tượng chủ yếu chỉ mang một phẩm chất
thẩm mĩ, đối tượng lại phức tạp đa dạng hơn nhiều, các sắc thái thẩm
thể rất khác nhau. Do vậy, khi đồng hoá, cải tạo hiện thực (cả trong vật chất lẫn tinh
thần), chủ thể phải tôn trọng các đặc tính, qui luật khách quan của đối tượng để
phương pháp, cách thức nhận thức, tác động thích hợp (Nhiều loại cây tưới nước
nhiều sẽ chết!). Cần lưu ý rằng, trong nghệ thuật, sáng tạo không có nghĩa “thuần
9
tuý chủ quan”, còn phải biết chấp nhận sự phán xét (chân chính) từ nhiều phía,
kể cả từ bản thân đối tượng. thể tìm thấy trong thực tiễn nghệ thuật “sự ương
bướng của chất liệu” trong kiểu “nhân vật nổi loạn” các tác phẩm văn chương hiện
thực xuất sắc như Tachyana trong Epnheghi Ônhegin (1823 1831) của Puskin,
Anna Karenina trong Phục sinh (1874 1877) của L. Tônxtoi,... đây, s phát hiện
liên tục những vấn đề tính chân buộc nhà văn phải điều chỉnh những dự đồ
trước đó của mình.
b. Mặt chủ quan của sự khai thác thẩm
- Nhìn từ phương diện này, thể thấy, chỉ trong quan hệ thẩm của con
người với hiện thực, trong sự nhận thức, cải tạo, tác động của chủ thể t các đặc
tính, phẩm chất thẩm (khách quan, tiềm ẩn) của đối tượng mới được làm “sống
dậy”. Nói khác đi, trong cải tạo, đồng hoá hiện thực luôn vấn đề định lượng, định
tính của chủ thể, tức nghĩa luôn s tham dự, sự can thiệp mang tính tất yếu của
cái chủ quan. Đối tượng sẽ chỉ tồn tại dạng “chất liệu” nếu không được khám
phá bới một chủ thể nào đó
thể nói, quan hệ thẩm với hiện thực luôn phải được nhìn nhận trong
tương quan khách quan chủ quan. Mọi sản phẩm mang tính người đều s tương
tác thống nhất giữa cái khách quan cái chủ quan. Hiểu trong nghĩa rộng thì
nghệ thuật hình ảnh chủ quan (sáng tạo, chứ không phải sao chép) về thế giới
khách quan.
- Vấn đề chủ quan trong sự khai thác thẩm thể hiện rất chỗ, trên cùng
một chất liệu (một đối tượng), song do quan niệm, cách nhìn, cách tiếp cận, mục tiêu
tiếp cận, hoàn cảnh,... khác nhau người ta những kết quả, kết luận không
giống nhau. Quan niệm thẩm còn cái còn mang tính vùng miền, giai cấp, dân
tộc, thời đại nét. thể lấy nhiều thí dụ về vấn đề này qua phép đối sánh, chẳng
hạn như: hình tượng Tấm trong truyện dân gian so với hình tượng Thuý Kiều
trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du; hình tượng người cùng đinh, người đi
trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố so với trong các bài thơ của Tố Hữu; hình tượng
người nông dân trong văn chương Ngô Tất Tố so với trong văn chương Nam Cao,
Nguyễn ng Hoan; hình tượng người nữ trong Lời nữ của Xuân Diệu so với
trong gái sông Hương của Tố Hữu; vấn đề cái đói, miếng ăn trong tác phẩm của
Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Bằng...
Điều cần lưu ý là, trong hoạt động thực tiễn, cần tôn trọng các qui luật khách
quan của đời sống, tránh tưởng chủ quan cực đoan (duy ý chí). Trong sáng tạo
nghệ thuật, cái chủ quan trong ngh thuật phải cái chủ quan tích cực, lành mạnh,
giá trị nhân đạo cao, luôn mở rộng cửa đ đón nhận hiện thực ùa vào. thể
kiểm chứng điều này qua thực tiễn sáng tác của Satôbriăng, Huygô, Bandăc; của
Khái Hưng, Thạch Lam, Nam Cao;...
3. Những đặc tính chung của sự khai thác thẩm trong nghệ thuật
a. Tính chất cảm nh
- Tính chất cảm tính của sự khai thác thẩm thể hiện chỗ tạo ra những
sản phẩm bằng giác quan, con người thể cảm nhận, thưởng thức được (màu
sắc, hình dáng, thanh âm, kích thước, hành động,...). Hêghen cho “nghệ thuật sự
10
nhận thức chân đời sống qua hình thức cụ thể, cảm tính”. Con người hai giác
quan quan trọng nhất trong thưởng thức nghệ thuật, đó thị giác thính giác.
Người ta thưởng thức nghệ thuật tạo hình chủ yếu bằng thị giác xúc giác, thưởng
thức âm nhạc chủ yếu bằng thính giác. Văn chương loại hình nghệ thuật khả
năng khơi gợi, tác động tới nhiều giác quan nhất của bạn đọc song phải thông qua
kênh tưởng tượng (cùng với việc nắm được các mẹo luật ngôn từ và một vốn
sống nhất định).
- Sự c động của hình tượng nghệ thuật tới người tiếp nhận thể trực tiếp
hoặc gián tiếp, thể vào một hay nhiều giác quan. Tính chất cảm tính của hình
tượng còn phụ thuộc vào tính đặc t của chất liệu loại hình nghệ thuật đó sử
dụng, vào tài nghệ của nhà văn trong việc phát huy khả năng nghệ thuật năng lực
“khắc phục” những “hạn chế” này hay khác của chất liệu.
b. Tính chất dạt dào cảm c
- Tình cảm hình thức tồn tại cùng quan trọng của quan hệ con người đối
với hiện thực. Lênin cho rằng: “Thiếu tình cảm của con người thì không bao giờ
cũng sẽ không thể những tìm tòi của con người về chân lí”. Khi đồng h hiện
thực về mặt thẩm mĩ, đặc biệt là đồng hoá bằng nghệ thuật, chủ thể không thể k
bàng quan, lãnh đạm, luôn bộc lộ một tình cảm, thái độ mãnh liệt. Hình tượng
trong nghệ thuật chỉ sức mạnh khi được thể hiện, giải, miêu tả đời sống bằng
nhiệt hứng sáng tạo của n văn. Cần lưu ý rằng, tình cảm trong trong duy nghệ
thuật tình cảm hội đã được ý thức. Đó niềm say khẳng định tưởng,
chân lí, phủ định sự giả dối, c hiện tượng xấu xa, tiêu cực. Đó niềm vui sướng,
sự biết ơn, tin ởng, yêu thương, đau xót, thương tiếc, sự căm thù, phẫn nộ, mỉa
mai... Sức mạnh tâm hồn tác động to lớn tới sự lay động tâm hồn. V.G. Bêlinxki
coi cảm hứng điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những TP đích thực. Ông
cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật s chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả,
nếu không sự ti thúc chủ quan mạnh mẽ nào đó bắt nguồn trong tưởng
bao trùm thời đại, nếu không tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu
không đặt ra câu hỏi trả lời cho những câu hỏi đó”.
- Khi tiếp nhận, thưởng thức nghệ thuật (đặc biệt khi thưởng thức các tác
phẩm chân chính), công chúng luôn bị lây lan một tình cảm tương tự như tác giả. Đó
chính sức mạnh của sự truyền cảm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật thể làm
dấy lên trong ta những tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, khiến ta thể vui, buồn, tràn
ngập niềm tin hay sự căm ghét. Nghệ thuật lay động sâu xa tâm hồn con người. Đến
với nghệ thuật, con người được bồi đắp rất nhiều về tình cảm, tâm hồn, không chỉ
xúc động v “những điều trông thấy” còn cả s “đau đớn lòng” của nghệ sĩ.
Nghệ thuật chính vấn đề tình cảm, tâm hồn của con người vươn tới cái cao đẹp.
c. Tính chất hội
- Mỗi sản phẩm được con người làm ra đều phục vụ cho nhu cầu chính đáng
thoả mãn nhu cầu vật chất tinh thần cho con người. Các sản phẩm này, đặc biệt
tác phẩm nghệ thuật sẽ càng ý nghĩa hội cao khi phù hợp, thoả mãn nhu cầu
của nhiều người, thể hiện được “cái mọi người cùng quan tâm” trong đời sống.
11
- Sản phẩm mang tính hội cao nhất, kết tinh của quan hệ thẩm của con
người với hiện thực nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật thoả mãn đồng thời nhiều
nhu cầu mang bản chất hội sâu sắc và chính đáng của con người: nhận thức, dự
cảm dự báo, thẩm mĩ, giải trí, giao tiếp, giáo dục... Nghệ thuật hình thái ý thức
khả năng nhiệm vụ chuẩn bị một cách toàn diện nhất để con người sống tốt
đẹp hơn trong tương lai.
d. Tính chất tinh thần
- Quan hệ thẩm của con người với hiện thực, trong trường hợp hướng
tới các giá trị thực tiễn, thực dụng nhất vẫn hàm chứa những giá trị tinh thần mang
bản chất người sâu xa. Đó chính s cải tạo đời sống theo các qui luật của cái đẹp.
Kết tinh cao nhất của q trình “tự nhân đôi mình lên” của con người chính sự
sáng tạo nghệ thuật. Nhằm thoả mãn nhu cầu thẩm cho con người, nghệ thuật
sáng tạo ra các tác phẩm dưới các hình thức hình tượng: những bức tranh” về đời
sống con người. Nghệ thuật hình bóng của cuộc đời chứ không phải bản thân cuộc
đời. Nói khác đi, đó một “tồn tại khác”, một thứ “khách thể tinh thần” đặc thù
được con người sáng tạo ra để làm giàu thêm đời sống của mình, để thoả mãn nhu
cầu đa dạng về mặt tinh thần cho con người.
- Tính chất tinh thần của nghệ thuật còn thể hiện chỗ mang lại những giá
trị tinh thần, tôn vinh những cao quí trong đời sống tâm linh, tâm hồn con người,
chẳng hạn như các tưởng tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục...
e. Tính chất sáng tạo
- Nếu không sự can thiệp của con người vào hiện thực thì không sáng
tạo. Cái càng gần với tự nhiên hơn t càng ít sáng tạo hơn. Bản chất của quan hệ
thẩm sự sáng tạo. Kết quả là, nó tạo ra những sản phẩm, tác phẩm kết tinh bản
chất người, thoả mãn ngày một tốt hơn khát vọng song phương chân chính của con
người: sống sướng hơn sống tốt hơn.
- Trong quan hệ thẩm mĩ, nghệ thuật hình thái thể hiện bản chất sáng tạo
nhiều nhất. Nghệ thuật không chấp nhận sự lặp lại. rốt o đòi hỏi sự tìm tòi sáng
tạo của nghệ . Sự sáng tạo trong nghệ thuật một đòi hỏi tận. diễn ra mọi
loại hình, loại thể, mọi cấp độ tinh vi của tác phẩm. Đó sự sáng tạo lâu bền của
lịch sử nghệ thuật, sự sáng tạo nhọc nhằn từng cá nhân nghệ sĩ. Sự sáng tạo
trong nghệ thuật còn thể hiện ngay trong sự tiếp nhận “sáng tạo” của công chúng.
12
CHƯƠNG 2
KHÁCH THỂ THẨM
* Phương diện t ngữ:
- Khách thể: Đối tượng nhận thức tác động của chủ thể (Khách thể
những sự vật, hiện tượng cùng vô tận trong thế giới khách quan; con người này
trong quan hệ với những con người khác; khách thể thể mang tính vật chất hoặc
tinh thần).
- Khách thể thẩm : Thế giới sự vật, hiện tượng trong đời sống khách
quan mang những phẩm chất thẩm này hay khác. Trong nghệ thuật, hình tượng
được xem là một “khách thể tinh thần” đặc thù. một “tồn tại khác” so với thế
giới hiện thực. Thế giới khách thể thẩm rất đa dạng: mặt hồ đẹp, dãy núi hùng vĩ,
trận Điện Biên Phủ trên không chấn động địa cầu, cảnh hoàng hôn tráng lệ, một gia
đình bi kịch, cách hành xử kệch cỡm, con người tàn ác...
I. Cái bi kịch
1. Phương diện từ ng
- “Bi”: tính chất đau thương, gây thương cảm cho người khác.
- “Kịch”: Thể loại sân khấu phản ánh xung đột trong đời sống hội bằng
hành động đối thoại của các nhân vật.
Trong nghĩa thông thường, “bi kịch” cảnh éo le, bi đát, tang thương. Trong
nghiên cứu nghệ thuật, bi kịch” được hiểu thể loại kịch lấy sự thương đau của
con người làm đ tài phản ánh, thường kết thúc bằng chết chóc đau thương của nhân
vật tốt.
2. Khái niệm về cái bi kịch
Cái bi kịch gắn liền với quan niệm v một cuộc đấu tranh căng thẳng đầy
gian nguy những mục đích chân chính dẫn tới kết quả con người tiến hành
cuộc đấu tranh đó phải chết hoặc thất bại.
Cái bi kịch thích ứng với những mâu thuẫn xung đột gay gắt, quằn quại
trong đời sống hội nhân, một phần lớn, trong những hoàn cảnh nhất định,
tỏ ra không giải quyết được. Theo Ph. Ăngghen, cái bi kịch biểu hiện sự mâu thuẫn
“giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử tình trạng không thể thực hiện được trong
thực tiễn”.
3. Phân loại bi kịch
- Bi kịch lịch sử những câu chuyện oai
ng nhưng đau buồn về những con người, những nhân vật giữ các vị trí quan trọng
đối với cộng đồng, dân tộc, đất nước. Họ đều những người tưởng sống cao
đẹp, mục đích và con đường đấu tranh chân chính, đức độ, tài năng, nước,
dân, nhưng vẫn còn những nhược điểm nào đó nên phải chết, hoặc thất bại khi sự
nghiệp còn dở dang. VD: An Dương Vương, Hàm Nghi, Duy Tân, Đề Thám, Trần
Phú, Hồng Phong, Hoàng Văn Thụ,...
- Bi kịch của con người đời tờng là những câu chuyện bi đát, bi thảm, bi
thương của những con người, những nhân vật bình thường trong đời sống hàng ngày
những người tốt, hoặc có động sống tử tế. VD: Các nhân vật chính trong Sự
13
tích hòn vọng phu, Người con gái Nam Xương, Chí Phèo, Lão Hạc, Sống n... (Bi
kịch trong nghệ thuật sự phản ánh cái bi kịch trong đời sống).
4. Đặc trưng thẩm bản của i bi kịch
Bi kịch một hiện tượng quan trọng của hội nhưng phải thông qua
nhân, thông qua tính cách, số phận của những con người cụ thể. Do vậy, nói đến bi
kịch ta nói đến nhân vật bi kịch. Các đặc trưng thẩm của CBK được thể hiện
mức độ cao qua các bi kịch lịch sử, , mức đ thấp hơn, các bi kịch đời thường.
- Nhân vật bi kịch con người ưu trong loại của mình, thuộc một thời đại
nhất định nhưng vẫn còn những hạn chế quan trọng (có thể mang nh nhân
hoặc thời đại).
VD: An Dương Vương, Hămlét, Ôtenlô, các nhà lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trước 1945...
- Nhân vật bi kịch người nhạy bén với cái mới, khao khát cái mới tốt đẹp,
thậm chí còn đại diện cho cái mới, sẵn sàng chiến đấu hi sinh cái mới đó. Tuy
nhiên, nhân vật bi kịch lại người xuất hiện hơi sớm trong lịch s khi cái còn
quá mạnh, cái mới còn yếu, còn nhỏ lẻ hay giai đoạn mầm mống.
VD: Các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam trước 1945, ông Kim Ngọc,
mlét...
- Hành động của nhân vật bi kịch bao giờ cũng diễn ra trong sự ng thẳng
đầy gian nguy về vật chất hay tinh thần. Trong điều kiện đó, nhân vật bi kịch đã nỗ
lực với một “mĩ chất” đặc biệt nhưng vẫn hoàn toàn chưa đủ đ chiến thắng cái cũ.
VD: “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu/Dấn thân phải chịu đày/Là
gươm kề tận cổ, súng kề tai...” (Thơ Tố Hữu viết về những người cộng sản); Lão
Hạc, Ơđíp, Hămlét, Ôtenlô, Mêlêkhốp;...
- Sự thất bại của nhân vật bi kịch vừa mang tính tất yếu lịch sử, vừa mang tính
ngẫu nhiên trong sai lầm của nhân.
VD: Các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam trước 1945, Lão Hạc, Ôtenlô,
mlét....
- Bi kịch luôn gợi cho công chúng những cảm xúc phong phú: sự cảm thông
thương xót sự nghiệp dở dang, niềm tin, hi vọng vào sự chiến thắng hoặc đạt
được nguyện vọng trong tương lai. Arítxtốt cho rằng: “bi kịch làm trong sạch hoá
những cảm xúc tương tự qua cách khêu gợi xót thương khủng khiếp”. Tấm
gương của nhân vật bi kịch bài học đường đời giúp con người khắc phục nhược
điểm bản thân khích l con người đấu tranh cho những lí tưởng, mục đích cao
đẹp.
Nhân vật bi kịch bao giờ cũng được người đời khẳng định sự chính đáng
về mặt lịch sử.
5. Cái bi kịch với những sắc thái khác nhau trong những trạng huống khác nhau
- Bi kịch của những nhân vật chết trong đêm trường đen tối
+ Đây là dạng thức bi kịch lịch sử điển hình bi kịch của cái mới, cái tiến bộ,
cái cách mạng nhưng còn trong thế yếu, một hoàn cảnh đã nảy sinh nhu cầu tất
yếu thay đổi lịch sử hiện hành nhưng điều kiện để thực hiện lại chưa chín muồi.
14
+ Nhân vật bi kịch trong đây không đại diện cho nhân, cho một bộ phận
người nhỏ bé, đại diện cho giai cấp, dân tộc, cộng đồng, cho những trào lưu ý
nghĩa hội rộng lớn. Do vậy, cái chết của họ cái chết đại, tác dụng thúc
đẩy mọi người lao vào cuộc đấu tranh cho lẽ phải, cho sự công bằng tiến bộ
hội.
VD: Nghĩa quân Yên Thế Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân Bãi Sậy Đinh
Công Tráng, Phạm Hồng Thái, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Tự
Trọng,
- Bi kịch của các nhân vật chết trước bình minh
+ Đây cũng một dạng thức bi kịch lịch sử - bi kịch của cái mới, cái tiến bộ,
cách mạng đã thể thắng toàn cục, nhưng một bộ phận nào đó lâm vào hoàn cảnh
lâm nguy người anh hùng bị tiêu vong.
+ Sự hi sinh của nhân vật bi kịch trong đây sự hi sinh một thời điểm quan
trọng trước ngưỡng cửa chiến thắng. Sự hi sinh đó ý nghĩa làm bật tung cánh
cửa, đưa mọi người tràn ra ánh sáng từ bóng tối. Bi kịch này khi còn được gọi
bi hùng kịch.
VD: Môrôdôca, Mêtêlitxa,… các anh hùng trong Chiến bại (1927),
Kôsevôi, Tulenin, Đemnukhôp,… trong Đội cận vệ thanh niên (1943) của Phađeep;
Hùng Rin trong Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn, chị Thị Sáu trong bài hát
Mùa hoa lêkima nở;…
- Bi kịch của cái những chưa hẳn
+ Điều kiện của bi kịch này cái chưa trở thành cái phản động ít nhiều
vẫn còn mang sứ mệnh lịch sử. Bản thân cái còn tin vào tính chất hợp của .
+ Bi kịch này chủ yếu không phải do xung đột giữa cái cái mới sinh ra,
bi kịch của những người chưa nhận ra được tính tất yếu của quá trình đang
chết dần của cái nên vẫn ra sức bảo vệ nên không tránh khỏi sự thất bại, tiêu
vong.
VD: Vua Hàm Nghi (1884 lên ngôi, 1885 khởi nghĩa, 1888 bị bắt, 1943 chết);
vua Duy Tân (1907 lên ngôi, 1916 bị bắt, 1945 chết, 1987 di hài được đưa v Huế);
- Bi kịch của sự lầm lẫn, kém hiểu biết hoặc ngu dốt
+ Về cơ bản, nhân vật bi kịch trong đây đều là những người tốt, nhân cách
hoặc động sống tử tế. Bi kịch của sự lầm lẫn được nêu ra như một bài học
xương máu nhắc nhở con người. VD: An Dương Vương: mất cảnh giác, q tin kẻ
địch, lẫm lẫn chuyện gia đình chuyện quốc gia nên mất Loa Thành, phải giết con
gái tự vẫn; bi kịch trong Sự tích Trầu Cau, Hòn vọng phu; Ơđip không đủ kh
năng phân biệt được những cái phức tạp, ghê gớm của cuộc đời; Ôtenlô quá tin kẻ
địch nên đã giết chết người yêu quí của mình;…
+ Trong đời sống, sự kém hiểu biết, ngu dốt của con người cũng thể gây ra
những bi kịch. Bi kịch này không do lực lượng xã hội nào gây nên, thường do
nhân tự chuốc lấy, mắc phải do chưa biết được giới hạn của mình.
VD: Tai hoạ do điện giật, sấm sét đánh, do sóng thần, thiên tai, t những cuộc
thám hiểm,…
15
người.
+ Dạng bi kịch này thể hiện những đau khổ, dằn vặt của nhân song lại
chạm đến lẽ sống, tình yêu, bổn phận của con người nên thường day dứt lòng
- Bi kịch của những khát vọng của con người trong những điều kiện ngặt
nghèo không thể thực hiện được
+ Nhân vật bi kịch trong đây không phải là người anh hùng xuất chúng song
những người phẩm chất, đáng yêu, đáng trọng. Do vậy, bi kịch của họ ý
nghĩa tố cáo găy gắt những thế lực xấu xa bản chất đen tối của hội.
VD: Thị Kính, Thuý Kiều, o Hạc, Chí Phèo, San, Thứ, Hộ, Matxlova, Anna
Kerenina,
thể nói, các trạng huống khác nhau, các dạng thức của cái bi kịch rất đa
dạng, thể hiện sự phức tạp của chính cuộc đời. Song trạng thái nào thì tình
huống của cái bi kịch cũng thuộc v những vấn đ ý nghĩa hội rộng lớn, ảnh
hưởng đến lẽ sống, tình yêu và thân phận của con người. Xung đột giữa cái cách
mạng cái phản động trong đây phải được xem trung tâm của cái bi kịch thời
đại.
6. Bi kịch trong các loại hình nghệ thuật
Cái bi kịch trong nghệ thuật sự phản ánh, khám phá, sáng tạo cái bi kịch
trong đời sống. Mức độ khai thác cái bi kịch trong mỗi loại hình nghệ thuật phụ
thuộc vào tính đặc thù của chất liệu loại hình nghệ thuật đó sử dụng, vào thời đại
lịch sử hội với những câu chuyện tâm thức riêng và phụ thuộc đặc biệt vào tài
năng của mỗi nhân nghệ sĩ.
VD:
- Trong điêu khắc, hội hoạ: Các tranh Chúa chịu nạn, Người khổng lồ b trói
(Mikenlanggiolo, Trục xuất Ađam Eva ra khỏi vườn đại đàng (Macsacio), Người
suy (Rođanh), Marat (Đavit), Những người kéo thuyền trên sông Vônga (Rêpin),
- Trong âm nhạc: Sônat ánh trăng (Bithoven), Hồn tử (Lưu Hữu Phước),
Trầu Cau (Phan Huỳnh Điểu), Trương Chi, Buồn tàn thu (Văn Cao),
- Trong văn chương, sân khấu, phim nghệ thuật: Quan Âm Thị Kính, Ngêu
Ốc Hến, Hồn Trương Ba - da hàng thịt, Prômete bị xiềng, Ơđip vua, Ăngtigôn,
Hămlét, Rômêo Giuliet, Xit, Chí Phèo, Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn, Thời xa
vắng,…
thể i, với những ưu thế đặc biệt của chất liệu văn chương, sân khấu
phim nghệ thuật nhiều tiềm năng n cả trong việc thể hiện những uẩn khúc,
trạng thái phức tạp của bi kịch con người.
Câu hỏi ôn tập:
1. Khái niệm về cái bi kịch? Các đặc trưng thẩm bản của cái bi kịch?
Các dạng thức bản của cái bi kịch?
2. Phân ch các đặc trưng thẩm của cái bi kịch được thể hiện cụ thể qua
các hình tượng nhân vật:
- Hămlét, Ôtenlô trong các kịch bản của Sêcxpia;
- Chí Phèo, lão Hạc, Hộ, Điền trong các truyện ngắn của Nam Cao.
16
II. Cái hùng (cái hùng vĩ)
1. Phương diện từ ng
Theo nghĩa thông thường, “hùng vĩ” tức “mạnh mẽ”, “lớn lao”. Theo nghĩa
Hán Việt, “hùng vĩ” tức “mạnh mẽ”, “lớn lao”. Thuật ngữ “sublime” trong tiếng
Pháp từ lâu đã được dịch sang tiếng Việt với nhiều ý nghĩa khác nhau. người gọi
“cái cao thượng”, “cái đại”, “cái cao cả”; người gọi cái “trác tuyệt”, “trác
việt” (xem GS. Hoàng Xuân Nhị trong bản dịch Những phạm t học bản của
Bôrep, TS. Đỗ Văn Khang trong học đại cương, học Mác nin). Trong
khi đó, yêu cầu đặt ra đối với các thuật ngữ học chúng phải thể hiện được các
đặc tính thẩm của sự vật, hiện tượng cả về mặt tự nhiên hội, cả v vật chất
lẫn tinh thần. Do vậy, những cách diễn đạt trên vẫn chưa thoả mãn yêu cầu đó (thuật
ngữ cái cao cả, cao thượng nghiêng v phạm trù đạo đức; cái to lớn, đại thiên về
định lượng vật chất; cái trác tuyệt, trác việt lại nghiêng về mặt tinh thần ). Một phạm
trù học khả năng nhiều hơn trong vệc thoả mãn yêu cầu trên chỉ thể là cái
hùng (hay cái hùng ).
2. Định nghĩa về cái hùng
Cái hùng là môt phạm t học dùng để chỉ thực tại thẩm mĩ, bao quát
các hiện tượng tự nhiên và hội sức mạnh vượt trội, lớn lao cả về vật chất lẫn
tinh thần, khả năng tác động mạnh mẽ theo các chiều hướng khác nhau tới đời
sống vật chất tinh thần của con người.
Phạm t cái hùng chưa được nghiên cứu tho đáng, triệt để trong học.
Xung quanh vấn đề này còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí cả sự đối
lập chồng chéo. Các định nghĩa được nêu ra trong các giáo trình, từ điển chưa
làm thoả mãn giới nghiên cứu. Sécnưsepxki cho rằng: “Cái hùng cái lớn hơn,
mạnh hơn rất nhiều lần những hiện tượng khác chúng ta đem so sánh”. Tuy
nhiên, định nghĩa này cũng không tránh khỏi sa vào định lượng. Để hiểu về phạm
trù học này, chỉ thể phân tích các đặc trưng thẩm của nó.
3. Các đặc trưng thẩm của cái hùng
- Cái hùng chỉ một thực thể lớn hơn, mạnh hơn gấp nhiều lần những thực
thể xung quanh khi ta đem so sánh (về qui mô, kích thước, tầm vóc, cả trong vật
chất lẫn tinh thần).
VD: + Dãy Tam Đảo, dãy Ba Vì, dãy Himalaya, Chômôlungma cao hơn 8000
m...
+ Danh tướng Trần Hưng Đạo với tài năng, phẩm chất siêu việt công
lao to lớn với tổ quốc, với nhân dân. Trần Hưng Đạo (1228 1300) danh nhân
kiệt xuất của dân tộc, danh nhân quân sự c kim thế giới. Ông con trai Trần Liễu
(anh ruột Trần Cảnh Trần Thái Tông). Thái Tông lấy Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh)
12 năm (19 tuổi) vẫn chưa con. Thủ Độ bắt Thái Tông bỏ Chiêu Thánh, giáng
xuống làm ng chúa, đem Thuận Thiên (vợ Trần Liễu đã thai) vào làm hoàng
hậu. Trần Liễu làm loạn, Thái Tông bỏ lên Yên Tử. Độ gọi về. Hai anh em khóc. Độ
nói: Ta chỉ con chó săn thôi. Chưa biết anh em bay ai thuận ai nghịch. Độ tha cho
Liễu, cắt đất cho. Trần Quốc Tuấn được nuôi dạy văn t nhỏ. Liễu muốn con báo
thù. Trần Quốc Tuấn học giỏi, xuất chúng, luôn đặt lợi ích đất nước lên trên thù nhà,
17
vun trồng khối đoàn kết trong họ Trần, tạo sức mạnh cho thế nước. Ông là Tiết chế
trong ba lần đánh quân Nguyên. Ông viết Binh thư yếu lược, Hịch tướng ...
người thương n, yêu quân; nhân nghĩa, lễ, trí dũng đủ cả. Khi mất, ông yêu cầu
hoả táng, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây n cũ... Trần Quốc Tuấn
bậc Đại Nhân, Đại Trí, Đại Dũng bậc đại anh hùng trong thiên hạ.
+ Thánh Gióng: Tài năng, sức mạnh địch; phẩm chất cao đẹp (lập công
xong không đòi hỏi trả công: chức tước, bổng lộc... Ông tr lại tất cả những của
cõi trần đ bay về trời.
- Cái hùng cái mang tính tận tính tuyệt đối về sức mạnh ẩn chứa
bên trong.
+ Sức mạnh vật chất. VD: biển cả khi sóng gió, núi lửa phun nham thạch
(khác bình thường). VD: Thánh Gióng sức mạnh n bão của lòng yêu nước.
Sức mạnh ấy thể nhấn chìm tất cả bè cướp nước...
+ Sức mạnh tinh thần. VD: Hình tượng Lêvinxon trong Chiến bại (1927) của
Phadeev.
- Trước hiện tượng được gọi cái hùng vĩ, con người thường thái độ thẩm
đặc trưng. Về bản, đó thái độ tích cực biểu hiện sự thán phục, tự hào
(giống nòi, lứa tuổi, thế hệ...) trước thế, hành động chiến công của người anh
hùng. Tuy nhiên, đó còn thể thái độ, cảm xúc tiêu cực n cảm thấy nhỏ bé,
yếu ớt trước cái hùng vĩ của t nhiên (sóng cả, sẫm sét, sóng thần, động đất...).
4. Cái hùng trong nghệ thuật
- Bởi sử dụng các chất liệu đặc thù nên các loại hình nghệ thuật khác nhau
khả năng thể hiện cái hùng những chiều sâu khác nhau. i hùng trong nghệ
thuật s thể hiện sáng tạo cái hùng trong đời sống luôn có xu hướng hướng
con người vươn tới sự đồng vọng với cái đại.
- Cái hùng trong văn học được thể hiện sinh động trong tất cả các loại hình,
loại thể, đặc biệt trong loại hình tác phẩm sử thi (anh hùng ca) truyện. VD: Iliát,
Ôđixê, Đam San..., các anh hùng trong Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ Hử, Thạch Sanh,
Lục Vân Tiên, Đất nước đứng lên, Rừng nu, Người mẹ cầm súng, Sống như Anh...
khác:
- Cái hùng cũng được thể hiện sinh động trong các loại hình nghệ thut
+ Điêu khắc: tượng Bà mẹ (Nga), tượng Trần Hưng Đạo (ở Nam Định, cao
16,7 m) tượng Nguyễn Huệ Bình Định cao 21,6 m...
+ Hội hoạ: Những người Côdắc Rapôrôgiơ (Rêpin), Thần Tự do trên chiến
luỹ (Đờlacaroa)...
+ Nhạc: Bản giao hưởng anh hùng của Betthôven, Trường ca sông của
Văn Cao, Du kích Sông Thao của Đỗ Nhuận...
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm cái hùng vĩ? Nêu các đặc trưng bản của cái hùng ?
2. Phân tích các đặc trưng bản của cái hùng được thể hiện cụ thể qua
hình tượng Thánh Gióng trong truyện dân gian Thánh Gióng?
18
III. Cái đẹp
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ
- Theo tiếng Hán, đẹp tức “mĩ”:
+ Những khoái cảm của giác quan (mĩ mãn).
+ Sự phán đoán luân lí (thiện).
+ Đặc điểm của đối tượng thẩm (cái làm ta thích thú).
- Cần phân biệt cái đẹp vẻ đẹp: “cái đẹp” phạm trù đẹp nội dung, bản
chất, còn “vẻ đẹp” phạm trù chủ yếu nhấn mạnh vào cái có hình thức đẹp.
2. Định nghĩa cái đẹp
Cái đẹp được xem phạm trù bản trung tâm của học ng để chỉ
thực tại thẩm mĩ, phạm trù xác định, đánh giá các hiện tượng theo quan điểm về
sự hoàn thiện, xem các hiện tượng đó như giá trị cao nhất, tích cực nhất về mặt
thẩm mĩ.
3. Bản chất của cái đẹp
- Cái đẹp cái sự hài hoà hai hay nhiều sự vật, hay nhiều mặt hỗ trợ
nhau, bổ sung nhau, nương tựa nhau.
VD:
+ Một viên ngọc: kích cỡ, đường nét, màu sắc, tỉ lệ độ mài...
+ Một bông hoa: màu sắc hình dáng, hương thơm...
+ Một cảnh vật: mây cho gió lên trời
chưng gió thổi hoa cười với trăng
+ Một con người đẹp: tài năng, phẩm chất => cao quý.
- Cái đẹp cái hài hoà trình độ cao nhất
VD: Một viên ngọc phải được mài dũa đến một mức độ nhất định nào đó thì
mới được coi đẹp (không thể kém, không thể hơn phải đến “độ”). Một cái cây,
một con vật, một con người được coi đẹp cũng lúc giai đoạn đỉnh cao của
sức sống, của tuổi thanh xuân, s trẻ trung, cân đối, sức mạnh năng lực...
- Cái đẹp là cái hài hoà mức tổng hợp được nhiều mặt nhất
VD: + Tỉ lệ, đường nét, màu sắc ch cỡ, hình ng, độ nhẵn... của một viên
ngọc.
+ Sự tổng hợp nhiều phẩm chất giai đoạn đỉnh cao và rực rỡ nhiều mặt
của con người.
- Cái đẹp cái mang tính tích cực nhất
Đó s tác động cảm tích cực mang lại niềm vui sướng, sự thích thú,
thoải mái cho con người khi thưởng thức (như khi ngắm nhìn, tiếp xúc một viên
ngọc, một bông hoa, một con vật, một nhân nào đó...). Cái đẹp trong nghệ thuật
sự thống nhất hài hoà cao độ giữa nội dung hình thức mang lại cho con người
những lợi ích tinh thần to lớn, tích cực: nhận thức dự báo, thẩm giải trí, giao
tiếp giáo dục...
- Cái đẹp là cái đáng ước nhất là đỉnh cao của đời sống thẩm (cả
trong tự nhiên, hội nghệ thuật)
19
Nguyên tắc hài hoà là qui luật của thành công, của cái đẹp. Nói khác đi,
qui luật của cái đẹp chính qui luật của sự hài hoà, hoàn thiện, vươn tới các giá trị
Chân Thiện cao nhất.
4. Các loại cái đẹp khách quan
* Thế giới các sự vật đẹp: cái đẹp trong thế giới sự vật - thế giới rất
phong phú, đa dạng. cái đẹp của viên đá, cái đẹp của chiếc vỏ sò, cái đẹp
của đêm trăng, của mặt hồ,...
* Thế giới thực vật đẹp: cái đẹp xuất hiện trong một thế giới phần sinh
động hơn. cái đẹp của cây mai, cây tùng, cái đẹp của cây liễu, cây bạch
dương,...
* Thế giới con vật đẹp: TG các con vật đẹp đã đa dạng, sinh động hơn nhiều
so với thế giới cơ. VD: Các con tôm, cua, cá, ngựa,... mỗi loài đều vẻ đẹp
riêng (Xem tranh Tề Bạch Thạch, Từ Bi Hồng).
* Con người đẹp: Con người đẹp đỉnh cao của cái đẹp trong đời sống.
Người được coi đẹp phải sự kết hợp hài hoà giữa phẩm chất đẹp hình thức
đẹp. học mác xit đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đẹp của con người.
- Các tiêu chuẩn thẩm của con người phẩm chất đẹp (Theo Luxianov)
+ Người phẩm chất đẹp người kết hợp được hài hoà trong mình nhiều tài
năng đức tính cao quí của con người (thể hiện qua từng hành vi, hành động
chuỗi hành vi, hành động của họ).
Cần chú ý, tài năng phẩm chất đều phải cao quí. Tài năng phải gắn với cái
ích cho cộng đồng. Tài năng cao q khác với tiểu xảo, hoặc tài năng hại (kiểu
Hítle, Kiến...). Xét phẩm chất, đức tính của con người cần phải xét qua nhiều
mặt: phẩm chất chính trị, đạo đức, duy, kiến thức, bản lĩnh...
VD: Ph. Ăngghen được xem con người xuất chúng của nhân loại, con
người đẹp nhất. Ông thông thạo 25 th tiếng, hiểu biết sâu rộng nhiều ngành KHTN
như: Toán, Lí, Hoá, Sinh..., hiểu biết đặc biệt nhiều ngành KHXH như: Lịch sử,
Kinh tế học, Luật, Quân sự, Văn chương... Ông người đức độ: hi sinh thiên tài của
mình cho thiên tài của Mác (làm thư hãng buôn, viết bài về quân sự cho tờ Bưu
điện Oasinhtơn buổi chiều để hỗ trợ thêm tiền bạc cho Mác; bỏ ra 12 năm cuối đời
để hoàn thành bộ bản cho Mác phải bỏ dở 3 tác phẩm quan trọng của mình
(Ba hình thức lớn của lệ loài người, Phép biện chứng của tự nhiên, Phơbach
sự cáo chung của triết học cổ điển Đức); từ chối vinh quang: không nhận tên mình
trong những tác phẩm viết chung với Mác; sống thân thiết với mọi người như một
người bạn, người yêu; một đời trọn vẹn hi sinh sự nghiệp cách mạng sản,
mục đích cao cả giải phóng loài người...
Thông tin từ tiểu thuyết Mùa xuân của một thiên tài: Ăngghen con nhà đại
sản (xưởng Gaxpa Ăngghen các con); ông đọc Bêcơn, Buyphông, Đácuyn,
Loke, Đềcác; hiểu biết hơn cả thầy (kể các cuộc chiến quân sự, chiến thuật của quân
Ba Tư, Xêda, nhớ số liệu c trận đánh nói bằng tiếng Hi Lạp cổ); sự tế nhị về
thẩm (“Tâm hồn sẽ đẹp gấp đôi nếu trong một thân thể khoẻ mạnh đẹp
đẽ”); nhiệt thành sôi nổi; khinh bỉ thói đạo đức giả; đấu kiếm giỏi; n ngữ văn bẩm
sinh; ham đọc sách, làm thơ, chơi đàn dương cầm; căn phòng đẹp, ngăn nắp, gọn
20
gàng (sách vở, thanh kiếm, quả tạ,...); làm t bằng tiếng Hi Lạp cổ; nhà th thao
(đấu kiếm, bơi lặn, cờ tướng, bẫy chim, cưỡi ngựa,...); sẵn sàng hiến dâng cuộc đời
mình những người thân yêu; bên cạnh ông mọi người luôn vui vẻ; khiếu âm
nhạc (mê Ramô, Bach); vẽ tranh giỏi, đặc biệt tranh biếm hoạ; niềm tự hào của
mẹ ông, của bạn đồng chí của ông; giản dị, khiêm nhường;...
+ Người phẩm chất đẹp người khát vọng tự do đem lại sự tự do
cho mọi người xung quanh mình liên quan tới.
VD: Ăngghen (sự tự do tinh thần, không bị trói buộc, chế định bởi tiền bạc,
danh vọng...), Bác Hồ (không bao giờ hãm mình, luôn khát vọng vượt thoát:
tìm đường cứu nước, không cam phận đất nước lệ anh hùng giải phóng dân
tộc), Thuý Kiều, Nguyệt...
+ Người phẩm chất đẹp người lòng yêu đời khả năng làm lây
lan lòng yêu đời đó cho tất cả mọi người xung quanh.
VD: Ăngghen luôn không ngớt tiếng cười (đối lập với s khắc kỉ, cứng nhắc
của người cha...), Bác Hồ luôn lạc quan biết trân trọng ý nghĩa của cuộc đời, ngay
cả khi vào tình thế bi đát nhất (chân dung Bác qua tập thơ NKTT: ngắm trăng,
“Thân thể trơng lao. Tinh thần ngoài lao..., chị Út Tịch (còn i lai quần cũng
đánh, khi mang bầu vẫn chiến đấu,...)
+ Người phẩm chất đẹp người đáng yêu, gây được ấn tượng trong trái
tim mọi người như một người thân thiết, người bạn, người yêu.
VD: Những ai yêu cái đẹp đều yêu Ăngghen (niềm tự hào của mẹ, của bạn bè,
đồng chí ông); Bác Hồ: “Mong manh áo vải hồn muôn trượng. Hơn tượng đồng phơi
những lối mòn”, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người, “Người cha, bác, anh.
Quả tim lớn đập trăm dòng máu đỏ”...
+ Người phẩm chất đẹp người đáng say mê, si do những điều đã hiểu
cả những điều chưa thấu hiểu... VD: Ăngghen, Bác Hồ.
Cái đẹp tiềm ẩn bao ý nghĩa đích thực sự khám phá của người ta không
ng.
- Hình thức đẹp (vẻ đẹp bề ngoài):
+ Khuôn mặt đẹp
+ Thân hình đẹp
+ Sự cân đối hài hoà giữa các phần của thể.
Ăngghen viết: “Tâm hồn sẽ đẹp gấp đôi nếu trong một thân thể kho
mạnh đẹp đẽ.
+ Hình thức đẹp còn thể hiện qua trang phục, trang sức của con người.
Phẩm chất đẹp sự tổng hợp tối ưu của các qui luật mang tính hội
văn hoá còn hình thức đẹp chủ yếu sự tổng hợp tối ưu các qui luật của tự nhiên.
* hội đẹp: hội đẹp hội sự hài hoà giữa các mặt: ăn, ở, đi lại,
văn hoá, giáo dục,... thoả mãn được các nhu cầu căn bản về vật chất tinh thần cho
con người.
VD: XH thời Lê Thánh ng (kinh tế phát triển, luật pháp nghiêm minh, n
hoá phát triển cao: luật Hồng Đức, Tao đàn, vẽ bản đồ, khẳng định chủ quyền dân
tộc, chăm lo thi cử, Đại Việt sử toàn thư, minh oan cho Nguyễn Trãi,...).
21

Preview text:

TÀI LIỆU MI HỌC ĐẠI CƯƠNG MỤC LỤC
Chương 1. Mĩ học với tư cách một khoa học
I. Đối tượng nghiên cứu của Mĩ học
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
2. Lược sử các tư tưởng mĩ học và việc xác định đối tượng nghiên cứu của Mĩ học. 5
3. Định nghĩa Mĩ học (Theo quan điểm mác – xít)
II. Quan hệ thẩm mĩ với hiện thực…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8 1.
Giải thích thuật ngữ “quan hệ thẩm mĩ với hiện thực”…. . . . . . . . . . . . . . . . . .8 2.
Bản chất của sự khai thác thẩm mĩ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .9 3.
Tính chất của sự khai thác thẩm mĩ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
Chương 2. Khách thể thẩm mĩ
I. Cái bi kịch…
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13 1.
Phương diện từ ngữ, thuật ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .13 2.
Khái niệm về cái bi kịch…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .13 3.
Phân loại bi kịch…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13 4.
Đặc trưng thẩm mĩ của cái bi kịch…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 14 5.
Các sắc thái khác nhau của cái bi kịch…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .14 6.
Cái bi kịch trong nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .16
II. Cái hùng vĩ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17 1.
Phương diện từ ngữ, thuật ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17 2.
Khái niệm về cái hùng vĩ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .17 3.
Đặc trưng thẩm mĩ của cái hùng vĩ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .17 4.
Cái hùng vĩ trong nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 18
III. Cái đẹp…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19 1.
Phương diện từ ngữ, thuật ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19 2.
Khái niệm về cái đẹp…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19 3.
Bản chất của cái đẹp…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19 4.
Các loại cái đẹp khách quan…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20 5.
Cái đẹp khách quan và màu sắc chủ quan trong quan niệm về cái đẹp…. . 22 3
IV6. CáiCháàii.đ .ẹ .p .tr.o.n.g. .n .g .h .ệ .t .h .u .ật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2 24 1.
Phương diện từ ngữ, thuật ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24 2.
Khái niệm về cái hài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24 3.
Đặc trưng thẩm mĩ của cái hài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24 4.
Cái hài trong nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .25
V. Cái xấu…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .25 1.
Phương diện từ ngữ, thuật ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .25 2.
Khái niệm về cái xấu…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 25 3.
Đặc trưng thẩm mĩ của cái xấu…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 26 4.
Cái xấu trong nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .26
Chương 3. Chủ thể thẩm mĩ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 27 I.
Khái niệm chủ thể thẩm mĩ và các yếu tố biểu hiện chủ thể thẩm mĩ. . . . 27 I.
Phân loại chủ thể thẩm mĩ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .28
Chương 4. Nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 30 I.
Nhận thức chung về nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .30 1.
Khái niệm về nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .30 2.
Bản chất, đặc trưng của nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 32 II.
Sự phân chia nghệ thuật thành các loại hình, loại thể…. . . . . . . . . . . . . . .34
Tài liệu tham khảo…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 36 4 CHƯƠNG 1
MĨ HỌC VỚI TƯ CÁCH MỘT KHOA HỌC
I. Đối tượng nghiên cứu của mĩ học
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ
- Theo nghĩa Hán – Việt, “mĩ” có nghĩa là “đẹp”, “tốt” (VD: mĩ nhân, mĩ lệ,
mĩ miều, mĩ quan; mĩ vị, mĩ tục. .). Trong cách dùng phổ biến, “mĩ học” được hiểu
là khoa học về cái đẹp. Từ “mĩ học” trong tiếng Hán được nhập vào từ Nhật Bản hồi
đầu thế kỉ XX (do Giang Triệu Dân dịch), bắt nguồn từ tiếng phương Anh
“aesthetics” (Tiếng Đức: esthetik; tiếng Pháp: esthétique). Từ này được Baumgacten
(1714 – 1762) dùng lần đầu tiên vào năm 1735 trong một công trình nghiên cứu của
ông có nhan đề Những suy xét về triết học có quan hệ tới việc xây dựng thi ca
(Baumgacten tiếp tục phát triển thuật ngữ này trong cuốn Mĩ học xuất bản 1755 và
1758). Trong tiếng Hoa, “aesthetics” còn có thể dịch là “thẩm mĩ học”, tức môn
khoa học nghiên cứu sự nhận thức cái đẹp; cảm giác, tri giác của con người về cái
đẹp (nói rộng ra, đó là môn khoa học nghiên cứu lĩnh vực thẩm mĩ).
- Về định nghĩa mĩ học, hiện vẫn còn tồn tại ba ý kiến chủ yếu (với những
điểm khả thủ nhất định):
+ Mĩ học là khoa học nghiên cứu về cái đẹp;
+ Mĩ học là triết học nghệ thuật, nghiên cứu các nguyên lí chung trong sáng
tác và thưởng thức nghệ thuật;
+ Mĩ học là khoa học nghiên cứu các quan hệ thẩm mĩ;
2. Lược sử tư tưởng mĩ học và việc xác định đối tượng nghiên cứu của Mĩ học
* Ở phương Tây
- Platông (427 – 347 TCN)
+ Không thể tìm thấy ở thuyết Platông một hệ thống mĩ học được xây dựng
hoàn chỉnh. Nó chỉ có những cơ sở, thậm chí mầm mống của một lí thuyết về nghệ
thuật. Tư tưởng “mĩ học” của Platông thể hiện qua những lời bàn về cái đẹp và nghệ
thuật. + Trên cơ sở thế giới quan “duy tâm”, Platông cho rằng, cái đẹp đích thực
không tồn tại ở trên thế giới này mà ở thế giới của ý niệm. Chỉ cái đẹp của ý niệm
mới là cái đẹp tuyệt vời, vĩnh viễn, nó đối lập với cái đẹp của sự vật cảm tính.
Platông phê phán gay gắt quan niệm cho rằng cái đẹp là cái đẹp trong thực tế (như
người con gái đẹp, con ngựa đẹp, con chim đẹp,. .). Theo Platông, cái đẹp không
phải là một thực thể ở trần gian mà là cái thuần nhất với bản thân nó; nó tồn tại nơi
nó được tư duy. Chủ thể nhận thức cái đẹp đó là linh hồn bất tử. Phương pháp nhận
thức là hồi tưởng. Cái đẹp có được là do sự hồi tưởng của con người về một tiền
kiếp còn chung sống với thần linh. Về linh hồn, Platông cho đó là sản phẩm của linh
hồn vũ trụ được tạo ra bởi Thượng đế. Mỗi linh hồn vũ trụ trú ở một vì sao trên trời,
sau đó bay xuống trần gian và nhập vào thể xác tạo ra con người. Khi nhập vào thể
xác con người thì nó quên hết mọi thứ quá khứ. Vì thế nhận thức con người là sự hồi
tưởng về những gì mà linh hồn đã quên lãng. 5
- Về nghệ thuật, Platông cho đó là sự “bắt chước” nhưng thực chất không
phải là bắt chước sự vật cảm tính mà là bắt chước ý niệm. Người nghệ sĩ bắt chước
sự vật cảm tính và chính sự vật cảm tính lại bắt chước ý niệm. Sự vật cảm tính chỉ là
hình bóng của ý niệm. Do vậy, nghệ thuật là “bắt chước của cái bắt chước”, là “cái
bóng của cái bóng”,. . Platông cho nghệ thuật xuất phát từ nguồn cảm hứng do thần
thánh tạo nên mới là cao quí. Ông chủ trương nghệ thuật chỉ phục vụ tầng lớp chủ
nô, quí tộc, phục vụ tôn thờ thần thánh với những bài hát ca ngợi thần thánh. Ông
cũng phủ nhận thành tựu của Hôme, Etsin, Xôphôclơ, Ơripit,. . Platông coi trọng âm
nhạc, vũ đạo (các loại hình nghệ thuật mang tính “trừu tượng”, “gián cách”) hơn hội hoạ, văn chương.
- Arítxtốt (384 – 322 TCN)
+ Arítxtốt là nhà bách khoa tinh thông nhiều lĩnh vực. Trước ông, các vấn đề
nghệ thuật và cái đẹp mới chỉ được bàn đến một cách lẻ tẻ (qua Pitago, Xôcrat,
Đêmôcrit, và đặc biệt là Platông). Chỉ tới Arítxtốt, những vấn đề trên mới được xây
dựng thành một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt, một bộ môn khoa học. Mĩ học của
Arítxtốt tập trung trong Chính trị học (quyển 8), Tu từ học, đặc biệt là trong Nghệ thuật thi ca.
+ Trên cơ sở thế giới quan duy vật, Arítxtốt đã hệ thống hoá triết học của
Platông những có chỗ khác xa người thầy. Mĩ học của Arítxtốt là triết học về nghệ
thuật, cụ thể hơn, đó là triết học nghiên cứu các qui tắc trong sáng tạo nghệ thuật.
Cái đẹp với Arítxtốt là cái đẹp hiện thực. Nghệ thuật là sự mô tả thực tế (“bắt
chước”, “mô phỏng” có sửa đổi thực tế), trong đó, hội hoạ là nghệ thuật bắt chước
cái bề ngoài còn âm nhạc và thơ ca là các loại hình có thể bắt chước tính cách một
cách sâu sắc và đầy đủ hơn cả.
Arítxtốt nghiên cứu vấn đề bắt chước của nghệ thuật với đời sống trên cả ba phương diện:
* Vật liệu (chất liệu) để bắt chước: đá, sơn màu, lời nói.
* Đối tượng để bắt chước: con người (người tốt, người tồi).
* Phương thức bắt chước:+táihiện sựkiện(tựsự,anhhùngca)
+ biểu hiện nội tâm (trữ tình)
+ tái hiện xung đột, biểu hiện nội tâm (kịch)
Arítxtốt cho bi kịch là loại hình nghệ thuật cao quí nhất vì nó nâng cao con
người, có tác dụng “thanh lọc”, “tẩy rửa” (carthasis) được tất cả những gì xấu xa,
thấp kém trong con người.
- Căng - tơ (1724 – 1804)
+ Căng - tơ là người sáng lập Chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức, người đề ra
thuyết “bất khả tri” và “vật tự nó”. Mĩ học của Căng - tơ tập trung trong cuốn Phê
phán năng lực của phán đoán (1790).
+ Căng - tơ coi đối tượng nghiên cứu của mĩ học là cái đẹp. Đoạn tuyệt với
một truyền thống của mĩ học là truy tìm những đặc điểm khách quan của cái đẹp,
Căng - tơ tập trung phân tích các điều kiện chủ quan trong tiếp thu cái đẹp. Trong
cảm thụ cái đẹp, ông tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan. Cái đẹp, theo ông, 6
là cái mang lại sự thích thú, những khoái cảm vô tư, không vụ lợi. Sự cảm thụ cái
đẹp là cảm thụ cái thuần khiết, nằm ngoài mọi lợi ích thực tiễn (thông qua sự đánh
giá của chủ thể theo thị hiếu). Về hoạt động nghệ thuật, Căng - tơ cũng có những ý
kiến sâu sắc. Ông cho người làm nghệ thuật phải có thiên tư. Ông phân biệt nghệ
thuật với thủ công và cho nghệ thuật là hoạt động tự do, có tính chất trò chơi còn thủ
công là hoạt động làm mướn. - Hêghen (1770 - 1831)
Hêghen là nhà triết học “duy tâm khách quan” nổi tiếng của Đức. Tư tưởng
mĩ học của ông tập trung trong cuốn Mĩ học. Hêghen cho đối tượng nghiên cứu của
mĩ học là cái đẹp song ông chỉ coi trọng cái đẹp trong nghệ thuật, con cái đẹp trong
tự nhiên thì ông cho là nhàm chán, không đầy đủ, “rất đỗi thiếu sót”. Hêghen là
người nghiên cứu sâu sắc đặc trưng của các loại hình nghệ thuật. Ông khẳng định:
Đặc trưng của một loại hình nghệ thuật bắt nguồn từ tính đặc thù của chất liệu mà
loại hình nghệ thuật đó sử dụng. Ông cho nghệ thuật là sự nhận thức chân lí đời
sống qua hình thức cụ thể - cảm tính (hình thức hình tượng cụ thể, cảm tính, sinh động, có cá tính).
- Sécnưsevski (1828 – 1889)
Tsécnưsevski nhà mĩ học dân chủ cách mạng nổi tiếng người Nga.
Tư tưởng mĩ học của Sécnưsevski được trình bày tập trung trong luận án
Tiến sĩ của ông nhan đề Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật với hiện thực (1855).
Sécnưsevski cho rằng: cái đẹp hình thành trong cuộc sống và vì cuộc sống con
người. Trên cơ sở coi “cái đẹp là cuộc sống”, Sécnưsevski đã hướng nghệ thuật vào
cuộc đấu tranh của nhân dân. Ông đặc biệt coi trọng tính nhân dân của nghệ thuật.
Sécnưsevski giải thích sự phát sinh của nghệ thuật không chỉ xuất phát từ nhu cầu về
cái đẹp mà xuất phát từ toàn bộ nhu cầu nói chung của con người. Ông khẳng định,
ngoài việc tái hiện, giải thích đời sống, tác phẩm nghệ thuật còn có nhiệm vụ phán
xử các hiện tượng đời sống xã hội. Sécnưsevski rất sâu sắc trong những lời bàn về
nội dung đặc trưng của nghệ thuật.
* Ở phương Đông
- Khổng Tử (551 – 479 TCN)
Tư tưởng mĩ học của Khổng Tử chủ yếu thể hiện qua những lời bàn về nghệ
thuật, chính xác hơn: về vai trò, chức năng của nghệ thuật. Ông cho nghệ thuật có
vai trò quan trọng trong việc nhận thức đời sống, biểu lộ tư tưởng, cảm xúc của con
người, có khả năng tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội và con người. Trong Luận
ngữ, ông viết: “Thi khả dĩ hứng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán”. Về cái đẹp,
ông coi cái đẹp luôn bao hàm sự đánh giá về đạo đức, về bản chất. Trong cái đẹp,
ông đề cao cái “thiện” hơn cái “mĩ” (với ý nghĩa là hình thức đẹp). Trong Luận ngữ
có 14 lần Khỏng Tử dùng chữ “mĩ” thì có tới 10 lần có ý chỉ cái “thiện”.
- Mặc Tử (479 – 381 TCN)
Mặc Tử thừa nhận có cái đẹp và nó có khả năng tác động vào con người
thông qua cảm xúc, đặc biệt là qua nghệ thuật. Song với tư cách một đại diện tư
tưởng cho thợ thủ công, người nghèo, Mặc Tử coi cái đẹp là thứ xa hoa, chỉ dành
cho những người giàu sang, nó không mang lại một chút lợi ích thực tiễn thiết thực 7
nào cho con người, đặc biệt là người nghèo. Do thế, ông cực lực phản đối sự trau dồi
nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc và múa.
“Nghệ thuật là trò vui cho kẻ no nê. Nó không nuôi kẻ đói lòng, không giúp
ấm cho kẻ trần truồng”
- Trang Tử (369 – 286 TCN)
Trang Tử coi cái đẹp là thứ tồn tại trong tự nhiên (“tự nhiên chi mĩ”), có
nguồn gốc ở trời đất (kể cả con người cũng là một phần tử của tự nhiên). Cái đẹp
không có giới hạn, nó lớn lao, vĩ đại như trời đất; là cái không vụ lợi, tương đối, chủ
quan, không thể nhận thức được. Theo ông, con người càng gần gũi với tự nhiên bao
nhiêu thì càng hạnh phúc bấy nhiêu.
- Lưu Hiệp (465 – 520)
Lưu Hiệp coi cái đẹp là bản tính tự nhiên của hiện thực khách quan, là cái
hài hoà, rực rỡ. Nghệ thuật, văn chương là cái đẹp do con người làm ra, là tinh tuý
của cuộc đời. Ông đòi hỏi ở tác phẩm văn học sự sâu sắc về tình cảm, tính trong
sáng, tính chân thực về tư tưởng và cái đẹp hình thức.
Tư tưởng mĩ học của Trung Quốc tiếp tục được là phong phú ở các thời kì sau.
* Mĩ học mác – xít
Các nhà mĩ học mác – xít tiếp tục phát triển các tư tưởng tiến bộ trong mĩ
học của nhân loại. Đến đây, mĩ học được xem là môn khoa học nghiên cứu bao quát
các quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực và nghiên cứu đặc biệt hình thái ở
mức độ cao của những quan hệ này, đó là nghệ thuật.
3. Định nghĩa mĩ học
Mĩ học là môn khoa học nghiên cứu toàn bộ những qui luật cơ bản và phổ
biến nhất của đời sống thẩm mĩ, bao gồm: khách thể thẩm mĩ, chủ thể thẩm mĩ và
nghệ thuật, trong đó, cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm, hình tượng là tiếng
nói đặc trưng, nghệ thuật là đỉnh cao của những thành tựu sáng tạo thẩm mĩ, lí tưởng
thẩm mĩ là điểm tựa của sự sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật.
II. Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật với hiện thực
1. Giải thích thuật ngữ “quan hệ thẩm mĩ với hiện thực”
- Quan hệ thẩm mĩ với hiện thực là quan hệ của con người với hiện thực
trong tất cả các hoạt động (thực tiễn, tinh thần) nhằm cải tạo thế giới xung quanh
mình theo qui luật của cái đẹp - qui luật của sự hài hoà, hoàn thiện, vươn tới cái có
giá trị Chân – Thiện – Mĩ cao nhất.
- Việc cải tạo, đồng hoá, “nhân hóa” (assimilation) thế giới xung quanh,
biến nó thành thế giới của mình, cho mình, để ngày càng hoàn thiện mình hơn chính
là biểu hiện quan trọng nhất của bản chất người. Con người trông thấy mình qua cái
thế giới mà mình tạo nên. Trong lúc đồng hóa đối tượng về mặt thẩm mĩ, con người
cũng nhận thức về mình, tự ngắm mình qua đối tượng. Sự đồng hóa đối tượng mang
lại cho con người những khoái cảm tinh thần vô tận. Mác viết: “Súc vật chỉ sản xuất
dưới sự thống trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó thì con người sản xuất
ngay cả khi thoát khỏi nhu cầu đó, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì mới sản xuất
theo ý nghĩa chân chính của từ đó (. .) Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo 8
và nhu cầu của giống loài nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của
bất cứ giống loài nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo cho đối tượng; do đó
con người cũng nhào nặn vật chất theo các qui tắc của cái đẹp” (Bản thảo kinh tế – triết học 1844).
+ Trong hoạt động thực tiễn, con người đồng hoá thế giới để tạo ra các sản
phẩm, vật phẩm không những thoả mãn nhu cầu thực dụng mà còn thoả mãn nhu
cầu tinh thần (nhu cầu thẩm mĩ) của con người. Qui luật của cái đẹp kết tinh ngày
một cao trong sản phẩm và điều này tỉ lệ thuận với trình độ nhận thức (trong đó có
nhận thức thẩm mĩ) của con người. Có thể tìm thấy điều này ngay trong các vật
phẩm người ta dùng hàng ngày như cái bát, cái đĩa, cái lọ hoa, cái đèn, ngôi nhà,. .
+ Trong lĩnh vực đồng hoá thế giới về mặt tinh thần, đặc biệt là trong nghệ
thuật, con người không chỉ phản ánh, sáng tạo cái đẹp mà còn sáng tạo ra các phẩm
chất thẩm mĩ phong phú khác như cái bi, cái hùng, cái hài, cái xấu (với những sắc
thái biểu hiện khác nhau). Nghệ thuật khuyên người ta cái nên theo, nên tránh; bồi
đắp kinh nghiệm sống, năng lực nhận thức; nâng cao trình độ và thị hiếu thẩm mĩ;
tạo ra cái để mua vui; giúp con người giao tiếp rộng rãi;. . để họ sống ngày một tốt
đẹp, hoàn thiện hơn. Sự đa dạng của các loại hình, loại thể nghệ thuật là biểu hiện ở
trình độ cao của các mối quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực nhằm đáp
ứng nhu cầu thẩm mĩ ngày càng đa dạng của con người.
→ Có thể nhận thấy, các quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực rất
đa dạng, phong phú và nghệ thuật chính là hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mĩ
của con người với hiện thực. Bản chất của nghệ thuật bộc lộ ở chỗ nó nhận thức và
tác động tới đời sống bằng thẩm mĩ nhằm biến đổi, cải tạo đời sống cho phù hợp với
những mục tiêu, những lí tưởng xã hội thẩm mĩ nhất định, và nhân bản hơn, là cho
phù hợp với những ước mơ khát vọng chính đáng của con người.
2. Bản chất của sự khai thác thẩm mĩ
a. Mặt khách quan của sự khai thác thẩm mĩ
- Mĩ học mác – xít khẳng định: sự nhìn nhận, đánh giá của chủ thể đối với
đối tượng trước hết phải dựa trên những đặc tính thẩm mĩ khách quan của đối tượng
đó, tức thừa nhận có vấn đề “tố chất thẩm mĩ”. Tố chất thẩm mĩ thể hiện ở chỗ bản
thân đối tượng thẩm mĩ với những đặc tính về kết cấu, hình dáng, màu sắc, sự cân
xứng, hài hòa… có thể đề xuất ở chủ thể một sự đánh giá thẩm mĩ tương ứng như
thế này hay khác. Chẳng hạn như khi ta nói một viên ngọc đẹp thì do “bản thân nó
đẹp”, tức bản thân nó có một sự đối xứng, tỉ lệ, màu sắc, sự hài hoà,. . có thể gợi ra
cho chủ thể một sự đánh giá thẩm mĩ tích cực. Vấn đề cái bi, cái hùng, cái hài, cái
xấu cũng cần được nhìn nhận như thế. Khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của yếu
tố chủ quan trong đánh giá thẩm mĩ thế tất sẽ dẫn tới những ngộ nhận, sai lầm.
- Trong đời sống khách thể, có đối tượng chủ yếu chỉ mang một phẩm chất
thẩm mĩ, có đối tượng lại phức tạp và đa dạng hơn nhiều, các sắc thái thẩm mĩ có
thể rất khác nhau. Do vậy, khi đồng hoá, cải tạo hiện thực (cả trong vật chất lẫn tinh
thần), chủ thể phải tôn trọng các đặc tính, qui luật khách quan của đối tượng để có
phương pháp, cách thức nhận thức, tác động thích hợp (Nhiều loại cây tưới nước
nhiều sẽ chết!). Cần lưu ý rằng, trong nghệ thuật, sáng tạo không có nghĩa là “thuần 9
tuý chủ quan”, mà còn phải biết chấp nhận sự phán xét (chân chính) từ nhiều phía,
kể cả từ bản thân đối tượng. Có thể tìm thấy trong thực tiễn nghệ thuật “sự ương
bướng của chất liệu” trong kiểu “nhân vật nổi loạn” ở các tác phẩm văn chương hiện
thực xuất sắc như Tachyana trong Epnheghi Ônhegin (1823 – 1831) của Puskin,
Anna Karenina trong Phục sinh (1874 – 1877) của L. Tônxtoi,. . Ở đây, sự phát hiện
liên tục những vấn đề có tính chân lí buộc nhà văn phải điều chỉnh những dự đồ trước đó của mình.
b. Mặt chủ quan của sự khai thác thẩm mĩ
- Nhìn từ phương diện này, có thể thấy, chỉ trong quan hệ thẩm mĩ của con
người với hiện thực, trong sự nhận thức, cải tạo, tác động của chủ thể thì các đặc
tính, phẩm chất thẩm mĩ (khách quan, tiềm ẩn) của đối tượng mới được làm “sống
dậy”. Nói khác đi, trong cải tạo, đồng hoá hiện thực luôn có vấn đề định lượng, định
tính của chủ thể, tức nghĩa là luôn có sự tham dự, sự can thiệp mang tính tất yếu của
cái chủ quan. Đối tượng sẽ chỉ tồn tại ở dạng “chất liệu” nếu nó không được khám
phá bới một chủ thể nào đó
→ Có thể nói, quan hệ thẩm mĩ với hiện thực luôn phải được nhìn nhận trong
tương quan khách quan – chủ quan. Mọi sản phẩm mang tính người đều là sự tương
tác – thống nhất giữa cái khách quan và cái chủ quan. Hiểu trong nghĩa rộng thì
nghệ thuật là hình ảnh chủ quan (sáng tạo, chứ không phải sao chép) về thế giới khách quan.
- Vấn đề chủ quan trong sự khai thác thẩm mĩ thể hiện rất rõ ở chỗ, trên cùng
một chất liệu (một đối tượng), song do quan niệm, cách nhìn, cách tiếp cận, mục tiêu
tiếp cận, hoàn cảnh,. . khác nhau mà người ta có những kết quả, kết luận không
giống nhau. Quan niệm thẩm mĩ còn là cái còn mang tính vùng miền, giai cấp, dân
tộc, thời đại rõ nét. Có thể lấy nhiều thí dụ về vấn đề này qua phép đối sánh, chẳng
hạn như: hình tượng cô Tấm trong truyện dân gian so với hình tượng Thuý Kiều
trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du; hình tượng người cùng đinh, người đi
ở trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố so với trong các bài thơ của Tố Hữu; hình tượng
người nông dân trong văn chương Ngô Tất Tố so với trong văn chương Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan; hình tượng người kĩ nữ trong Lời kĩ nữ của Xuân Diệu so với
trong Cô gái sông Hương của Tố Hữu; vấn đề cái đói, miếng ăn trong tác phẩm của
Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng. .
Điều cần lưu ý là, trong hoạt động thực tiễn, cần tôn trọng các qui luật khách
quan của đời sống, tránh tư tưởng chủ quan cực đoan (duy ý chí). Trong sáng tạo
nghệ thuật, cái chủ quan trong nghệ thuật phải là cái chủ quan tích cực, lành mạnh,
có giá trị nhân đạo cao, luôn mở rộng cửa để đón nhận hiện thực ùa vào. Có thể
kiểm chứng điều này qua thực tiễn sáng tác của Satôbriăng, Huygô, Bandăc; của
Khái Hưng, Thạch Lam, Nam Cao;. .
3. Những đặc tính chung của sự khai thác thẩm mĩ trong nghệ thuật
a. Tính chất cảm tính
- Tính chất cảm tính của sự khai thác thẩm mĩ thể hiện ở chỗ nó tạo ra những
sản phẩm mà bằng giác quan, con người có thể cảm nhận, thưởng thức được (màu
sắc, hình dáng, thanh âm, kích thước, hành động,. .). Hêghen cho “nghệ thuật là sự 10
nhận thức chân lí đời sống qua hình thức cụ thể, cảm tính”. Con người có hai giác
quan quan trọng nhất trong thưởng thức nghệ thuật, đó là thị giác và thính giác.
Người ta thưởng thức nghệ thuật tạo hình chủ yếu bằng thị giác và xúc giác, thưởng
thức âm nhạc chủ yếu bằng thính giác. Văn chương là loại hình nghệ thuật có khả
năng khơi gợi, tác động tới nhiều giác quan nhất của bạn đọc song phải thông qua
kênh tưởng tượng (cùng với việc nắm được các mẹo luật ngôn từ và có một vốn sống nhất định).
- Sự tác động của hình tượng nghệ thuật tới người tiếp nhận có thể là trực tiếp
hoặc gián tiếp, có thể vào một hay nhiều giác quan. Tính chất cảm tính của hình
tượng còn phụ thuộc vào tính đặc thù của chất liệu mà loại hình nghệ thuật đó sử
dụng, vào tài nghệ của nhà văn trong việc phát huy khả năng nghệ thuật và năng lực
“khắc phục” những “hạn chế” này hay khác của chất liệu.
b. Tính chất dạt dào cảm xúc
- Tình cảm là hình thức tồn tại vô cùng quan trọng của quan hệ con người đối
với hiện thực. Lênin cho rằng: “Thiếu tình cảm của con người thì không bao giờ và
cũng sẽ không thể có những tìm tòi của con người về chân lí”. Khi đồng hoá hiện
thực về mặt thẩm mĩ, đặc biệt là đồng hoá bằng nghệ thuật, chủ thể không thể là kẻ
bàng quan, lãnh đạm, mà luôn bộc lộ một tình cảm, thái độ mãnh liệt. Hình tượng
trong nghệ thuật chỉ có sức mạnh khi nó được thể hiện, lí giải, miêu tả đời sống bằng
nhiệt hứng sáng tạo của nhà văn. Cần lưu ý rằng, tình cảm trong trong tư duy nghệ
thuật là tình cảm xã hội đã được ý thức. Đó là niềm say mê khẳng định lí tưởng,
chân lí, phủ định sự giả dối, các hiện tượng xấu xa, tiêu cực. Đó là niềm vui sướng,
sự biết ơn, tin tưởng, yêu thương, đau xót, thương tiếc, là sự căm thù, phẫn nộ, mỉa
mai. . Sức mạnh tâm hồn có tác động to lớn tới sự lay động tâm hồn. V.G. Bêlinxki
coi cảm hứng là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những TP đích thực. Ông
cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả,
nếu nó không có sự thôi thúc chủ quan mạnh mẽ nào đó bắt nguồn trong tư tưởng
bao trùm thời đại, nếu nó không là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu
nó không đặt ra câu hỏi và trả lời cho những câu hỏi đó”.
- Khi tiếp nhận, thưởng thức nghệ thuật (đặc biệt là khi thưởng thức các tác
phẩm chân chính), công chúng luôn bị lây lan một tình cảm tương tự như tác giả. Đó
chính là sức mạnh của sự truyền cảm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật có thể làm
dấy lên trong ta những tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, khiến ta có thể vui, buồn, tràn
ngập niềm tin hay sự căm ghét. Nghệ thuật lay động sâu xa tâm hồn con người. Đến
với nghệ thuật, con người được bồi đắp rất nhiều về tình cảm, tâm hồn, không chỉ
xúc động về “những điều trông thấy” mà còn cả sự “đau đớn lòng” của nghệ sĩ.
Nghệ thuật chính là vấn đề tình cảm, tâm hồn của con người vươn tới cái cao đẹp.
c. Tính chất xã hội
- Mỗi sản phẩm được con người làm ra đều phục vụ cho nhu cầu chính đáng –
thoả mãn nhu cầu vật chất – tinh thần cho con người. Các sản phẩm này, đặc biệt là
tác phẩm nghệ thuật sẽ càng có ý nghĩa xã hội cao khi nó phù hợp, thoả mãn nhu cầu
của nhiều người, thể hiện được “cái mọi người cùng quan tâm” trong đời sống. 11
- Sản phẩm mang tính xã hội cao nhất, kết tinh của quan hệ thẩm mĩ của con
người với hiện thực là nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật thoả mãn đồng thời nhiều
nhu cầu mang bản chất xã hội sâu sắc và chính đáng của con người: nhận thức, dự
cảm – dự báo, thẩm mĩ, giải trí, giao tiếp, giáo dục. . Nghệ thuật là hình thái ý thức
có khả năng và nhiệm vụ chuẩn bị một cách toàn diện nhất để con người sống tốt đẹp hơn trong tương lai.
d. Tính chất tinh thần
- Quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực, dù trong trường hợp hướng
tới các giá trị thực tiễn, thực dụng nhất vẫn hàm chứa những giá trị tinh thần mang
bản chất người sâu xa. Đó chính là sự cải tạo đời sống theo các qui luật của cái đẹp.
Kết tinh cao nhất của quá trình “tự nhân đôi mình lên” của con người chính là sự
sáng tạo nghệ thuật. Nhằm thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ cho con người, nghệ thuật
sáng tạo ra các tác phẩm dưới các hình thức hình tượng: những “bức tranh” về đời
sống con người. Nghệ thuật là hình bóng của cuộc đời chứ không phải bản thân cuộc
đời. Nói khác đi, đó là một “tồn tại khác”, một thứ “khách thể tinh thần” đặc thù
được con người sáng tạo ra để làm giàu thêm đời sống của mình, để thoả mãn nhu
cầu đa dạng về mặt tinh thần cho con người.
- Tính chất tinh thần của nghệ thuật còn thể hiện ở chỗ nó mang lại những giá
trị tinh thần, tôn vinh những gì cao quí trong đời sống tâm linh, tâm hồn con người,
chẳng hạn như các tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục. .
e. Tính chất sáng tạo
- Nếu không có sự can thiệp của con người vào hiện thực thì không có sáng
tạo. Cái gì càng gần với tự nhiên hơn thì càng ít sáng tạo hơn. Bản chất của quan hệ
thẩm mĩ là sự sáng tạo. Kết quả là, nó tạo ra những sản phẩm, tác phẩm kết tinh bản
chất người, thoả mãn ngày một tốt hơn khát vọng song phương chân chính của con
người: sống sướng hơn và sống tốt hơn.
- Trong quan hệ thẩm mĩ, nghệ thuật là hình thái thể hiện bản chất sáng tạo
nhiều nhất. Nghệ thuật không chấp nhận sự lặp lại. Nó rốt ráo đòi hỏi sự tìm tòi sáng
tạo của nghệ sĩ. Sự sáng tạo trong nghệ thuật là một đòi hỏi vô tận. Nó diễn ra ở mọi
loại hình, loại thể, ở mọi cấp độ tinh vi của tác phẩm. Đó là sự sáng tạo lâu bền của
lịch sử nghệ thuật, là sự sáng tạo nhọc nhằn ở từng cá nhân nghệ sĩ. Sự sáng tạo
trong nghệ thuật còn thể hiện ngay trong sự tiếp nhận “sáng tạo” của công chúng. 12 CHƯƠNG 2 KHÁCH THỂ THẨM MĨ
* Phương diện từ ngữ:
- Khách thể: Đối tượng nhận thức và tác động của chủ thể (Khách thể là
những sự vật, hiện tượng vô cùng vô tận trong thế giới khách quan; là con người này
trong quan hệ với những con người khác; khách thể có thể mang tính vật chất hoặc
tinh thần). - Khách thể thẩm mĩ: Thế giới sự vật, hiện tượng trong đời sống khách
quan mang những phẩm chất thẩm mĩ này hay khác. Trong nghệ thuật, hình tượng
được xem là một “khách thể tinh thần” đặc thù. Nó là một “tồn tại khác” so với thế
giới hiện thực. Thế giới khách thể thẩm mĩ rất đa dạng: mặt hồ đẹp, dãy núi hùng vĩ,
trận Điện Biên Phủ trên không chấn động địa cầu, cảnh hoàng hôn tráng lệ, một gia
đình bi kịch, cách hành xử kệch cỡm, con người tàn ác. . I. Cái bi kịch
1. Phương diện từ ngữ
- “Bi”: có tính chất đau thương, gây thương cảm cho người khác.
- “Kịch”: Thể loại sân khấu phản ánh xung đột trong đời sống xã hội bằng
hành động và đối thoại của các nhân vật.
Trong nghĩa thông thường, “bi kịch” là cảnh éo le, bi đát, tang thương. Trong
nghiên cứu nghệ thuật, “bi kịch” được hiểu là thể loại kịch lấy sự thương đau của
con người làm đề tài phản ánh, thường kết thúc bằng chết chóc đau thương của nhân vật tốt.
2. Khái niệm về cái bi kịch
Cái bi kịch gắn liền với quan niệm về một cuộc đấu tranh căng thẳng và đầy
gian nguy vì những mục đích chân chính và dẫn tới kết quả là con người tiến hành
cuộc đấu tranh đó phải chết hoặc thất bại.
Cái bi kịch thích ứng với những mâu thuẫn và xung đột gay gắt, quằn quại
trong đời sống xã hội và cá nhân, và một phần lớn, trong những hoàn cảnh nhất định,
tỏ ra không giải quyết được. Theo Ph. Ăngghen, cái bi kịch biểu hiện sự mâu thuẫn
“giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng không thể thực hiện nó được trong thực tiễn”.
3. Phân loại bi kịch
- Bi kịch lịch sử là những câu chuyện oai hù
ng nhưng đau buồn về những con người, những nhân vật giữ các vị trí quan trọng
đối với cộng đồng, dân tộc, đất nước. Họ đều là những người có lí tưởng sống cao
đẹp, mục đích và con đường đấu tranh chân chính, có đức độ, tài năng, vì nước, vì
dân, nhưng vẫn còn những nhược điểm nào đó nên phải chết, hoặc thất bại khi sự
nghiệp còn dở dang. VD: An Dương Vương, Hàm Nghi, Duy Tân, Đề Thám, Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Thụ,. .
- Bi kịch của con người đời thường là những câu chuyện bi đát, bi thảm, bi
thương của những con người, những nhân vật bình thường trong đời sống hàng ngày
– những người tốt, hoặc có động cơ sống tử tế. VD: Các nhân vật chính trong Sự 13
tích hòn vọng phu, Người con gái Nam Xương, Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mòn. . (Bi
kịch trong nghệ thuật là sự phản ánh cái bi kịch trong đời sống).
4. Đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của cái bi kịch
Bi kịch là một hiện tượng quan trọng của xã hội nhưng nó phải thông qua cá
nhân, thông qua tính cách, số phận của những con người cụ thể. Do vậy, nói đến bi
kịch là ta nói đến nhân vật bi kịch. Các đặc trưng thẩm mĩ của CBK được thể hiện ở
mức độ cao qua các bi kịch lịch sử, và, ở mức độ thấp hơn, là các bi kịch đời thường.
- Nhân vật bi kịch là con người ưu tú trong loại của mình, thuộc một thời đại
nhất định nhưng vẫn còn có những hạn chế quan trọng (có thể mang tính cá nhân hoặc thời đại).
VD: An Dương Vương, Hămlét, Ôtenlô, các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam trước 1945. .
- Nhân vật bi kịch là người nhạy bén với cái mới, khao khát cái mới tốt đẹp,
thậm chí còn là đại diện cho cái mới, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì cái mới đó. Tuy
nhiên, nhân vật bi kịch lại là người xuất hiện hơi sớm trong lịch sử khi cái cũ còn
quá mạnh, cái mới còn yếu, còn nhỏ lẻ hay ở giai đoạn mầm mống.
VD: Các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam trước 1945, ông Kim Ngọc, Hămlét. .
- Hành động của nhân vật bi kịch bao giờ cũng diễn ra trong sự căng thẳng và
đầy gian nguy về vật chất hay tinh thần. Trong điều kiện đó, nhân vật bi kịch đã nỗ
lực với một “mĩ chất” đặc biệt nhưng vẫn hoàn toàn chưa đủ để chiến thắng cái cũ.
VD: “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu/Dấn thân vô là phải chịu tù đày/Là
gươm kề tận cổ, súng kề tai. .” (Thơ Tố Hữu viết về những người cộng sản); Lão
Hạc, Ơđíp, Hămlét, Ôtenlô, Mêlêkhốp;. .
- Sự thất bại của nhân vật bi kịch vừa mang tính tất yếu lịch sử, vừa mang tính
ngẫu nhiên trong sai lầm của cá nhân.
VD: Các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam trước 1945, Lão Hạc, Ôtenlô, Hămlét. .
- Bi kịch luôn gợi cho công chúng những cảm xúc phong phú: sự cảm thông
thương xót vì sự nghiệp dở dang, niềm tin, hi vọng vào sự chiến thắng hoặc đạt
được nguyện vọng trong tương lai. Arítxtốt cho rằng: “bi kịch làm trong sạch hoá
những cảm xúc tương tự qua cách khêu gợi xót thương và khủng khiếp”. Tấm
gương của nhân vật bi kịch là bài học đường đời giúp con người khắc phục nhược
điểm bản thân và khích lệ con người đấu tranh cho những lí tưởng, mục đích cao
đẹp. → Nhân vật bi kịch bao giờ cũng được người đời khẳng định sự chính đáng về mặt lịch sử.
5. Cái bi kịch với những sắc thái khác nhau trong những trạng huống khác nhau
- Bi kịch của những nhân vật chết trong đêm trường đen tối
+ Đây là dạng thức bi kịch lịch sử điển hình – bi kịch của cái mới, cái tiến bộ,
cái cách mạng nhưng còn ở trong thế yếu, ở một hoàn cảnh đã nảy sinh nhu cầu tất
yếu thay đổi lịch sử hiện hành nhưng điều kiện để thực hiện nó lại chưa chín muồi. 14
+ Nhân vật bi kịch trong đây không đại diện cho cá nhân, cho một bộ phận
người nhỏ bé, mà đại diện cho giai cấp, dân tộc, cộng đồng, cho những trào lưu có ý
nghĩa xã hội rộng lớn. Do vậy, cái chết của họ là cái chết vĩ đại, có tác dụng thúc
đẩy mọi người lao vào cuộc đấu tranh cho lẽ phải, cho sự công bằng và tiến bộ xã
hội. VD: Nghĩa quân Yên Thế và Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân Bãi Sậy và Đinh
Công Tráng, Phạm Hồng Thái, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Lí Tự Trọng,…
- Bi kịch của các nhân vật chết trước bình minh
+ Đây cũng là một dạng thức bi kịch lịch sử - bi kịch của cái mới, cái tiến bộ,
cách mạng đã ở thể thắng toàn cục, nhưng một bộ phận nào đó lâm vào hoàn cảnh
lâm nguy và người anh hùng bị tiêu vong.
+ Sự hi sinh của nhân vật bi kịch trong đây là sự hi sinh ở một thời điểm quan
trọng – trước ngưỡng cửa chiến thắng. Sự hi sinh đó có ý nghĩa làm bật tung cánh
cửa, đưa mọi người tràn ra ánh sáng từ bóng tối. Bi kịch này có khi còn được gọi là bi hùng kịch.
VD: Môrôdôca, Mêtêlitxa,… và các anh hùng trong Chiến bại (1927),
Kôsevôi, Tulenin, Đemnukhôp,… trong Đội cận vệ thanh niên (1943) của Phađeep;
Hùng và Rin trong Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn, chị Võ Thị Sáu trong bài hát
Mùa hoa lêkima nở;…
- Bi kịch của cái cũ những chưa cũ hẳn
+ Điều kiện của bi kịch này là cái cũ chưa trở thành cái phản động mà ít nhiều
vẫn còn mang sứ mệnh lịch sử. Bản thân cái cũ còn tin vào tính chất hợp lí của nó.
+ Bi kịch này chủ yếu không phải do xung đột giữa cái cũ và cái mới sinh ra,
mà là bi kịch của những người chưa nhận ra được tính tất yếu của quá trình đang
chết dần của cái cũ nên vẫn ra sức bảo vệ nó nên không tránh khỏi sự thất bại, tiêu
vong. VD:VuaHàmNghi(1884lênngôi,1885 khởinghĩa, 1888bịbắt,1943chết);
vua Duy Tân (1907 lên ngôi, 1916 bị bắt, 1945 chết, 1987 di hài được đưa về Huế); …
- Bi kịch của sự lầm lẫn, kém hiểu biết hoặc ngu dốt
+ Về cơ bản, nhân vật bi kịch trong đây đều là những người tốt, có nhân cách
hoặc có động cơ sống tử tế. Bi kịch của sự lầm lẫn được nêu ra như một bài học
xương máu nhắc nhở con người. VD: An Dương Vương: mất cảnh giác, quá tin kẻ
địch, lẫm lẫn chuyện gia đình và chuyện quốc gia nên mất Loa Thành, phải giết con
gái và tự vẫn; bi kịch trong Sự tích Trầu Cau, Hòn vọng phu; Ơđip không đủ khả
năng phân biệt được những cái phức tạp, ghê gớm của cuộc đời; Ôtenlô vì quá tin kẻ
địch nên đã giết chết người yêu quí của mình;…
+ Trong đời sống, sự kém hiểu biết, ngu dốt của con người cũng có thể gây ra
những bi kịch. Bi kịch này không do lực lượng xã hội nào gây nên, mà thường do cá
nhân tự chuốc lấy, mắc phải do chưa biết được giới hạn của mình.
VD: Tai hoạ do điện giật, sấm sét đánh, do sóng thần, thiên tai, từ những cuộc thám hiểm,… 15
- Bi kịch của những khát vọng của con người trong những điều kiện ngặt
nghèo không thể thực hiện được
+ Dạng bi kịch này thể hiện những đau khổ, dằn vặt của cá nhân song lại
chạm đến lẽ sống, tình yêu, bổn phận của con người nên nó thường day dứt lòng
người.+ Nhân vật bi kịch trong đây không phải là người anh hùng xuất chúng song
là những người có phẩm chất, đáng yêu, đáng trọng. Do vậy, bi kịch của họ có ý
nghĩa tố cáo găy gắt những thế lực xấu xa và bản chất đen tối của xã hội.
VD: Thị Kính, Thuý Kiều, Lão Hạc, Chí Phèo, San, Thứ, Hộ, Matxlova, Anna Kerenina,…
Có thể nói, ở các trạng huống khác nhau, các dạng thức của cái bi kịch rất đa
dạng, thể hiện sự phức tạp của chính cuộc đời. Song dù ở trạng thái nào thì tình
huống của cái bi kịch cũng thuộc về những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn, ảnh
hưởng đến lẽ sống, tình yêu và thân phận của con người. Xung đột giữa cái cách
mạng và cái phản động trong đây phải được xem là trung tâm của cái bi kịch thời đại.
6. Bi kịch trong các loại hình nghệ thuật
Cái bi kịch trong nghệ thuật là sự phản ánh, khám phá, sáng tạo cái bi kịch
trong đời sống. Mức độ khai thác cái bi kịch trong mỗi loại hình nghệ thuật phụ
thuộc vào tính đặc thù của chất liệu mà loại hình nghệ thuật đó sử dụng, vào thời đại
lịch sử xã hội với những câu chuyện tâm thức riêng và phụ thuộc đặc biệt vào tài
năng của mỗi cá nhân nghệ sĩ. VD:
- Trong điêu khắc, hội hoạ: Các tranh Chúa chịu nạn, Người khổng lồ bị trói
(Mikenlanggiolo, Trục xuất Ađam – Eva ra khỏi vườn đại đàng (Macsacio), Người
suy tư (Rođanh), Marat (Đavit), Những người kéo thuyền trên sông Vônga (Rêpin), …
- Trong âm nhạc: Sônat ánh trăng (Bithoven), Hồn tử sĩ (Lưu Hữu Phước),
Trầu Cau (Phan Huỳnh Điểu), Trương Chi, Buồn tàn thu (Văn Cao),…
- Trong văn chương, sân khấu, phim nghệ thuật: Quan Âm Thị Kính, Ngêu Sò
Ốc Hến, Hồn Trương Ba - da hàng thịt, Prômete bị xiềng, Ơđip vua, Ăngtigôn,
Hămlét, Rômêo và Giuliet, Lơ Xit, Chí Phèo, Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn, Thời xa
vắng,…Có thể nói, với những ưu thế đặc biệt của chất liệu mà văn chương, sân khấu
và phim nghệ thuật có nhiều tiềm năng hơn cả trong việc thể hiện những uẩn khúc,
trạng thái phức tạp của bi kịch con người. Câu hỏi ôn tập:
1. Khái niệm về cái bi kịch? Các đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của cái bi kịch?
Các dạng thức cơ bản của cái bi kịch?
2. Phân tích các đặc trưng thẩm mĩ của cái bi kịch được thể hiện cụ thể qua
các hình tượng nhân vật:
- Hămlét, Ôtenlô trong các kịch bản của Sêcxpia;
- Chí Phèo, lão Hạc, Hộ, Điền trong các truyện ngắn của Nam Cao. 16
II. Cái hùng (cái hùng vĩ)
1. Phương diện từ ngữ
Theo nghĩa thông thường, “hùng vĩ” tức “mạnh mẽ”, “lớn lao”. Theo nghĩa
Hán – Việt, “hùng vĩ” tức “mạnh mẽ”, “lớn lao”. Thuật ngữ “sublime” trong tiếng
Pháp từ lâu đã được dịch sang tiếng Việt với nhiều ý nghĩa khác nhau. Có người gọi
là “cái cao thượng”, “cái vĩ đại”, “cái cao cả”; có người gọi là cái “trác tuyệt”, “trác
việt” (xem GS. Hoàng Xuân Nhị trong bản dịch Những phạm trù mĩ học cơ bản của
Bôrep, TS. Đỗ Văn Khang trong Mĩ học đại cương, Mĩ học Mác – Lê nin). Trong
khi đó, yêu cầu đặt ra đối với các thuật ngữ mĩ học là chúng phải thể hiện được các
đặc tính thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng cả về mặt tự nhiên và xã hội, cả về vật chất
lẫn tinh thần. Do vậy, những cách diễn đạt trên vẫn chưa thoả mãn yêu cầu đó (thuật
ngữ cái cao cả, cao thượng nghiêng về phạm trù đạo đức; cái to lớn, vĩ đại thiên về
định lượng vật chất; cái trác tuyệt, trác việt lại nghiêng về mặt tinh thần ). Một phạm
trù mĩ học có khả năng nhiều hơn trong vệc thoả mãn yêu cầu trên chỉ có thể là cái
hùng (hay cái hùng vĩ).
2. Định nghĩa về cái hùng vĩ
Cái hùng vĩ là môt phạm trù mĩ học dùng để chỉ thực tại thẩm mĩ, bao quát
các hiện tượng tự nhiên và xã hội có sức mạnh vượt trội, lớn lao cả về vật chất lẫn
tinh thần, có khả năng tác động mạnh mẽ theo các chiều hướng khác nhau tới đời
sống vật chất và tinh thần của con người.
Phạm trù cái hùng vĩ chưa được nghiên cứu thoả đáng, triệt để trong mĩ học.
Xung quanh vấn đề này còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí có cả sự đối
lập và chồng chéo. Các định nghĩa được nêu ra trong các giáo trình, từ điển chưa
làm thoả mãn giới nghiên cứu. Sécnưsepxki cho rằng: “Cái hùng vĩ là cái lớn hơn,
mạnh hơn rất nhiều lần những hiện tượng khác mà chúng ta đem so sánh”. Tuy
nhiên, định nghĩa này cũng không tránh khỏi sa vào định lượng. Để hiểu rõ về phạm
trù mĩ học này, chỉ có thể phân tích các đặc trưng thẩm mĩ của nó.
3. Các đặc trưng thẩm mĩ của cái hùng vĩ
- Cái hùng vĩ chỉ một thực thể lớn hơn, mạnh hơn gấp nhiều lần những thực
thể xung quanh khi ta đem so sánh (về qui mô, kích thước, tầm vóc, cả trong vật chất lẫn tinh thần).
VD: + Dãy Tam Đảo, dãy Ba Vì, dãy Himalaya, Chômôlungma cao hơn 8000 m. .
+ Danh tướng Trần Hưng Đạo với tài năng, phẩm chất siêu việt và công
lao to lớn với tổ quốc, với nhân dân. Trần Hưng Đạo (1228 – 1300) là danh nhân
kiệt xuất của dân tộc, danh nhân quân sự cổ kim thế giới. Ông là con trai Trần Liễu
(anh ruột Trần Cảnh – Trần Thái Tông). Thái Tông lấy Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh)
12 năm (19 tuổi) vẫn chưa có con. Thủ Độ bắt Thái Tông bỏ Chiêu Thánh, giáng
xuống làm công chúa, đem Thuận Thiên (vợ Trần Liễu đã có thai) vào làm hoàng
hậu. Trần Liễu làm loạn, Thái Tông bỏ lên Yên Tử. Độ gọi về. Hai anh em khóc. Độ
nói: Ta chỉ là con chó săn thôi. Chưa biết anh em bay ai thuận ai nghịch. Độ tha cho
Liễu, cắt đất cho. Trần Quốc Tuấn được nuôi dạy văn võ từ nhỏ. Liễu muốn con báo
thù. Trần Quốc Tuấn học giỏi, xuất chúng, luôn đặt lợi ích đất nước lên trên thù nhà, 17
vun trồng khối đoàn kết trong họ Trần, tạo sức mạnh cho thế nước. Ông là Tiết chế
trong ba lần đánh quân Nguyên. Ông viết Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ. . là
người thương dân, yêu quân; nhân nghĩa, lễ, trí dũng đủ cả. Khi mất, ông yêu cầu
hoả táng, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. . Trần Quốc Tuấn là
bậc Đại Nhân, Đại Trí, Đại Dũng – bậc đại anh hùng trong thiên hạ.
+ Thánh Gióng: Tài năng, sức mạnh vô địch; phẩm chất cao đẹp (lập công
xong không đòi hỏi trả công: chức tước, bổng lộc. . Ông trả lại tất cả những gì của
cõi trần để bay về trời.
- Cái hùng vĩ là cái mang tính vô tận và tính tuyệt đối về sức mạnh ẩn chứa bên trong.
+ Sức mạnh vật chất. VD: biển cả khi sóng gió, núi lửa phun nham thạch
(khác bình thường). VD: Thánh Gióng có sức mạnh như vũ bão của lòng yêu nước.
Sức mạnh ấy có thể nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước. .
+ Sức mạnh tinh thần. VD: Hình tượng Lêvinxon trong Chiến bại (1927) của Phadeev.
- Trước hiện tượng được gọi là cái hùng vĩ, con người thường có thái độ thẩm
mĩ đặc trưng. Về cơ bản, đó là thái độ tích cực biểu hiện ở sự thán phục, tự hào
(giống nòi, lứa tuổi, thế hệ. .) trước tư thế, hành động và chiến công của người anh
hùng. Tuy nhiên, đó còn có thể là thái độ, cảm xúc tiêu cực như cảm thấy nhỏ bé,
yếu ớt trước cái hùng vĩ của tự nhiên (sóng cả, sẫm sét, sóng thần, động đất. .).
4. Cái hùng vĩ trong nghệ thuật
- Bởi sử dụng các chất liệu đặc thù nên các loại hình nghệ thuật khác nhau có
khả năng thể hiện cái hùng vĩ ở những chiều sâu khác nhau. Cái hùng vĩ trong nghệ
thuật là sự thể hiện sáng tạo cái hùng vĩ trong đời sống và luôn có xu hướng hướng
con người vươn tới sự đồng vọng với cái vĩ đại.
- Cái hùng vĩ trong văn học được thể hiện sinh động trong tất cả các loại hình,
loại thể, đặc biệt là trong loại hình tác phẩm sử thi (anh hùng ca) và truyện. VD: Iliát,
Ôđixê, Đam San. ., các anh hùng trong Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ Hử, Thạch Sanh,
Lục Vân Tiên, Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Người mẹ cầm súng, Sống như Anh. .
- Cái hùng vĩ cũng được thể hiện sinh động trong các loại hình nghệ thuật
khác: + Điêu khắc: tượng Bà mẹ (Nga), tượng Trần Hưng Đạo (ở Nam Định, cao
16,7 m) tượng Nguyễn Huệ ở Bình Định cao 21,6 m. .
+ Hội hoạ: Những người Côdắc ở Rapôrôgiơ (Rêpin), Thần Tự do trên chiến luỹ (Đờlacaroa). .
+ Nhạc: Bản giao hưởng anh hùng của Betthôven, Trường ca sông Lô của
Văn Cao, Du kích Sông Thao của Đỗ Nhuận. . CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm cái hùng vĩ? Nêu các đặc trưng cơ bản của cái hùng vĩ?
2. Phân tích các đặc trưng cơ bản của cái hùng vĩ được thể hiện cụ thể qua
hình tượng Thánh Gióng trong truyện dân gian Thánh Gióng? 18 III. Cái đẹp
1. Phương diện từ ngữ, thuật ngữ
- Theo tiếng Hán, đẹp – tức “mĩ”:
+ Những khoái cảm của giác quan (mĩ mãn).
+ Sự phán đoán luân lí (thiện).
+ Đặc điểm của đối tượng thẩm mĩ (cái làm ta thích thú).
- Cần phân biệt cái đẹp và vẻ đẹp: “cái đẹp” là phạm trù đẹp ở nội dung, ở bản
chất, còn “vẻ đẹp” là phạm trù chủ yếu nhấn mạnh vào cái có hình thức đẹp.
2. Định nghĩa cái đẹp
Cái đẹp được xem là phạm trù cơ bản và trung tâm của mĩ học dùng để chỉ
thực tại thẩm mĩ, là phạm trù xác định, đánh giá các hiện tượng theo quan điểm về
sự hoàn thiện, xem các hiện tượng đó như là có giá trị cao nhất, tích cực nhất về mặt thẩm mĩ.
3. Bản chất của cái đẹp
- Cái đẹp là cái có sự hài hoà hai hay nhiều sự vật, hay nhiều mặt hỗ trợ
nhau, bổ sung nhau, nương tựa nhau.
VD:+Mộtviênngọc:kíchcỡ, đườngnét,màusắc,tỉ lệđộmài..
+ Một bông hoa: màu sắc hình dáng, hương thơm. . + Một cảnh vật:
mây cho gió lên trời
Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng
+ Một con người đẹp: tài năng, phẩm chất => cao quý.
- Cái đẹp là cái hài hoà ở trình độ cao nhất
VD: Một viên ngọc phải được mài dũa đến một mức độ nhất định nào đó thì
mới được coi là đẹp (không thể kém, không thể hơn mà phải đến “độ”). Một cái cây,
một con vật, một con người được coi là đẹp cũng là lúc nó ở giai đoạn đỉnh cao của
sức sống, của tuổi thanh xuân, sự trẻ trung, cân đối, sức mạnh và năng lực. .
- Cái đẹp là cái hài hoà ở mức tổng hợp được nhiều mặt nhất
VD: + Tỉ lệ, đường nét, màu sắc kích cỡ, hình dáng, độ nhẵn. . của một viên ngọc.
+ Sự tổng hợp nhiều phẩm chất ở giai đoạn đỉnh cao và rực rỡ nhiều mặt của con người.
- Cái đẹp là cái mang tính tích cực nhất
Đó là sự tác động mĩ cảm tích cực mang lại niềm vui sướng, sự thích thú,
thoải mái cho con người khi thưởng thức (như khi ngắm nhìn, tiếp xúc một viên
ngọc, một bông hoa, một con vật, một cá nhân nào đó. .). Cái đẹp trong nghệ thuật là
sự thống nhất hài hoà cao độ giữa nội dung và hình thức và mang lại cho con người
những lợi ích tinh thần to lớn, tích cực: nhận thức – dự báo, thẩm mĩ – giải trí, giao tiếp – giáo dục. .
- Cái đẹp là cái đáng mơ ước nhất vì nó là đỉnh cao của đời sống thẩm mĩ (cả
trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật) 19
→ Nguyên tắc hài hoà là qui luật của thành công, của cái đẹp. Nói khác đi,
qui luật của cái đẹp chính là qui luật của sự hài hoà, hoàn thiện, vươn tới các giá trị
Chân – Thiện – Mĩ cao nhất.
4. Các loại cái đẹp khách quan
* Thế giới các sự vật đẹp: cái đẹp trong thế giới sự vật - thế giới vô cơ rất
phong phú, đa dạng. Có cái đẹp của viên đá, có cái đẹp của chiếc vỏ sò, có cái đẹp
của đêm trăng, của mặt hồ,. .
* Thế giới thực vật đẹp: cái đẹp xuất hiện trong một thế giới có phần sinh
động hơn. Có cái đẹp của cây mai, cây tùng, có cái đẹp của cây liễu, cây bạch dương,. .
* Thế giới con vật đẹp: TG các con vật đẹp đã đa dạng, sinh động hơn nhiều
so với thế giới vô cơ. VD: Các con tôm, cua, cá, ngựa,. . mỗi loài đều có vẻ đẹp
riêng (Xem tranh Tề Bạch Thạch, Từ Bi Hồng).
* Con người đẹp: Con người đẹp là đỉnh cao của cái đẹp trong đời sống.
Người được coi là đẹp phải có sự kết hợp hài hoà giữa phẩm chất đẹp và hình thức
đẹp. Mĩ học mác – xit đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đẹp của con người.
- Các tiêu chuẩn thẩm mĩ của con người có phẩm chất đẹp (Theo Luxianov)
+ Người có phẩm chất đẹp là người kết hợp được hài hoà trong mình nhiều tài
năng và đức tính cao quí của con người (thể hiện qua từng hành vi, hành động và
chuỗi hành vi, hành động của họ).
Cần chú ý, tài năng và phẩm chất đều phải cao quí. Tài năng phải gắn với cái
có ích cho cộng đồng. Tài năng cao quí khác với tiểu xảo, hoặc tài năng có hại (kiểu
Hítle, Bá Kiến. .). Xét phẩm chất, đức tính của con người cần phải xét qua nhiều
mặt: phẩm chất chính trị, đạo đức, tư duy, kiến thức, bản lĩnh. .
VD: Ph. Ăngghen được xem là con người xuất chúng của nhân loại, là con
người đẹp nhất. Ông thông thạo 25 thứ tiếng, hiểu biết sâu rộng nhiều ngành KHTN
như: Toán, Lí, Hoá, Sinh. ., hiểu biết đặc biệt nhiều ngành KHXH như: Lịch sử,
Kinh tế học, Luật, Quân sự, Văn chương. . Ông là người đức độ: hi sinh thiên tài của
mình cho thiên tài của Mác (làm thư kí hãng buôn, viết bài về quân sự cho tờ Bưu
điện Oasinhtơn buổi chiều để hỗ trợ thêm tiền bạc cho Mác; bỏ ra 12 năm cuối đời
để hoàn thành bộ Tư bản cho Mác mà phải bỏ dở 3 tác phẩm quan trọng của mình
(Ba hình thức lớn của nô lệ loài người, Phép biện chứng của tự nhiên, Phơbach và
sự cáo chung của triết học cổ điển Đức); từ chối vinh quang: không nhận tên mình
trong những tác phẩm viết chung với Mác; sống thân thiết với mọi người như một
người bạn, người yêu; một đời trọn vẹn hi sinh vì sự nghiệp cách mạng vô sản, vì
mục đích cao cả giải phóng loài người. .
Thông tin từ tiểu thuyết Mùa xuân của một thiên tài: Ăngghen là con nhà đại
tư sản (xưởng Gaxpa Ăngghen và các con); ông đọc Bêcơn, Buyphông, Đácuyn,
Loke, Đềcác; hiểu biết hơn cả thầy (kể các cuộc chiến quân sự, chiến thuật của quân
Ba Tư, Xêda, nhớ số liệu các trận đánh và nói bằng tiếng Hi Lạp cổ); sự tế nhị về
thẩm mĩ (“Tâm hồn sẽ đẹp gấp đôi nếu nó ở trong một thân thể khoẻ mạnh và đẹp
đẽ”); nhiệt thành sôi nổi; khinh bỉ thói đạo đức giả; đấu kiếm giỏi; nhà ngữ văn bẩm
sinh; ham đọc sách, làm thơ, chơi đàn dương cầm; căn phòng đẹp, ngăn nắp, gọn 20
gàng (sách vở, thanh kiếm, quả tạ,. .); làm thơ bằng tiếng Hi Lạp cổ; nhà thể thao
(đấu kiếm, bơi lặn, cờ tướng, bẫy chim, cưỡi ngựa,. .); sẵn sàng hiến dâng cuộc đời
mình vì những người thân yêu; ở bên cạnh ông mọi người luôn vui vẻ; khiếu âm
nhạc (mê Ramô, Bach); vẽ tranh giỏi, đặc biệt là tranh biếm hoạ; niềm tự hào của
mẹ ông, của bạn bè và đồng chí của ông; giản dị, khiêm nhường;. .
+ Người có phẩm chất đẹp là người có khát vọng tự do và đem lại sự tự do
cho mọi người xung quanh mà mình có liên quan tới.
VD: Ăngghen (sự tự do tinh thần, không bị trói buộc, chế định bởi tiền bạc,
danh vọng. .), Bác Hồ (không bao giờ tù hãm mình, luôn có khát vọng vượt thoát:
tìm đường cứu nước, không cam phận đất nước nô lệ → anh hùng giải phóng dân
tộc), Thuý Kiều, Nguyệt. .
+ Người có phẩm chất đẹp là người có lòng yêu đời và có khả năng làm lây
lan lòng yêu đời đó cho tất cả mọi người xung quanh.
VD: Ăngghen luôn không ngớt tiếng cười (đối lập với sự khắc kỉ, cứng nhắc
của người cha. .), Bác Hồ luôn lạc quan và biết trân trọng ý nghĩa của cuộc đời, ngay
cả khi ở vào tình thế bi đát nhất (chân dung Bác qua tập thơ NKTT: ngắm trăng,
“Thân thể ở trơng lao. Tinh thần ở ngoài lao. ., chị Út Tịch (còn cái lai quần cũng
đánh, khi mang bầu vẫn chiến đấu,. .)
+ Người có phẩm chất đẹp là người đáng yêu, gây được ấn tượng trong trái
tim mọi người như một người thân thiết, người bạn, người yêu.
VD: Những ai yêu cái đẹp đều yêu Ăngghen (niềm tự hào của mẹ, của bạn bè,
đồng chí ông); Bác Hồ: “Mong manh áo vải hồn muôn trượng. Hơn tượng đồng phơi
những lối mòn”, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người, “Người là cha, là bác, là anh.
Quả tim lớn đập trăm dòng máu đỏ”. .
+ Người có phẩm chất đẹp là người đáng say mê, si mê do những điều đã hiểu
và cả những điều chưa thấu hiểu. . VD: Ăngghen, Bác Hồ.
Cái đẹp tiềm ẩn bao ý nghĩa đích thực mà sự khám phá của người ta là không
cùng. -Hìnhthức đẹp (vẻ đẹpbề ngoài): + Khuôn mặt đẹp + Thân hình đẹp
+ Sự cân đối hài hoà giữa các phần của cơ thể.
Ăngghen viết: “Tâm hồn sẽ đẹp gấp đôi nếu nó ở trong một thân thể khoẻ mạnh và đẹp đẽ”.
+ Hình thức đẹp còn thể hiện qua trang phục, trang sức của con người.
→ Phẩm chất đẹp là sự tổng hợp tối ưu của các qui luật mang tính xã hội và
văn hoá còn hình thức đẹp chủ yếu là sự tổng hợp tối ưu các qui luật của tự nhiên.
* Xã hội đẹp: Xã hội đẹp là xã hội có sự hài hoà giữa các mặt: ăn, ở, đi lại,
văn hoá, giáo dục,. . thoả mãn được các nhu cầu căn bản về vật chất và tinh thần cho con người.
VD: XH thời Lê Thánh Tông (kinh tế phát triển, luật pháp nghiêm minh, văn
hoá phát triển cao: luật Hồng Đức, Tao đàn, vẽ bản đồ, khẳng định chủ quyền dân
tộc, chăm lo thi cử, Đại Việt sử kí toàn thư, minh oan cho Nguyễn Trãi,. .). 21