



















Preview text:
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THỐNG KÊ DOANH NGHIỆP
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA THỐNG KÊ DOANH NGHIỆP
Thống kê doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của thống kê nói chung,
ra đời và phát triển theo sự phát triển của quá trình sản xuất và phân công lao
động xã hội. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, thống kê doanh nghiệp đã
phát triển nhanh chóng về cả nội dung và hình thức. Tuy nhiên như chúng ta đã
biết: Nội dung của môn học thực chất chỉ là sự cụ thể hóa đối tượng nghiên cứu
của môn học và phương pháp nghiên cứu của môn học chính là phương tiện cần
thiết để tiếp cận hiệu quả đối tượng nghiên cứu của nó.
Xét một cách tổng quát, đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp
là một lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng và quá
trình kinh tế - tài chính số lớn phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh
nghiệp sản xuất, trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.
Là một bộ phận quan trọng của thống kê học, đối tượng nghiên cứu của
thống kê doanh nghiệp trước hết cũng có những đặc điểm chung giống đối
tượng nghiên cứu của thống kê học. Song thống kê doanh nghiệp cũng là một
môn khoa học xã hội độc lập nên đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh
nghiệp cũng có những nét đặc thù riêng
Đối tượng nghiên cứu của Thống kê doanh nghiệp được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu một lượng trong mối liên hệ
mật thiết với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế - tài chính. Mỗi
hiện tượng đều có hai mặt: Mặt chất và mặt lượng, hai mặt này luôn có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy, để nghiên cứu một cách khoa học một
lượng của các hiện tượng kinh tế - tài chính người làm công tác thống kê trước
hết cần phải hiểu rõ bản chất và quy luật phát triển của chúng. Nói một cách
khác, để nghiên cứu mặt lượng của các hiện tượng trước hết cần phải hiểu rõ
mặt chất của chúng. Ngược lại, qua một lượng cụ thể của các hiện tượng có thể
kiểm chứng được quy luật phát triển của các hiện tượng đó.
Thứ hai: Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính số lớn.
Hiện tượng kinh tế là việc tìm hiểu xem xã hội nói chung các doanh nghiệp
nói riêng sử dụng như thế nào với nguồn lực (lao động, đất đai, tài nguyên, khả
năng quản lý và công nghệ) là có hạn để sản xuất ra những hàng hóa (sản phẩm
vật chất, dịch vụ) cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu cầu vô hạn của các thành viên trong xã hội.
Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể
trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân
phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ
nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Hay nói vắn
tắt, tài chính là quá trình tạo lập, phân bổ và sử dụng các quỹ tiền tệ một cách chặt chẽ.
Như vậy, Thống kê doanh nghiệp không chỉ nghiên cứu tình hình sử dụng
tất cả những yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất trong doanh nghiệp
như: Lao động, tài sản cố định và nguyên, nhiên vật liệu tham gia vào quá trình
sản xuất, kết quả sản xuất mà còn nghiên cứu nguồn hình thành và tình hình sử
dụng các loại vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp là một lượng
của số lớn các hiện tượng kinh tế - tài chính (hay mặt lượng của tổng thể các
hiện tượng cá biệt). Thông qua mặt lượng của số lớn hiện tượng, tác động của
các nhân tố ngẫu nhiên đến mặt lượng của các hiện tượng cá biệt được bù trừ,
triệt tiêu, bản chất và tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu mới có khả năng
thể hiện rõ rệt. Mặt lượng của hiện tượng sau khi tổng hợp có thể biểu hiện
được bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, giữa hiện
tượng Bố lớn và hiện tượng cá biệt có quan hệ biện chứng. Hơn nữa trong quá
trình phát triển của hiện tượng kinh tế xã hội thường nảy sinh nhiều hiện tượng
cá biệt mới, tiên tiến. Vì vậy, cũng cần phải kết hợp nghiên cứu hiện tượng số
lớn và hiện tượng cá biệt để kết quả nghiên cứu được sâu sắc và toàn diện hơn
Thứ ba: Hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh ở mọi Enh vực, ngành từ
tầm vi mô đến tâm vĩ mô trong nền kinh tế, nhưng chỉ thuộc đối tượng nghiên
cứu của thống kê doanh nghiệp khi hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong
các doanh nghiệp sản xuất. Cùng với thời gian, đã có nhiều trường phái, quan
điểm khác nhau về sản xuất, nhưng theo quan niệm của các nhà kinh tế thị
trường cho rằng: Sản xuất là mọi hoạt động của con người với tư cách là cá
nhân hay một tổ chức bằng năng lực quản lý của mình, cùng với các yếu tố tài
nguyên, đất đai và vốn, sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích
và có hiệu quả, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho sản xuất, sử dụng cho nhu
cầu tiêu dùng cuối cùng của đời sống sinh hoạt hộ gia đình dân cư, nhà nước,
tích lũy tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội, xuất khẩu ra
nước ngoài. . Như vậy, theo quan niệm của các nhà kinh tế thị trường cho rằng
các hiện tượng kinh tế, tài chính phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất ra
sản phẩm vật chất, dịch vụ hữu ích đều thuộc đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp.
Thứ tư: Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài
chính phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp sản xuất, trong
điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.
Như phần trên đã phân tích, các hiện tượng phát sinh trong quá trình tái
sản xuất của doanh nghiệp bao gồm:
- Các hiện tượng phản ánh đầu vào của quá trình sản xuất như: Lao động,
đất đai, nguyên vật liệu. .
- Các hiện tượng phản ánh đầu ra như: Sản lượng, doanh thu. .
- Các hiện tượng phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp như các
chỉ tiêu thống kê khối lượng vốn và tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Các hiện tượng này luôn tồn tại trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất
định. Vì vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong
các doanh nghiệp sản xuất, thống kê doanh nghiệp luôn cần phải chú ý đến điều
kiện thời gian và không gian cụ thể của hiện tượng nghiên cứu.
Như vậy, Thống kê doanh nghiệp cần phải xác định: Các doanh nghiệp vừa
là đối tượng phục vụ, vừa là phạm vi nghiên cứu của mình.
Trong từng doanh nghiệp hạch toán thống kê bao gồm nhiều bộ phận:
Thống kê lao động - tiền lương, thống kê vật tư, thống kê giá thành,. . Các bộ
phận này tuy độc lập thi hành tác nghiệp chuyên môn của thống kê, nhưng vẫn
phải đảm bảo thống nhất ba bộ phận hạch toán (hạch toán thống kê, hạch toán
kế toán, hạch toán nghiệp vụ - kỹ thuật) trong một doanh nghiệp về nguồn số
liệu do chế độ ghi chép bạn đầu cung cấp.
2. VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA THỐNG KÊ DOANH NGHIỆP
2.1. Vai trò của thống kê doanh nghiệp
- Thống kê doanh nghiệp là một công cụ sắc bén, phục vụ đắc lực và có
hiệu quả cho công tác quản lý kinh tế của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Yêu cầu quản lý kinh tế của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cần
phải thu thập, xử lý các thông tin đa dạng, nhiều chiều. Thống kê doanh nghiệp
- một bộ phận hạch toán chủ yếu trong doanh nghiệp tiến hành thu thập các
thông tin kinh tế phong phú, cần thiết phục vụ cho việc ra các quyết định quản
lý. Đó là các thông tin về thị trường, thông tin về phương hướng sản xuất, thông
tin phục vụ tối ưu hóa sản xuất, thông tin phục vụ quản lý doanh nghiệp. .
Mặt khác, Thống kê doanh nghiệp còn tiến hành tổng hợp, phân tích và dự
báo các thông tin kinh tế đã thu thập được nhằm phục vụ cho các yêu cầu quản lý.
- Trên cơ sở phục vụ đắc lực công tác quản lý kinh tế của doanh nghiệp,
Thống kê doanh nghiệp cũng góp phần phục vụ công tác quản lý kinh tế của
ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
2.2. Nhiệm vụ của Thống kê doanh nghiệp
Là một môn khoa học thống kê đi sâu nghiên cứu các hiện tượng kinh tế -
tài chính trong doanh nghiệp, nhiệm vụ chung của thống kê doanh nghiệp là thu
thập, tổng hợp, phân tích và dự báo các thông tin thống kê doanh nghiệp, phục
vụ cho công tác quản lý kinh tế trong doanh nghiệp, ngành và toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp
thường kinh doanh đa dạng trên nhiều hnh vực, nhiều ngành nghề. Vì vậy,
nhiệm vụ của thống kê doanh nghiệp cũng khó khăn, phức tạp hơn. Một mặt,
Thống kê doanh nghiệp phải thu thập các thông tin phục vụ quản lý doanh
nghiệp, mặt khác Thống kê doanh nghiệp cũng phải thực hiện chế độ báo cáo
thống kê theo Luật thống kê liên quan đến nhiều ngành kinh tế quốc dân. Vì
vậy, Tổng cục Thống kê đã ban hành chế độ báo cáo chung cho các doanh
nghiệp, cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo quy định này, thống kê
doanh nghiệp có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Thu thập các thông tin liên quan đến các yếu tố đầu vào của quá
trình tái sản xuất của doanh nghiệp như: Giá cả, diễn biến của các thị trường
đầu vào ở trong và ngoài nước, tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất, dự trữ. .
Thứ hai: Thu thập thông tin phản ánh tình hình sản xuất, tiêu thụ, sản phẩm,
các thông tin chi phí sản xuất, giá thành, giá cả, chất lượng sản phẩm,. . Trên cơ
sở đó phát hiện nhu cầu thị trường để có phương án sản xuất hợp lý đối với từng mặt hàng.
Thứ ba: Cung cấp những thông tin cần thiết làm cơ sở để xây dựng chiến
lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian tới.
Thứ tư: Phân tích các thông tin đã thu thập làm cơ sở lựa chọn các giải
pháp củng cố và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích các
nhân tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong hiện tại hoặc tương lai.
Trên cơ sở các thông tin đã xử lý, thống kê tiến hành dự báo nhu cầu và
khả năng phát triển của doanh nghiệp, lập kế hoạch ngắn và trung hạn.
Thứ năm: Thường xuyên lập báo cáo thống kê định kỳ theo yêu cầu của
địa phương, của ngành chủ quản hoặc của các cơ quan thống kê. .
3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA
THỐNG KÊ DOANH NGHIỆP
3.1. Cơ sở lý luận của Thống kê doanh nghiệp
Toàn bộ lý thuyết của thống kê doanh nghiệp được gọi là lý luận của thống
kê doanh nghiệp. Hệ thống lý luận của Thống kê doanh nghiệp được xây dựng
dựa trên cơ sở: Kinh tế học nói chung, kinh tế học thị trường kinh tế vĩ mô và
kinh tế vĩ mô), đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Chính phủ của từng quốc gia và lý luận kinh tế các ngành sản xuất.
Kinh tế học nói chung, kinh tế học thị trường nói riêng là những căn cứ
quan trọng để thống kê doanh nghiệp xây dựng hệ thống chỉ tiêu Thống kê
doanh nghiệp một cách khoa học, chính xác. Kinh tế học đề cập đến các khái
niệm, các phạm trù, các quy luật kinh tế. Trên cơ sở các khái niệm, các phạm
trù, các quy luật này các nhà thống kê có thể xây dựng các chỉ tiêu thống kê
thích hợp. Nói cách khác, kinh tế học đã giúp cho các nhà thống kê nắm vững
nội dung kinh tế của các chỉ tiêu thống kê, từ đó lựa chọn phương pháp tính
toán, phân tích các chỉ tiêu đó một cách hợp lý.
Thống kê doanh nghiệp là một công cụ phục vụ công tác quản lý kinh tế.
Vì vậy, đường lối chính sách phát triển kinh tế - tài chính của Đảng và Chính
phủ của từng quốc gia trong từng thời kỳ cũng là một cơ sở lý luận quan trọng
của thống kê doanh nghiệp.
Lý luận của kinh tế các ngành sản xuất đề cập đến những đặc điểm kinh tế
- kỹ thuật của từng ngành. Đây cũng là căn cứ cần thiết để các nhà thống kê xác
định một cách cụ thể nội dung, phương pháp tính từng chỉ tiêu thống kê đối với
từng loại hình doanh nghiệp: Công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản,. .
3.2. Cơ sở phương pháp luận của Thống kê doanh nghiệp
Trong quá trình nghiên cứu, Thống kê doanh nghiệp sử dụng nhiều phương
pháp chuyên môn của Thống kê như: Phương pháp quan sát số lớn, phương
pháp phân tổ, phương pháp chỉ số,. .
Tổng hợp lý luận của các phương pháp này được gọi là phương pháp luận
của Thống kê doanh nghiệp. Cơ sở khoa học để xây dựng hệ thống lý luận các
phương pháp Thống kê doanh nghiệp được gọi là cơ sở phương pháp luận
Thống kê doanh nghiệp. Cơ sở phương pháp luận của Thống kê doanh nghiệp là
chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là khoa học về các quy luật chung nhất của
thế giới vật chất và tư duy, về các dạng vận động của vật chất. Trong đó, hiện
tượng kinh tế - tài chính là một dạng vận động cao nhất của thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp nhận thức thế giới và cải tạo thế
giới của giai cấp công nhân và chính đảng Mác - Lênin trong cuộc đấu tranh lật
đổ Chủ nghĩa tư bản, cũng như trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp.
Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không những phản ánh thế giới khách
quan, mà còn chỉ ra như những cách thức để định hướng cho con người trong
nhận thức và cải tạo thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý
luận nhận thức khoa học, vừa là lôgic khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong nghiên cứu khoa học, phép biện chứng duy vật giúp các nhà thống kê
phân tính đối tượng nghiên cứu một cách khách quan và khoa học. Phép BCDV
đã trở thành phương pháp luận chung nhất của nhân thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Thông qua các phạm trù, các quy luật chung nhất của sự vận động và phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đề cập
đến các nguyên lý, các quan điểm, các quy luật cơ bản. Đây chính là những căn
cứ cần thiết để hoạch định các phương pháp cho mọi hoạt động của con người.
Mặt khác, Thống kê doanh nghiệp cần phải dựa trên những nguyên lý cơ bản,
quy luật cơ bản và quan điểm cơ bản mà Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã vạch
ra để nhận thức sâu sắc bản chất của hiện tượng kinh tế - xã hội và đề ra phương
pháp nghiên cứu thích hợp.
Thống kê doanh nghiệp lấy Chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở được
biểu hiện tổng quát trên một số khía cạnh sau:
- Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng: Mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Mối
liên hệ của chúng diễn ra rất phong phú, đa dạng, nhiều hình, nhiều vẻ. Vì vậy,
khi xem xét các hiện tượng kinh tế - xã hội cần phải quán triệt quan điểm toàn
diện. Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình tái
sản xuất của doanh nghiệp, thống kê cần phải xem xét chúng một cách toàn diện,
trong mối quan hệ biện chứng, mối quan hệ nhân quả. Để làm được điều này,
Thống kê doanh nghiệp đã sử dụng nhiều phương pháp để nghiên cứu mối liên
hệ giữa các hiện tượng kinh tế - xã hội như: Phương pháp phân tổ, phương pháp
chỉ số, phương pháp dãy số biến động theo thời gian. .
- Theo nguyên lý về sự về sự phát triển: Mọi sự vật hiện tượng luôn luôn ở
trong trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Sự vận động và biến đổi của
thế giới khách quan diễn ra theo khuynh hưởng tiến lên, đó chính là sự phát
triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không những khẳng định sự phát triển của
thế giới, mà còn đi sâu giải thích cách thức, nguồn gốc, động lực và khuynh
hưởng của sự phát triển. Vì vậy, quán triệt quan điểm phát triển là một nguyên
tắc chỉ đạo mọi hành động và suy nghĩ của con người. Căn cứ vào nguyên lý
này, thống kê doanh nghiệp đã xây dựng các phương pháp nghiên cứu sự biến
động của các hiện tượng kinh tế - xã hội, phát sinh trong quá trình tái sản xuất
của doanh nghiệp như: Phương pháp chi số, phương pháp dãy số biến động theo thời gian,. .
Các phương pháp này không những đã chỉ ra xu hướng biến động của các
hiện tượng, mà còn vạch rõ mức độ ảnh hưởng của các nhân tố cơ bản đến sự biến động đó.
Từ các nguyên lý trên, Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn đề cập đến các
cặp phạm trù như: Cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản chất - hiện
tượng, nội dung : hình thức, nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực. Các
cặp phạm trù này là cơ sở phương pháp luận trực tiếp của các phương pháp tổng
hợp và phân tích thống kê. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn đề cập đến các
quy luật cơ bản, có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con
người. Các quy luật này vạch rõ: Nguồn gốc, động lực, cách thức và xu hướng
phát triển của sự vật hiện tượng. Đó là các quy luật: Quy luật mâu thuẫn, quy
luật lượng chất, quy luật phủ định của phủ định.
Trên cơ sở vận dụng các nguyên lý, các cặp phạm trù, các quy luật trên,
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa ra các quan điểm cơ bản để nhận thức và
cải tạo thế giới. Đây chính là cơ sở phương pháp luận chung nhất, vô cùng quan
trọng để thống kê doanh nghiệp xây dựng hệ thống các phương pháp thu thập,
tổng hợp, phân tích và dự đoán thống kê.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1
1. Trình bày cơ sở lý luận và cơ sở phương pháp luận của thống kê doanh
nghiệp? Cơ sở đó được thể hiện như thế nào trong mối quan hệ giữa việc sử
dụng lao động và thù lao cho việc sử dụng lao động đó?
2. Phân tích rõ đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp? Đối
tượng đó được thể hiện như thế nào trong mối quan hệ giữa kết quả sản xuất và
trình độ sử dụng lao động trong doanh nghiệp?
3. Nêu vai trò và nhiệm vụ của thống kê doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay?
4, Phép biện chứng được thể hiện như thế nào trong cơ sở lý luận và cơ sở
phương pháp luận của thống kê doanh nghiệp?
CHƯƠNG 2 THỐNG KÊ KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Hoạt động sản xuất và hoạt động sản xuất kinh doanh
Từ năm 1992 trở về trước, Việt Nam đã vận dụng hệ thống Bảng cân đối
kinh tế quốc dân (MPS , Material Product System) hình thành phương pháp luận
tình chỉ tiêu sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân. . trên cơ sở đó lập bảng cân
đối tổng hợp. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu thuộc hệ thống MPS:
Trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế phân chia thành hai khu vực: Khu vực
sản xuất vật chất và khu vực không sản xuất vật chất. Chỉ có lao động trong khu
vực sản xuất mới trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, hay nói cách
khác; sản xuất là các hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã hội; còn khu vực
không sản xuất không tham gia trực tiếp sản xuất ra của cải xã hội mà chỉ tiêu
dùng của cải xã hội đó. Thu nhập của các thành viên trong khu vực không sản
xuất là do quá trình phân phối lại thu nhập đã tạo ra từ khu vực sản xuất.
Từ năm 1992 trở lại đây. Việt Nam đã vận dụng hệ thống Tài khoản quốc
gia (SNA - System of National Accounts), theo quan niệm của các nhà nghiên
cứu thuộc hệ thống này; Sản xuất là mọi hoạt động của con người với tư cách là
có nhân hay một tổ chức bằng năng lực quản lý của mình, cùng với các yếu tố
tài nguyên, đất đai và uốn, sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu
ích và có hiệu quả, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho sản xuất, sử dụng cho
nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của đời sống sinh hoạt hộ gia đình dân cư, nhà
nước (xã hội), tích lũy tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội,
xuất khẩu ra nước ngoài.
Trong các doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhàm thỏa mãn nhu cầu của các đối tượng tiêu dùng không tự làm được hoặc
không đủ điều kiện để tự làm được những sản phẩm vật chất, dịch vụ mà mình
có nhu cầu. Những hoạt động này sáng tạo ra sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ để
bán cho người tiêu dùng nhằm thu được tiền công và lợi nhuận kinh doanh.
Phân biệt hoạt động sản xuất tự cấp, tự túc với hoạt động sản xuất kinh
doanh của một đơn vị là điều kiện cần thiết đảm bảo độ chính xác của các thông tin thống kê.
Giống nhau: Đó là đều sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra các sản
phẩm vật chất và phi vật chất nhằm đáp ứng cho mục đích đã định trước của người sản xuất. Khác nhau:
Sản xuất tự cấp, tự túc Sản xuất kinh doanh
- Mục đích sản xuất thỏa mãn nhu cầu của
- Mục đích là thu ạ nhuận tối đa. người sản xuất - Quy mô sản xuất nhỏ.
- Quy mô sản xuất tùy thuộc vào nhu cầu thị
trường và năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
- Không cần so sánh về chất lượng, mẫu mã,
- Luôn quan tâm đến so sánh chất lượng, mẫu hình thức. .
mã với các doanh nghiệp khác.
- Không cần được xã hội thừa nhận
- Phải được xã hội thừa nhận
- Không cần hạch toán kinh tế
- Luôn tiến hành hạch toán kinh tế
- Không cần quan tâm đến thông tin giá cả thị |- Luôn quan tâm đến thông tin giá cả thị trường. trường
1.2. Khái niệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản
phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản phẩm vật chất hoặc
sản phẩm phi vật chất. Những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và
trình độ văn minh của tiêu dùng xã hội. Nó phải được người tiêu dùng chấp nhận.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do lao động sản
xuất của doanh nghiệp làm ra, phải đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định cho loại sản phẩm đó.
- Đáp ứng được một yêu cầu tiêu dùng cụ thể của cá nhân hoặc cộng đồng.
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo
lợi ích người tiêu dùng và doanh nghiệp.
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh phải mang lại lợi ích kinh tế
chung cho tiêu dùng xã hội.
1.3. Các dạng biểu hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
* Căn cứ vào mức độ hoàn thành của sản phẩm kết quả sản xuất bao gồm:
| - Thành phẩm: Là sản phẩm đã trải qua toàn bộ các khâu của quá trình
sản xuất của doanh nghiệp, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật mà doanh nghiệp để ra, đã
được tiến hành kiểm tra chất lượng và đã hoặc đang làm thủ tục nhập kho (trừ
một số loại sản phẩm có quy định riêng, không phải kiểm tra chất lượng sản
phẩm và không phải làm thủ tục nhập kho: Sản xuất điện năng, nước sạch, nước đá,v,v. .)
Bán thành phẩm (nửa thành phẩm): Là sản phẩm đã dược hoàn thành ở
một hoặc một số khâu trong các công đoạn sản xuất của doanh nghiệp nhưng
chưa đến khâu sản xuất cuối cùng. Bán thành phẩm có đủ tiêu chuẩn chất lượng
của các giai đoạn công nghệ đã qua chế biến có thể đem tiêu thụ được, trường
hợp này được coi như sản phẩm hoàn thành. Bán thành phẩm có thể tiếp tục chế
biến ở các giai đoạn công nghệ tiếp theo để trở thành sản phẩm hoàn chỉnh của
doanh nghiệp. Bộ phận bán thành phẩm tiếp tục chế biến coi là sản phẩm chưa
hoàn thành của doanh nghiệp.
- Sản phẩm sản xuất dở dang: Là sản phẩm đã được hoàn thành ở một hoặc
một số khâu của quy trình sản xuất nhưng chưa đến khâu sản xuất cuối cùng và
hiện tại đang được chế biến ở một khâu nào đó. Nó không đem đi tiêu thụ được.
* Căn cứ vào vị trí (vai trò) của sản phẩm: Kết quả sản xuất bao gồm:
- Sản phẩm chính: Là sản phẩm thu được thuộc mục đích chính của quy trình sản xuất.
- Sản phẩm phụ: Là sản phẩm thu được thuộc mục đích phụ của quy trình sản xuất.
- Sản phẩm song đôi: Là hai hoặc nhiều sản phẩm cùng thu được với sản
phẩm chính trong một quy trình sản xuất.
Kèm với các loại sản phẩm trên là các hoạt động của doanh nghiệp
- Hoạt động sản xuất chính là hoạt động tạo ra giá trị gia tăng nhiều nhất
của một đơn vị sản xuất.
- Hoạt động sản xuất phụ: Là các loại hoạt động của một đơn vị sản xuất
được thực hiện nhằm tận dụng các yếu tố dôi thừa của hoạt động chính để sản
xuất ra các sản phẩm phụ nhưng giá trị gia tăng của nó phải nhỏ hơn giá trị gia
tăng của hoạt động sản xuất chính.
* Căn cứ vào đơn vị đo lường của kết quả sản xuất kinh doanh:
Kết quả sản xuất của doanh nghiệp gồm:
- Kết quả được đo bằng đơn vị hiện vật, là chỉ tiêu phản ánh khối lượng
sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra được đo bằng các đơn vị hiện vật như:
Cái, con, chiếc, mét, lít. .
Chỉ tiêu sản phẩm hiện vật chỉ dùng cho một loại sản phẩm có cùng quy
cách. Đối với sản phẩm cùng loại nhưng khác nhau về quy cách, để tổng hợp
thống kê sử dụng sản phẩm tính theo đơn vị hiện vật quy ước. Chỉ tiêu phản ánh
lượng sản phẩm tính đổi từ lượng sản phẩm cùng tên nhưng khác nhau về mức
độ, phẩm chất và quy cách được tính như sau:
Lượng sản phẩm quy ước = Σ (lượng sản phẩm x hộ số tính đổi)
Q = Σ (qi x Hi) H: Hệ số tính đổi.
Q: Sản lượng hiện vật quy ước
qi: Sản lượng hiện vật với quy cách i.
Hệ số tính đổi (Hi) được xác định căn cứ vào tính chất biểu thị, giá trị sử
dụng, lao động hao phí để sản xuất sản phẩm. . và được xác định theo công thức:
Đặc t í nhcủ asản phẩ mc ần đư av ềquy ướ c Hi =
Đặc t í nhcủ as ản phẩ mquy ướ c
- Kết quả sản xuất được đo bằng đơn vị giá trị: Là chỉ tiêu phản ánh kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị bằng đơn vị tiền tệ. Tùy theo
cách chọn đơn vị tiền tệ khác nhau như: Đồng Việt Nam, Đôla Mỹ, Kíp Lào,
Bảng Anh. . ta sẽ có các chỉ tiêu kết quả được đo bằng những đơn vị khác nhau.
Tất cả các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thuộc hệ thống tài khoản quốc gia được
phản ánh theo giá trị thông qua giá cả bao gồm hai loại giá.
Thứ nhất: Giá thực tế của năm báo cáo giá hiện hành).
Thứ hai: Giá so sánh giá cố định) là giá trị của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
thực tế của năm báo cáo tính theo giá thực tế của năm gốc. Mục đích nhằm loại
bỏ ảnh hưởng của giá cả khi nghiên cứu sự biến động của các chỉ tiêu kinh tế theo thời gian.
- Kết quả sản xuất của doanh nghiệp còn được đo bằng đơn vị thời gian: Là
chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh bằng các đơn vị: Giờ, ngày, ca.
1.4. Những nguyên tắc chung tính kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Tính cho các đơn vị thường trú (là các đơn vị có thời gian hoạt động trên
lãnh thổ của quốc gia sở tại từ một năm trở lên).
- Phải là kết quả trực tiếp do lao động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp làm ra trong kỳ. Do vậy, các doanh nghiệp không tính vào kết quả sản
xuất kinh doanh của mình những kết quả thuê bên ngoài làm. Ngược lại doanh
nghiệp được tính vào kết quả của mình các hoạt động làm thuê cho bên ngoài.
- Không tính trùng giá trị luân chuyển nội bộ trong doanh nghiệp (trường
hợp được tính trùng thì Chính phủ của từng quốc gia sẽ quy định cụ thể cho
từng doanh nghiệp, từng ngành).
- Chi tính kết quả hữu ích, tức là chỉ tính những sản phẩm đủ tiêu chuẩn
nằm trong khung chất lượng đã được quy định cụ thể cho loại sản phẩm ấy,
hoặc sản phẩm đã được người tiêu dùng chấp nhận,
- Chỉ tính kết quả đã hoàn thành trong kỳ báo cáo.
- Tính theo hai loại giá: Giá so sánh (cố định) và giá hiện hành.
2. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
2.1. Giá trị sản xuất (GO)
Giá trị sản xuất của doanh nghiệp là toàn bộ giá trị của các sản phẩm vật
chất và dịch vụ hữu ích do lao động của doanh nghiệp làm ra trong một thời kỳ
nhất định, thường là tháng, quý, năm.
Để tính đúng, đủ chỉ tiêu giá trị sản xuất, các doanh nghiệp, ngành phải
tuân thủ các nguyên tắc chung đã kể trên. Vì vậy, GO của các ngành thường bao
gồm các nội dung chủ yếu sau:
1. Giá trị thành phẩm đã sản xuất trong kỳ
2. Giá trị bán thành phẩm đã tiêu thụ trong kỳ.
3. Giá trị phụ, phế phẩm, thứ phẩm, phế liệu đã tận thu để sử dụng hoặc tiêu thụ trong kỳ.
4. Giá trị các công việc được tính theo quy định đặc biệt.
5. Chênh lệch giá trị sản xuất dở dang cuối kỳ so với đầu kỳ.
6. Tiền thu được do các hoạt động dịch vụ làm cho bên ngoài.
Tuy nhiên, do mỗi ngành sản xuất đều có những đặc điểm riêng, vì vậy chỉ
tiêu G0 trong các ngành khác nhau nội dung cụ thể có khác nhau đôi chút. Sau
đây là nội dung, phương pháp tính chỉ tiêu giá trị sản xuất của một số hoạt động
chủ yếu trong doanh nghiệp.
2.1.1. Giá trị sản xuất của doanh nghiệp công nghiệp 2.1.1.1. Nguyên tắc tính
- Được tính cho các đơn vị là doanh nghiệp công nghiệp thường trú.
- Được tính toàn bộ kết quả trực tiếp, hữu ích do hoạt động sản xuất công
nghiệp của doanh nghiệp tạo ra.
- Tính toàn bộ giá trị thành phẩm mà doanh nghiệp đã tạo ra trong kỳ (đối
với những doanh nghiệp sản xuất bằng nguyên vật liệu của khách hàng, nếu giá
trị nguyên vật liệu của khách hàng đem đến quá lớn so với tiền công chế biến,
khi tính GO chỉ được tính tiền công chế biến - tùy theo đặc điểm của từng quốc
gia sẽ có quy định cụ thể cho các loại hình doanh nghiệp này).
- Giá trị sản xuất của doanh nghiệp và ngành công nghiệp được tính theo
phương pháp công xưởng, nghĩa là tính kết quả cuối cùng của hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp. Theo phương pháp này loại trừ tình trạng tinh trùng
trong nội bộ doanh nghiệp.
- Kết quả sản xuất của thời kỳ nào thì tính vào thời kỳ đó, không đem kết
quả sản xuất của thời kỳ này tính cho thời kỳ khác và ngược lại. Nghĩa là khi
xác định giá trị sản xuất, ngoài phần giá trị sản phẩm và công việc có tính chất
công nghiệp hoàn thành và bán ra ngoài trong kỳ, còn phải tính chênh lệch giá
trị sản phẩm dở dang cuối kỳ và đầu kỳ.
- Giá trị sản xuất được tính theo hai loại giá: Giá thực tế năm báo cáo giá
hiện hành) và giá 80 sánh năm gốc (giá cố định).
2.1.1.2. Nội dung và Phương pháp tính
* Nội dung (yếu tố cấu thành) GO
Giá trị sản xuất công nghiệp bao gồm:
- Giá trị thành phẩm sản xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp.
- Giá trị thành phẩm sản xuất bằng nguyên vật liệu của khách hàng.
- Giá trị các công việc có tính chất công nghiệp làm cho bên ngoài đã hoàn thành trong kỳ.
- Chênh lệch giữa cuối kỳ trừ dầu kỳ của giá trị sản phẩm dở dang, công cụ mô hình tự chế.
- Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm.
- Giá trị sản phẩm tính theo quy định đặc biệt.
- Doanh thu cho thuê thiết bị máy móc thuộc dây chuyền sản xuất của
doanh nghiệp có người điều hành đi kèm.
- Bán thành phẩm của hoạt động công nghiệp không tiếp tục chế biến, bán ra ngoài. * Phương pháp tính
+ Phương pháp 1: Cộng theo yếu tố (áp dụng trong trường hợp nguồn tài
liệu có các yếu tố cấu thành GO)
+ Phương pháp 2: Cộng theo doanh thu
GO = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất chính
+ Doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất phụ
+ Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm
+ Chênh lệch cuối kỳ so với đầu kỳ giá trị thành phẩm tồn kho
+ Chênh lệch cuối kỳ so với đầu kỳ giá trị sản phẩm sản xuất dở dang,
công cụ mô hình tự chế
+ Chênh lệch cuối kỳ so với đầu kỳ giá trị hàng hóa gửi bán chưa thu được tiền
+ Giá trị sản phẩm tính theo quy định đặc biệt
+ Tiền thu được do cho thuê máy móc thiết bị trong dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp.
+ Hoặc tính theo công thức:
GO = Tổng chi phí sản +
Thuế sản xuất + Lợi tức thuẩn từ hoạt động xuất trong kỹ (thuế gián thu) sản xuất kinh doanh
Thuế sản xuất bao gồm: Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập
khẩu, thuế vốn, đất và các khoản lệ phí coi như thuế. .
2.1.2. Giá trị sản xuất của doanh nghiệp nông, lâm nghiệp
Ngành nông nghiệp, bao gồm 2 ngành cấp 2: Trồng trọt, chăn nuôi. Đây là
những ngành có đặc điểm riêng, do vậy, giá trị sản xuất của ngành trồng trọt và
chăn nuôi được tính theo phương pháp tổng mức chu chuyển, hay nói cách khác
G0 trong các ngành này được phép tính trùng sản phẩm giữa trồng trọt, chăn
nuôi và dịch vụ nông nghiệp khi tính toán.
* Giá trị sản xuất của ngành trồng trọt và chăn nuôi (nông nghiệp) bao gồm
(1) Giá trị sản phẩm trồng trọt: Bao gồm giá trị sản phẩm chính, phụ của
các loại cây trồng như các loại cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây
dược liệu, vườn hoa cây cảnh.
(2) Giá trị sản phẩm chăn nuôi, gồm:
- Giá trị trọng lượng thịt hơi tăng thêm trong kỳ của gia súc, gia cầm.
- Giá trị các loại sản phẩm chăn nuôi thu được không phải thông qua giết
thịt súc vật (sữa, trứng, lông cừu, mật ong. .)
- Giá trị các loại sản phẩm phụ chăn nuôi thu được trong kỳ phân, xương, sừng, lông. .)
(3) Chênh lệch giá trị sản phẩm sản xuất dở dang của trồng trọt, chăn nuôi
cuối năm so với đầu năm.
(4) Giá trị các hoạt động dịch vụ phục vụ cho trồng trọt và chăn nuôi trong
doanh nghiệp và làm thuê cho bên ngoài (dịch vụ ươm cây giống, làm đất, tưới,
tiêu, vận chuyển, phòng trừ sâu bệnh nhưng không bao gồm dịch vụ thú y, bảo
hiểm vật nuôi, cây trồng), chỉ tính của các đơn vị sản xuất và hộ chuyên doanh
dịch vụ; không tính đối với các hộ làm dịch vụ mang tính chất thời vụ, kiêm
nhiệm hoặc tự phục vụ cho quá trình làm đất, gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch.
Giá trị của những hoạt động dịch vụ này đã tính vào giá trị sản xuất của trồng trọt và chăn nuôi.
* Giá trị sản xuất lâm nghiệp
Giá trị sản xuất lâm nghiệp gồm:
- Giá trị công việc khai thác gỗ và lâm sản trên rừng trồng và rừng tự nhiên do doanh nghiệp quản lý.
- Giá trị công việc trồng mới, chăm sóc, tu bổ rừng tự nhiên và rừng trồng
do doanh nghiệp thực hiện.
- Thu nhặt các nguyên liệu trong rừng gồm: Cánh kiến, nhựa cây thơm,
quả có dầu và các loại quả khác.
- Các hoạt động dịch vụ lâm nghiệp: Bảo vệ rừng, nhân cây giống cho
trồng mới và trồng tái sinh rừng.
- Vận chuyển gỗ trong rừng từ nơi khai thác đến bãi II, kết hợp sơ chế gỗ trong rừng.
- Chênh lệch giá trị sản phẩm sản xuất dở dang của hoạt động lâm nghiệp
cuối năm so với đầu năm.
2.1.3. Giá trị sản xuất của doanh nghiệp xây dựng
Hoạt động trong ngành xây dựng bao gồm các hoạt động như: Chuẩn bị
mặt bằng xây dựng, khảo sát, thiết kế, thi công. . Vì vậy, giá trị sản xuất của
hoạt động xây dựng của doanh nghiệp bằng tổng giá trị sản xuất của các công
việc xây, lắp, các hoạt động sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc,. . được tiến hành trong một năm.
2.1.3.1. Nguyên tắc tính
- Tính toàn bộ giá trị thực tế đã thực hiện trong năm của các đơn vị xây
dựng, lắp đặt thiết bị và sửa chữa lớn thuộc tất cả các ngành và thành phần kinh
tế thường trú trên lãnh thể nhận thầu và tự làm.
- Không tính giá trị các thiết bị máy móc được đưa vào lắp đặt trong các
công trình để tránh tính trùng trong Giá trị sản xuất và Chi phí trung gian (vì nó
đã được tính trong ngành công nghiệp)
-Những công trình xây dựng bỏ dở, phá đi làm lại không tính vào giá trị sản lượng xây dựng.
- Ngành xây dựng có chu kỳ sản xuất dài nên giá trị sản xuất được xác định
trong năm bao gồm cả công trình đã hoàn thành và công trình còn đang xây dựng dở dang.
- Tính theo 2 loại giá: Giá thực tế và giá so sánh năm gốc.
2.1.3.2. Phương pháp tính
Giá trị sản xuất của hoạt động xây dựng bằng tổng các yếu tố sau:
GO = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm xây lắp
+ Chênh lệch số dư cuối kỳ trừ số dư đầu kỳ về chi phí xây lắp và sửa chữa lớn dở dang.
+ Các khoản thu do bán phế liệu, phế phẩm
+ Doanh thu về cho thuê máy thi công có người điều khiển đi theo.
+ Giá trị sản xuất của hoạt động khảo sát thiết kế (tính phần thiết kế thuộc
công việc xây dựng phải làm)
+ Giá trị sản xuất của hoạt động sửa chữa lớn nhà cửa vật kiến trúc
+ Doanh thu các hoạt động sản xuất phụ khác của đơn vị không có đủ cơ
sở thông tin để tách riêng về các ngành thích hợp.
Hoặc có thể tính theo phương pháp sau:
GO = Chi phí sản xuất theo yếu tố thực hiện trong năm về hoạt động xây
dựng, lắp đặt và sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc. + Thuế VAT phải nộp
+ Lợi tức từ hoạt động kinh doanh của các hoạt động nói trên.
+ Doanh thu cho thuê máy thi công có người điều khiển đi kèm dùng cho
hoạt động xây lắp và sửa chữa nhà cửa, vật kiến trúc
+ Các khoản thu do bán phế liệu, phế phẩm
+ Doanh thu các hoạt động sản xuất phụ khác của đơn vị không có đủ cơ
sở thông tin để tách riêng về các ngành thích hợp.
2.1.4. Giá trị sản xuất của nhóm ngành sản xuất dịch vụ
Đặc điểm của nhóm ngành sản xuất dịch vụ gồm:
- Nơi hoạt động sản xuất cũng là nơi tiêu dùng cuối cùng, Vì vậy xuất khẩu,
hay nhập khẩu dịch vụ thường là thực hiện tại chỗ
Giá của người sản xuất dịch vụ cũng là giá sử dụng cuối cùng, vì sản phẩm
dịch vụ không cần qua khâu lưu thông từ nơi sản xuất đến nơi sử dụng như
những sản phẩm vật chất.
Những ngành sản xuất dịch vụ có thể chia thành những nhóm chính như sau:
+ Nhóm tham gia vào khâu lưu thông hàng hóa làm tăng giá trị của hàng
hóa từ khâu sản xuất đến khâu sử dụng cuối cùng như: Ngành thương nghiệp, vận tải.
+ Nhóm hoạt động kinh doanh tiền tệ như: Ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm,
tài chính, kinh doanh chứng khoán. .
+ Nhóm dịch vụ phục vụ đời sống, sinh hoạt của cá nhân hộ gia đình như:
Dịch vụ, phục vụ cá nhân cộng đồng, văn hóa, y tế, giáo dục, TDTT. .
+ Nhóm dịch vụ quản lý, ANQP và nghiên cứu khoa học.
Mỗi nhóm ngành trên có đặc điểm khác nhau nên phương pháp tính GTSX cũng khác nhau:
2.1.4.1. Giá trị sản xuất của doanh nghiệp thương nghiệp * Nguyên tắc tính
- Kết quả sản xuất của doanh nghiệp thương nghiệp chỉ tính cho các đơn vị
thường trú trên lãnh thổ của quốc gia sở tại (Việt Nam). Những hoạt động khác
trong các đơn vị kinh doanh thương nghiệp không tính vào kết quả sản xuất của
doanh nghiệp thương nghiệp (chỉ tính kết quả trực tiếp do hoạt động thương nghiệp tạo ra trong kỳ).
- Chỉ được tính phần giá trị tăng thêm giữa mua vào và bán ra, vì thương
nghiệp là ngành sản xuất đặc biệt, thực hiện nhiệm vụ tiếp nối quá trình sản xuất
diễn ra trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa. Tuy doanh nghiệp thương nghiệp
không trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất nhưng hoạt động của nó làm tăng
thêm giá trị của hàng hóa trong khâu lưu thông nên giá trị sản xuất của nó được
tính phần giá trị tăng thêm.
- Tính theo hai loại giá: giá thực tế và giá so sánh * Phương pháp tính Phương pháp 1: Giá trị sản xuất Phương pháp 2: Giá trị sản xuất
Chú ý: Thuế hàng hóa phát sinh phải nộp trong ngành thương nghiệp
không tính phản thuế nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
2.1.4.2. Giá trị sản xuất của ngành khách sạn, nhà hàng
Ngành khách sạn, nhà hàng là hoạt động sản xuất ra sản phẩm dịch vụ
phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng. Thường bao gồm các hoạt động: Khách
sạn, điểm cắm trại và các dịch vụ cho nghỉ trọ ngắn ngày, nhà hàng, bar và căng
tin. Giá trị sản xuất ngành Khách sạn, Nhà hàng là toàn bộ giá trị về dịch vụ cho
thuê buồng, phòng và hoạt động kinh doanh ăn uống trong một thời kỳ nhất định. Tính bằng cách: Giá trị sản xuất
2.1.4.3. Giá trị sản xuất đối với hoạt động sửa chữa xe có động cơ, mô
tô, xe máy, đồ dùng gia đình, vận tải hàng hóa và hành khách, bưu chính viễn
thông, kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ cá nhân cộng
đồng được tính theo phương pháp sau:
Riêng đối với hoạt động nhà hàng (phục vụ ăn uống) được chia thành 2
phần: Phần chế biến đồ ăn từ thực liệu mua ngoài, GTSX được xác định bằng
một trong hai phương pháp trên.
Phần kinh doanh hàng hóa mang tính chất chuyển bán, được tính GTSX
theo phương pháp như hoạt động thương nghiệp. Trường hợp không hạch toán
riêng phần hàng hóa kinh doanh chuyển bán được quy ước tính GTSX như phần
chế biến; song phải chuyển toàn bộ giá trị vốn hàng bán ra vào chỉ tiêu chi phí
trung gian của hoạt động này.
2.1.4.4. Giá trị sản xuất của hoạt động ngân hàng, chứng khoản, bảo hiểm * Hoạt động ngân hàng
Hoặc bằng tổng chi phí quản lý, thuế sản xuất phải nộp, lợi tức thuần từ
hoạt động kinh doanh tiền tệ.