Giáo trình triết học Mác – Lênin lý luận và vận dụng - Dùng cho đào tạo chức vụ cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch | Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
Nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu và học tập môn Triết học Mác – Lênin, Tổng cục Chính trị chỉ đạo biên soạn và xuất bản bộ giáo trình Triết học Mác – Lênin dùng cho đối tượng đào tạo chức danh cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Chính trị quân sự. Đây là đối tượng đã tốt nghiệp đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội có trình độ đại học., Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ GIÁO TRÌNH
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
LÝ LUẬN VÀ VẬN DỤNG
Dùng cho đào tạo chức vụ cán bộ chính trị
cấp chiến thuật, chiến dịch BAN BIÊN SOẠN 1 Đại tá, PGS, .
TS Nguyễn Văn Tài Chủ biên, chương 5, 8
2. Đại tá, TS Phùng Văn Thiết Chương 1, 2
3. Đại tá, TS Nguyễn Khắc Điều Chương 6, 7
4. Thượng tá, TS Phan Trọng Hào Chương 3
5. Trung tá, TS Nguyễn Văn Thanh Chương 9
6. Thượng tá, TS Bùi Mạnh Hùng Chương 4
7. Thượng tá, TS Đào Huy Hiệp Chương 10
Hà Nội – 2006 MỤC LỤC Tra ng Lời nói đầu 3
Chương 1. Triết học Mác - Lênin: Cơ sở thế giới quan, phương 4
pháp luận của lý luận và thực tiễn quân sự
Chương 2. Mối quan hệ khách quan và chủ quan - Ý nghĩa đối với công 20
tác đảng, công tác chính trị trong quân đội
Chương 3. Phép biện chứng duy vật và ý nghĩa đối với công tác 33
đảng, công tác chính trị trong quân đội
Chương 4. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa 60
đối với công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội.
Chương 5. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và con đường quá độ 81
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Chương 6. Đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay và trong thời kỳ 105
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chương 7. Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và xây dựng Nhà 126
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Chương 8. Vấn đề con người và phát huy nhân tố con người trong 149
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Chương 9. Ý thức xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 167
ở Việt Nam và ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay
Chương 10. Một số vấn đề cơ bản và cấp thiết về chiến tranh và 188
quân đội trong thời đại hiện nay 2 LỜI GIỚI THIỆU
Nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu và học tập môn Triết
học Mác – Lênin, Tổng cục Chính trị chỉ đạo biên soạn và xuất bản bộ
giáo trình Triết học Mác – Lênin dùng cho đối tượng đào tạo chức danh
cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Chính trị quân sự.
Đây là đối tượng đã tốt nghiệp đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội có
trình độ đại học. Bộ giáo trình này do tập thể tác giả thuộc Khoa Triết
học Mác - Lênin, Học viện Chính trị quân sự biên soạn, Phó giáo sư, tiến
sĩ Nguyễn Văn Tài làm chủ biên.
Kết cấu giáo trình gồm 10 chương, bao gồm những vấn đề cơ bản và
cấp thiết về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chiến
tranh quân đội. Trên cơ sở kế thừa giáo trình triết học bậc đại học và các công
trình khoa học có liên quan, nội dụng giáo trình đã có sự phát triển, vận dụng
phù hợp với đối tượng đào tạo có trình độ học vấn trên đại học và chức danh
cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Chính trị quân sự.
Do đối tượng đào tạo chức danh cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến
dịch còn mới và lần đầu tiên biên soạn, xuất bản, nên bộ giáo trình này
không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Ban biên soạn mong nhận được ý
kiến đóng góp của các nhà khoa học để bổ sung, phát triển và hoàn thiện
trong những lần xuất bản sau.
Xin chân thành cảm ơn!
TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ 3 Chương 1
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN: CƠ SỞ THẾ GIỚI QUAN,
PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUÂN SỰ
1. Triết học Mác - Lênin – cơ sở thế giới quan của lý luận và thực tiễn quân sự
1.1. Triết học Mác - Lênin
Triết học ra đời và phát triển, xét đến cùng là từ nhu cầu của cuộc
sống. Lịch sử đã cho thấy rằng, ngay từ thời nguyên thuỷ, con người không
những luôn tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh mình mà còn đề cập
tới những quan niệm chung về toàn bộ thế giới để chỉ đạo hoạt động thực
tiễn của mình. Theo thời gian, đặc biệt là từ khi xã hội có phân chia giai cấp,
những quan niệm chung đó không ngừng được gạn lọc, hệ thống hoá, phát
triển thành các học thuyết, học phái triết học phản ánh và phục vụ lợi ích của
từng giai cấp, từng lực lượng xã hội nhất định. Do vậy, triết học là sự diễn tả
thế giới quan bằng lý luận - một lý luạn luôn mang tính đảng sâu sắc.
Triết học Mác - Lênin cũng vậy, nó ra đời từ nhu cầu của cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản
đòi hỏi nó phải được vũ trang bằng một thế giới quan hoàn toàn mới với một
hệ thống triết học thực sự khoa học và cách mạng làm hạt nhân lý luận. Toàn
bộ tiến trình phát triển của lịch sử vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã tạo
ra những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của một thế giới quan, một hệ
thống triết học với những đặc trưng như thế.
Với tư cách là sản phẩm hợp qui luật của sự phát triển khoa học, triết
học Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại. Nó do C. Mác và
Ph. Ăngghen sáng lập, được V.I. Lênin bảo vệ và phát triển một cách toàn
diện. Trong triết học Mác - Lênin có sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa
duy vật với phép biện chứng, giữa quan niệm duy vật về tự nhiên với quan
niệm duy vật về đời sống xã hội, giữa việc giải thích hiện thực về mặt lý luận
khoa học với việc cải tạo hiện thực bởi thực tiễn cách mạng. 4
Xét về thực chất, triết học Mác - Lênin chính là chủ nghĩa duy vật biện
chứng theo nghĩa rộng, là khoa học về những qui luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Đó là một hệ
thống triết học bao gồm nhiều bộ môn khoa học gắn kết với nhau trong một
chỉnh thể trên cơ sở hai tấm thép đúc thành chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện
chứng (theo nghĩa hẹp) và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong tính hiện thực của nó, triết học Mác - Lênin đã trở thành hạt
nhân lý luận của thế giới quan cộng sản, đồng thời là lý luận về phương pháp
chung nhất triệt để cách mạng và duy nhất khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
1.2. Mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và các khoa học cụ thể
Vấn đề quan hệ giữa triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói
riêng với các khoa học cụ thể, từ lâu vẫn là một trong những tiêu điểm của
cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng. Hiện nay, vấn đề này vẫn được các đại
diện của triết học Mác - Lênin và của triết học tư sản giải quyết theo những
lập trường đối lập nhau về nguyên tắc.
Quan điểm của các nhà triết học tư sản về vấn đề này có thể chia thành
hai khuynh hướng cơ bản. Khuynh hướng thứ nhất chính là sự tiếp tục của
quan niệm “truyền thống” có từ thời cổ đại, xem triết học là “khoa học của
mọi khoa học”. Theo đó, họ đem đối lập triết học với các khoa học cụ thể,
tuyệt đối hoá vai trò của triết học, coi nó là khoa học duy nhất có quyền xét
định mọi khoa học khác. Khuynh hướng thứ hai nảy sinh từ thời Phục Hưng
(thế kỷ 15 – 16) gắn liền với quá trình các khoa học cụ thể từng bước tách
khỏi triết học và quá trình hiện thực hoá sự thống trị của phép siêu hình.
Theo đó, các nhà triết học đem các khoa học cụ thể đối lập với triết học, xem
mỗi khoa học cụ thể tự nó đã là triết học, do đó, triết học nói chung trở thành
thừa! Trên thực tế, cả hai khuynh hướng trên đây đều mang tính cực đoan và
bị chính sự phát triển của khoa học và thực tiễn bác bỏ.
Trái lại, trong khi xác định vai trò của triết học, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định và luận chứng cho sự gắn bó chặt 5
chẽ giữa triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng với các khoa học cụ thể.
Khác với tất cả các hệ thống triết học khác, triết học Mác - Lênin đã
khắc phục những vật chướng ngại trước đây vẫn ngăn cách giữa triết học và
các khoa học cụ thể. Mối liên hệ vững chắc và có hiệu quả giữa triết học
Mác - Lênin và các khoa học cụ thể được xây dựng trên cơ sở sự “đồng
thuận” giữa chúng về những đặc điểm chủ yếu.
Đặc điểm căn bản của triết học Mác - Lênin là ở khả năng cải tạo thế
giới mang tính cách mạng của nó. Cội nguồn của sức mạnh ấy là ở chỗ, sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã thực sự trở thành nguyên tắc căn bản
của triết học Mác - Lênin. Sự đoạn tuyệt với chức năng giải thích thế giới
một cách đơn thuần của triết học cũ, thực hiện liên hệ với thực tiễn, dựa vào
thực tiễn, phục vụ thực tiễn cách mạng vừa đòi hỏi vừa cho phép triết học
Mác-Lênin thực hiện sự liên minh chặt chẽ và có hiệu quả với các khoa học khác.
Sáng tạo là đặc trưng bản chất của mọi khoa học, đồng thời cũng là
một đặc trưng mới trong triết học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập. Việc
gắn liền triết học với thực tiễn cách mạng là cơ sở của tính sáng tạo của triết
học Mác - Lênin. Triết học Mác - Lênin không phải là một tổng hợp các chân
lý tuyệt đối, bất biến, mà trái lại, nó là một khoa học đòi hỏi không ngừng
được bổ sung, phát triển cùng với thực tiễn cuộc sống. Dựa vào những thành
tựu do các khoa học cụ thể đưa lại, triết học Mác - Lênin không ngừng hoàn
thiện về nội dung và hình thức, phát triển cơ cấu lôgíc và công cụ đặc trưng
của mình, do đó thực hiện ngày càng có hiệu quả những chức năng của mình
đối với các khoa học khác và đối với thực tiễn đang không ngừng phát triển.
Đặc điểm này của triết học Mác - Lênin đã gạt bỏ được một trong những trở
ngại chủ yếu trên con đường dẫn tới sự liên minh, gắn bó bình đẳng giữa
triết học và các khoa học khác.
Một trở ngại lớn thường ngăn cản sự liên minh giữa triết học với
các khoa học khác là do mâu thuẫn giữa tính đảng của các hệ thống triết 6
học cũ với tính khách quan khoa học của nó. Tính đảng của triết học,
trước hết và chủ yếu là tính phe phái – duy vật hoặc duy tâm. Nhưng
trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính đảng của triết học được biểu
hiện tập trung ở tính giai cấp, với việc nó luôn thể hiện ý chí và phục vụ
lợi ích của những giai cấp, những đảng phái chính trị nhất định. Vì thế,
trong các hệ thống triết học cũ, các nhà triết học thường phải lựa chọn
hoặc là phải hy sinh tính khoa học để bảo vệ tính đảng, hoặc là phải che
đậy tính đảng bằng việc viện dẫn một cách thiên lệch các thành tựu
khoa học. Chỉ có triết học Mác - Lênin mới công khai tính đảng vô sản
của mình. Nó vừa là vũ khí tư tưởng sắc bén của giai cấp vô sản, đồng
thời là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Sự thống nhất về lợi
ích giữa giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động trở thành
nhân tố quyết định để trong triết học Mác - Lênin, tính đảng không
những không mâu thuẫn mà còn hoàn toàn đồng thuận với tính khách
quan khoa học của nó. Tất nhiên, tính đảng vô sản của triết học Mác -
Lênin quyết định tính khách quan khoa học của nó. Thực tế cho thấy,
tính đảng của triết học Mác càng được đề cao thì tính khách quan khoa
học của nó càng có điều kiện phát triển và ngược lại.
Mối liên hệ giữa triết học Mác - Lênin và các khoa học cụ thể
được tạo dựng trên cơ sở sự phân chia các đối tượng và các chức năng
chuyên biệt giữa chúng. Theo đó, các khoa học cụ thể nghiên cứu những
đối tượng riêng lẻ, những thuộc tính, hiện tượng riêng lẻ, những qui luật
về sự vận động, phát triển của từng lĩnh vực của hiện thực. Để bảo đảm
cách giải quyết đúng đắn những nhiệm vụ chuyên ngành của mình, các
khoa học cụ thể phải dựa vào một thế giới quan khoa học, một hệ thống
những quan điểm, nguyên tắc xuất phát đúng đắn cho mọi hoạt động.
Đó cũng chính là chức năng chuyên biệt của triết học Mác - Lênin.
Ngược lại, để nghiên cứu được thế giới như một chỉnh thể, nghiên cứu
những thuộc tính chung, phổ biến của chúng, vạch ra được những qui
luật vận động, phát triển chung nhất của tồn tại, triết học Mác - Lênin 7
không thể không dựa vào những thành tựu thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau do các khoa học cụ thể cung cấp.
Sự gắn bó giữa triết học và khoa học cụ thể là một tất yếu, nhưng
hiện thực hoá sự gắn bó ấy là một quá trình. Những cuộc “xung đột” giữa
triết học và các khoa học cụ thể đã từng và vẫn có thể xảy ra, nhưng
nguyên nhân thực sự của nó không xuất phát từ bản thân triết học hay
khoa học cụ thể, mà do những chủ thể của nó hiểu và vận dụng không
đúng thực chất mối quan hệ này.
1.3. Vai trò thế giới quan của triết học Mác - Lênin đối với lý luận
và thực tiễn quân sự
Mối quan hệ giữa triết học Mác - Lênin với lý luận và thực tiễn quân sự
cũng tuân thủ những nguyên tắc về mối quan hệ qua lại giữa triết học với các
khoa học cụ thể và các lĩnh vực khác nhau của thực tiễn. Trong đó, triết học
Mác - Lênin có vai trò chỉ đạo to lớn đối với lý luận và thực tiễn quân sự.
Với tư cách là một lĩnh vực tri thức đặc thù, lý luận quân sự vô sản đi
sâu nghiên cứu những hiện tượng và sự kiện phức tạp của khởi nghĩa vũ trang
và chiến tranh để tìm ra những qui luật khách quan của nó. Trên cơ sở đó, lý
luận quân sự vô sản cung cấp những căn cứ khoa học trực tiếp cho việc định
ra đường lối và chiến lược quân sự, phương thức chuẩn bị, tiến hành khởi
nghĩa và chiến tranh, phương hướng và nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng… Để làm tròn được những nhiệm vụ to lớn đó, lý luận quân sự vô
sản phải có một lập trường thế giới quan rõ ràng và khoa học làm điểm xuất
phát. Lập trường đó do triết học Mác - Lênin tạo nên. Vì thế, đối với lý luận
quân sự vô sản, triết học Mác - Lênin trước hết là cơ sở thế giới quan của nó.
Chỉ có quán triệt lập trường thế giới quan duy vật biện chứng mới
cho phép lý luận quân sự vô sản vạch ra chính xác nguồn gốc, bản chất,
tính chất của các cuộc chiến tranh, mới có cách nhìn đúng về các mối
quan hệ giữa kinh tế và chiến tranh, giữa chiến tranh và chính trị, giữa
chính trị và quân sự, giữa quân sự và khoa học kỹ thuật… Đồng thời, lập
trường thế giới quan duy vật biện chứng còn cho phép lý luận quân sự vô 8
sản vạch rõ bản chất giai cấp của các học thuyết quân sự, tính chất phản
động không thể tránh khỏi của học thuyết quân sự tư sản; vạch rõ sự cần
thiết và khả năng thực tế của việc phát huy tính chất toàn dân và tính
chất cách mạng triệt để của các học thuyết quân sự vô sản. Đó vừa là con
đường vừa là điều kiện tiên quyết để lý luận quân sự vô sản trở thành
một khoa học. Và, việc quán triệt lý luận khoa học này là một trong
những nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm tính chất tự giác của thực tiễn quân sự vô sản.
Tất nhiên, lý luận và thực tiễn quân sự vô sản cũng có ảnh hưởng
tích cực đến sự phát triển của triết học Mác - Lênin. Ảnh hưởng đó biểu
hiện ở chỗ, một là, trong khi nghiên cứu một trong những lĩnh vực phức
tạp của thực tiễn, lý luận quân sự cung cấp những tài liệu phong phú cho
sự khái quát triết học; hai là, trong khi giải quyết những nhiệm vụ đặc
thù của thực tiễn, lý luận quân sự đề ra nhiều vấn đề triết học – phương
pháp luận mà việc luận giải chúng sẽ góp phần làm phong phú thêm tri
thức triết học; ba là, việc quán triệt những nguyên tắc xuất phát duy vật
biện chứng vào định hướng, phát triển các phương pháp chuyên biệt quân
sự, tự nó đã góp phần cụ thể hoá và làm phong phú thêm nội dung của triết học Mác - Lênin.
Quán triệt vai trò thế giới quan của triết học Mác - Lênin đối với lý
luận và thực tiễn quân sự, đòi hỏi phải đấu tranh phê phán những khuynh
hướng tư tưởng lệch lạc về vấn đề này. Một trong những khuynh hướng
đó là tách rời, hạ thấp vai trò của triết học Mác - Lênin. Do bị chi phối
bởi tư tưởng quân sự đơn thuần, một số nhà quân sự đã khẳng định rằng
triết học của chủ nghĩa Mác không có quan hệ gì đối với lý luận và thực
tiễn lãnh đạo quân đội, rằng đối với việc nghiên cứu quân sự thì không
nhất thiết phải là người theo chủ nghĩa Mác! Cũng có một khuynh hướng
khác, ngược hẳn lại. Đôi khi người ta coi triết học Mác - Lênin là
phương tiện vạn năng có thể dùng để giải quyết bất kỳ vấn đề chuyên
môn nào của lý luận và thực tiễn quân sự. Như thế cũng có nghĩa là phủ
nhận tính đặc thù vốn có và tất yếu của lý luận và thực tiễn quân sự. Cả 9
hai khuynh hướng tư tưởng trên đây đều là sai lầm và bị chính sự phát
triển của khoa học và tư tưởng bác bỏ.
2. Triết học Mác - Lênin – cơ sở phương pháp luận chung nhất
của lý luận và thực tiễn quân sự
2.1. Mối quan hệ giữa phương pháp luận triết học và phương pháp
luận của khoa học cụ thể Thuật ngữ phương
pháp có nguồn gốc từ nguyên từ Hi Lạp cổ -
Methodos với nghĩa là con đường, cách thức, thủ đoạn mà chủ thể sử dụng
để đạt được mục đích đề ra. Còn theo nghĩa chặt chẽ, khoa học, phương pháp
là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các qui luật khách
quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm thực hiện những mục đích nhất định.
Phương pháp là một đặc trưng tất yếu của hoạt động có mục đích, có ý
thức của con người; nhưng bản thân nó lại không phải là cái gì đó có sẵn hay
hình thành một cách chủ quan, mà trái lại luôn mang tính khách quan. Ph.
Ăngghen viết: “các nguyên lý không phải là điểm xuất phát của sự nghiên cứu
mà là kết quả cuối cùng của nó; những nguyên lý ấy không phải được ứng
dụng vào giới tự nhiên và vào lịch sử loài người, mà được trừu tượng hoá từ
giới tự nhiên và lịch sử loài người; không phải là giới tự nhiên và loài người
phải phù hợp với các nguyên lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong
chừng mực chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử”1. Kinh nghiệm lịch sử
cho thấy, sau khi đã xác định được mục tiêu thì phương pháp trở thành yếu tố
góp phần quyết định thành công hay thất bại của mọi hoạt động.
Phương pháp có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau, tuỳ theo căn cứ
đem xét. Nếu căn cứ vào mức độ phổ biến và phạm vi sử dụng để phân chia
thì ta có phương pháp riêng (áp
dụng cho từng môn khoa học cụ thể, ví dụ
như phương pháp toán học, xã hội học, lý học…), phương pháp chung (áp
dụng đồng thời trong nhiều ngành khoa học khác nhau, ví dụ như phương
pháp quan sát, thực nghiệm, mô hình hoá…) và phương pháp phổ biến (áp
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tậ , Nxb CTQG, H p .1994, t. 20, tr. 54. 10
dụng của mọi lĩnh vực khoa học và thực tiễn - đó chính là phương pháp biện
chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin). Nếu căn cứ vào mục đích, chức
năng để phân chia thì ta có phương pháp nhận thức (là cách thức, biện pháp sử
dụng các giác quan và các thao tác tư duy để phản ánh các đối tượng, tìm ra bản
chất, qui luật vận động, phát triển của đối tượng. Chẳng hạn, đó là các phương
pháp quan sát, phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, lịch sử và lôgíc…)
và phương pháp thực tiễn (hình thức, biện pháp sử dụng các phương tiện vật
chất tác động làm biến đổi đối tượng. Ví dụ: phương pháp sản xuất, thực
nghiệm, đấu tranh…). Tất nhiên, việc phân chia các loại phương pháp chỉ có
ý nghĩa tương đối. Trong hoạt động cần phải biết vận dụng tổng hợp các
phương pháp và căn cứ vào tình hình cụ thể và đặc điểm đối tượng mà xác
định các phương pháp cho phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời một lĩnh
vực đặc thù của tri thức triết học và khoa học lý thuyết - đó là phương pháp
luận, hay lý luận về phương pháp. Khoa học này có nhiệm vụ vạch rõ cơ sở lý
luận, nội dung, yêu cầu và phạm vi, khả năng ứng dụng các phương pháp vào
từng lĩnh vực cụ thể, do đó, nó có vai trò chỉ đạo, vạch hướng, soi đường cho
chủ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Xét về thực chất, phương pháp
luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những
cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn cùng với bản
thân học thuyết về hệ thống đó. Tất nhiên, phương pháp luận không phải là
tổng số những qui tắc tuỳ tiện do con người tạo ra, mà trái lại, nó luôn mang
nội dung khách quan, phản ánh trình độ nhận thức và thái độ con người đối
với các qui luật khách quan của hiện thực.Theo đó, một mặt mọi khoa học đều
thực hiện chức năng phương pháp luận; mặt khác mỗi khoa học, tuỳ theo từng
trường hợp cụ thể, bên cạnh việc sử dụng phương pháp luận đặc trưng của
mình lại có thể sử dụng các phương pháp luận của các khoa học khác trong hệ
thống phương pháp luận khoa học nói chung.
Phương pháp luận cũng được chia thành các cấp độ khác nhau, gồm
phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung và phương pháp luận
chung nhất. Phương pháp luận bộ môn, là phương pháp luận đặc trưng cho 11
một bộ môn khoa học cụ thể, nó chỉ đạo việc xác định các phương pháp cụ
thể của bộ môn khoa học ấy. Ví dụ: phương pháp luận toán học (bao gồm hệ
thống các nguyên tắc về tính chính xác, tính cân bằng giữa giả thiết và kết
luận, tính có thể chứng minh và kiểm tra được kết quả…), phương pháp luận
kinh tế (bao gồm hệ thống các nguyên tắc về tính hiệu quả, tính tự chủ trong
sản xuất kinh doanh, nguyên tắc về sự tăng trưởng bền vững…). Phương
pháp luận chung, là phương pháp luận của một ngành (bao gồm nhiều bộ
môn) hay một nhóm ngành (bao gồm nhiều ngành) khoa học có những đặc
điểm chung nào đó giống nhau. Ví dụ, phương pháp luận của các khoa học
xã hội, phương pháp luận của các khoa học tự nhiên, phương pháp luận của
các khoa học kỹ thuật – công nghệ. Phương pháp luận chung nhất là phương
pháp luận triết học. Nó khái quát những quan điểm, nguyên tắc chung nhất
làm xuất phát điểm cho việc xác định các phương pháp luận khoa học chung,
phương pháp luận bộ môn và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
Các loại phương pháp luận trên đây vừa độc lập tương đối với nhau,
vừa bổ sung cho nhau, thâm nhập vào nhau để hợp thành một hệ thống khoa
học về phương pháp, chỉ đạo chủ thể xác định đúng đắn các phương pháp cụ
thể trong nhận thức và thực tiễn. Trong hệ thống đó, triết học đảm nhận chức
năng phương pháp luận chung cho tất cả các khoa học cụ thể, kể cả khoa học
quân sự. Những quan điểm, nguyên tắc xuất phát tạo thành phương pháp luận
triết học sẽ được quán triệt vào các phương pháp luận còn lại, tạo thành cơ sở
triết học của chúng. Cũng trong hệ thống phương pháp luận đó, phương pháp
luận của khoa học quân sự vừa tồn tại với tư cách là phương pháp luận bộ
môn (với những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo đặc trưng cho lĩnh vực quân
sự như: quân sự phục tùng chính trị, bí mật bất ngờ, luôn tạo ưu thế về so sánh
lực lượng …), vừa tồn tại với tư cách là phương pháp luận chung (với những
quan điểm nguyên tắc chỉ đạo chung cho nhiều bộ môn khoa học cấu thành là
khoa học xã hội và nhân văn quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học
kỹ thuật quân sự)… Chính vì vậy, chúng ta vừa phải biết vận dụng tổng hợp
các loại phương pháp luận, vừa phải chú ý đúng mức đến việc vận dụng
phương pháp luận đặc trưng cho lĩnh vực quân sự, đồng thời phải luôn quán
triệt sâu sắc phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, coi đó là những quan 12
điểm nguyên tắc xuất phát chung nhất, thực sự khoa học, giữ vai trò định
hướng cho mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của các chủ thể quân sự.
2.2. Vai trò của phương pháp luận triết học Mác - Lênin trong việc
giải quyết các nhiệm vụ lý luận và thực tiễn quân sự hiện nay
Những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc của thời cuộc hiện nay đang
đặt ra cho lĩnh vực quân sự nhiều vấn đề mới, rất phức tạp mà việc giải quyết
nó mang tính cấp thiết về mọi mặt, do đó, tất yếu phải dựa vào một hệ thống
nguyên tắc phương pháp luận thực sự khoa học và cách mạng.
Được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý, phạm trù, qui luật khái
quát từ hiện thực và được thực tiễn kiểm nghiệm. Vì vậy, phương pháp
luận của triết học Mác - Lênin có khả năng hướng dẫn chúng ta nhận
thức đúng đắn những xung lực và những xu hướng biến đổi khách quan
của thời cuộc hiện nay trong sự tương tác và biến hoá khôn lường của
các nhân tố tác thành của nó. Trong số đó phải kể đến sự tương tác của
các nhân tố hết sức cơ bản như cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
hiện đại và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; sự bành
trướng của “Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá” và cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc, vì sự phục hưng của chủ nghĩa xã hội; sự tuỳ thuộc lẫn nhau
ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia, dân tộc trong một thế giới thống
nhất để phát triển với sự hung hăng, hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc
cực quyền… Việc nắm chắc các xu hướng biến đổi khách quan của thời
cuộc không những cho phép chúng ta nâng cao năng lực tư duy sáng tạo
mà còn giúp chúng ta có đủ bản lĩnh để giải quyết đúng đắn các vấn đề
phức tạp do thời cuộc đặt ra - Đó là các vấn đề về mối quan hệ giữa vận
hội và nguy cơ, giữa thời cơ và thách thức, giữa hợp tác và đấu tranh,
giữa đối tác và đối tượng… Đến lượt nó, việc giải quyết thành công
những mối quan hệ trên đây sẽ cung cấp cho chúng ta những căn cứ lý
luận khoa học và thực tiễn vững chắc để xác định chính xác mục tiêu, nội
dung và những quan niệm mới về nhiệm vụ và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc hiện nay phải được xác định một cách đầy đủ cả về mặt tự nhiên 13
và mặt xã hội, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và phải đặt
trong sự tương tác chặt chẽ với cuộc đấu tranh của các quốc gia, dân tộc
khác vì hoà bình, phát triển và tiến bộ xã hội. Trên cơ sở đó, sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng phải được quan niệm là sức mạnh tổng
hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp được sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc
phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân.
Có thể thấy rằng, thời đại ngày nay, đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
hiện đại đã đưa đến những biến đổi hết sức to lớn và sâu sắc cả trong đời
sống vật chất lẫn đời sống tinh thần của xã hội, đã và đang tạo ra cả một
nền văn minh mới, thường được gọi là “văn minh trí tuệ”. Nhưng ở đây,
phép biện chứng của thời cuộc cũng chỉ ra rằng, cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, cùng với việc đưa đến cho tiến bộ xã hội những
xung lực mới hết sức mạnh mẽ lại đặt nhiều quốc gia, dân tộc, trong đó có
dân tộc Việt Nam ta, trước hiểm họa phải đương đầu với cuộc chiến tranh
có sử dụng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế
quốc Mỹ. Thực tế cho thấy, chỉ có quán triệt sâu sắc phương pháp luận
triết học Mác - Lênin chúng ta mới có thể xác định chính xác phương
hướng và phương pháp tiếp cận trong việc nghiên cứu làm rõ bản chất,
những đặc điểm mới của cuộc chiến tranh công nghệ cao, những chỗ yếu
chí mạng mà chủ nghĩa đế quốc không thể khắc phục được, cũng như
những khả năng khách quan, những ưu thế tuyệt đối mà chúng ta có thể
tập trung khai thác để xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội, xây
dựng tiềm lực quân sự quốc gia nhằm chuẩn bị tốt nhất cho đất nước sẵn
sàng đánh thắng cuộc chiến tranh này nếu nó xảy ra.
Đồng thời, thực tiễn xây dựng quân đội kiểu mới và bài học đau sót về
sự biến chất của quân đội xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu mới đây
cũng đòi hỏi cấp thiết phải có những phát triển mới trong lý luận xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị. Việc quán triệt các nguyên tắc
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đặc biệt là quan 14
điểm thực tiễn và quan điểm phát triển sẽ giúp chúng ta tiếp cận chính xác và
luận giải có cơ sở khoa học các vấn đề về thực chất, qui luật, yêu cầu mới và
các giải pháp xây dựng quân đội về chính trị trong quá trình đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện thực hiện nền kinh tế
thị trường và hội nhập, trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc vẫn ráo riết thực
hiện chiến “diễn biến hoà bình” nhằm phi chính trị hoá quân đội ta.
Vai trò của phương pháp luận triết học Mác - Lênin đối với việc giải
quyết những nhiệm vụ lý luận và thực tiễn quân sự, do vậy là hết sức rõ
ràng; vấn đề còn lại chỉ là ở chỗ, làm thế nào để vận dụng có hiệu quả nó vào
từng hoạt động cụ thể trong lĩnh vực đặc biệt này của thực tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác - Lênin đối với công tác đảng, công tác
chính trị trong quân đội hiện nay
3.1. Những điều kiện khách quan qui định vai trò của triết học Mác
-Lênin đối với công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội hiện nay
Công tác đảng, công tác chính trị là một bộ phận rất quan trọng của
những hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, do đó, nó
phải phù hợp với qui luật và nguyên tắc hoạt động của Đảng, với vai trò lãnh
đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng nói chung cũng như trong sự
nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng nói riêng. Và cũng chính vì
thế, nó cần phải được tự giác hoá bởi một khoa học đặc thù – khoa học công
tác đảng, công tác chính trị với đối tượng, chức năng, nhiệm vụ riêng, tương đối độc lập.
Tuy thế, với tư cách là một môn khoa học cụ thể, như mọi môn khoa
học khác, khoa học công tác đảng, công tác chính trị luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với triết học Mác - Lênin, chịu sự hướng dẫn, soi đường của triết
học Mác - Lênin trong suốt quá trình hình thành và phát triển.
Trước kia cũng như hiện nay, vai trò của triết học Mác - Lênin đối
với công tác đảng, công tác chính trị được qui định trước hết bởi bản chất
cách mạng và khoa học của nó. Với tính cách là khoa học về những qui
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, 15
triết học Mác - Lênin không những đã thực sự trở thành hạt nhân lý luận
của thế giới quan cộng sản, mà còn thực sự là lý luận về phương pháp
khoa học và cách mạng cho việc nghiên cứu, tiếp cận bản chất, qui luật,
nguyên tắc hoạt động của công tác đảng, công tác chính trị. Rõ ràng, việc
nghiên cứu làm sáng tỏ các nguyên lý, qui luật về xây dựng Đảng, nhất là
trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền; nghiên cứu lý luận về sự lãnh
đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân; các qui luật,
nguyên tắc tiến hành công tác đảng, công tác chính trị cũng như việc làm
rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, cách thức tổ chức và hoạt động của đội
ngũ cán bộ chính trị và cơ quan chính trị… sẽ không thể được giải quyết
thành công nếu không dựa trên cơ sở lý luận – phương pháp luận của triết
học Mác về mâu thuẫn và đối kháng, về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về
nhà nước và cách mạng, về chiến tranh và quân đội… Nói cách khác,
Triết học Mác - Lênin luôn biểu hiện ra với tư cách là một trong những cơ
sở tư tưởng – lý luận chủ yếu của công tác đảng, công tác chính trị.
Mặt khác, việc quán triệt triết học Mác - Lênin vào quá trình phát triển
còn là nhu cầu tự thân của công tác đảng, công tác chính trị. Hoạt động công
tác đảng, công tác chính trị là hoạt động tự giác và có ý thức để không ngừng
đưa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng vào trong lực lượng vũ trang. Do đó, việc nắm vững bản chất cách mạng
và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói
riêng sẽ giúp cho các chủ thể của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị
xây dựng thế giới quan cộng sản, phương pháp luận khoa học để nhận thức và
giải quyết đúng đắn mọi vấn đề đặt ra trong thực tiễn, qua đó hình thành
những phẩm chất và năng lực cần thiết của người quân nhân cách mạng trong
các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Có thể nói, triết học Mác - Lênin vừa là
cơ sở, tiền đề bảo đảm thành công, vừa là mục đích mà hoạt động công tác
đảng, công tác chính trị cần hướng tới quán triệt cho mọi đối tượng.
Tất nhiên, điều kiện khách quan qui định vai trò của triết học Mác -
Lênin đối với công tác đảng, công tác chính trị chính là thực tiễn, là sự vận
động biến đổi của thời cuộc. Bởi vì, cùng với tình hình đó, nội dung nhiệm 16
vụ bảo vệ Tổ quốc đã có sự phát triển mới, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế,
văn hoá - tư tưởng và an ninh xã hội. Chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn
lật đổ trở thành nhiệm vụ cấp bách hàng đầu và phải được chủ động kết hợp
ứng phó với các tình huống khác. Khả năng quân đội phải đương đầu với
tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống ở một bộ phận quân nhân dưới sự tác
động của mặt trái kinh tế thị trường ngày càng lộ rõ. Trong khi đó chất
lượng và hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, do nhiều nguyên nhân,
cả khách quan và chủ quan, còn bộc lộ nhiều hạn chế so với yêu cầu nhiệm
vụ… Tình hình ấy đã và đang đặt công tác đảng, công tác chính trị trước
những yêu cầu và thách thức mới. Trong đó, vấn đề cần quan tâm trước tiên
là phải tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp công tác tư tưởng
nhằm củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Bên cạnh đó, việc
đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong quân đội cũng
nổi lên như một nhiệm vụ bức thiết. Đồng thời, tình hình mới cũng đòi hỏi
chúng ta phải quan tâm hơn nữa đến chất lượng, hiệu quả của công tác dân
vận, công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ… Đó là một loạt
những nhiệm vụ khó khăn và phức tạp mà muốn giải quyết thành công,
công tác đảng, công tác chính trị phải biết dựa vào tri thức và thành quả
nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác. Trong đó, triết học Mác - Lênin
luôn giữ vai trò là lý luận về phương pháp chung nhất, thực sự khoa học
cho việc phân tích tình hình, xác định những vấn đề có tính nguyên tắc và
những định hướng cơ bản cho hoạt động công tác đảng, công tác chính trị
trong các lực lượng vũ trang.
3.2. Những điều kiện cần thiết để người cán bộ chính trị vận dụng
có hiệu quả triết học Mác - Lênin vào hoạt động công tác đảng, công tác
chính trị trong quân đội hiện nay
Vận dụng triết học Mác - Lênin vào hoạt động công tác đảng, công tác
chính trị trong quân đội là một yêu cầu khách quan, nhưng chất lượng và 17
hiệu quả vận dụng lại phụ thuộc một cách quyết định vào phẩm chất và nỗ
lực chủ quan của người chính uỷ, chính trị viên.
Trước hết, người chính uỷ, chính trị viên phải ra sức học tập để nắm
chắc bản chất cách mạng và khoa học của triết học Mác - Lênin. Nội dung
đầu tiên của yêu cầu này là họ phải nắm chắc những đặc điểm cơ bản của
triết học Mác-Lênin, đặc biệt là đặc điểm về tính sáng tạo của nó.
Mang trong mình tính sáng tạo của phép biện chứng duy vật, triết học
Mác-Lênin là một hệ thống mở – nó đòi hỏi luôn được bổ sung, phát triển và
vận dụng một cách sáng tạo. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn luôn
nhắc nhở rằng, không nên xem học thuyết của các ông như một hệ thống
giáo điều, mà phải coi đó là một kim chỉ nam cho hành động. Theo tinh thần
ấy, Hồ Chủ tịch đã căn dặn cán bộ, đảng viên “Học tập chủ nghĩa Mác -
Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc… là học tập những chân lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
thực tế ở nước ta”1, chứ không phải để thuộc lòng từng câu, từng chữ lý luận
Mác - Lênin. Và chính Người là tấm gương tiêu biểu cho sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Tất nhiên, trong khi nêu cao tính sáng tạo cách mạng của triết học Mác
- Lênin, chúng ta phải luôn đề phòng khuynh hướng vận dụng và “phát triển”
một cách tuỳ tiện triết học Mác - Lênin; phải kiên quyết đấu tranh chống mọi
biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, xét lại mượn danh “chống giáo điều”, “phát
triển sáng tạo triết học Mác” để phủ nhận những nguyên lý cơ bản của triết
học Mác - Lênin, từ bỏ tinh thần cách mạng của nó và thay thế nó bằng một
thế giới quan đối lập với thế giới quan vô sản.
Có hiểu biết sâu sắc về khoa học quân sự nói chung, khoa học và thực
tiễn công tác đảng, công tác chính trị nói riêng cũng là một điều kiện cần thiết
để người cán bộ chính trị vận dụng có hiệu quả triết học Mác - Lênin vào thực tế công tác của mình. 1 H Chí Minh ồ , toàn tậ , Nxb CTQG, H p . 1996, t. 9, tr. 292. 18
Khoa học quân sự là một lĩnh vực tri thức đặc thù, chuyên nghiên cứu
các hiện tượng và quá trình phức tạp liên quan đến hoạt động quân sự để
vạch ra những qui luật khách quan của nó, và trên cơ sở đó xác định đường
lối, phương thức, phương pháp chuẩn bị và tiến hành các hoạt động quân sự,
chiến tranh và xây dựng lực lượng vũ trang. Thực tiễn công tác đảng, công
tác chính trị đòi hỏi người chính uỷ, chính trị viên, một mặt phải có tri thức
toàn diện về khoa học quân sự nói chung, mặt khác phải có tri thức chuyên
sâu về lĩnh vực quân sự chuyên ngành mà mình đang hoạt động. Thực tế cho
thấy, chỉ có trên cơ sở nắm chắc khoa học quân sự – cả trên phương diện lý
luận và phương pháp luận của nó; cả về hệ thống tri thức cơ bản, bức thiết và
những tri thức mới được cập nhật của nó – người cán bộ chính trị mới có
điều kiện để vận dụng hiệu quả triết học Mác - Lênin vào hoạt động công tác
đảng, công tác chính trị của mình. Đó cũng chính là con đường khắc phục
bệnh giáo điều, chung chung, giản đơn trong việc vận dụng triết học Mác-
Lênin vào hoạt động đặc thù này của thực tiễn quân sự.
Đương nhiên, để vận dụng có hiệu quả triết học Mác - Lênin, người
chính uỷ, chính trị viên phải nắm chắc khoa học công tác đảng, công tác
chính trị và thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Nếu như việc nắm chắc khoa học công tác đảng, công
tác chính trị cho phép người cán bộ chính trị xác định được giới hạn,
phạm vi, mức độ sử dụng hệ thống tri thức triết học vào giải quyết những
vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của họ; thì việc nắm chắc thực tiễn công
tác đảng, công tác chính trị lại cho phép họ phát hiện chính xác các vấn đề
nảy sinh, kiểm tra được hiệu quả vận dụng, qua đó có phương pháp điều
chỉnh hợp lý để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả vận dụng triết học
Mác - Lênin vào hoạt động công tác đảng, công tác chính trị. 19 Chương 2
MỐI QUAN HỆ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI
Sự đối lập về nguyên tắc giữa triết học Mác - Lênin và các trường phái
triết học khác trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là ở việc luận
giải mối quan hệ khách quan và chủ quan trong thực tiễn sinh động của con người.
Đối với lĩnh vực quân sự, việc quán triệt và vận dụng sáng tạo quan
điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ cơ bản trên đây luôn có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho các chủ thể, một mặt tránh được chủ nghĩa
chủ quan, mặt khác, biết cách phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt
động thực tiễn quân sự.
1. Mối quan hệ khách quan và chủ quan
1.1. Khái niệm khách quan và chủ quan
Mục đích tối cao của việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là để
luận giải cho con người mối quan hệ giữa họ (con người có ý thức) với thế
giới có con người (thế giới vật chất). Trong tính hiện thực lịch sử của nó, con
người không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới bởi thực tiễn.
Thực tiễn của con người; một mặt, do có sự tham gia hướng dẫn của ý thức,
mặt khác, do yêu cầu về tính hiệu quả qui định, nên tất yếu phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan.
Khách quan là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không phụ
thuộc vào chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên tác động
đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của chủ thể.
Nói đến khách quan là nói đến tất cả những gì tồn tại độc lập, bên
ngoài và không lệ thuộc vào chủ thể hoạt động. Theo đó, khách quan bao
gồm những điều kiện, khả năng và qui luật khách quan. Trong đó, qui luật 20