Giáo trình văn học hiện đại Việt Nam - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương

Giáo trình văn học hiện đại Việt Nam - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
1.2. V , A TH L TRONG S H TRÍ VAI TRÕ CỦ ÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIN CA M T S TH LO C M I ẠI VĂN HỌ
Thế L tên thật là Nguy ễ, bút hiệu Lê Ta, sinh ngày 06 tháng n Th L
10 năm 1907 tạ ấp Thái Hà Nội - i trong một gia đình viên chc nh. Thu
nh L Hạng Sơn sau đó về ải Phòng học học thành chung. Năm 1929
học song năm thứ ậc thành chung thì về Nội thi đỗ thinh vào ba b d
trường Cao Đẳng M thuật Đông Dương, học được một năm thì bỏ.
th ộc vào mộ ít nh đa tài nói, Nguyn Thế L thu t s ng ngh sĩ
ca n c ngh thu ng. Thền văn họ ật trước cách mạ ế L m c a là "khi đi
nhng kh m". ởi điể
Khi s ng H ải Phòng, lúc chỉ ới mười tám, đôi mươi Thế đã viế m L t
truyện, làm thơ. Khi nền văn học nước nhà bước vào thời k hiện đại hoá văn
hc, Th L b c mế ắt đầu đượ ời làm báo , sau đó ra nhậPhong hoá p T lực văn
đoàn là người sáng lập văn phái này. Ông là nhà báo, người biên tập nòng cốt,
mẫn cán của hai t Phong hoá và Ngày nay.
V văn xuôi nghệ thu t, Th L c ế ũng có những đóng góp đáng kể th
loi truyện trinh thám, truyệ ễn tưởng như mởn huy đầu mt th tài mới,
một cách viết mi.
Trong khi các tiể ết gia văn hu thuy c hin thực phê phán như Ngô Tt
T, V Tr ng Phũ ụng, Nam Cao,... đang trự ếp dùng ngòi bút của mình đểc ti
phơi bầ ối nát của xã hộy s xu xa, th i th a phong kiực dân nử ến đang đè nặng
lên tâm hồn và thể xác củ a những người dân lương thiện, trong khi các tác gi
văn xuôi T lực văn đoàn đang tập trung miêu t ững câu chuyện tình nh
ngang trái do lề thói phong kiế gây ra thì Thế cho ra đờ n c h L i mt lot
sáng tác khác hẳn: ông viết truy n t rinh thám các "truyn l " theo ki u
Etga Pô.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
Thơ ca cũng th ực giá trị loi ch l nht ca b ph c ận văn h
cách mạng. Đáng chú ý hơn c là sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hu,
Xuân Thu, Sóng Hồng,... trong đó tiêu biu nh ng tất nhữ p tng tác
trong tù như Chí Minh và ữu. Đây là Nhật ký trong tù ca H T y ca T H
hai thành tựu xu t s ắc đưa thơ ca cách mạng lên tầm cao m i.
chặng y, kịch nói tiế ục phát triển, đư thành tựu vượp t c nhiu t
tri hơn so với trước đây. y đượ ếng vang nhc ti ng v kch ca Vi
Huyn Đắc, Đoàn Phú T, nh ng v k ch s ất là nh ch khai thác đ tài lị
ca Nguy ng. ễn Huy Tưở
Cùng với sáng tác nghn cứu lý luận phê bình văn họ ũng phát triể, c c n,
đạ đượt c những thành tựu đáng ghi nhận. giá tr hơn cả những công
trình như Thi nhân Việ Nhà văn hiện đạt Nam c - ủa Hoài Thanh Hoài Chân. i
ca Vũ Ng c Phan, n c Văn học Khi Lu ủa Đặng Thai Mai... đã góp phn
thúc đẩ ền văn học phát triểy n n.
Dường như b ại nào, văn họ ũng phát triển ngày càng phát t c th lo c c
trin mnh m. Chính phát triể ốc độ o như vậy nên không n vi t vũ
cây bút nào giữ được vai trò tiên phong trong suố ặng đường dài. Đó t ch
cuc chy tiếp sc đầy căng thẳng, quy t li ng th t ngo n m c t o m t ế ệt và cũ
nhịp độ ẩn trương, nhanh chóng chưa từ kh ng th y trong l ch s văn học dân
tộc. vậy, Vũ Ngc Phan trong Nhà văn hiện đại thật khi khẳng đnh
" c ta mnướ ột năm có thể như ba mươi năm của ngườ k i".
Hoà chung trong sự phát đó chúng ta phả đến vai trò trin mnh m i k
ca Thế L trong s phát triển và hoàn thiệ ại góp phần làm cho n mt s th lo
văn học giai đoạn này thự mộc s t di n m o m ới, đa dạng, phong phú
mang tính hiện đi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
thậ ất cách dựt s đổi mi, nh ng truy ến, t ch c k t cấu xây dng
tính cách nhân vật. Nhóm T lực văn đoàn v i nh ững tác phẩm thành công
ca Nht Linh, Khái Hưng đã đẩ ộc cách tân tiểy cu u thuyết lên một bước mi.
Tiếp đó nhng tiu thuy cết giá tr a Vũ Trng Ph t Tụng. Ngô Tấ ,
Nguyên Hồng, Nam Cao... đã đưa thể ại này lên đến đỉ lo nh cao.
Truyn ngn thi k này cũng phát triể ẽ, nhanh chóng. Chưa n mnh m
bào giờ truy n ng n Vi t Nam l ại phong phú, đ ắc như thếc s : truy n ng n
trào phúng của Nguyễn Công Hoan; truyn ngn tr tình của Th ch Lam,
Thanh Tnh, H Zếnh, truyn ng n phong t c c n, Kim ủa Hoài, Bùi Hiể
Lân; truyệ ắn có khả năng tạo nên bầu không khí n ng Vang bóng một thi ca
Nguyễn Tuân; truyện ngn vi t v , v c c ế đời tư cái hằng ngày, dựng lên đượ
thế gii "sống mòn", mang tưởng sâu sắc, ý nghĩa khái quát rộng ln vi
nhiều trang phân tích tâm lý đ ới trình đột t bc th y c a Nam Cao... Ch sau
hơn mộ ập niên, chúng ta đã thấ ắn đặt th y xut hin nhiu truyn ng c sc,
trong đó một s truy n ng ắn có thể coi là kiệt tác.
Phóng sự tuỳ bút cũng phát triể ạnh đượ n m c kết tinh trong nh ng
sáng tác của Tam Lang, V Tr ng Phũ ụng, Ngô Tất T , Nguy ễn Tuân. V bút
ký, tu bút phả đến Xuân Diệu và đặ ệt Nguyễn Tuâ ột cây bút i k c bi n - m
tài hoa, độc đáo với nhiều tác phẩm đặc sc.
Trong l nh vĩ ực thơ ca, phong trào Thơ mới đã đem l đổi thay sâu i s
sc với đội ng thi s ũ ĩ đông đảo, đa dạng, phong phú về phong cách nghệ thu t.
Hoài Thanh khẳng định trong lch s thi ca Vi t m Nam chưa bao giờ t
thời đại phong phú như thế "Chưa bao giờ ện cùng mộ: người ta thy xut hi t
ln m t h ng m ồn thơ r như Thế ữ, màng như Lưu Trọng Lư, hùng L
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não n
Huy C t tha ận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Vn... thiế
ro r u" (ực, băn khoăn như Xn Diệ Thi nhân Vit Nam).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
Thơ), (Nam Trân, Nguyễn Đình Thư), nhómnhóm Huế Bình Đnh (Hàn Mc
T, Ch ế Lan Viên, Bích Khê,...).
nướ c ta, các nhà văn lãng mạn ít khi thành lập trường phái
những tuyên ngôn ngh ật riêng. Tuy nhiên thu th i k này chúng ta cũng
thấy được quan điểm th m m c a h qua m ĩ t s a Th bài thơ củ ế L (Cây đàn
muôn điệ ảm xúc, lời thơ ửi hươngu), Xuân Diệu (C , G ), nh u ững bài phát biể
của Lưu Trọng Lư trong cuc tranh lu n v ngh thu t (1935 - cu i 1936) và
cùng người ta đã nghe thấy âm thanh của ch ngh a "ngh thu t v ngh thu t" ĩ
t nh ng b n nh c d u c a c ạo đầ Cây đàn muôn điệu a Thế L .
Như vậy, văn học thi k 1930 - i k n r 1945 là thờ và phát triển các
khuynh hướng, nhóm phái văn học cùng vớ khuynh hướng văn họi c hin thc
phê phán, văn học lãng mạn, đặc biệt là phong trào thơ mới đã góp phn rt
quan tr ng trong vi ệc đưa văn học Vit Nam ti n thế ng vào thờ ện đại k hi i.
Mt trong những người có công đầu tiên ph đến là Thế người có vai k L - i
trò hơ mới nói riêng và cho c giai đoạn văn họm đường cho T c 1930 - 1945
nói chung.
1.1.3. S xu t hi n m t th ế h nhà văn, nhà thơ tài năng và s hoàn thiệ n
v th lo i
Cùng vớ ủa tình hình hội, văn hi s chuyn biến c c thi k t u đầ
thế k XX đế năm 1945, đn c bit t đầu nhng năm 30 trở đi, đã phát triể n
nhanh chóng đ ều thành tựt nhi u to l n. Ch trong vòng hơn mộ ập niên, t th
các khu vực các dòng văn học đề ận động, phát triể ịp độu v n vi nh khn
trương, mau lẹ. Điều đó thể phát triể lượng tác gi tác hin s n v s
phm, s i m lo hình thành đ ới các thể ại văn học độ kết tinh nhng
tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Tiu thuy t tế trước năm 1930 còn ít ỏi có phần đơn giả ậm chí n, th
mt s ch phỏng tác. Đế ng năm 30 ại nàyn nh , th lo tr nên phong phú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
T 1923 đế ễn Công Hoan đã khẳng định phương pháp n 1931 Nguy
hin thực phê phán trong thể loi truy n ng n (Răng con chó của nhà tư sản,
Oẳn tà roằn, Th , Ngật là phúc ựa người và ngưi nga...).
Trong hai năm 1930 1931 Ngô Tấ- t T viết nhng tiu phẩm văn học
ni ti t hi u Thi t Kh u ếng trên các báo phổ thông, Đông Phương với các biệ ế
Nhi; Thục Điểu,... Năm 1931 cũng năm tác phẩm đu tay c a V Tr ng ũ
Phụng ra đời (Không một ti ng vangế ).
Năm 1932 đánh dấ ột ớc phát triển độ ủa dòng n họu m t biến c c
lãng mạ Văn xuôin: Báo Phong hoá; T l c văn đoàn hong trào hơ mớ; P T i...
T 1930 - 1935 c ng nũ ra hàng loạt cuc tranh lu n l n nh : cu c tranh lu n
v Nho giáo giữa Phan Khôi, Trầ ọng Kim Tản Đà; cuộn Tr c tranh lun
xung quanh v Tấn đề mớ o i. Phong Hoá cho đăng hàng lo ạt phóng sự
dài chủ trương bỏ ận đó phản ánh cũ theo mi. Tt c nhng cuc tranh lu
cuộc đấu tranh gi a l giáo phong kiến, đại gia đình phong kiến vi ch ngh a ĩ
cá nhân tư sả ộc đấ ủa tình cảm cá nhân, ý thức cá nhân chốn, cu u tranh c ng li
những khuôn bó, lố và ngôn ngữ khuôn o của thơ ca mộkh i suy nghĩ t
lớp nhà nho đã li thời, đã tàn t. T Lực n Đoàn đề xướng phong trào Âu
hoá, đề ập đế ộc xung độ c n cu t gia mới cũ, lên án gia đình phong kiến,
bênh vực tình yêu lứa đôi, bênh vực ch nghĩa n. cá nhân tư sả
Văn học lãng lạ ần như chiếm đị độc tôn trên thi n thi k 30 - 45 g a v
đàn văn học công khai. Bắt đầ ới nhóm u v T Lực Văn Đoàn Phong trào
Thơ mới. Ngoài nhóm Phong hoá, gày nayN còn phả đến các nhóm i k
Nội báo (Huy Thông, Lưu Trọ ư, Thái Can, Nguyễn Nhược Pháp), ng L Tiu
thuyết th b y (Thâm Tâm, Trầ ền Trân; Lai Ba, Ngn Huy c Giao, Thanh
Châu), Tao Đàn (Nguyễn Tuân, Phạ ầu, Lưu Km H Linh), Xuân Thu Nhã
Tp (Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ...). Ngoài làng văn
đất Thành còn ph đến các nhómi k Sông Thương (Bàng Lân, Anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
cho nền Hán học Vit Nam sụp đổ hoàn toàn. Báo chí cũng diễn đàn đ
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trao đổi ý kiến đánh giá tác phm, ph
biến luận kinh nghiệm sáng c. Đặ ệt, báo chí còn góp phần đấc bi u tranh
cho s th ng l i c n b , cho s ng c ủa văn hoá tiế toàn thắ a ch qu c ng , t o
điều ki n thu n l i cho s i m c. đổ ới văn họ
Tham gia vào công cuộc đổ ới mộ ức Hán họi m t s tri th c chu nh
hưởng ca sinh hoạt đô th tư sản và văn hoá phương Tây thông qua Tân Thư
Trung Quốc như Tàn Đà, Nguyễn Bá Học, Hoàng Ngọc Phách, Phan K i,...
nhưng chủ ẫn là tầ yếu v ng lp tri th c. Nhức tân họ ững cây bút này đã tạo nên
trên văn đàn công khai ệt Nam vào những năm 30 c hai trào lưu Vi a thế k
văn học là văn họ ực và văn học lãng mạc hin th n ch ngh ĩa. Hai trào lưu này
đều đấu tranh thoát ống thi pháp cổ trung đại đã thự đóng khi h th c s
góp có hiệu qu vào tiến trình hiện đại hoá nền văn hc Vit Nam.
Thế L c ng thu c kiũ u tri th c ngh s m i ti n m t thu a ĩ ểu tư sả ộc đị
na phong ki n trong s nh s , nhế ững văn nghệ ĩ ững nhà hoạt đng khoa học xã
hi - t hi n tnhân văn nói trên. Ông xuấ năm 1932 và trưởng thành trong 13
năm (1932 1945) m trí hế- t v t sc quan tr ng trong ti i ến trình hiện đ
hoá văn học nước nhà trướ ách mạng tháng Tám.c C
1.1.2. S n r và phát triển các khuynh hƣớng, nhóm phái văn học
Thi k 1930 - i k1945 thờ đấu tranh dân tộc đấu tranh giai cp
hết s c gay g t. T n nh ng cu nh v ng đó dẫn đế ộc đấu tranh trên ực tưở
ý thứ tác đc h, s ng qua li hết sc phc tp của các khuynh hướng
phương pháp sáng tác khác nhau.
Năm 1930 năm thành lập Đ ệt Nam nhưng đó cũng Cng sn Vi ng
là năm xuấ ện phong trào Xô Viết hi t Ngh Tĩnh, m đầu cho dòng văn học vô
sản các khuynh hướng lãng mạ ực phê phán đã phát triển thành n, hin th
dòng độc lp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
cũ. Những con người trong xã hội ngày càng muố ẳng định cái tôi cá nhân n kh
của mình trong gia đình c ngoài xã hội, điều này đượ ất c biu hin r
trong văn học. vy, mt quan ni m m i v văn chương ng đồng thi
xut hi n.
Đế n thế k XX, v i s xu t hi n c a t ng l p th dân đông đảo lối
sống đô thị hoá, vớ ảnh hưở ủa văn hoá phương Tây... ý thứ á nhân mớ i ng c c c i
nảy sinh phát triển mnh m trong tng lp th n trướ ết c h b
phận trí thức tân học. H quan điểm hoàn toàn khác vớ cái i thế h trước v
đẹp, v đạo đức, nhân sinh và đc biệt là v n hoá nghệ thut. H cho rng
nhng quy ph m ch t ch c t c ng ủa thi pháp cổ đã trở thành vậ ản trên ch
đườ ng t do dân ch hoá nền văn học nước nhà. Họ n tiế ng chng li s trói
buộc trái tự nhiên của thi pháp c mang tính phi ngã đã m ời là mẫ t th u mc
cho các sáng tác văn chương nghệ thut. H đòi h i mt s cách n để tho
mãn nhu cầu thm m m ới để kích thích tính sáng tạo trong lĩnh vc
ngh thuật văn chương.
Có th nói, lố ống đô thị hoá sự ếp xúc văn hoá phương Tây củ i s ti a
mt s t ng l ớp dân chúng Việt Nam vào những năm 30 củ nàytiềa thế k n
đề quan trọng cho xu hướng hiện đại hoá đờ ống hội, trong đó văn i s
học. Ngoài ra, góp phần không nhỏ vào s ủa hội nói chung đổi mi c
văn nghệ nói riêng còn phả đến vai trò của báo chí. i k
T năm 1913, báo c bắt đầu đổ ới khuynh hướng, chương i m
trình rõ rệt hơn, hình thức báo chí cũng đưc ci ti c ến. Báo chí thời nay đượ
xut b n b ằng các thứ tiếng Tàu, Pháp, Quố và đôi khi cảc Ng ch Nôm nữa.
V sau, nh c cững tthức tân họ ủa ta đã cổ động cho ch qu c ng và dùng
m phương ti ến. Văn hoá, khoa hn ph bi c tiến b góp phần thúc đẩy
bánh xe l ến lên. Chính báo c đã hoạt động sôi nổ ến chính ch s ti i khi
quyn thực dân và Chính phủ ải bãi b ời làm Nam triu ph chế độ thi c li th
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
pông, tennis. Nam thanh niên thành th giàu sang cũng đua nhau ăn mặ c
không kém thiếu n.
Có th nói, những đổ i mi trong sinh ho t c ủa các tầ ớp trên đây sẽng l
dẫn đến s thay đ ảm xúc trong chính bản thân những con người suy nghĩ, c i
này. Góp phần vào s thay đổi đó còn do sự ếp xúc với văn hoá phương Tây ti
mà đặ ệt là với văn học lãng mạn Pháp.c bi
Năm 1915, thực dân Pháp và triều đình phong kiến bt bu c ph ải bãi bỏ
thi Hương ở Bc Kỳ. Năm 1919 khoa thi Hội cuối cùng đã kết thúc chế Huế
độ khoa thi c phong ki n. T ng h c, h c sinh b u say ế đây, trong các trườ ắt đầ
sưa với văn hoá Pháp mà đ ệt là văn học lãng mạn Pháp. Ngườ ắt đầc bi i ta b u
ca ng n cợi thơ lãng mạ ủa Huygô, Lamartine, Musset,... Nhiều ngườ ất thích i r
bài thơ "Le Lac" (Cái h) của Lamartine, nhân vật Atala trong c phm
cùng tên của Chateaubriand.
S tiếp xúc văn hoá trên đây đã đem đến cho t ng l ớp thanh niê ểu tư n ti
sản thành th ững năm 30 củ nh a thế k này những tình cảm m i, nh ng rung
động mi. H yêu đương mơ mộng, vui bun không giống các c ngày xưa
nữa. Điều này đã được Lưu Trọng Lư nêu lên công khai trong buổi din thuyết
nhà Họ ội Quy Nhơn h háng 6 năm 1934: "Các cục H i t ta ưa những màu đỏ
chót ta lại ưa những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng tiếng trùng đêm
khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà c đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây
thơ, các c coi như làm một điề u ti lỗi ta thì cho là mát m như đứng trước
một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ sự hôn nhân, nhưng đối
với ta thì trăm hình muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cái tình
gn gũi, cái tình xa xôi, cái nh trong giây phút,i tình ngàn thu..." [5-21].
S tiếp xúc với văn hoá phương Tây lố ống đô thị hoá cũng làm i s
cho ý thức cá nhân nả phát triể ấn át ý thứ ộng đồng xưa y n n rt nhanh l c c
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
Chương 1
S XU T HI N C A TH L TRONG B I C ẢNH VĂN
HC VI T NAM TH I K 30 - 45
1.1. B I C I VI T NAM TH I K 1930 - 1945 ẢNH VĂN HOÁ, XÃ HỘ
1.1.1. Vài nét về tình hình chính tr văn hoá xã hộ - - i
Hin th i sực đờ ống xã hội không chỉ là đối tượ ản ánh mộ ền văn ng ph t n
hc nhất định mà còn là nhân tố làm nảy sinh chính nền văn họ c y. Theo mi
quan h bi n ch ứng này thì vào đ XX, hội nước ta đã xuấu thế k t hin
đầy đủ ền đề ti cho mt nền văn họ ện đại ra đờc hi i.
Đến đ này, thực dân Pháp đã thựu thp k 30 ca thế k c hin Vit
Nam hai cu a lộc khai thác thuộc đị n nhằm đp nhng thi t h i kinh t ế
chính quố ộc đạc do cu i chi n th gi i l n th nhế ế ất gây ra. Xã hội Vit Nam do
đó ến đ theo. Các đô th ọc lên rất nhanh theo đà phát triểng bi i m n ca
kinh t n ch ngh a. Vi ng ế bả ĩ ệc buôn bán bắt đầu sôi độ các thành phố
ln. B c c a th máy viên chứ ực dân và phong kiến đã có qui mô hoàn chnh.
Mt t ng l p ti cuểu tư sản được hình thành từ c kh a lai thác thuộc đị n th
nhất đến đ 30 đã phát triển đông đảo và chiếu thp k m m t t l không nhỏ
trong dân s các đô thị . Theo thống kê niên giám của Đông Dương năm 1932
- 1933, s trí thức tân học bao g m h i ọc sinh, sinh viên và viên chức đã lên tớ
35 vạn người.
Hu h ng l u s ng ết các t ớp giai cấp trên đ các đô th. Mt li
sống tư sản hoá đượ là "văn minh thành thị tràn trong giai cấp tư sảc gi " lan n
và tiểu tư sả ớp trên. Lốn l i sống đô th hoá đượ ện rõ trong cách ăn mặ c th hi c
của thanh niên nam n. Cui thp k 30 người ta thy xut hin nhiu thiếu
n Thành mặt đánh phn, môi đỏ chót, áo màu, giày cao gót, chơi ping
| 1/9

Preview text:

1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA THẾ LỮ TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC MỚI
Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, bút hiệu Lê Ta, sinh ngày 06 tháng
10 năm 1907 tại ấp Thái Hà - Hà Nội trong một gia đình viên chức nhỏ. Thuở
nhỏ ở Lạng Sơn sau đó về Hải Phòng học sơ học và thành chung. Năm 1929
học song năm thứ ba bậc thành chung thì về Hà Nội thi đỗ dự thinh vào
trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học được một năm thì bỏ.
Có thể nói, Nguyễn Thế Lữ thuộc vào một số ít những nghệ sĩ đa tài
của nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Thế Lữ là "khởi điểm của những khởi điểm".
Khi sống ở Hải Phòng, lúc chỉ mới mười tám, đôi mươi Thế Lữ đã viết
truyện, làm thơ. Khi nền văn học nước nhà bước vào thời kỳ hiện đại hoá văn
học, Thế Lữ bắt đầu được mời làm báo Phong hoá, sau đó ra nhập Tự lực văn
đoàn là người sáng lập văn phái này. Ông là nhà báo, người biên tập nòng cốt,
mẫn cán của hai tờ Phong hoá và Ngày nay.
Về văn xuôi nghệ thuật, Thế Lữ cũng có những đóng góp đáng kể ở thể
loại truyện trinh thám, truyện huyễn tưởng như là mở đầu một thể tài mới, một cách viết mới.
Trong khi các tiểu thuyết gia văn học hiện thực phê phán như Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,... đang trực tiếp dùng ngòi bút của mình để
phơi bầy sự xấu xa, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến đang đè nặng
lên tâm hồn và thể xác của những người dân lương thiện, trong khi các tác giả
văn xuôi Tự lực văn đoàn đang tập trung miêu tả những câu chuyện tình
ngang trái do lề thói phong kiến cổ hủ gây ra thì Thế Lữ cho ra đời một loạt
sáng tác khác hẳn: ông viết truyện trinh thám và các "truyện lạ" theo kiểu Etga Pô. 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thơ ca cũng là thể loại chủ lực và có giá trị nhất của bộ phận văn học
cách mạng. Đáng chú ý hơn cả là sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Xuân Thuỷ, Sóng Hồng,... trong đó tiêu biểu nhất là những tập thơ sáng tác
trong tù như Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và Từ Ấy của Tố Hữu. Đây là
hai thành tựu xuất sắc đưa thơ ca cách mạng lên tầm cao mới.
Ở chặng này, kịch nói tiếp tục phát triển, được nhiều thành tựu vượt
trội hơn so với trước đây. Gây được tiếng vang là những vở kịch của Vi
Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, nhất là những vở kịch khai thác đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng.
Cùng với sáng tác, nghiên cứu lý luận phê bình văn học cũng phát triển,
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Có giá trị hơn cả là những công
trình như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân. Nhà văn hiện đại
của Vũ Ngọc Phan, Văn học Khải Luận của Đặng Thai Mai... đã góp phần
thúc đẩy nền văn học phát triển.
Dường như bất cứ thể loại nào, văn học cũng phát triển ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Chính vì phát triển với tốc độ vũ bão như vậy nên không có
cây bút nào giữ được vai trò tiên phong trong suốt chặng đường dài. Đó là
cuộc chạy tiếp sức đầy căng thẳng, quyết liệt và cũng thật ngoạn mục tạo một
nhịp độ khẩn trương, nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử văn học dân
tộc. Vì vậy, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại thật có lí khi khẳng định
"Ở nước ta một năm có thể kể như ba mươi năm của người".
Hoà chung trong sự phát triển mạnh mẽ đó chúng ta phải kể đến vai trò
của Thế Lữ trong sự phát triển và hoàn thiện một số thể loại góp phần làm cho
văn học giai đoạn này thực sự có một diện mạo mới, đa dạng, phong phú mang tính hiện đại. 19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và thật sự đổi mới, nhất là ở cách dựng truyện, tổ chức kết cấu và xây dựng
tính cách nhân vật. Nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm thành công
của Nhất Linh, Khái Hưng đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới.
Tiếp đó là những tiểu thuyết có giá trị của Vũ Trọng Phụng. Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao... đã đưa thể loại này lên đến đỉnh cao.
Truyện ngắn thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng. Chưa
bào giờ truyện ngắn Việt Nam lại phong phú, đặc sắc như thế: truyện ngắn
trào phúng của Nguyễn Công Hoan; truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Zếnh, truyện ngắn phong tục của Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim
Lân; truyện ngắn có khả năng tạo nên bầu không khí Vang bóng một thời của
Nguyễn Tuân; truyện ngắn viết về đời tư, về cái hằng ngày, dựng lên được cả
thế giới "sống mòn", mang tư tưởng sâu sắc, ý nghĩa khái quát rộng lớn với
nhiều trang phân tích tâm lý đạt tới trình độ bậc thầy của Nam Cao... Chỉ sau
hơn một thập niên, chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều truyện ngắn đặc sắc,
trong đó một số truyện ngắn có thể coi là kiệt tác.
Phóng sự và tuỳ bút cũng phát triển mạnh được kết tinh trong những
sáng tác của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân. Về bút
ký, tuỳ bút phải kể đến Xuân Diệu và đặc biệt là Nguyễn Tuân - một cây bút
tài hoa, độc đáo với nhiều tác phẩm đặc sắc.
Trong lĩnh vực thơ ca, phong trào Thơ mới đã đem lại sự đổi thay sâu
sắc với đội ngũ thi sĩ đông đảo, đa dạng, phong phú về phong cách nghệ thuật.
Hoài Thanh khẳng định trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một
thời đại phong phú như thế: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một
lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha
rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu" (Thi nhân Việt Nam). 18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thơ), nhóm Huế (Nam Trân, Nguyễn Đình Thư), nhóm Bình Định (Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,...).
Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi thành lập trường phái và có
những tuyên ngôn nghệ thuật riêng. Tuy nhiên ở thời kỳ này chúng ta cũng
thấy được quan điểm thẩm mĩ của họ qua một số bài thơ của Thế Lữ (Cây đàn
muôn điệu), Xuân Diệu (Cảm xúc, lời thơ, Gửi hương), những bài phát biểu
của Lưu Trọng Lư trong cuộc tranh luận về nghệ thuật (1935 - 1936) và cuối
cùng người ta đã nghe thấy âm thanh của chủ nghĩa "nghệ thuật vị nghệ thuật"
từ những bản nhạc dạo đầu của Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ.
Như vậy, văn học thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ nở rộ và phát triển các
khuynh hướng, nhóm phái văn học cùng với khuynh hướng văn học hiện thực
phê phán, văn học lãng mạn, đặc biệt là phong trào thơ mới đã góp phần rất
quan trọng trong việc đưa văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời kỳ hiện đại.
Một trong những người có công đầu tiên phải kể đến là Thế Lữ - người có vai
trò mở đường cho Thơ mới nói riêng và cho cả giai đoạn văn học 1930 - 1945 nói chung.
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hoàn thiện về thể loại
Cùng với sự chuyển biến của tình hình xã hội, văn học thời kỳ từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1945, đặc biệt từ đầu những năm 30 trở đi, đã phát triển
nhanh chóng đạt nhiều thành tựu to lớn. Chỉ trong vòng hơn một thập niên,
các khu vực các dòng văn học đều vận động, phát triển với nhịp độ khẩn
trương, mau lẹ. Điều đó thể hiện ở sự phát triển về số lượng tác giả và tác
phẩm, sự hình thành và đổi mới các thể loại văn học và độ kết tinh ở những
tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Tiểu thuyết từ trước năm 1930 còn ít ỏi và có phần đơn giản, thậm chí
một số chỉ là phỏng tác. Đến những năm 30, thể loại này trở nên phong phú 17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Từ 1923 đến 1931 Nguyễn Công Hoan đã khẳng định phương pháp
hiện thực phê phán trong thể loại truyện ngắn (Răng con chó của nhà tư sản,
Oẳn tà roằn, Thật là phúc, Ngựa người và người ngựa...).
Trong hai năm 1930 - 1931 Ngô Tất Tố viết những tiểu phẩm văn học
nổi tiếng trên các báo phổ thông, Đông Phương với các biệt hiệu Thiết Khẩu
Nhi; Thục Điểu,... Năm 1931 cũng là năm tác phẩm đầu tay của Vũ Trọng
Phụng ra đời (Không một tiếng vang).
Năm 1932 đánh dấu một bước phát triển đột biến của dòng văn học
lãng mạn: Báo Phong hoá; Văn xuôi Tự lực văn đoàn; Phong trào Thơ mới...
Từ 1930 - 1935 cũng nổ ra hàng loạt cuộc tranh luận lớn nhỏ: cuộc tranh luận
về Nho giáo giữa Phan Khôi, Trần Trọng Kim và Tản Đà; cuộc tranh luận
xung quanh vấn đề Thơ mới. Báo Phong Hoá cho đăng hàng loạt phóng sự
dài chủ trương bỏ cũ theo mới. Tất cả những cuộc tranh luận đó phản ánh
cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến, đại gia đình phong kiến với chủ nghĩa
cá nhân tư sản, cuộc đấu tranh của tình cảm cá nhân, ý thức cá nhân chống lại
những khuôn khổ gò bó, lối suy nghĩ và ngôn ngữ khuôn sáo của thơ ca một
lớp nhà nho đã lỗi thời, đã tàn tạ. Tự Lực Văn Đoàn đề xướng phong trào Âu
hoá, đề cập đến cuộc xung đột giữa mới và cũ, lên án gia đình phong kiến,
bênh vực tình yêu lứa đôi, bênh vực chủ nghĩa cá nhân tư sản.
Văn học lãng lạn thời kỳ 30 - 45 gần như chiếm địa vị độc tôn trên thi
đàn văn học công khai. Bắt đầu với nhóm Tự Lực Văn Đoàn và Phong trào
Thơ mới. Ngoài nhóm Phong hoá, Ngày nay còn phải kể đến các nhóm Hà
Nội báo (Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Thái Can, Nguyễn Nhược Pháp), Tiểu
thuyết thứ bảy (Thâm Tâm, Trần Huyền Trân; Lai Ba, Ngọc Giao, Thanh
Châu), Tao Đàn (Nguyễn Tuân, Phạm Hầu, Lưu Kỳ Linh), Xuân Thu Nhã
Tập (Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ...). Ngoài làng văn
đất Hà Thành còn phải kể đến các nhóm Sông Thương (Bàng Bá Lân, Anh 16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho nền Hán học ở Việt Nam sụp đổ hoàn toàn. Báo chí cũng là diễn đàn để
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trao đổi ý kiến đánh giá tác phẩm, phổ
biến lý luận kinh nghiệm sáng tác. Đặc biệt, báo chí còn góp phần đấu tranh
cho sự thắng lợi của văn hoá tiến bộ, cho sự toàn thắng của chữ quốc ngữ, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới văn học.
Tham gia vào công cuộc đổi mới có một số tri thức Hán học chịu ảnh
hưởng của sinh hoạt đô thị tư sản và văn hoá phương Tây thông qua Tân Thư
Trung Quốc như Tàn Đà, Nguyễn Bá Học, Hoàng Ngọc Phách, Phan Khôi,...
nhưng chủ yếu vẫn là tầng lớp tri thức tân học. Những cây bút này đã tạo nên
trên văn đàn công khai ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ hai trào lưu
văn học là văn học hiện thực và văn học lãng mạn chủ nghĩa. Hai trào lưu này
đều đấu tranh thoát khỏi hệ thống thi pháp cổ trung đại và đã thực sự đóng
góp có hiệu quả vào tiến trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam.
Thế Lữ cũng thuộc kiểu tri thức nghệ sĩ mới tiểu tư sản ở một thuộc địa
nửa phong kiến trong số những văn nghệ sĩ, những nhà hoạt động khoa học xã
hội - nhân văn nói trên. Ông xuất hiện từ năm 1932 và trưởng thành trong 13
năm (1932 - 1945) có một vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình hiện đại
hoá văn học nước nhà trước Cách mạng tháng Tám.
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hƣớng, nhóm phái văn học
Thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
hết sức gay gắt. Từ đó dẫn đến những cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng
và ý thức hệ, sự tác động qua lại hết sức phức tạp của các khuynh hướng và
phương pháp sáng tác khác nhau.
Năm 1930 là năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đó cũng
là năm xuất hiện phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, mở đầu cho dòng văn học vô
sản và các khuynh hướng lãng mạn, hiện thực phê phán đã phát triển thành dòng độc lập. 15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũ. Những con người trong xã hội ngày càng muốn khẳng định cái tôi cá nhân
của mình trong gia đình và cả ngoài xã hội, điều này được biểu hiện rất rõ
trong văn học. Vì vậy, một quan niệm mới về văn chương cũng đồng thời xuất hiện.
Đến thế kỷ XX, với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đông đảo và lối
sống đô thị hoá, với ảnh hưởng của văn hoá phương Tây... ý thức cá nhân mới
nảy sinh và phát triển mạnh mẽ trong tầng lớp thị dân mà trước hết là ở bộ
phận trí thức tân học. Họ có quan điểm hoàn toàn khác với thế hệ trước về cái
đẹp, về đạo đức, nhân sinh và đặc biệt là về văn hoá nghệ thuật. Họ cho rằng
những quy phạm chặt chẽ của thi pháp cổ đã trở thành vật cản trên chặng
đường tự do dân chủ hoá nền văn học nước nhà. Họ lên tiếng chống lại sự trói
buộc trái tự nhiên của thi pháp cổ mang tính phi ngã đã một thời là mẫu mực
cho các sáng tác văn chương nghệ thuật. Họ đòi hỏi một sự cách tân để thoả
mãn nhu cầu thẩm mỹ mới và để kích thích cá tính sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật văn chương.
Có thể nói, lối sống đô thị hoá và sự tiếp xúc văn hoá phương Tây của
một số tầng lớp dân chúng Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ này là tiền
đề quan trọng cho xu hướng hiện đại hoá đời sống xã hội, trong đó có văn
học. Ngoài ra, góp phần không nhỏ vào sự đổi mới của xã hội nói chung và
văn nghệ nói riêng còn phải kể đến vai trò của báo chí.
Từ năm 1913, báo chí bắt đầu đổi mới và có khuynh hướng, chương
trình rõ rệt hơn, hình thức báo chí cũng được cải tiến. Báo chí thời nay được
xuất bản bằng các thứ tiếng Tàu, Pháp, Quốc Ngữ và đôi khi cả chữ Nôm nữa.
Về sau, những trí thức tân học của ta đã cổ động cho chữ quốc ngữ và dùng
nó làm phương tiện phổ biến. Văn hoá, khoa học tiến bộ góp phần thúc đẩy
bánh xe lịch sử tiến lên. Chính báo chí đã hoạt động sôi nổi khiến chính
quyền thực dân và Chính phủ Nam triều phải bãi bỏ chế độ thi cử lỗi thời làm 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
pông, tennis. Nam thanh niên thành thị giàu sang cũng đua nhau ăn mặc không kém thiếu nữ.
Có thể nói, những đổi mới trong sinh hoạt của các tầng lớp trên đây sẽ
dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cảm xúc trong chính bản thân những con người
này. Góp phần vào sự thay đổi đó còn do sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây
mà đặc biệt là với văn học lãng mạn Pháp.
Năm 1915, thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt buộc phải bãi bỏ
thi Hương ở Bắc Kỳ. Năm 1919 khoa thi Hội cuối cùng ở Huế đã kết thúc chế
độ khoa thi cử phong kiến. Từ đây, trong các trường học, học sinh bắt đầu say
sưa với văn hoá Pháp mà đặc biệt là văn học lãng mạn Pháp. Người ta bắt đầu
ca ngợi thơ lãng mạn của Huygô, Lamartine, Musset,... Nhiều người rất thích
bài thơ "Le Lac" (Cái hồ) của Lamartine, mê nhân vật Atala trong tác phẩm
cùng tên của Chateaubriand.
Sự tiếp xúc văn hoá trên đây đã đem đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư
sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung
động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn không giống các cụ ngày xưa
nữa. Điều này đã được Lưu Trọng Lư nêu lên công khai trong buổi diễn thuyết
ở nhà Học Hội Quy Nhơn hồi tháng 6 năm 1934: "Các cụ ta ưa những màu đỏ
chót ta lại ưa những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm
khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây
thơ, các cụ coi như làm một điều tội lỗi ta thì cho là mát mẻ như đứng trước
một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối
với ta thì trăm hình muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cái tình
gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu..." [5-21].
Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây và lối sống đô thị hoá cũng làm
cho ý thức cá nhân nảy nở và phát triển rất nhanh lấn át ý thức cộng đồng xưa 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Chương 1
SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45
1.1. BỐI CẢNH VĂN HOÁ, XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ 1930 - 1945
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hoá - xã hội
Hiện thực đời sống xã hội không chỉ là đối tượng phản ánh một nền văn
học nhất định mà còn là nhân tố làm nảy sinh chính nền văn học ấy. Theo mối
quan hệ biện chứng này thì vào đầu thế kỷ XX, xã hội nước ta đã xuất hiện
đầy đủ tiền đề cho một nền văn học hiện đại ra đời.
Đến đầu thập kỷ 30 của thế kỷ này, thực dân Pháp đã thực hiện ở Việt
Nam hai cuộc khai thác thuộc địa lớn nhằm bù đắp những thiệt hại kinh tế ở
chính quốc do cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất gây ra. Xã hội Việt Nam do
đó cũng biến đổi theo. Các đô thị mọc lên rất nhanh theo đà phát triển của
kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Việc buôn bán bắt đầu sôi động ở các thành phố
lớn. Bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến đã có qui mô hoàn chỉnh.
Một tầng lớp tiểu tư sản được hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất đến đầu thập kỷ 30 đã phát triển đông đảo và chiếm một tỷ lệ không nhỏ
trong dân số các đô thị. Theo thống kê niên giám của Đông Dương năm 1932
- 1933, số trí thức tân học bao gồm học sinh, sinh viên và viên chức đã lên tới 35 vạn người.
Hầu hết các tầng lớp và giai cấp trên đều sống ở các đô thị. Một lối
sống tư sản hoá được gọi là "văn minh thành thị" lan tràn trong giai cấp tư sản
và tiểu tư sản lớp trên. Lối sống đô thị hoá được thể hiện rõ trong cách ăn mặc
của thanh niên nam nữ. Cuối thập kỷ 30 người ta thấy xuất hiện nhiều thiếu
nữ Hà Thành mặt đánh phấn, môi đỏ chót, áo màu, giày cao gót, chơi ping 12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn