



















Preview text:
Giới thiệu một số tác phẩm triết học của C.Mác, Ph.Ănggen và Lênin
1. Tác phẩm hệ tư tưởng Đức (1845-1846)
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3.
C. Mác và Ph.Ăngghen: Các tác phẩm, Mátxcơva, 1955-1981, tập 3. Tiếng Nga.
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
- Nguyên nhân trực tiếp sự ra đời của tác phẩm.
- Cấu trúc của tác phẩm.
2. Nội dung của tác phẩm
+ Phê phán triệt để những quan điểm duy tâm của "triết học Đức mới"
và "chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức.
- Phê phán sự hạn chế của triết học Phoiơbắc.
- Phê phán những quan điểm duy tâm của phái "Hêghen trẻ".
- Phê phán "chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức.
+ Trình bày một cách rõ ràng những nguyên lý của thế giới quan triết
học mới và đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học.
- Sơ đồ diễn giải nhận thức duy vật về lịch sử .
- Lần đầu tiên C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra nguồn gốc của nhận thức duy vật về lịch sử.
- Lần đầu tiên giải thích sự biện chứng của mối quan hệ tác động qua lại và
phát triển giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
- Chỉ ra cơ sở của học thuyết mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp, chỉ ra
bản chất của nhà nước nói chung và nhà nước tư bản nói riêng, nêu lên công
thức chính của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ qua lại của tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
- Lần đầu tiên chỉ ra hai nguồn gốc vật chất chính của công cuộc xây dựng xã
hội cộng sản: Đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hình thành
giai cấp vô sản cách mạng.
3. Ý nghĩa của tác phẩm
Trong tác phẩm này, C.Mác và Ph.Ăngghen:
- Tiếp tục phê phán triết học của Hêghen: Chỉ ra nguồn gốc nhận thức duy
tâm và tính tự biện của nó.
- Lần đầu tiên vạch rõ ranh giới những quan điểm triết học của mình với phái
"Hêghen trẻ" (chỉ có những vĩ nhân mới có năng lực phê phán và làm nên lịch
sử, quần chúng nhân dân chỉ có thể bị dẫn dắt chứ không có khả năng tạo ra lịch sử).
- Lần đầu tiên trình bày những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân; sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân; xu hướng phát triển của xã hội đến chủ nghĩa cộng sản./.
1.1 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
+ Nguyên nhân trực tiếp sự ra đời của tác phẩm
+ Mùa hè năm 1845, Lútvích Phoiơbắc viết bài báo công khai tuyên bố mình là người cộng sản.
+ Mùa thu (tháng 9) năm 1845, những người “chủ nghĩa xã hội chân chính”
và giữa tháng 10 năm 1845, Bauơ, Stiếcnơ đã viết nhiều bài báo chống lại
chủ nghĩa cộng sản. (Brunô Bauơ là thủ lĩnh phái "Hêghen trẻ")
+ Trong thời kỳ này, những người ủng hộ C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn còn là
thiểu số trong phong trào công nhân; các phe phái đủ màu sắc của chủ nghĩa
xã hội tiểu tư sản đang chiếm ưu thế.
Trước tình hình đó, C.Mác và Ph.Ăngghen thấy đã đến lúc cần phải chứng
minh một cách khoa học những cơ sở hệ tư tưởng của giai cấp vô sản; tuyên
truyền hệ tư tưởng đó để tranh thủ những người vô sản tiên tiến trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản.
+ Nhiệm vụ cụ thể đặt ra cho C.Mác và Ph.Ăngghen khi viết tác phẩm:
C.Mác viết (8/1846) “Tôi thấy rằng, điều hết sức quan trọng là trước khi tôi
trình bày vấn đề một cách chính diện thì cần phải có một tác phẩm luận chiến
chống lại nền triết học Đức và chống lại chủ nghĩa xã hội Đức (...) Điều đó là
cần thiết để chuẩn bị cho công chúng tiếp thu quan điểm của tôi trong lĩnh
vực kinh tế-chính trị, quan điểm này trực tiếp đối lập với khoa học
Đức” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.27, tr.398-399).
+ Phê phán triệt để những quan điểm duy tâm của “triết học Đức mới” và “chủ
nghĩa xã hội chân chính” (chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Đức).
+ Trình bày một cách rõ ràng những nguyên lý của thế giới quan triết học mới
và đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học.
+ Kết quả thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trên là Hệ tư tưởng Đức đã đánh
dấu bước tiến mới của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
1.2 Cấu trúc của tác phẩm
"Hệ tư tưởng Đức" gồm 2 tập.
Tập I: Phê phán chủ nghĩa duy tâm của phái Hêghen trẻ.
Gồm Lời nói đầu và ba chương
Lời nói đầu (chưa viết xong), C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày tổng quát
quan niệm duy vật về lịch sử và về chủ nghĩa cộng sản của mình.
Chương I: Phoiơbắc. Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm.
Đây là chương quan trọng của Hệ tư tưởng Đức. Trong chương này, sau khi
phê phán triết học Phoiơbắc, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra các quan điểm duy vật của mình.
Chương I lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1924 bằng tiếng Nga tại
Liênxô (Viện Mác-Ăngghen). Toàn bộ bản thảo lần đầu tiên được xuất bản
vào năm 1932 (Viện Mác-Ăngghen-Lênin) và vào năm 1933 (C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4), vào năm 1965 ("Các vấn đề của triết học", số 10-
11). Năm 1966 (xuất bản riêng)- (Viện Chủ nghĩa Mác-Lênin trực thuộc Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liênxô) xuất bản chương I (tập 1)
theo cách bố trí phù hợp với cấu trúc và nội dung của bản thảo.
Chương I : Brunô thần thánh. Phê phán Brunô Bauơ }phát triển tư tưởng của
các tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844" và "Gia đình thần thánh
hay là phê phán sự phê phán có tính chất phê phán. Chống Brunô Bauơ và đồng bọn" (1845)}
Chương I I: Max thần thánh. Phê phán Max Stiếcnơ.
Tập I : Phê phán "chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức.
“chủ nghĩa xã hội chân chính Đức” là sự kết hợp giữa triết học Đức (chủ yếu
là triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc) với những học thuyết xã hội chủ
nghĩa không tưởng (chủ yếu là chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp).
Gồm năm chương, nhưng không tìm thấy bản thảo của chương II và III.
Chương I. C.Mác và Ph.Ăngghen tập trung phê phán những bài báo của
Dem-mích và Mat-tei, đại biểu cho triết học của “chủ nghĩa xã hội chân chính”.
Chương IV. phê phán cuốn sách của G-ruyn, đại biểu chủ yếu của “chủ
nghĩa xã hội chân chính”. Chương này được xuất bản năm 1947.
Chương V. phê phán cuốn sách của Cun-mam, một người của “chủ nghĩa xã hội chân chính”.
Bản thảo của "Hệ tư tưởng Đức" tuy chưa kịp xuất bản, nhưng "mục đích
chính của chúng tôi là làm cho chính mình hiểu rõ- thì đã đạt được" (C.Mác/
C.Mác và Ph.Ăngghen: t.13, tr.8). 1.3 Nội dung tác phẩm
+ Phê phán triệt để những quan điểm duy tâm của “triết học Đức
mới” và “chủ nghĩa xã hội chân chính” (chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Đức).
Nội dung lý luận chính của Hệ tư tưởng Đức được tập trung ở chương I, tập
1:"Phoiơbắc. Sự đối lập giữa các quan điểm duy vật và duy tâm"; các phần
còn lại thiên về luận chiến.
+ Phê phán sự hạn chế của triết học Phoiơbắc. (Làm sáng tỏ thêm những
hạn chế của triết học Phoiơbắc)
Những hạn chế của triết học Phoiơbắc đã được trình bày cô đọng trong tác
phẩm Luận cương về Phoiơbắc (1845). Trong "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cụ thể hoá và phân tích chi tiết những đặc điểm của triết học
Phoiơbắc, đặc biệt là sự liên quan của hệ thống triết học đó với chủ nghĩa cộng sản.
- Hạn chế cơ bản của Phoiơbắc nằm trong quan niệm về con người.
Phoiơbắc dựa vào khái niệm "con người cộng đồng" để tự tuyên bố mình là người cộng sản.
Con người, theo Phoiơbắc, chỉ là "con người trừu tượng" mà không phải là
con người hiện thực của lịch sử. Đối với những người cộng sản, con người là
sản phẩm của tự nhiên và vấn đề cần xem xét ở con người hiện thực của lịch
sử là hành động thực tiễn của con người nhằm thay đổi thế giới hiện có.
Trên thực tế, "con người cộng đồng" của Phoiơbắc là quan điểm về quan hệ
giữa con người với nhau trên góc độ con người bao giờ cũng luôn cần đến
nhau và như vậy, điều quan trọng là phải xác lập một ý thức đúng đắn về cái hiện có.
Ngược lại, đối với người cộng sản thực thụ, điều quan trọng là phải lật đổ cái
hiện có ấy (Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb.Sự thật,
HàNội,1980,t.1, tr.312).
- Mặc dù công nhận "con người là đối tượng của cảm giác", nhưng Phoiơbắc
chỉ nói đến quan hệ của con người trong tình yêu và tình bạn đã được lý
tưởng hoá, chỉ dừng lại ở lý luận mà không xem xét con người trong mối
quan hệ xã hội nhất định, trong những điều kiện sinh hoạt nhất định, trong
những điều kiện làm cho con người trở thành những con người đang tồn tại và hành động thực sự.
Do vậy, Phoiơbắc không nhận ra sự cần thiết phải phê phán những điều kiện
sinh hoạt hiện có của con người; không hiểu được rằng, thế giới cảm giác
được là tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân
hợp thành thế giới ấy và như thế, khi đứng trước thực trạng của xã hội
đương thời, Phoiơbắc đành lẩn trốn vào các quan niệm, khái niệm, lý tưởng
hoàn toàn trừu tượng- tức là rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Ngược lại, khi đứng trước thực trạng của xã hội đương thời, người cộng sản
nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều kiện của hoạt động cải tạo thực tiễn của
chính con người (Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb.Sự thật,
HàNội,1980,t.1, tr.285-286).
- Khi nói về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, Phoiơbắc có quan
niệm siêu hình về một thế giới tự nhiên bất biến mà không hiểu rằng, hoạt
động thực tiễn của con người đã tác động lên giới tự nhiên, tạo nên một giới
tự nhiên có tính chất lịch sử ".. ở Phoiơbắc, tự nhiên và lịch sử trở nên tách
rời nhau, không liên hệ với nhau".
Để kết thúc phần 1.1, xin dẫn câu trích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Khi
Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch sử; còn khi
ông có tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở Phoiơbắc, lịch sử
và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau" (C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển
tập, Nxb.Sự thật, HàNội,1980,t.1, tr.286).
+ Phê phán những quan điểm duy tâm của phái "Hêghen trẻ".
- "Phái Hêghen trẻ" phê phán tất cả mọi cái, thay thế từng cái một bằng
những quan niệm tôn giáo hoặc tuyên bố cái đó là có tính thần học. Phái
"Hêghen trẻ" cũng như phái "Hêghen già" đều tin tưởng rằng tôn giáo, khái
niệm là cái phổ biến thống trị trong thế giới hiện có (C.Mác và Ph.Ăngghen:
Tuyển tập, Nxb.Sự thật, HàNội, 1980, t.1, tr.265).
Phái "Hêghen trẻ" khảng định cái hiện tồn là sản phẩm của ý thức và tuyên
bố "đảo lộn thế giới" chỉ bằng việc đấu tranh chống lại những câu nói mà
không hề chống lại thế giới hiện tồn.
- Tiếp tục sự phê phán đã viết trong tác phẩm "Gia đình thần thánh...", C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ ra mưu toan của Bauơ đặt "tự ý thức tuyệt đối" lên
"thực thể", coi tư tưởng là cơ sở của thế giới hiện tồn (Xem: C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, tr.84).
Như vậy, sự khác nhau giữa Bau-ơ với những người cộng sản nằm ở cách
giải quyết mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn, giữa nhận thức khoa học
với hoạt động cải tạo thực tiễn. Khi Bau-ơ lợi dụng những luận điểm của
Phoiơbắc về chủ nghĩa cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ sai lầm của
Phoiơbắc và sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc
với chủ nghĩa duy vật thực tiễn của những người cộng sản.
- Khi phê phán Stiếcnơ- một đại biểu khác của phái "Hêghen trẻ" (Stiếcnơ
cho rằng, để biến đổi thực tiễn, chỉ cần biến đổi ý thức và các khái niệm của
các cá nhân mà thôi) với ảo tưởng về những con đường thủ tiêu mọi áp bức
xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen khảng định rằng, không thể đập tan được mọi
hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán tinh thần mà chỉ đập tan
được những quan hệ xã hội đã sinh ra chúng; không phải sự phê phán (bằng
lời nói), mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học
và của mọi lý luận khác.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng tập trung phê phán quan niệm của Stiếcnơ về
lịch sử. Stiếcnơ cho rằng, "cái tôi" là thực tại duy nhất và toàn thế giới là sở
hữu của "cái tôi". Ngoài "cái tôi" ra, tất cả mọi cái đều không tồn tại và chỉ là
"bóng ma". Mọi cá nhân hành động theo nguyên tắc "không có gì cao hơn cái
tôi" và dùng quan niệm đó vào việc chống lại chủ nghĩa cộng sản trong cuốn
sách "Nhân vật duy nhất và sở hữu của nó" (1844).
+ Phê phán "chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức.
"chủ nghĩa xã hội chân chính" là trào lưu của giai cấp tiểu tư sản đang được
phổ biến rộng rãi ở Đức lúc bấy giờ. Trào lưu này phản ánh tâm trạng lo sợ
của giai cấp tư sản Đức trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản và các cuộc đấu tranh giai cấp.
"chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức có quan niệm lý tưởng hoá các chế độ
tiền tư bản; gieo rắc ảo tưởng về khả năng phát triển của nước Đức lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản; tuyên truyền khẩu hiệu phi giai cấp về
"tình yêu và tình anh em nói chung"; phủ nhận đấu tranh chính trị và không
tham gia các phong trào đấu tranh chống lại chế độ hiện đang tồn tại; coi
thường cuộc đấu tranh vì tự do và dân chủ.
Đứng trước tình hình đó, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: bản chất của "chủ
nghĩa xã hội chân chính" nằm ở chỗ:
- Xa rời cuộc đấu tranh giai cấp và phong trào công nhân.
- Là một trào lưu tư tưởng tiểu tư sản phản ánh phong trào văn học xã hội
chủ nghĩa nảy sinh ở bên ngoài những lợi ích của một đảng chân chính.
(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, tr. 458)
+ Trình bày một cách rõ ràng những nguyên lý của thế giới quan triết
học mới và đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Sự diễn giải nhận thức duy vật về lịch sử được xây dựng theo sơ đồ sau:
1) Các nguồn gốc. 2) Những quan niệm chính: sản xuất - giao tiếp - thượng
tầng chính trị - các hình thái của ý thức xã hội. 3) Những kết luận.
+ Trong "Hệ tư tưởng Đức", lần đầu tiên các tác giả đã nêu ra nguồn gốc của
sự nhận thức duy vật về lịch sử, đó là con người, hoạt động của họ, những
điều kiện đời sống vật chất của con người, nghĩa là thừa nhận vai trò quyết
định của sản xuất vật chất đối với các lĩnh vực còn lại của đời sống xã hội.
Hoạt động của con người bao gồm hai mặt: Mặt sản xuất (là quan hệ của
con người đối với tự nhiên) và mặt giao tiếp (là những mối quan hệ giữa con
người với nhau). Sản xuất và giao tiếp có mối quan hệ qui định qua lại với
nhau, trong đó mặt sản xuất qui định mặt giao tiếp. Trong "Hệ tư tưởng Đức",
những quan niệm quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử được phát
triển toàn diện - đó là quan niệm về vai trò quyết định của sản xuất vật
chất trong đời sống xã hội.
Bản chất quan niệm nhận thức duy vật về lịch sử được phát triển trong "Hệ tư
tưởng Đức" được đúc kết ngắn gọn: "Như vậy, sự nhận thức lịch sử đó
xuất phát từ chính nền sản xuất vật chất trực tiếp của đời sống, xem xét
quá trình sản xuất và hiểu được mối quan hệ hình thức của phương thức sản
xuất đó và hình thức chúng sinh ra sự giao tiếp- có nghĩa là, xã hội công dân
trên những nấc thang khác nhau- là cơ sở của toàn bộ lịch sử; sau đó cần
phải miêu tả hoạt động của xã hội công dân trong lĩnh vực đời sống nhà nước,
và giải thích từ đó kết quả và hình thức lý luận khác nhau của ý thức, tôn giáo,
triết học, đạo đức v.v. và v.v., và theo dõi quá trình xuất hiện của chúng trên
cơ sở đó, nhờ vậy mà, tất nhiên, có thể sẽ miêu tả được toàn bộ quá trình về
tổng thể (và cả những mối tác động qua lại giữa các mặt khác nhau của nó).
Nhận thức như vậy về lịch sử, trong sự khác biệt với nhận thức duy tâm.. giải
thích không phải thực tiễn từ tư tưởng, mà tư tưởng được tạo ra từ thực tiễn
vật chất và như vậy có kết luận sau- không phải sự phê phán, mà cách
mạng mới là động lực thúc đẩy lịch sử" (C.Mác và Ph.Ăngghen: Hệ tư
tưởng Đức. tr.51-52).
+ Trong "Hệ tư tưởng Đức", các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, lần đầu
tiên đã giải thích sự biện chứng của mối quan hệ tác động qua lại và phát
triển giữa lực lượng sản xuất với hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất).
Phát minh vĩ đại này là sự biện chứng của lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất, nó đưa lại chìa khoá để nhận thức được cấu trúc chung của xã hội,
của hình thái xã hội (lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội
khác như thượng tầng chính trị - pháp luật- là các hình thức của ý thức xã hội)
và qui luật chung của sự phát triển lịch sử của xã hội.
Các hình thái xã hội được xem xét ở đây được phân biệt theo các hình thức
sở hữu đã, đang và sẽ thống trị trong lịch sử: Bộ lạc - Cổ đại - Phong kiến -
Tư bản - Cộng sản, trong đó, sự hình thành và phát triển các hình thức sở
hữu cá thể tư bản được phân biệt bằng các giai đoạn: Thủ công nghiệp -
công trường thủ công - công nghiệp lớn.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự
phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở
hữu; nói một cách khác là mỗi giai đoạn mới của sự phân công lao động cũng
qui định những quan hệ giưã cá nhân với nhau, căn cứ vào quan hệ của họ
với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động" (C.Mác và
Ph.Ăngghen: Tuyển tập. Nxb.Sự thật, Hà nội, 1980, t.1, tr.305-306).
Công thức chính của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ qua lại của
tồn tại xã hội và ý thức xã hội: "ý thức...không khi nào có thể trở thành cái
gì khác, ngoài sự nhận thức được tồn tại...mà sự tồn tại của con người là một
quá trình hiện thực cuộc sống của họ...không phải nhận thức qui định cuộc
sống, mà cuộc sống qui định nhận thức" (C.Mác và Ph.Ăngghen: "Phoiơbắc.
Sự đối lập giữa các quan điểm duy vật và duy tâm", Mátxcơva, 1966, tr.29-30).
Trên cơ sở này đã cho phép chứng minh một cách khoa học về tính tất yếu
của giai cấp vô sản, của cách mạng cộng sản là kết quả của sự phát triển của
các mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ giao tiếp (quan hệ sản
xuất) của xã hội tư bản. Phát minh vĩ đại trên cho phép sự nhận thức duy vật
về lịch sử trở thành quan điểm tổng hợp và là cơ sở triết học trực tiếp của
học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học.
+ Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" nêu lên:
- Cơ sở của học thuyết mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
- Chỉ ra bản chất của nhà nước nói chung và nhà nước tư bản nói riêng;
về cách mạng và chủ nghĩa cộng sản:
- Sự vận động của sản xuất vật chất trong điều kiện "hình thức giao tiếp" đã
lỗi thời làm cho lực lượng sản xuất không thể tiếp tục phát triển và bị kìm hãm;
do vậy cách mạng xã hội tất yếu sẽ nổ ra.
- Sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác thể hiện trong sự đối
kháng của "hình thức giao tiếp". Sự thống trị đó được thực hiện thông qua
nhà nước: ".. giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị...phải thủ tiêu toàn bộ
hình thức xã hội cũ...như trong trường hợp của giai cấp vô sản- thì giai cấp
ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền" C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập,
Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1980. t.I, tr.294.
- Cuộc cách mạng cộng sản khác về chất so với các cuộc cách mạng trước đó.
- Về chủ nghĩa cộng sản, trong sự đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng
và chủ nghĩa xã hội chân chính, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Đối với chúng ta,
chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không
phải là một lý tưởng mà mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ
nghĩa cộng snả là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay.
Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang
tồn tại" (C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập. Nxb.Sự thật, Hà nội, 1980, t.1, tr.297).
- Những nét chung về đặc điểm của xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai:
- Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bị thủ tiêu. Sở hữu toàn xã hội.
- Sự phân chia giai cấp bị thủ tiêu, do đó, sự thống trị của một giai cấp này
đối với các giai cấp khác cũng bị thủ tiêu và nhà nước, với tư cách là công cụ
thống trị sẽ không còn nữa.
- Sự phân công lao động mang tính giai cấp bị thủ tiêu, do đó không còn sự
đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn.
- Mọi cá nhân đều là người tự do và phát triển toàn diện, con người làm chủ
tất cả những phương tiện, điều kiện vật chất, chủ động và tự giác điều phối
chúng để phục vụ cho con người.
- Xã hội cộng sản chủ nghĩa có đầy đủ mọi điều kiện để biến đổi con người
thành những con người thực sự với nghĩa hoàn toàn đầy đủ của nó.
Tóm lại, tổ chức của chủ nghĩa cộng sản là có tính chất kinh tế; nó là sự
sáng tạo vật chất ra những điều kiện cho sự liên hợp ấy; nó biến những điều
kiện hiện có thành những điều kiện của sự liên hợp (sự liên hợp ở đây được
hiểu là hình thức cộng đồng các cá nhân trên cơ sở của sở hữu xã hội vad sự
liên hợp các cá nhân tự do không bị ràng buộc bởi phân công lao động; sở
hữu phục tùng các cá nhân liên hợp lại- tức là toàn xã hội).
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa phân biệt hai giai đoạn
của hình thái cộng sản chủ nghĩa (xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa).
Hai giai đoạn này được trình bày một cách rõ ràng trong tác phẩm Phê phán
Cương lĩnh Gôta (1875).
+ Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", lần đầu tiên nêu ra hai nguồn gốc vật
chất chính cho công cuộc xây dựng xã hội cộng sản:
Đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hình thành giai cấp vô sản
cách mạng. Khi cụ thể hoá nguồn gốc thứ nhất, các tác giả của tác phẩm đã
xác định nó là mức độ phát triển cao của nền sản xuất máy móc lớn: ".. chỉ
cùng với sự phát triển của công nghiệp lớn mới có khả năng triệt tiêu hình
thức sở hữu cá thể" (tr.65).
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nêu lên tính hai quá trình của cách mạng vô
sản: Thay đổi điều kiện sống của xã hội, đồng thời thay đổi chính con người
đang thực hiện cuộc cách mạng đó (tr.50), các ông cũng lần đầu tiên chỉ ra
tính tất yếu của việc giành chính quyền chính trị của giai cấp vô sản (tr.43).
Dựa trên cơ sở nhận thức duy vật - biện chứng về lịch sử, các tác giả của tác
phẩm cũng nêu lên tính chất chung của học thuyết về xã hội mới- xã hội cộng sản.
Về sau, lý luận về xã hội cộng sản được bổ sung trong các tác phẩm Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (1847), chín muồi trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản (1848) và cụ thể hơn trong Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875).
1.4 Ý nghĩa của tác phẩm hệ tư tưởng Đức
1. "Hệ tư tưởng Đức" (trong dạng bản thảo) là tác phẩm luận chiến của
C.Mác và Ăngghen chống lại chủ nghĩa duy tâm của những người theo phái
"Hêghen trẻ" và "chủ nghĩa xã hội chân chính" tiểu tư sản Đức.
2. "Hệ tư tưởng Đức" là sự phát triển những tư tưởng cơ bản của các tác
phẩm "Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844", "Luận cương về Phoiơbắc" (1845) v.v.
3. Trong bản thảo này, lần đầu tiên, một quan điểm tổng quát, một phát minh
vĩ đại của C.Mác ra đời- nhận thức duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật
lịch sử)- đó là cơ sở triết học trực tiếp của học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học.
4. Đây là tác phẩm đánh dấu bước tiến mới của các ông trong việc phát
triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
cộng sản khoa học. Tuy không được xuất bản, nhưng trong quá trình sáng
tạo đó, chủ nghĩa Mác đã chín muồi trong chất của thế giới quan tổng thể mới.
Mọi hoạt động lý luận và thực tiễn về sau của các nhà sáng lập ra thế giới
quan đó đều dựa trên thành tựu vĩ đại này./. Phần đọc thêm:
Thuật ngữ "Hệ tư tưởng" xuất phát từ tiếng HyLạp cổ, có nghĩa là từ, khái niệm, học thuyết.
Hệ tư tưởng là hệ thống quan điểm, tư tưởng nêu ra và đánh giá các quan hệ
của con người đối với tự nhiên và giữa con người đối với nhau (những vấn
đề và mâu thuẫn trong xã hội, nội dung của mục đích, của chương trình hoạt
động xã hội được định hướng lên việc thắt chặt hoặc thay đổi các quan hệ xã
hội trong xã hội có giai cấp). Hệ tư tưởng luôn mang tính giai cấp được thể
hiện trong lĩnh vực tư tưởng và phản ánh vai trò cuả các giai cấp trong xã hội
và nguồn gốc lợi ích của chúng.
Thuật ngữ "Hệ tư tưởng" lần đầu tiên được nhà triết học, nhà kinh tế học
người Pháp De Traxi sử dụng trong tác phẩm "Những thành phần của Hệ tư
tưởng" (viết từ 1801 đến 1815) dùng để chỉ học thuyết về tư tưởng, góp phần
xác định cơ sở chính cho chính trị học, mỹ học, đạo đức học v.v. Trong nghĩa
đó, của đại diện của chủ nghĩa duy vật và trường phái duy cảm đã viết nhiều
về Hệ tư tưởng. Còn trong thời kỳ Napôlêôn ở Pháp, người ta gọi những
người có quan điểm tách rời thực tế trong việc giải quyết những vấn đề thực
tiễn xã hội và thực tiễn chính trị là hệ tư tưởng.
C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" (viết năm 1845-
1846) và trong các tác phẩm về sau coi Hệ tư tưởng là:
1) Quan niệm duy tâm cho rằng thế giới là một tập hợp của tư tưởng, tư duy
và các nguyên tắc (t.3, tr.12).
2) Loại hình của quá trình tư duy, mà chủ thể của nó là hệ tư tưởng không
tạo ra mối liên hệ giữa cấu trúc của mình với lợi ích vật chất của các giai cấp
xác định và là lực lượng kích thích hoạt động của chính mình, thường xuyên
sử dụng ảo giác về tính độc lập tuyệt đối của ý thức xã hội (t.39, tr.83).
3) Từ đó xuất hiện phương pháp nhận thức duy vật về lịch sử (xem mục: chủ
nghĩa duy vật lịch sử) để tiếp cận hiện thực, các phương pháp phân tích khoa
học và phê phán hệ tư tưởng.
Nhận thức đó cho rằng, hệ tư tưởng là một hình thái của ý thức xã hội và phụ
thuộc vào qui luật chung của ý thức xã hội: Tồn tại xã hội qui định hệ tư tưởng
nhưng hệ tư tưởng vẫn có tính độc lập tương đối.
Hệ tư tưởng có tính kế thừa trong sự phát triển của chính mình. Bởi vì trong
hệ tư tưởng, tập hợp các tài liệu về tư duy đã được xác định và mỗi một hệ
tư tưởng mới mang nội dung phản ánh các điều kiện xã hội mới (tồn tại xã hội
mới). Hệ tư tưởng có tác động ngược trở lại lên tồn tại xã hội (lên đời sống vật chất của xã hội).
C.Mác và Ph.Ăngghen không thay đổi thuật ngữ Hệ tư tưởng trong hệ thống
quan điểm của mình, nhưng các ông đã tính chất hoá hệ tư tưởng, coi chủ
nghĩa Mác là học thuyết khoa học về chủ nghĩa cộng sản; gắn chặt một cách
có tổ chức hệ tư tưởng với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp của giai cấp vô
sản. V.I.Lênin mở rộng khái niệm Hệ tư tưởng và cho rằng, các hệ tư tưởng
trước Mác đều có mầm mống khoa học, nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác mới là
hệ tư tưởng khoa học chân chính.
Hệ tư tưởng là một hiện tượng tinh thần, có nghĩa là hệ tư tưởng cần phải
đánh giá những khái niệm tinh thần như: hệ tư tưởng khoa học hay không
khoa học, là chân lý hay giả dối v.v. Mâu thuẫn giữa những hệ tư tưởng khác
nhau của các giai cấp khác nhau có ý nghĩa xã hội, là sự thể hiện tính mâu
thuẫn về lợi ích giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng mang tính cách mạng hay tính phản
động, tích cực hay tiêu cực, tự do hay không tự do, tính quốc tế hay tính dân
tộc v.v (là những khái niệm của chính trị-xã hội). Những tính chất đó phản
ánh giá trị bản chất của hệ tư tưởng, khả năng của hệ tư tưởng trong việc
định hướng thực tiễn xã hội của giai cấp trong sự phù hợp vơí hệ thống giá trị
xác định (như giá trị xã hội, giá trị chính trị v.v.)
Mối liên hệ giữa các lợi ích của các giai cấp xác định là cơ sở của các giá trị
định hướng và ý thức của hoạt động xã hội mang tính nguyên tắc: Tính đảng
của các hệ tư tưởng, trong đó giai cấp tiến bộ cố gắng xây dựng cho mình
một hệ tư tưởng trên cơ sở sử dụng triệt để nhận thức khách quan (thí dụ giai
cấp tư sản trong giai đoạn phát triển cực điểm). Sự phù hợp về lợi ích của
giai cấp công nhân (chủ thể) với sự phát triển khách quan của xã hội (khách
thể) là cơ sở xã hội cho sự xác định tính thống nhất của sự chuyển hoá mang
tính đảng, tính giai cấp và tính khoa học khách quan đối với hiện thực trong
phạm vi hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
Thừa nhận hệ tư tưởng có tính giai cấp không có nghĩa là giai cấp sáng tạo
ra hệ tư tưởng mà hệ tư tưởng được sáng tạo bởi các nhà tư tưởng đã rút ra
những kết luận trong hoạt động thực tiễn của quần chúng, của giai cấp đó. Từ
những điều kiện sống của giai cấp xuất hiện không phải hệ tư tưởng mà chỉ
là tâm lý xã hội. Từ đây, tạo cơ sở xác định cho giai cấp sáng tạo ra hệ tư tưởng cho giai cấp mình.
V.I.Lênin cho rằng, hệ tư tưởng khoa học không phải xuất hiện cùng với sự
lớn mạnh tự phát của phong trào công nhân mà là kết quả sự phát triển của
khoa học, cuả văn hoá, của các tư tưởng tiến bộ trong xã hội. Người mang
hệ tư tưởng khoa học là đội tiên phong và có ý thức của phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân là đảng chính trị của giai cấp công nhân. Đảng
này mang hệ tư tưởng khoa học vào quần chúng, vào phong trào công nhân.
Hệ tư tưởng thể hiện mình bằng các hình thái khác nhau của các quan điểm
về chính trị, pháp luật, đạo đức, mỹ học, tôn giáo (thần học) và triết học (tức
là mọi hình thái của ý thức xã hội). Trong khoa học tự nhiên, tính tư tưởng
được thể hiện trong các kết luận mang tính triết học, tức là quan điểm từ
những phát minh của khoa học tự nhiên. Các học thuyết khoa học xã hội tự
mình mạng chức năng hệ tư tưởng, bởi vì, chúng được sử dụng để giải quyết
những vấn đề xã hội xuất hiện, xuất phát từ những định hướng và cơ sở tư tưởng khác nhau.
Bản thân học thuyết hệ tư tưởng là võ trường đấu tranh tư tưởng không
khoan nhượng giữa các học thuyết tư bản chống lại chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản trên lĩnh vực tư tưởng là nhiệm vụ của
mỗi người mang hệ tư tưởng mácxít./. Nguồn: Từ điển bách khoa toàn thư về
triết học. Nxb. Từ điển Xôviết, Mátxcơva, 1989, tr.206.
2. Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (1847-1848)
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. t.4.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Các tác phẩm, Mátxcơva, 1955-1981, t.4. Tiếng Nga.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974. DÀN BÀI
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
- Nguyên nhân ra đời của tác phẩm.
- Cấu trúc của tác phẩm.
2. Lời tựa viết cho những lần xuất bản:
- Bản tiếng Đức 1872; - Bản tiếng Nga 1882; - Bản tiếng Đức 1883; - Bản tiếng Anh 1888; - Bản tiếng Đức 1890; - Bản tiếng BaLan 1892; - Bản tiếng Ý 1893. 3. Nội dung tác phẩm
- Chương I. Những người tư sản và những người vô sản
- Chương II. Những người vô sản và những người cộng sản
- Chương III. Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
- Chương IV. Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập 4. Thay lời kết
KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ "LIÊN MINH NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN".
Tiền thân của "Liên minh những người cộng sản" là "Liên minh những người
chính nghĩa" (ra đời từ 1836, thành viên lúc đầu hoàn toàn là người Đức),
nhiều nhà hoạt động của họ chịu ảnh hưởng các khuynh hướng khác nhau
của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Cuối 1846, Liên minh quyết định triệu tập
Đại hội Cộng sản quốc tế và khó khăn lớn nhất của họ là khởi thảo Cương
lĩnh. Đầu năm 1847, Giô dép Môn- một trong những người lãnh đạo Liên
minh, sang Bờruxen gặp C.Mác và sang Pari gặp Ph.Ăngghen đề nghi hai
ông gia nhập Liên minh và tham gia soạn thảo Cương lĩnh (trước 1847,
C.Mác và Ph.Ăngghen đều từ chối những lời mời tham gia Liên minh).
Tháng 1 năm 1847, C.Mác và Ph.Ăngghen đồng ý nhận lời đề nghị của lãnh
đạo Liên minh, tham gia vào việc tổ chức lại Liên minh trên nguyên tắc chủ
nghĩa cộng sản khoa học. Việc này được thực hiện tại Đại hội lần thứ I (vào
đầu tháng 6 năm 1847) "Liên minh những người cộng sản" ở Luân Đôn,
Ph.Ăngghen tham gia Đại hội. Đại hội thông qua chương trình, điều lệ và
phương châm mácxít: thủ tiêu xã hội tư sản, xây dựng xã hội mới không có
giai cấp và không có chế độ tư hữu. Khẩu hiệu "Tất cả mọi người đều là anh
em" được thay bằng "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!"
Tháng 9 năm 1847, C.Mác tích cực tham gia vào việc sáng lập báo "Deutsch-
Brusselr Zeitung", báo này dần dần trở thành cơ quan của "Liên minh những người cộng sản".
Quá trình soạn thảo ra chương trình mácxít cho "Liên minh những người cộng
sản" trải qua ba giai đoạn chính:
Vào đầu tháng 6/1847 (gắn liền với Hội nghị lần thứ 1 Liên minh những người
Cộng sản). Ph.Ăngghen đã soạn ra phương án đầu tiên "Phương án biểu
tượng cộng sản của niềm tin".
Vào cuối tháng 10/1847, Người đổi tên lại thành "Những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản".
Tháng 12/1847 đến tháng 01/1848, trên cơ sở "Những nguyên tắc của chủ
nghĩa cộng sản" C.Mác và Ph. Ăngghen viết tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản", bản cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản khoa học, trong
tác phẩm nêu lên những tư tưởng chính của chủ nghĩa Mác.
Tác phẩm do C.Mác và Ph.Ăngghen viết vào tháng 12/1847 đến tháng
01/1848 theo sự uỷ nhiệm của Hội nghị lần thứ 2 "Liên minh những người
cộng sản" (1847) với tính cách là chương trình hành động của tổ chức cộng
sản quốc tế đầu tiên của giai cấp vô sản cách mạng.
Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội II "Liên minh những người
cộng sản" khai mạc tại Luân Đôn, C.Mác tham gia Đại hội với vai trò quyết
định công việc của Đại hội. Đại hội uỷ nhiệm cho C.Mác và Ph.Ăngghen kết
thúc bài viết về chương trình của Liên minh những người cộng sản- đó là văn
kiện đầu tiên của phong trào cộng sản quốc tế đầu tiên trên thế giới.
Ý nghĩa lý luận mang tính nguyên tắc là bài phát biểu của C.Mác ngày 15
tháng 9 năm 1850 tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương "Liên minh những
người cộng sản", nơi Liên minh chia rẽ thành hai phái, trong đó, phái đông
hơn do C.Mác và Ph.Ăngghen lãnh đạo, phái ít hơn- nhóm phiêu lưu, do Vil ix và Sapper đứng đầu.
Tháng 3 năm 1850, trong quá trình đấu tranh tái lập "Liên minh những người
cộng sản", C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết (lần thứ nhất) "Lời hiệu triệu của Uỷ
ban Trung ương tới Liên minh những người cộng sản", trong đó các tác giả
đã đưa ra tư tưởng về cách mạng không ngừng.
Tên gọi của tác phẩm cũng được suy nghĩ rất kỹ; Ph.Ăngghen nhấn mạnh
điều này trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 rằng, "năm
1847, người ta thường dùng từ chủ nghĩa xã hội, một mặt để gọi những
người theo các hệ thống không tưởng như phái Ô-oen ở Anh và phái Phu
riê ở Pháp, mặt khác để gọi những tên lang băm xã hội đủ các cỡ, chúng
hứa sẽ không làm hại gì đến tư bản và lợi nhuận mà vẫn chữa khỏi được đủ
mọi tệ nạn xã hội bằng đủ mọi thứ biện pháp vá víu (tr.19)".
Trái lại, cái bộ phận công nhân, do nhận thấy rằng chỉ làm những cuộc đảo
chính về chính trị thôi thì không đủ nên tuyên bố cần thiết phải cải tạo xã hội
về căn bản, thì tự mệnh danh là những người cộng sản. Đó là một chủ nghĩa
cộng sản mới phác hoạ ra, hoàn toàn theo bản năng, (...), nhưng nó đã thấy
được cái gì là căn bản và đã tỏ ra khá mạnh trong giai cấp công nhân nên
mới sinh ra được chủ nghĩa cộng sản không tưởng như kiểu của Cabê ở
Pháp và kiểu Vây-đơ-linh ở Đức.
Năm 1847, chủ nghĩa xã hội dùng để chỉ phong trào tư sản, còn chủ nghĩa
cộng sản dùng để chỉ phong trào công nhân. Do vậy, Tuyên ngôn là Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản".
Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên tại Luân Đôn (bằng tiếng Đức) khoảng
18/02/1848, đúng vào lúc cách mạng Tháng Hai (1848) ở Pháp nổ ra. Tác phẩm chỉ có 23 trang
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" do M.A.Ba-cu-rin dịch và được xuất bản
bằng tiếng Nga tại Giơnevơ năm 1869. Bản dịch của G.V.Plêkhanốp cùng với
lời giới thiệu của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng được xuất bản tại Giơnevơ vào năm 1882.
V.I.Lênin nhận xét về tác phẩm như sau: "Trong tác phẩm này với sự rõ ràng
đến kinh ngạc và cùng với sự miêu tả rõ ràng về thế giới quan mới, tính triệt
để, hợp lôgíc của chủ nghĩa duy vật đã bao trùm lên cả lĩnh vực đời sống xã
hội. Phép biện chứng- là một học thuyết sâu sắc và toàn diện về sự phát triển,
học thuyết đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng lịch sử-thế giới của giai
cấp vô sản, của người sáng tạo ra xã hội mới, xã hội cộng sản" (t.26, tr.48). BÀI GIẢNG
2.1 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
+ Nguyên nhân ra đời của tác phẩm.
Mục đích của tác phẩm: "Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải
công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của
mình; và phải có một Tuyên ngôn của Đảng của mình để đập lại câu chuyện
hoang đường về bóng ma cộng sản" (C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản. Nxb.Sự thật, Hà Nội,1974,tr. 41).
+ Cấu trúc của tác phẩm.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" gồm 4 chương.
Chương I. Những người tư sản và những người vô sản.
Chương II. Những người vô sản và những người cộng sản.
Chương III. Văn hoá xã hội chủ nghĩa và văn hoá cộng sản chủ nghĩa.
Chương IV. Mối quan hệ của những người cộng sản đối với những đảng đối lập khác. 2.2 Nội dung tác phẩm
Những nguyên tắc chính của chủ nghĩa Mác được xác định là nội dung lý
luận và cấu trúc lôgíc "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản".
Nội dung cơ bản của "Tuyên ngôn..." gồm tư tưởng cơ bản và chủ đạo sau đây:
"Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội (cơ cấu này tất
yếu phải do sản xuất kinh tế sinh ra), là hai yếu tố cấu thành cơ sở lịch sử
chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu
ruộng đất nguyên thuỷ tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi
bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị qua các giai
đoạn của sự phát triển xã hội của họ, nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đi
đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức giai cấp vô sản)
không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức
giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn
thể xã hội khỏi bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp,- tư
tưởng chủ chốt ấy hoàn toàn và tuyệt đối là của Mác" (Ph.Ăngghen: Lời tựa
viết cho bản tiếng Đức, xuất bản năm 1883 /C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản. Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1974, tr.13-14).
CHƯƠNG I. NHỮNG NGƯỜI TƯ SẢN VÀ NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN.
- C. Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra cơ sở về tính tất yếu của cách mạng cộng
sản chủ nghĩa. Cơ sở này xuất hiện một cách hợp qui luật từ sự nhận thức
duy vật về lịch sử.
Sự diễn giải của cơ sở trên bắt nguồn từ một trong những sự tổng hợp
quan trọng nhất: "Lịch sử của những xã hội tồn tại từ trước tới nay (mọi lịch
sử trước đó, loại trừ tình trạng nguyên thuỷ)- đã là lịch sử của lịch sử đấu
tranh giai cấp" (C.Mác và Ph.Ăng ghen: t.3, tr.433, t.4, tr.424, t.19, tr.208, t.20, tr.25-26, 667).
Người tự do và người nô lệ, quí tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả
và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn đối
kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc
công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc
hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự
diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau. (đưa kết quả đấu tranh
của các giai cấp đối kháng vào qui luật mâu thuẫn: kết quả của sự đấu tranh
giữa hai mặt đối lập- 1). Giai cấp này phủ định giai cấp kia; 2). Giai cấp này
chuyển hoá vào giai cấp kia (chúng đồng nhất với nhau do có nhiều yếu tố
giống nhau); 3). Sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau dẫn đến
sự diệt vong của xã hội: Nhà nước ra đời với tư cách là bộ máy vật chất của
giai cấp thống trị về kinh tế, là công cụ đàn áp của giai cấp đó đối với các giai cấp khác)
Cùng với quan niệm trên đây, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục nghiên cứu xã
hội tư bản hiện đại, xã hội đang ngày càng bị phân hoá ra thành hai giai cấp
đối kháng là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Khi xem xét quá trình phát sinh (xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng
xã hội phong kiến, Ph.Ăngghen.tr.43), hình thành (từ những nông nô thời
Trung cổ, đã sinh ra những thị dân các thành thị đầu tiên, từ dân cư thành thị
này, nảy sinh ra những phần tử đầu tiên của giai cấp tư sản,
Ph.Ăngghen.tr.44) và phát triển (Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế
giới, thị trường mà việc tìm ra châu Mỹ đã chuẩn bị sẵn. Thị trường thế giới
thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông phát
triển mau chóng lạ thường. Sự phát triển này lại tác động trở lại đến việc mở
rộng công nghiệp; mà công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng
phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn lên, tăng những tư bản của họ lên gấp
bội và đẩy lùi các giai cấp do thời Trung cổ để lại, về phía sau, Ph.Ăngghen
(tr.45) của chủ nghĩa tư bản.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định:
- Bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát
triển lâu dài, của một loạt những cuộc cách mạng trong phương thức sản
xuất và trao đổi và giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử.
- Trong quá trình phát triển lâu dài đó, mỗi bước phát triển (tăng tư bản (tiền
vốn) của giai cấp tư sản và đẩy lùi các giai cấp khác đều có một bước tiến bộ
về chính trị tương ứng: nơi nào giai cấp tư sản chiếm được chính quyền thì
nó đạp đổ những quan hệ phong kiến; thay vào đó là quan hệ "trả tiền ngay"
giữa người và người; biến phẩm giá con người thành một giá trị trao đổi đơn thuần v.v.
Tóm lại, giai cấp tư sản đã đem sự bóc lột công nhân, y sỹ, luật gia, tu sỹ, thi
sỹ, bác học,..., trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng tôn
giáo và chính trị của giai cấp phong kiến đối với nông dân.
Để tồn tại, giai cấp tư sản:
- luôn cách mạng hoá công cụ sản xuất, do đó cách mạng hoá những quan
hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hoá toàn bộ những quan hệ xã hội.
- Giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu, khai thác khắp nơi và thiết lập
những mối liên hệ ở khắp nơi để đáp ứng nhu cầu về những nơi tiêu thụ mới;
- Giai cấp tư sản biến đổi xã hội theo sự phát triển của nó: Giá rẻ của các sản
phẩm bắt tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản; nó
buộc tất cả mọi dân tộc phải trở thành tư sản; bắt nông thôn phải phục tùng
thành thị; bắt những nước dã man phụ thuộc vào các nước văn minh; bắt
những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản; bắt
phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây;
- Giai cấp tư sản ngày càng xoá bỏ tình trạng phân chia của tư liệu sản
xuất, của tài sản và của dân cư. Nó tụ tập dân cư, tập trung các tư liệu sản
xuất, tích tụ tài sản vào trong tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của
những thay đổi ấy là sự tập trung về chính trị: tập hợp dân cư (những địa
phương độc lập) lại thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống
nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất có tính giai cấp
và một thuế quan thống nhất.
- Chính vì sự tồn tại của mình, giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai
cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại,...- có thế kỷ
nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn
tiềm tàng trong lòng lao động xã hội.
Như vậy chúng ta thấy:
- những tư liệu sản xuất và trao đổi, làm cơ sở cho giai cấp tư sản hình thành,
đã được tạo ra trong lòng chế độ phong kiến và,
- Những tư liệu sản xuất và sự trao đổi ấy phát triển tới một trình độ nhất
định nào đó thì ... chế độ sở hữu phong kiến đã không còn phù hợp với
những lực lượng sản xuất đã phát triển, mà cản trở, trở thành xiềng xích của
sản xuất chứ không làm cho sản xuất tiến triển lên. Phải đập tan những xiềng
xích ấy và quả nhiên người ta đã đập tan được. Thay vào đó là sự cạnh tranh
tự do, với chế độ xã hội và chính trị thích ứng, với sự thống trị kinh tế và
chính trị của giai cấp tư sản.
- Khi nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của vô sản hiện
đại, C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra kết luận: vô sản hiện đại là lực lượng
khách quan sẽ tiêu diệt quan hệ sản xuất tư bản để lực lượng sản xuất hiện
đại tiếp tục phát triển.
- “giai cấp tư sản còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy- những công
nhân hiện đại, những người vô sản. Giai cấp tư sản, tức là giai cấp tư bản mà
lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có
thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm nếu
lao động của họ làm tăng thêm tư bản -cũng phát triển theo.
- Công nghiệp hiện đại đã biến xưởng thợ nhỏ của người thợ cả...thành công
xưởng lớn của nhà tư bản công nghiệp. Lao động càng ít cần đến sự khéo
léo và sức lực..., nghĩa là công nghiệp hiện đại càng tiến triển thì lao động
của đàn ông càng được thay thế bằng lao động của đàn bà và trẻ em (...) Tất
cả đều trở thành công cụ lao động mà chi phí thì thay đổi tuỳ theo lứa tuổi và giới tính.
- Những bộ phận của giai cấp thống trị bị sự tiến bộ của công nghiệp đẩy vào
hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Cuối cùng, lúc mà cuộc đấu tranh giai cấp đã tiến gần đến giờ quyết định thì
quá trình tan rã của giai cấp thống trị...khốc liệt đến nỗi một bộ phận nhỏ của
giai cấp thống trị tách khỏi giai cấp này và đi theo giai cấp cách mạng: một bộ
phận những nhà tưtưởng tư sản đã vươn lên nhận thức được, về mặt lý luận,
toàn bộ cuộc vận động lịch sử.
- Những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương và thợ thủ công và nông dân, tất
cả những tầng lớp dưới của giai cấp trung gian đều rơi xuống hàng ngũ giai
cấp vô sản, một phần vì số vốn ít ỏi của họ đã bị bọn tư bản lớn đánh bại,
một phần sự khéo léo nghề nghiệp của họ bị những phương pháp sản xuất
mới làm giảm giá trị. Thành thử giai cấp vô sản được tuyển mộ trong tất cả
các giai cấp của dân cư.
Thực trạng của giai cấp vô sản, giai cấp công nhân:
- Những người công nhân ấy (...) là một hàng hoá, tức là một món hàng đem
bán như bất kỳ món hàng nào khác; vì thế họ phải chịu hết mọi may rủi của
cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường.
- Do sự phát triển của máy móc và phân công lao động, người công nhân trở
thành một vật phụ thuộc vào máy móc và thao tác những công việc đơn giản,
dễ học nhất. Do đó tiền lương của anh ta chỉ đủ cho sinh hoạt cần thiết và để
cho anh ta khỏi mất giống.
...lao động càng trở nên thiếu hấp dẫn thì tiền công càng hạ.
- Tiếp theo, C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích sự phát triển và đấu tranh
giữa hai giai cấp cơ bản đó của xã hội tư bản, chỉ ra qui luật đấu tranh giai
cấp trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng kết thúc bằng cách mạng xã hội và
cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng của xã hội là động lực phát triển của xã hội.
Ngày nay, trước mắt chúng ta đang diễn ra quá trình tương tự:
Xã hội tư sản hiện đại, (...), đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao đổi hết
sức mạnh mẽ, thì giờ đây, như một tay phù thuỷ không còn đủ sức trị những
âm binh mà y đã triệu lên:
Từ hàng chục năm nay, lịch sử công nghiệp và thương nghiệp là lịch sử cuộc
nổi dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống lại những quan hệ sản xuất
hiện đại, chống lại chế độ sở hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị
của giai cấp tư sản, biểu hiện bằng những cuộc khủng hoảng thương nghiệp
diễn đi, diễn lại một cách chu kỳ và ngày càng đe doạ sự tồn tại của xã hội tư sản.