lOMoARcPSD| 44985297
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
-----
-----
BÀI TẬP LỚN
Đề tài: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
Sinh viên thực hiện: Đào Thị Diệu Ly
Mã sinh viên: 11213580
Lớp: Quản lý đất đai 63
Nhóm 2
GV hướng dẫn: Nuyễn Thị Mai Lan
lOMoARcPSD| 44985297
2
NỘI DUNG
Đề tài: Hai nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật
1. Khái quát về phép biện chứng
1.1. Khái niệm
Phép biện chứng học thuyết khái quát về biện chứng của thế giới thành hệ
thống các nguyên lí, các quy luật, các phạm trù để từ đó hình thành n hệ thống nguyên
tắc phương pháp luận nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn của
con người.
Phép biện chứng thuộc biện chứng chủ quan, tức sự phản ánh biện chứng của
thế giới vật chất vào trong đời sống ý thức của con người. Khi xem xét sự vật, hiện
tượng phép biện chứng đặt vào trạng thái vận động, biến đổi, phát triển trong mối
quan hệ với sự vật, hiện tượng khác.
1.2. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng đã phát triển qua ba giai đoạn, ba hình thức bản, trong đó
giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học sang tạo nên phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác Lênin. Phép biện chứng duy vật được xem khoa học nhất,
học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị , sâu sắc nhất không phiến
diện.
Hai đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật: Một là: phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác-Lênin phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế
giới quan duy vật khoa học. Hai là: Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-
nin sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan phương pháp luận, do đó
không dừng lại sự giải thích thế giới còn công cụ để nhận thức thế giới cải
tạo thế giới.
Với đặc trưng như trên, phép biện chứng duy vật tạo ra chức năng phương pháp
luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn, giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới, giải
thích những mối quan hệ chung. Đối ợng của Phép biện chứng duy vật trạng thái
tồn tại tính quy luật phổ biến nhất của sự vật hiện tượng trong thế giới. Phép biện
lOMoARcPSD| 44985297
3
Chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù ba quy luật
bản.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến
của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ
phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các
mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và
cái riêng, bản chất hiện tượng… Như vậy giữa các sự vật hiện tượng của thế giới
vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những
phạm vi nhất định. Đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó
những mối liên hệ đặc thù sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến
trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù phổ biến đó tạo
nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất
của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.2. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú những tính chất cơ
bản của các mối liên hệ.
Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động
lẫn nhau làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật hiện tượng (hoặc trong bản thân
chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của con người;
con người chỉ thể nhận thức vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động nhận
thức của mình.
lOMoARcPSD| 44985297
4
Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không bất cứ sự vật hiện tượng hay quá trình
nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời,
cũng khôngbất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao
gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một
tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với
hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Tính phong phú, đa dạng phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các
sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau,
giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại phát triển của nó; mặt khác, cùng một
mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, những
giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển cuả sự vật thì cũng những
tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò
cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều
kiện xác định. Đó các mối liên hệ bên trongbên ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất
và hiện tượng, mói liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp…
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ
đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
a. Từ tính khách quan phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong
hoạt
động nhận thức và nhận thức cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại của sự vật đó với các
sự vật khác. Chỉ trên sở đó mới thể nhận thức đúng về sự vật xử hiệu quả
các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm
lOMoARcPSD| 44985297
5
phiến diện, siêu hình trong nhận thức thực tiễn. Lenin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu
được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ
và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
b. Từ tính chất da dạng, phong phú của các mối liên hđã cho thấy trong
hoạt động nhận thức thực tiễn khi thực hiện qua điểm toàn diện tđồng thời cũng
phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức xử các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận
thức tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai
trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong mỗi tình huống cụ thể để từ đó có được
những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý những vấn đề thực tiễn. Như
vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm
phiến diện, siêu hình còn phải tránh khác phục quan điểm chiết
trung, ngụy biện.
2.4. Tổng kết
Nguyên về các mối liên hệ phổ biến các sự vật, hiện tượng luôn tồn tại
trong các mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, tương tác lẫn nhau, không một sự
vật, hiện tượng nào đứng thực sự biệt lập và chúng ta phải nhìn sự vật, hiện tượng một
cách đa diện và có mối liên hệ để xử lý hiệu quả các vấn đề trong cuộc sống.
3. Nguyên lý về sự phát triển
3.1. Khái niệm
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ sự tăng, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng thời, nó
cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh
co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ
trình đthấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái
niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói chung; đó
lOMoARcPSD| 44985297
6
không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần
hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện
của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn
của sự vật, hiện tượng; quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực
kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện ợng trong hình thái của sự vật,
hiện tượng mới.
3.2. Tính chất của nguyên lý phát triển
Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển 4 tính chất bản: tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú, tính kế thừa.
Tính khách quan
Tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện tượng là quá
trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiên tượng đó. Tính chất này là thuộc tính tất yếu
không phụ thuộc vào ý thức con người.
dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng không có
con người nhưng nó vẫn phát triển.
Tính phổ biến
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện các quá trình phát triển diễn ra
trong một nh vực tự nhiên, hội duy; trong tất cả mọi sự vật hiện tượng
trong quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi
đã thể bao m khả năng dẫn đến sự ra đời phù hợp với quy luật khách quan
Trong tự nhiên : Tăng cường khả năng thích nghi thể trước sự biến đổi của môi
trường
Ví dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí hậu
thay đổi họ sẽ khó chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.
Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới mức
độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước.
lOMoARcPSD| 44985297
7
Trong duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với
tự nhiên và xã hội.
Ví dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
Tính đa dạng phong phú
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện chỗ: phát triển
khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại quá
trình phát triển không giống nhau, tồn tại những thời gian, không gian khác nhau,
chịu những ảnh hưởng khác nhau sự tác động đó thể làm thay đổi chiều hướng
quá trình phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời.
Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các
sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi thể làm thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí
tuệ so với trẻ em các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những
điều kiện thuận lợi mà hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển m phát triển sẽ ngắn
hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự
hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm
tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo nhân
dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển
Tính kế thừa
sự phát triển tạo ra cái mới trên cơ sở chọn lọc, kế thừa giữ lại những
hợp lý đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu của cái cũ
3.3. Ý nghĩa của phương pháp luận
Nguyên về sự phát triển sở luận khoa học để định hướng việc nhận thức
thế giới cải tạo thế giới. Theo nguyên này, trong mọi nhận thức thực tiễn cần
phải quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, "... Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét
sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi của nó". Quan
lOMoARcPSD| 44985297
8
điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với
sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực
tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện ợng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt
khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận
nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của
sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức cần phải có quan điểm lịch
sử - cụ thể trong nhận thức giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất
phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, với cách khoa học về mối liên hệ phổ biến sự phát triển, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong
nhận thức thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen
viết: “... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật
những phản ánh của chúng trong tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của
chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh sự tiêu vong của chúng!”
V. I.Lênin cũng cho rằng: "Phép biện chứng đòi hòi nguời ta phải chú ý đến tất cả các
mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó".
3.4. Bài học của nguyên lý về sự phát triển
Thứ nhất, cần tích cực, chủ động nghiên cứu tìm ra được những mâu thuẫn trong
mỗi sự vật, sự việc, hiện tượng để từ đó xác định được định hướng phát triển và những
biện pháp giải quyết phù hợp.
Thứ hai, khi xem xét các sự vật, hiện tượng thì cần đặt sự vật hiện tượng đó trong
sự vận động phát triển. Bởi sự vật không chỉ như cái đang có, đang hiện
hữu trước mắt còn cần phải nắm được hiểu được khuynh hướng phát triển,
khả năng chuyển hóa của nó.
Thứ ba, cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với sự vật hiện tượng,
không được dao động trước những quanh co, những phức tạp của sự phát triển ở trong
thực tiễn.
Kế thừa những thuộc tính, những bộ phận còn hợp lý của cái cũ nhưng đồng thời
cũng phải kiên quyết loại quả những cái đã quá lạc hậu cản tở và gây ảnh hưởng đến sự
lOMoARcPSD| 44985297
9
phát triển. trong phát triển sự kế thừa do đó cần phải chủ động phát hiện, cổ
những cái mới, cái phù hợp từ đó có thể tìm cách thúc đẩy để phát triển cái mới, để cái
mới chiếm đóng vai trò chủ đạo.
4. Liên hệ bản thân
Với cách những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan
điểm lịch sử - cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức hoạt động
thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được
chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc sở luận của chúng - nguyên về mối liên hệ
phổ biến nguyên về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong
hoạt động của mình.
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới
có kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập
sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể
là thế giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học
một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm. Nhiều thứ con người muốn học,
nhưng muốn hiểu kỹ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời gian, kiên trì, kiên nhẫn. Học
phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Vai trò của thực hành được đề cao
là điều hiển nhiên.
Do sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn các trường phổ thông đã khiến
em không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi THPTQG 2021. Bản thân em
do không được tiếp xúc với thực tế nhiều nên không biết mình thích không biết
sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để... thi đỗ đại học. Điều
đó khiến em gặp phải rất nhiều khó khăn, lúng túng trong việc định hướng tương lai,
xác định mục tiêu cho bản thân. Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với
“hànhđó sự bỡ ngỡ sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, va vấp vào cuộc sống
mới tự hỏi bản thân: “Không biết việc chọn ngành chọn trường của mình đã đúng
chưa?”. Sau khi áp dụng quan điểm toàn diện lịch sử cụ thể, em biết được rằng muốn
hiểu sâu sắc, kỹ lưỡng về một vấn đề nào đó đều cần có sự kiên trì, kiên nhẫn. Vậy nên
lOMoARcPSD| 44985297
10
để hiểu biết sâu sắc hơn về ngành học của mình, em sẽ cố gắng trau dồi, học tập, tiếp
thu các kiến thức chuyên ngành. Đồng thời khi đỗ vào Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân em nhận ra rằng ngay trong việc học tập hằng ngày của em cũng đều vận dụng quan
điểm toàn diện lịch sử-cụ thể. Đó là khi ngồi trên giảng đường, em không chỉ được
nắm vững những kiến thức, thuyết trên sách vở còn được thực hành, ứng dụng
những kiến thức đó vào trong thực tiễn đời sống.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu
khác hơn, học hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần
hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã
được đúc kết trong các bộ n khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của
cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự
hiểu biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” tìm hiểu, khám phá những tri
thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa
làm, thực hành, ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên
học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua
trình thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu “hành” vừa mục đích vừa phương pháp học tập. Một
khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu thuyết ta không vận dụng vào thực tiễn,
thì học cũng trở nên vô ích..
Ngược lại nếu hành không luận, thuyết soi sáng kinh nghiệm đã
được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó
khăn trở ngại, thậm chí khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học
tập, trau dồi kiến thức kinh nghiệm nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế,
thực hành trong thực tiễn cuộc sống.
Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện
cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài không đức người
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất
khác nhau nhưng luôn luôn gắn mật thiết không thể tách rời. tài không
đức là người vô dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích
cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị.
lOMoARcPSD| 44985297
11
Nhưng nếu chỉ đức không tài thì làm việc cũng khó. đức, khát
vọng hành động lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực m thì
những ý định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao động
hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít tác dụng trong đời sống con người. Rõ
ràng giá trị con người phải bao gồm cả tài đức. Đức tài bổ sung, hỗ trợ cho
nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích
cho mọi người.
Bản thân em hiện nay đang sinh viên, người đang trong quá trình phát triển
về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên đây là thời kỳ
phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực,
cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người đáp
ứng được nhu cầu của hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong
tương lai.
1. 6) Tổng cục Thống kê Việt
Nam và thống kê của IMF

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân ----- ----- BÀI TẬP LỚN
Môn Tiết học Mác-Lênin
Đề tài: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
Sinh viên thực hiện: Đào Thị Diệu Ly
Mã sinh viên: 11213580
Lớp: Quản lý đất đai 63 Nhóm 2
GV hướng dẫn: Nuyễn Thị Mai Lan lOMoAR cPSD| 44985297 NỘI DUNG
Đề tài: Hai nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật
1. Khái quát về phép biện chứng 1.1. Khái niệm
Phép biện chứng là học thuyết khái quát về biện chứng của thế giới thành hệ
thống các nguyên lí, các quy luật, các phạm trù để từ đó hình thành nên hệ thống nguyên
tắc phương pháp luận nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Phép biện chứng thuộc biện chứng chủ quan, tức là sự phản ánh biện chứng của
thế giới vật chất vào trong đời sống ý thức của con người. Khi xem xét sự vật, hiện
tượng phép biện chứng đặt nó vào trạng thái vận động, biến đổi, phát triển và trong mối
quan hệ với sự vật, hiện tượng khác.
1.2. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng đã phát triển qua ba giai đoạn, ba hình thức cơ bản, trong đó
giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sang tạo nên phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phép biện chứng duy vật được xem là khoa học nhất,
là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị , sâu sắc nhất và không phiến diện.
Hai đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật: Một là: phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế
giới quan duy vật khoa học. Hai là: Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-
Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan và phương pháp luận, do đó nó
không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Với đặc trưng như trên, phép biện chứng duy vật tạo ra chức năng phương pháp
luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn, giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới, giải
thích những mối quan hệ chung. Đối tượng của Phép biện chứng duy vật là trạng thái
tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất của sự vật hiện tượng trong thế giới. Phép biện 2 lOMoAR cPSD| 44985297
Chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến
của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ
phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các
mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và
cái riêng, bản chất và hiện tượng… Như vậy giữa các sự vật hiện tượng của thế giới
vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những
phạm vi nhất định. Đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó
những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến
trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo
nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất
của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.2. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ
bản của các mối liên hệ.
Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động
lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật hiện tượng (hoặc trong bản thân
chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của con người;
con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động nhận thức của mình. 3 lOMoAR cPSD| 44985297
Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật hiện tượng hay quá trình
nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời,
cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao
gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một
tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với
hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Tính phong phú, đa dạng phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các
sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau,
giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một
mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những
giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển cuả sự vật thì cũng có những
tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò
cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều
kiện xác định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất
và hiện tượng, mói liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp…
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ
đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận a.
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và nhận thức cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại của sự vật đó với các
sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả
các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm 4 lOMoAR cPSD| 44985297
phiến diện, siêu hình trong nhận thức thực tiễn. Lenin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu
được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ
và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”. b.
Từ tính chất da dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện qua điểm toàn diện thì đồng thời cũng
phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận
thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai
trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong mỗi tình huống cụ thể để từ đó có được
những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý những vấn đề thực tiễn. Như
vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm
phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khác phục quan điểm chiết trung, ngụy biện. 2.4. Tổng kết
Nguyên lý về các mối liên hệ phổ biến là các sự vật, hiện tượng luôn tồn tại
trong các mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, tương tác lẫn nhau, không có một sự
vật, hiện tượng nào đứng thực sự biệt lập và chúng ta phải nhìn sự vật, hiện tượng một
cách đa diện và có mối liên hệ để xử lý hiệu quả các vấn đề trong cuộc sống.
3. Nguyên lý về sự phát triển
3.1. Khái niệm
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng thời, nó
cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ
trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái
niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói chung; đó 5 lOMoAR cPSD| 44985297
không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần
hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện
của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và
kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
3.2. Tính chất của nguyên lý phát triển
Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển có 4 tính chất cơ bản: tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú, tính kế thừa. Tính khách quan
Tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện tượng là quá
trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiên tượng đó. Tính chất này là thuộc tính tất yếu
không phụ thuộc vào ý thức con người.
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có
con người nhưng nó vẫn phát triển. Tính phổ biến
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra
trong một lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật và hiện tượng
trong quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi
đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời phù hợp với quy luật khách quan
Trong tự nhiên : Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi trường
Ví dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí hậu
thay đổi họ sẽ khó chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.
Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới mức
độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước. 6 lOMoAR cPSD| 44985297
Trong tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với tự nhiên và xã hội.
Ví dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
Tính đa dạng phong phú
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá
trình phát triển không giống nhau, tồn tại ở những thời gian, không gian khác nhau,
chịu những ảnh hưởng khác nhau và sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng
quá trình phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời.
Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các
sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí
tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những
điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn
hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự
hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và
tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo và nhân
dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển Tính kế thừa
Là sự phát triển tạo ra cái mới trên cơ sở chọn lọc, kế thừa và giữ lại những gì
hợp lý đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu của cái cũ
3.3. Ý nghĩa của phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức
thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần
phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, "... Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét
sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi của nó". Quan 7 lOMoAR cPSD| 44985297
điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực
tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt
khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận
nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của
sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch
sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất
phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong
nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen
viết: “... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật
và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của
chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng!”
V.I.Lênin cũng cho rằng: "Phép biện chứng đòi hòi nguời ta phải chú ý đến tất cả các
mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó".
3.4. Bài học của nguyên lý về sự phát triển
Thứ nhất, cần tích cực, chủ động nghiên cứu tìm ra được những mâu thuẫn trong
mỗi sự vật, sự việc, hiện tượng để từ đó xác định được định hướng phát triển và những
biện pháp giải quyết phù hợp.
Thứ hai, khi xem xét các sự vật, hiện tượng thì cần đặt sự vật hiện tượng đó trong
sự vận động và phát triển. Bởi sự vật không chỉ như là cái mà nó đang có, đang hiện
hữu trước mắt mà còn cần phải nắm được và hiểu rõ được khuynh hướng phát triển,
khả năng chuyển hóa của nó.
Thứ ba, cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với sự vật hiện tượng,
không được dao động trước những quanh co, những phức tạp của sự phát triển ở trong thực tiễn.
Kế thừa những thuộc tính, những bộ phận còn hợp lý của cái cũ nhưng đồng thời
cũng phải kiên quyết loại quả những cái đã quá lạc hậu cản tở và gây ảnh hưởng đến sự 8 lOMoAR cPSD| 44985297
phát triển. Vì trong phát triển có sự kế thừa do đó cần phải chủ động phát hiện, cổ vũ
những cái mới, cái phù hợp từ đó có thể tìm cách thúc đẩy để phát triển cái mới, để cái
mới chiếm đóng vai trò chủ đạo.
4. Liên hệ bản thân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan
điểm lịch sử - cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được
chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới
có kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập
sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể
là thế giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học
một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm. Nhiều thứ con người muốn học,
nhưng muốn hiểu kỹ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời gian, kiên trì, kiên nhẫn. Học
phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Vai trò của thực hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Do sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ thông đã khiến
em không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi THPTQG 2021. Bản thân em
do không được tiếp xúc với thực tế nhiều nên không biết mình thích gì và không biết
sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để... thi đỗ đại học. Điều
đó khiến em gặp phải rất nhiều khó khăn, lúng túng trong việc định hướng tương lai,
xác định mục tiêu cho bản thân. Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với
“hành” đó là sự bỡ ngỡ sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, va vấp vào cuộc sống
mới tự hỏi bản thân: “Không biết việc chọn ngành chọn trường của mình đã đúng
chưa?”. Sau khi áp dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể, em biết được rằng muốn
hiểu sâu sắc, kỹ lưỡng về một vấn đề nào đó đều cần có sự kiên trì, kiên nhẫn. Vậy nên 9 lOMoAR cPSD| 44985297
để hiểu biết sâu sắc hơn về ngành học của mình, em sẽ cố gắng trau dồi, học tập, tiếp
thu các kiến thức chuyên ngành. Đồng thời khi đỗ vào Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân em nhận ra rằng ngay trong việc học tập hằng ngày của em cũng đều vận dụng quan
điểm toàn diện và lịch sử-cụ thể. Đó là khi ngồi trên giảng đường, em không chỉ được
nắm vững những kiến thức, lý thuyết trên sách vở mà còn được thực hành, ứng dụng
những kiến thức đó vào trong thực tiễn đời sống.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu
khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần
hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã
được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của
cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự
hiểu biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri
thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa
là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên
học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua
trình thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một
khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn,
thì học cũng trở nên vô ích..
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã
được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó
khăn trở ngại, thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học
tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế,
thực hành trong thực tiễn cuộc sống.
Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện
cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất
khác nhau nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có
đức là người vô dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích
cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. 10 lOMoAR cPSD| 44985297
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có khát
vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực kém thì
những ý định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao động có
hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong đời sống con người. Rõ
ràng là giá trị con người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho
nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi người.
Bản thân em hiện nay đang là sinh viên, là người đang trong quá trình phát triển
về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên đây là thời kỳ
phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực,
cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người đáp
ứng được nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.
1. 6) Tổng cục Thống kê Việt Nam và thống kê của IMF 11