Hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ của thanh thiếu niên |Đại học Nội Vụ Hà Nội

Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả khảo sát 170 thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Hà Nội, đượcchọn mẫu ngẫu nhiên, độ tuổi từ 15-24 về các hành vi nguy cơ của họ khi tham gia giao thông đườngbộ bằng các phương tiện xe đạp điện, xe máy điện và xe máy.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

Môn:
Trường:

Đại Học Nội Vụ Hà Nội 1.2 K tài liệu

Thông tin:
9 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ của thanh thiếu niên |Đại học Nội Vụ Hà Nội

Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả khảo sát 170 thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Hà Nội, đượcchọn mẫu ngẫu nhiên, độ tuổi từ 15-24 về các hành vi nguy cơ của họ khi tham gia giao thông đườngbộ bằng các phương tiện xe đạp điện, xe máy điện và xe máy.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

36 18 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45619127
Hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường b
của thanh thiếu niên
Nguyễn Văn Lượt*, PThị Thái
Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả khảo sát 170 thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Nội,
được chọn mẫu ngẫu nhiên, độ tuổi từ 15-24 về các hành vi nguy cơ của họ khi tham gia giao thông
đường bộ bằng các phương tiện xe đạp điện, xe máy điện xe máy. Thời gian thu thập dữ liệu từ
tháng 35/2015. Phương pháp nghiên cứu chính là điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: phần lớn thanh thiếu niên có ít hơn 3 lần thực hiện các hành vi nguy cơ trong
thời gian 30 ngày gần đây; các hành vi nguy cơ nhiều nhất ở thanh thiếu niên là “sử dụng điện thoại
khi lái xe” và “đi sai làn đường”; Có sự khác biệt về hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường
bộ giữa các nhóm sinh viên xét theo tiêu chí giới tính, tuổi và loại phương tiện sử dụng.
Từ khóa: Hành vi nguy cơ, giao thông, thanh thiếu niên.
1. Đặt vấn đề
Tai nạn giao thông không phải là vấn đề mới
nhưng luôn thu hút được sự quan tâm lớn của
toàn hội bởi liên quan đến tính mạng của
con người. Hơn nữa, Việt Nam nơi tỷ lệ
người gặp tai nạn giao thông đặc biệt giao
thông đường bộ cao hơn nhiều so với các nước
trên thế giới. Theo số liệu của Ủy ban an toàn giao
thông Quốc gia, năm 2013 cả nước đã xảy ra
29.385 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9.369
người, bị thương 29.500 người. Theo thống kê,
tai nạn giao thông đường bộ chiếm tỷ lệ cao nhất
nghiêm trọng nhất (chiếm khoảng 97% tổng
số vụ tai nạn giao thông các loại). Mặt khác, tỷ l
người chết trên một vụ tai nạn
_______
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-912229910
giao thông Việt Nam cao hơn rất nhiều so với
các nước trong khu vực: năm 2009, tỷ lệ này của
Việt Nam 0,94; của Thái Lan 0,17
Malaysia là 0,02 [1].
Hành vi nguy khi tham gia giao thông
đường bộ những hành động ý thức, mang
tính chất nguy hiểm, rủi ro khi di chuyển trên c
tuyến giao thông đường bộ làm đe dọa đến sức
khỏe thể chất tinh thần, đeo đọa tính mạng của
chính bản thân người điều khiển phương tiện giao
thông những người xung quanh trong quá trình
tham gia giao thông.
thể nói thanh thiếu niên chính một trong
những lực lượng chủ yếu tham gia giao thông
đường bộ. Xét về khía cạnh tâm lý, đây lứa tuổi
bộc lộ nhu cầu tự khẳng định bản thân rất cao và
xuất hiện khá nhiều những mâu thuẫn trong thái
độ, hành vi tình cảm. khía cạnh tham gia
giao thông, các thanh thiếu niên cũng thường có
các hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông như
lái xe quá tốc độ, vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo
hiểm ... mức độ cao. Nghiên cứu của Fergusson,
Swain Campbell & Horwood (2003) cũng cho
thấy 90% thanh niên đã từng thực hiện hành động
lái xe nguy hiểm [2].
Về mặt lý luận, trên thế giới vấn đề về hành
vi nguy khi tham gia giao thông đường bộ hết
sức được quan tâm tính thực tiễn của nó. Thực
tế cho thấy trên thế giới việc tiến hành nghiên
cứu về các hành vi nguy khi tham gia giao
thông được thực hiện t rất lâu vô cùng
phong phú. Tuy nhiên, trong nước, tai nạn
giao thông là vấn đề cùng nhức nhối nhưng
các công trình nghiên cứu liên quan đến hành vi
nguy của thanh thiếu niên vẫn chưa được
quan tâm nhiều.
Bài báo này nhằm mô tả tuần suất thực hiện
hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường
bộ của thanh thiếu niên; phân tích, so sánh về
hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường
bộ ở các nhóm thanh thiếu niên khác nhau.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Mẫu nghiên cứu
Đây một nghiên cứu định lượng theo lát
cắt ngang. Mẫu nghiên cứu được chọn theo
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.
Tổng số mẫu nghiên cứu gồm 170 thanh thiếu
niên (tuổi từ 16-24) trên địa bàn Nội, trong
đó xét về giới tính có: 87 nam, 83 nữ; về bậc
học: 64 học sinh từ 15 18 tuổi, 106 sinh viên
từ 19 – 24 tuổi; về phương tiện sử dụng: 112 xe
máy, xe máy điện; 58 xe đạp điện.
2.2. Thu thập dữ liệu
Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 2 -
5/2015. Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
Email: luotnv@vnu.edu.vn
2 6
lOMoARcPSD| 45619127
nghiên cứu như nghiên cứu tài liệu; điều tra
bằng bảng hỏi; phỏng vấn sâu; xử lý số liệu bằng
thống toán học. Trong đó phương pháp chính
là điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu.
Chúng tôi đã thiết kế một bảng hỏi để khảo
sát hành vi nguy cơ của thanh thiếu niên khi tham
gia giao thông đường bộ gồm 11 nhóm hành vi,
cụ thể như sau:
1. Sử dụng thiết bị âm thanh (tai phone, tai
nghe bluetooth,…)
2. Sử dụng điện thoại di động (nhắn tin, gọi
và nghe cuộc gọi, lướt web...)
3. Đi sai làn đường quy định, đi lên vỉa hè
4. Đi ngược chiều
5. Chở quá số người quy định (từ 2 người
lớn trở lên)
7. Không đội bảo hiểm hoặc
đội bảo hiểm không gài quai, không đạt
chuẩn
8. Sử dụng chất kích thích (rượu,
bia,…) khi tham gia giao thông.
9. Đi dàn hàng ngang (hàng 2, hàng
3)
10. Vượt đèn đỏ
11. Lái xe khi chưa có bằng lái xe
Mỗi khách thể nghiên cứu trả lời 1 bảng hỏi
riêng biệt. Tất cả các bảng hỏi được kiểm tra để
đảm bảo nội dung thông tin được trả lời đầy đủ
trước khi đưa vào xử bằng phần mềm SPSS
16.0.
2.3. Tiêu chí đánh giá
Để đo tần suất thực hiện hành vi nguy cơ khi
tham gia giao thông đường bộ của thanh thiếu
niên, chúng tôi đã thiết kế 1 thang đo gồm 11
nhóm nh vi họ thực hiện trong 30 ngày qua.
Mỗi item 4 phương án trả lời, chúng tôi qui
định điểm số như sau: “dưới 3 lần” = 1 điểm: “từ
3-6 lần” = 2 điểm, “từ 7-10 lần” = 3 điểm
“>10 lần” = 4 điểm. Điểm càng cao biểu hiện
mức độ thực hiện các hành vi nguy khi tham
gia giao thông đường bộ của thanh thiếu niên
càng cao.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Khái quát chung về hành vi nguy cơ của
thanh thiếu niên
Hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của
thanh thiếu niên được khảo sát thông qua 11
nhóm hành vi và kết quả được thể hiện ở bảng s
liệu sau:
27
Bảng 1. Tần suất thực hiện hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ của thanh thiếu niên
SL % SL % SL % SL %
1. Sử dụng thiết bị âm thanh (tai
112 65.9
phone, tai nghe bluetooth,…)
2. Sử dụng điện thoại khi tham gia giao thông
14
8.2
20
11.8
24
1.74
1.13
2.1. Nhắn tin
106
62.4
31
18.2
16
9.4
17
1.74
1.11
2.2. Xem tin nhắn
(sms/facebook/zalo,…)
109
64.1
15
8.8
21
12.4
25
1.78
1.14
2.3. Nghe cuộc gọi
87
51.2
39
22.9
16
9.4
28
1.91
1.12
2.4. Thực hiện cuộc gọi
93
54.7
32
18.8
21
12.4
24
1.86
1.10
2.5. Lướt web
3. Liên quan đến làn đường
130
76.5
17
10
10
5.9
13
1.45
0.91
3.1. Đi sai làn đường quy định
109
64.1
31
18.2
14
8.2
16
1.63
0.98
3.2. Đi lên vỉa hè
119
70
30
17.6
10
5.9
11
1.49
0.87
4. Đi ngược chiều
121
71.2
33
19.4
9
5.3
7
1.42
0.77
5. Chở quá số người quy định (từ
2 người lớn trở lên)
6. Liên quan đến tốc độ chạy xe
6.1. Xe máy, xe máy điện chạy quá
129
75.9
23
13.5
9
5.3
9
1.40
0.81
tốc độ tối đa 40 km/h trong khu vực
đông dân cư
6.2. Xe máy, xe máy điện chạy quá
129
75.9
20
11.8
8
4.7
13
1.44
0.89
tốc độ tối đa 50 km/h ngoài khu vực
đông dân cư
140
82.4
16
9.4
5
2.9
9
1.31
0.77
6.3. Xe đạp điện chạy quá tốc độ tối đa
25km/h
130
76.5
17
10
11
6.5
12
1.44
0.89
7. Liên quan đến sử dụng mũ bảo hiểm
7.1. Không đội mũ bảo hiểm khi đi
127 xe
gắn máy
7.2. Đội mũ bảo hiểm không đảm
74.7
15
8.8
13
7.6
15
1.50
0.96
bảo an toàn (không cài dây, 125 không
đảm bảo chất lượng,…)
73.5
16
9.4
13
7.6
16
1.53
0.98
8. Sử dụng chất kích thích (rượu,
158
bia, ma túy)
92.9
7
4.1
2
1.2
3
1.12
0.48
9. Đi dàn hàng ngang (hàng 2, hàng
108
3 trở lên)
63.5
34
20
23
13.5
5
1.56
0.83
10. Vượt đèn đỏ 103
60.6
36
21.2
15
8.8
16
1.67
0.98
11. Lái xe khi chưa có bằng lái xe 135
79.4
9
5.3
7
4.1
19
1.47
1.00
Từ số liệu bảng 1, chúng ta có thể rút ra một số
nhận xét sau:
(1). Phần lớn các hành vi nguy được thực
hiện với tần suất ít hơn 3 lần/tháng. Tuy nhiên,
cũng có khoảng 1/5 khách thể trong nghiên cứu
này thực hiện các hành vi nguy mức từ 7-10
lần và > 10 lần trong vòng 30 gần đây.
(2). Nhóm hành vi “Sử dụng điện thoại khi
tham gia giao thông” là nhóm hành vi tần suất
biểu hiện cao nhất: “Nghe cuộc gọi” với ĐTB
1,91. Theo sau đó các hành vi “Thực hiện cuộc
gọi”, “Xem tin nhắn
(sms/facebook/zalo,…)” và “Nhắn tin” với ĐTB
lần lượt là 1,86; 1,78 và 1,74. Lý giải cho
điều trên, có thể nguyên do bắt nguồn từ việc
Tần suất
Ít hơn 3 lần
Từ 3
đến 6 lần
Từ 7
đến 10 lần
Trên 10 lần
Nhóm hành vi nguy cơ
ĐTB
SD
lOMoARcPSD| 45619127
công nghệ hiện đại ngày một phát triển thuận
tiện hơn, theo đó việc nắm bắt thông tin cũng tr
nên nhanh chóng dễ dàng, không bị hạn chế
bởi thời gian, không gian cũng như địa điểm. Bên
cạnh đó, nhu cầu bắt kịp xu hướng của xã hội
trao đổi thông tin lứa tuổi thanh thiếu niên là vô
cùng cấp thiết. Điều này dẫn đến việc sử dụng
điện thoại để nghe gọi và nhắn tin khi đang tham
gia giao thông trở thành một thói quen khá phổ
biến hiện nay.
(3). Nhóm hành vi nguy tần suất biểu
hiện cao thứ hai nhóm “Sử dụng thiết bị âm
thanh (tai phone, tai nghe bluetooth,…)” - ĐTB
= 1.74. Tai nghe vốn vật dụng khá tiện dụng
hữu ích với những ai muốn nghe âm thanh từ điện
thoại, máy tính,… không làm ảnh hưởng tới
người khác cũng như phải sử dụng tay để cầm các
thiết bị. Tuy nhiên, sử dụng tai nghe không đúng
lúc sẽ biến nó thành một hành vi nguy tiềm ẩn
rủi ro, nguy hiểm cho chủ thể, đặc biệt là khi chủ
thể đang điều khiển các phương tiện tham gia
giao thông đường bộ. Ví dụ, do sử dụng tai nghe
không thấy tiếng còi xe hoặc khi nghe các bản
nhạc quá mạnh khiến tốc đi xe cũng nhanh hơn
so với cảm nhận thực tế. Hầu hết những người sử
dụng tai nghe khi đi đường đều cho rằng đó là vô
hại. Điều này được thể hiện khi thực hiện phỏng
vấn. Kết quả phần lớn các khách thể đều không
biết rằng hành vi này hành vi thể nguy hiểm
cho bản thân, thậm chí là vi phạm luật giao thông.
Bạn C.N.L (nữ, 21 tuổi) – sinh viên m 3 trường
đại học Ngoại Ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho
rằng: Mình cũng không biết quy định này cho
đến một lần bị cảnh sát tuýt còi ý không xi
nhan xin đường, sau đó được các anh công an
nhắc nhở đi đường không được phép đeo tai
nghe; nếu không sẽ bị xử phạt hành chính”.
(4). tần suất thấp hơn cả hành vi “Xe
máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa ngoài
khu vực đông dân cư: 50km/h” và “Sử dụng chất
kích thích (rượu, bia,…)” với ĐTB lần lượt
1,31 1,12. Qua điều tra phỏng vấn, các khách
thể đều học sinh, sinh viên nên việc đi lại chủ
yếu là từ nhà đến trường hoặc đi chơi thì cũng
trong nội thành; còn nếu ra khỏi Hà Nội sang các
khu vực xung quanh thì khá ít thanh niên tự tin
vào tay lái của mình khi đi đường dài, thông
thường chuyển lựa chọn sang các phương tiện
công cộng như xe bus đường dài, ô khách,…
Còn hành vi uống rượu, bia thường xuất hiện
sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm cuối khi đi
liên hoan, đi giao, hội họp,…tuy nhiên tần suất
thực hiện khá ít hầu hết các khách thể đều
khẳng định là bản thân chuống một chút cho vui
chứ không uống nhiều.
3.2. Sự khác biệt về hành vi nguy cơ khi
tham gia giao thông của các nhóm khách thể
Câu hỏi đặt ra liệu rằng giữa các nhóm
khách thể khác nhau sự biểu hiện khác nhau
về hành vi nguy khi tham gia giao thông hay
không? Và nguyên nhân xuất phát từ đâu?
Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng tôi
đã tiến hành so sánh giữa các nhóm khách thể
theo tiêu chí giới; tuổi; phương tiện sử dụng.
Kiểm nghiệm T-test cho thấy sự khác biệt có ý
nghĩa khi xét theo tiêu chí vgiới tính, nhóm tuổi
nhóm phương tiện một số nhóm hành vi,
được thể hiện dưới đây:
*) Về mặt giới tính
Theo bảng số liệu trên, sự khác biệt đáng
kể về tần suất thực hiện các hành vi nguy cơ giữa
nhóm khách thể nam nữ. Số liệu của bảng 2
minh chứng cho xu hướng nam giới nhiều
hành vi nguy hơn khi tham gia giao thông so
với nữ giới: từ nhắn tin; xem tin nhắn; nghe cuộc
gọi; đi sai làn; chạy quá tốc độ; không đội bảo
hiểm cho đến sử dụng các chất kích thích. Có th
giải thích thực trạng này do sự khác biệt tâm
nhân giữa nam nữ - phần lớn nữ giới thường
hay lo sợ và nhạy cảm hơn đối với các vấn đề có
tính rủi ro, nguy hiểm. Do đó họ cẩn thận, chú ý
hơn khi ra ngoài so với nam giới cũng như cẩn
trọng hơn trong hành động của bản thân.
Nghiên cứu năm 2012 của Khairil Anuar Md.
Isaa cộng sự về “Hành vi sử dụng điện thoại
di động khi lái xe của những thanh niên tại Đại
học Urban” cũng cho kết quả tương tự, khi so
sánh về giới, tỷ lệ sinh viên nam sử dụng điện
thoại di động (nhắn tin, nghe/gọi,…) khi đi
đường trong thành phố mức độ thường xuyên
hơn so với sinh viên nữ [3].
29
Hành vi
Khách thể
ĐTB
Mức ý nghĩa
1. Sử dụng thiếu bị âm thanh (tai phone, tai nghe
bluetooth,…)
HS
SV
2.22
1.45
p = 0.00
2. Nhắn tin
HS
SV
1.98
1.58
p = 0.00
3. Xem tin nhắn (sms, facebook, zalo…)
HS
SV
2.17
1.54
p = 0.00
4. Thực hiện cuộc gọi
HS
SV
2.13
1.69
p = 0.01
5. Lướt web
HS
SV
1.81 1.23
p = 0.00
6. Đi sai làn đường quy định
HS
SV
2.05
1.38
p = 0.00
7. Đi lên vỉa hè
HS
SV
1.70
1.36
p = 0.01
8. Đi ngược chiều
HS
SV
1.67
1.27
p = 0.00
9. Chở quá số người quy định (từ 2 người lớn trở lên)
HS
SV
1.58 1.29
p = 0.03
10. Xe máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa ngoài khu
vực đông dân cư: 50km/h
HS
SV
1.06
1.46
p = 0.00
11. Xe đạp điện chạy quá tốc độ tối đa: 25km/h
HS
SV
2.00 1.10
p = 0.00
lOMoARcPSD| 45619127
Bảng 2. So sánh hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của thanh thiếu niên theo giới tính
Hành vi
Tiêu chí
ĐTB
Mức ý nghĩa
1. Nhắn tin
Nam
Nữ
1.82
1.66
p = 0.04
2. Xem tin nhắn (sms, facebook, zalo…)
Nam
Nữ
2.00
1.54
p = 0.00
3. Nghe cuộc gọi
Nam
Nữ
2.09
1.72
p = 0.03
4. Đi sai làn đường quy định
Nam
Nữ
1.79
1.46
p = 0.02
5. Đi lên vỉa hè
Nam
Nữ
1.70
1.26
p = 0.00
6. Xe máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa
trong khu vực đông dân cư: 40km/h
Nam
Nữ
1.63
1.24
p = 0.00
7. Xe máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa
ngoài khu vực đông dân cư: 50km/h
Nam
Nữ
1.46
1.16
p = 0.01
8. Không đội mũ bảo hiểm khi đi xe
Nam
Nữ
1.67
1.34
p = 0.02
9. Sử dụng chất kích thích (rượu, bia)
Nam
Nữ
1.21
1.02
p = 0.01
*) Về nhóm tuổi
Bảng 3. So sánh hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của thanh thiếu niên theo nhóm tuổi
12. Không đội mũ bảo hiểm khi đi xe
HS
SV
1.97 1.23
p = 0.00
13. Đội mũ bảo hiểm không đảm bảo an toàn
HS
SV
1.81
1.36
p = 0.00
31
HS 1.00 p = 0.03
14. Sử dụng chất kích thích (rượu, bia)
SV 1.20
HS 2.06 p = 0.00
15. Đi dàn hàng ngang
SV 1.25
HS 2.06 p = 0.00
16. Vượt đèn đỏ
SV 1.43
Theo bảng 3, giữa nhóm học sinh sinh viên
sự khác biệt ràng trong tần suất thực hiện
các hành vi nguy - ĐTB của nhóm học sinh
cao hơn so với nhóm sinh viên ch rõ rệt. Ngược
lại, nhóm học sinh lại có ĐTB tần suất thực hiện
hành vi nguy thấp dao động không nhiều.
Có thể lý giải điều này như sau:
+ Theo tâm lý học phát triển, thiếu niên (tuổi
học sinh cấp trung học phổ thông) là giai đoạn
nhiều mâu thuẫn do sự thay đổi về tâm sinh
(tuổi dậy thì). lứa tuổi này xuất hiện “cảm giác
mình người lớn” với mong muốn được tự
khẳng định bản thân, thể hiện cái Tôi tính
riêng [4]. Điều này dẫn đến sự chống đối những
chuẩn mực quy tắc hội chung của thiếu
niên. Bên cạnh đó, sự thiếu ổn định về mặt nhân
cách khiến thiếu niên dễ bị ảnh hưởng bởi các tác
động bên ngoài, như là từ nhóm bạn, trò chơi điện
tử,… mà thiếu niên tham gia.
Khi được phỏng vấn, một nam học sinh lớp
12 trường THPT Việt Nam – Ba Lan trả lời: “Em
chơi nhiều game tốc độ n hơi ảnh hưởng”.
Một bạn học sinh thì nói: “Đi cùng bạn nên bạn
đi nhanh thì mình cũng đi nhanh theo chị ạ”.
+ Về nhóm thanh niên, giai đoạn này tâm
trạng của thanh niên ổn định hơn do họ đã bước
qua thời kỳ khủng hoảng tuổi dậy thì. Quan điểm
về thế giới con người của thanh niên dần trở
nên độc lập và ít bị phụ thuộc. Cùng với đó, tâm
sinh lứa tuổi này không còn bị xáo trộn nhiều
đã hoàn thiện hơn, vậy cách thể hiện i
Tôi và cá tính riêng của nhóm này được thể hiện
theo nhiều cách khác nhau như đường hướng
tương lai, học tập,… thay việc vi phạm các
chuẩn mực xã hội.
Tuy nhiên, mục “Sử dụng chất kích thích
(rượu, bia,…) mục “Xe máy, xe máy điện chạy
quá tốc độ tối đa ngoài khu vực đông dân cư:
50km/h”, ĐTB của nhóm sinh viên lại trội hơn.
Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu
của các tác giả khác, chẳng hạn nghiên cứu của
Kulkarni và cộng sự (2012) về hành vi lái xe của
sinh viên ngành dược Ấn Độ cho thấy 25% sinh
viên đã từng uống rượu khi lái xe trong vòng 1
năm qua và 20% đã sử dụng điện thoại khi lái xe
[dẫn theo 1; tr.41].
Qua điều tra phỏng vấn, hành vi uống
rượu, bia thường xuất hiện sinh viên, đặc
biệt là sinh viên năm cuối khi đi liên hoan, đi
xã giao, hội họp,…Bên cạnh đó, thể giải
rằng ở mục này ĐTB của học sinh thấp là bởi
lứa tuổi thiếu niên vẫn còn chịu sự kiểm soát
chặt chẽ từ phía gia đình và nhà trường, vậy
mà hành vi sử dụng chất kích thích nói chung
ở các em xuất hiện ít.
Ngoài ra, phương tiện xe máy, xe máy
điện chủ yếu là sinh viên sử dụng, mặc dù có
một phần nhỏ học sinh chưa đủ tuổi vẫn đi
nhóm xe này nhưng phần lớn các khách thể
lứa tuổi thiếu niên được khảo sát đều sự
quản lý từ gia đình nên việc đi xe máy đường
xa, ra ngoài khu vực đô thị là điều khó có thể
xảy ra.
c) Về nhóm phương tiện
Theo số liệu bảng 4, nhóm xe máy, xe máy
điện ĐTB thấp hơn xe đạp điện. Có thể
lOMoARcPSD| 45619127
giải cho điều này là các hành vi khi tham gia
giao thông của nhóm xe máy, xe máy điện đã
được luật pháp quy định ràng. Do đó, nhóm
phương tiện này bkiểm soát một ch t sao
chặt chẽ bởi cảnh sát giao thông. Ngược
lại, hiện nay xe đạp điện vẫn chưa luật lệ
cụ thể, sự quản chế lỏng lẻo nhóm xe
này khả năng lách luật cao hơn so với
nhóm xe máy, xe máy điện.
Nghiên cứu của tác giả Bùi Đức Trọng (2010)
với đề tài “Thái độ tham gia giao thông của học
sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố
Nội” đã chỉ ra thái độ tiêu cực của học sinh
đối với việc tham gia giao thông đường bộ.
Nguyên nhân chủ quan một phần là bởi đặc điểm
sinh lý lứa tuổi hành động dựa trên cảm tính,
bắt chước thói xấu của bạn bè, người lớn. Bên
cạnh đó, tác giả còn chỉ ra những nguyên nhân
khách quan tác động lên thái độ tham gia giao
thông của các em học sinh do công tác tuyên
truyền, giáo dục về an toàn giao thông trong nhà
trường chưa tốt; ngoài ra còn do hệ thống pháp
luật Việt Nam về trật tự an toàn giao thông còn
chưa nghiêm và mang nhiều vấn đề bất cập [5].
Như vậy, trong tổng số 58 khách thể đi xe đạp
điện thì tới 45 khách thể lứa tuổi học sinh.
Như đã phân tích trên, cùng với đặc điểm tâm
lý ở lứa tuổi này và sự thiếu sót, xao nhãng trong
kiểm soát của luật lệ; tất cả tạo điều kiện “thuận
lợi” cho các em thực hiện các hành vi nguy khi
tham gia giao thông đường bộ.
4. Kết luận
(1). Nhìn chung, đa số khách thể trong nghiên
cứu này thực hiện dưới 3 hành vi nguy khi
tham gia giao thông trong vòng 30 ngày gần
nhất. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận khách thể
thường xuyên những hành vi nguy khi tham
gia giao thông đường bộ.
(2). sự khác biệt theo tiêu chí giới, nhóm
tuổi phương tiện sử dụng, cụ thể: tần suất thực
hiện hành vi nguy nhóm nam giới cao n
nữ giới; nhóm tuổi học sinh nhìn chung cao hơn
nhóm sinh viên; nhóm thanh thiếu niên sử dụng
phương tiện xe đạp điện cao hơn nhóm thanh
thiếu niên sử dụng xe máy, xe máy điện.
(3). Các kết quả t nghiên cứu này gợi ý
rằng, chúng ta cần phải tập trung vào mặt nhận
thức để giảm thiểu hành vi nguy cơ khi tham gia
giao thông cho các nhóm đối tượng, đặc biệt
nhóm khách thể là học sinh nam, sử dụng xe đạp
điện.
Bảng 4. So sánh hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của thanh thiếu niên theo nhóm phương tiện
Hành vi
Tiêu chí
ĐTB
Mức ý nghĩa
1. Sử dụng thiếu bị âm thanh (tai phone,
tai nghe bluetooth,…)
Xe máy, xe máy điện Xe
đạp điện
1.59
2.03
p = 0.02
2. Lướt web
Xe máy, xe máy điện Xe
đạp điện
1.33
1.67
p = 0.02
3. Đi lên vỉa hè
Xe máy, xe máy điện Xe
đạp điện
1.37
1.71
p = 0.03
4. Đi ngược chiều
Xe máy, xe máy điện Xe
đạp điện
1.32
1.62
p = 0.02
5. Không đội mũ bảo hiểm khi đi xe
Xe máy, xe máy điện Xe
đạp điện
1.34
1.83
p = 0.00
6. Di dàn hàng ngang
Xe máy, xe máy điện Xe
đạp điện
1.43
1.81
p= 0.00
7. Vượt đèn đỏ
Xe máy, xe máy điện Xe
đạp điện
1.54
1.91
p = 0.02
33
Tài liệu tham khảo
[1] Thu Hằng (2010), “Một số giải pháp hạn chế tai
nạn giao thông đường bộ tai Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học Giao thông vận tải, 31.
[2] Nguyễn Thị Mai Lan (2015), Hành vi tham gia giao
thông đường bộ trong các nghiên cứu nước ngoài,
Tạp chí Tâm lý học, số 7/2015, tr.36 - tr.44.
[3] Khairil Anuar Md. Isaa, Mohamad Ghazali Masuria
et al (2012), “Mobile Phone Usage Behaviour while
Driving among Educated Young Adults in the
Urban University”, Procedia Social and
Behavioral Science, 36, 414 – 420.
[4] Trương Thị Khánh (2013), Giáo trình Tâm
học phát triển, NXB ĐHQG Hà Nội.
[5] Bùi Đức Trọng (2010), Thái độ tham gia giao thông
của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành
phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, Hà Nội
Risky Behaviors among Youth in Road Traffic
Nguyễn Văn Lượt, PThị Thái
VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam
Abstract: The paper presents the result of a survey with 170 youths, aged between 15 and 24 years,
randomly selected from various areas in Hanoi to understand their road traffic risky behaviors when
using motobikes, electric bicycles and electric scooters. Data were collected from March to May 2015.
The main methods to access the survey results include questionaires and in-depth interviews. The survey
showed that most of young people had less than 3 risky behaviors in recent 30 days. The most traffic
risky behaviors are “using mobile phone while driving” and “riding on wrong lane”. There was a
significant difference in traffic risky behaviors between males and females, the ages of youths, and types
of vehicle.
Keywords: Traffic risk behaviors, traffic, youth.
| 1/9

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45619127
Hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ của thanh thiếu niên
Nguyễn Văn Lượt*, Phí Thị Thái Hà
Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả khảo sát 170 thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Hà Nội,
được chọn mẫu ngẫu nhiên, độ tuổi từ 15-24 về các hành vi nguy cơ của họ khi tham gia giao thông
đường bộ bằng các phương tiện xe đạp điện, xe máy điện và xe máy. Thời gian thu thập dữ liệu từ
tháng 35/2015. Phương pháp nghiên cứu chính là điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: phần lớn thanh thiếu niên có ít hơn 3 lần thực hiện các hành vi nguy cơ trong
thời gian 30 ngày gần đây; các hành vi nguy cơ nhiều nhất ở thanh thiếu niên là “sử dụng điện thoại
khi lái xe” và “đi sai làn đường”; Có sự khác biệt về hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường
bộ giữa các nhóm sinh viên xét theo tiêu chí giới tính, tuổi và loại phương tiện sử dụng.
Từ khóa: Hành vi nguy cơ, giao thông, thanh thiếu niên. 1. Đặt vấn đề
các hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông như
lái xe quá tốc độ, vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo
Tai nạn giao thông không phải là vấn đề mới
hiểm ... ở mức độ cao. Nghiên cứu của Fergusson,
nhưng luôn thu hút được sự quan tâm lớn của
Swain – Campbell & Horwood (2003) cũng cho
toàn xã hội bởi nó liên quan đến tính mạng của
thấy 90% thanh niên đã từng thực hiện hành động
con người. Hơn nữa, Việt Nam là nơi có tỷ lệ lái xe nguy hiểm [2].
người gặp tai nạn giao thông – đặc biệt là giao
Về mặt lý luận, trên thế giới vấn đề về hành
thông đường bộ cao hơn nhiều so với các nước
vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ hết
trên thế giới. Theo số liệu của Ủy ban an toàn giao
sức được quan tâm vì tính thực tiễn của nó. Thực
thông Quốc gia, năm 2013 cả nước đã xảy ra
tế cho thấy trên thế giới việc tiến hành nghiên
29.385 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9.369
cứu về các hành vi nguy cơ khi tham gia giao
người, bị thương 29.500 người. Theo thống kê,
thông được thực hiện từ rất lâu và vô cùng
tai nạn giao thông đường bộ chiếm tỷ lệ cao nhất
phong phú. Tuy nhiên, trong nước, dù tai nạn
và nghiêm trọng nhất (chiếm khoảng 97% tổng
giao thông là vấn đề vô cùng nhức nhối nhưng
số vụ tai nạn giao thông các loại). Mặt khác, tỷ lệ
các công trình nghiên cứu liên quan đến hành vi
người chết trên một vụ tai nạn
nguy cơ của thanh thiếu niên vẫn chưa được _______ quan tâm nhiều.
Bài báo này nhằm mô tả tuần suất thực hiện
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-912229910
hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường
giao thông ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với
bộ của thanh thiếu niên; phân tích, so sánh về
các nước trong khu vực: năm 2009, tỷ lệ này của
hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường
Việt Nam là 0,94; của Thái Lan là 0,17 và
bộ ở các nhóm thanh thiếu niên khác nhau. Malaysia là 0,02 [1].
Hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông 2.
đường bộ là những hành động có ý thức, mang
Phương pháp nghiên cứu
tính chất nguy hiểm, rủi ro khi di chuyển trên các
2.1. Mẫu nghiên cứu
tuyến giao thông đường bộ làm đe dọa đến sức
khỏe thể chất và tinh thần, đeo đọa tính mạng của
Đây là một nghiên cứu định lượng theo lát
chính bản thân người điều khiển phương tiện giao
cắt ngang. Mẫu nghiên cứu được chọn theo
thông và những người xung quanh trong quá trình
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện. tham gia giao thông.
Tổng số mẫu nghiên cứu gồm 170 thanh thiếu
niên (tuổi từ 16-24) trên địa bàn Hà Nội, trong
Có thể nói thanh thiếu niên chính là một trong
đó xét về giới tính có: 87 nam, 83 nữ; về bậc
những lực lượng chủ yếu tham gia giao thông
học: 64 học sinh từ 15 – 18 tuổi, 106 sinh viên
đường bộ. Xét về khía cạnh tâm lý, đây là lứa tuổi
từ 19 – 24 tuổi; về phương tiện sử dụng: 112 xe
bộc lộ nhu cầu tự khẳng định bản thân rất cao và
máy, xe máy điện; 58 xe đạp điện.
xuất hiện khá nhiều những mâu thuẫn trong thái
2.2. Thu thập dữ liệu Email: luotnv@vnu.edu.vn 2 6
độ, hành vi và tình cảm. Ở khía cạnh tham gia
Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 2 -
giao thông, các thanh thiếu niên cũng thường có
5/2015. Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp lOMoAR cPSD| 45619127
nghiên cứu như nghiên cứu tài liệu; điều tra
3. Kết quả và bàn luận
bằng bảng hỏi; phỏng vấn sâu; xử lý số liệu bằng
thống kê toán học. Trong đó phương pháp chính 3.1.
Khái quát chung về hành vi nguy cơ của
là điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. thanh thiếu niên
Chúng tôi đã thiết kế một bảng hỏi để khảo
Hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của
sát hành vi nguy cơ của thanh thiếu niên khi tham
thanh thiếu niên được khảo sát thông qua 11
gia giao thông đường bộ gồm 11 nhóm hành vi,
nhóm hành vi và kết quả được thể hiện ở bảng số cụ thể như sau: liệu sau:
1. Sử dụng thiết bị âm thanh (tai phone, tai nghe bluetooth,…)
2. Sử dụng điện thoại di động (nhắn tin, gọi
và nghe cuộc gọi, lướt web...)
3. Đi sai làn đường quy định, đi lên vỉa hè 4. Đi ngược chiều
5. Chở quá số người quy định (từ 2 người lớn trở lên) 7.
Không đội mũ bảo hiểm hoặc
đội mũ bảo hiểm không gài quai, không đạt chuẩn 8.
Sử dụng chất kích thích (rượu,
bia,…) khi tham gia giao thông. 9.
Đi dàn hàng ngang (hàng 2, hàng 3) 10. Vượt đèn đỏ 11.
Lái xe khi chưa có bằng lái xe
Mỗi khách thể nghiên cứu trả lời 1 bảng hỏi
riêng biệt. Tất cả các bảng hỏi được kiểm tra để
đảm bảo nội dung thông tin được trả lời đầy đủ
trước khi đưa vào xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0.
2.3. Tiêu chí đánh giá
Để đo tần suất thực hiện hành vi nguy cơ khi
tham gia giao thông đường bộ của thanh thiếu
niên, chúng tôi đã thiết kế 1 thang đo gồm 11
nhóm hành vi mà họ thực hiện trong 30 ngày qua.
Mỗi item có 4 phương án trả lời, chúng tôi qui
định điểm số như sau: “dưới 3 lần” = 1 điểm: “từ
3-6 lần”
= 2 điểm, “từ 7-10 lần” = 3 điểm và
“>10 lần” = 4 điểm. Điểm càng cao biểu hiện
mức độ thực hiện các hành vi nguy cơ khi tham
gia giao thông đường bộ của thanh thiếu niên càng cao. 27
Bảng 1. Tần suất thực hiện hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ của thanh thiếu niên Tần suất Từ 3 Từ 7 Nhóm hành vi nguy cơ Ít hơn 3 lần Trên 10 lần ĐTB đến 6 lần SD đến 10 lần SL % SL % SL % SL %
1. Sử dụng thiết bị âm thanh (tai 112 65.9 14 8.2 20 11.8 24 14.1 1.74 1.13
phone, tai nghe bluetooth,…)
2. Sử dụng điện thoại khi tham gia giao thông 2.1. Nhắn tin 106 62.4 31 18.2 16 9.4 17 15.3 1.74 1.11 2.2. Xem tin nhắn 109 (sms/facebook/zalo,…) 64.1 15 8.8 21 12.4 25 14.7 1.78 1.14 2.3. Nghe cuộc gọi 87 51.2 39 22.9 16 9.4 28 16.5 1.91 1.12
2.4. Thực hiện cuộc gọi 93
54.7 32 18.8 21 12.4 24 14.1 1.86 1.10 2.5. Lướt web 130 76.5 17 10 10 5.9 13 7.6 1.45 0.91
3. Liên quan đến làn đường
3.1. Đi sai làn đường quy định 109 64.1 31 18.2 14 8.2 16 9.4 1.63 0.98 3.2. Đi lên vỉa hè 119 70 30 17.6 10 5.9 11 6.5 1.49 0.87
4. Đi ngược chiều 121 71.2 33 19.4 9 5.3 7 4.1 1.42 0.77 5.
Chở quá số người quy định (từ 129 75.9 23 13.5 9 5.3 9 5.3 1.40 0.81 2 người lớn trở lên) 6.
Liên quan đến tốc độ chạy xe
6.1. Xe máy, xe máy điện chạy quá
tốc độ tối đa 40 km/h trong khu vực 129 75.9 20 11.8 8 4.7 13 7.6 1.44 0.89 đông dân cư
6.2. Xe máy, xe máy điện chạy quá
tốc độ tối đa 50 km/h ngoài khu vực 140 82.4 16 9.4 5 2.9 9 5.3 1.31 0.77 đông dân cư
6.3. Xe đạp điện chạy quá tốc độ tối đa 76.5 130 17 10 11 6.5 12 7.1 1.44 0.89 25km/h
7. Liên quan đến sử dụng mũ bảo hiểm
7.1. Không đội mũ bảo hiểm khi đi 74.7 15 8.8 13 7.6 15 8.8 1.50 0.96 127 xe gắn máy
7.2. Đội mũ bảo hiểm không đảm
bảo an toàn (không cài dây, mũ 125 không 73.5 16 9.4 13 7.6 16 9.4 1.53 0.98
đảm bảo chất lượng,…)
8. Sử dụng chất kích thích (rượu, 158 92.9 7 4.1 2 1.2 3 1.8 1.12 0.48 bia, ma túy)
9. Đi dàn hàng ngang (hàng 2, hàng 108 63.5 34 20 23 13.5 5 2.9 1.56 0.83 3 trở lên)
10. Vượt đèn đỏ 103 60.6 36 21.2 15 8.8 16 9.4 1.67 0.98
11. Lái xe khi chưa có bằng lái xe 135 79.4 9 5.3 7 4.1
19 11.2 1.47 1.00
Từ số liệu bảng 1, chúng ta có thể rút ra một số
(2). Nhóm hành vi “Sử dụng điện thoại khi nhận xét sau:
tham gia giao thông” là nhóm hành vi có tần suất
(1). Phần lớn các hành vi nguy cơ được thực
biểu hiện cao nhất: “Nghe cuộc gọi” với ĐTB là
hiện với tần suất ít hơn 3 lần/tháng. Tuy nhiên,
1,91. Theo sau đó là các hành vi “Thực hiện cuộc
cũng có khoảng 1/5 khách thể trong nghiên cứu gọi”, “Xem tin nhắn
(sms/facebook/zalo,…)” và “Nhắn tin” với ĐTB
này thực hiện các hành vi nguy cơ ở mức từ 7-10
lần lượt là 1,86; 1,78 và 1,74. Lý giải cho
lần và > 10 lần trong vòng 30 gần đây.
điều trên, có thể nguyên do bắt nguồn từ việc lOMoAR cPSD| 45619127
công nghệ hiện đại ngày một phát triển và thuận
vào tay lái của mình khi đi đường dài, mà thông
tiện hơn, theo đó việc nắm bắt thông tin cũng trở
thường chuyển lựa chọn sang các phương tiện
nên nhanh chóng và dễ dàng, không bị hạn chế
công cộng như xe bus đường dài, ô tô khách,…
bởi thời gian, không gian cũng như địa điểm. Bên
Còn hành vi uống rượu, bia thường xuất hiện ở
cạnh đó, nhu cầu bắt kịp xu hướng của xã hội và
sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm cuối khi đi
trao đổi thông tin ở lứa tuổi thanh thiếu niên là vô
liên hoan, đi xã giao, hội họp,…tuy nhiên tần suất
cùng cấp thiết. Điều này dẫn đến việc sử dụng
thực hiện khá ít và hầu hết các khách thể đều
điện thoại để nghe gọi và nhắn tin khi đang tham
khẳng định là bản thân chỉ uống một chút cho vui
gia giao thông trở thành một thói quen khá phổ chứ không uống nhiều. biến hiện nay. 3.2.
Sự khác biệt về hành vi nguy cơ khi
(3). Nhóm hành vi nguy cơ có tần suất biểu
tham gia giao thông của các nhóm khách thể
hiện cao thứ hai là nhóm “Sử dụng thiết bị âm
thanh (tai phone, tai nghe bluetooth,…)” - ĐTB
Câu hỏi đặt ra là liệu rằng giữa các nhóm
= 1.74. Tai nghe vốn là vật dụng khá tiện dụng và
khách thể khác nhau có sự biểu hiện khác nhau
hữu ích với những ai muốn nghe âm thanh từ điện
về hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông hay
thoại, máy tính,… mà không làm ảnh hưởng tới
không? Và nguyên nhân xuất phát từ đâu?
người khác cũng như phải sử dụng tay để cầm các
Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng tôi
thiết bị. Tuy nhiên, sử dụng tai nghe không đúng
đã tiến hành so sánh giữa các nhóm khách thể
lúc sẽ biến nó thành một hành vi nguy cơ tiềm ẩn
theo tiêu chí giới; tuổi; phương tiện sử dụng.
rủi ro, nguy hiểm cho chủ thể, đặc biệt là khi chủ
Kiểm nghiệm T-test cho thấy có sự khác biệt có ý
thể đang điều khiển các phương tiện tham gia
nghĩa khi xét theo tiêu chí về giới tính, nhóm tuổi
giao thông đường bộ. Ví dụ, do sử dụng tai nghe
và nhóm phương tiện ở một số nhóm hành vi,
mà không thấy tiếng còi xe hoặc khi nghe các bản
được thể hiện dưới đây:
nhạc quá mạnh khiến tốc đi xe cũng nhanh hơn *) Về mặt giới tính
so với cảm nhận thực tế. Hầu hết những người sử
Theo bảng số liệu trên, có sự khác biệt đáng
dụng tai nghe khi đi đường đều cho rằng đó là vô
kể về tần suất thực hiện các hành vi nguy cơ giữa
hại. Điều này được thể hiện khi thực hiện phỏng
nhóm khách thể nam và nữ. Số liệu của bảng 2
vấn. Kết quả là phần lớn các khách thể đều không
minh chứng cho xu hướng nam giới có nhiều
biết rằng hành vi này là hành vi có thể nguy hiểm
hành vi nguy cơ hơn khi tham gia giao thông so
cho bản thân, thậm chí là vi phạm luật giao thông.
với nữ giới: từ nhắn tin; xem tin nhắn; nghe cuộc
Bạn C.N.L (nữ, 21 tuổi) – sinh viên năm 3 trường
gọi; đi sai làn; chạy quá tốc độ; không đội mũ bảo
đại học Ngoại Ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho
hiểm cho đến sử dụng các chất kích thích. Có thể
rằng: “Mình cũng không biết có quy định này cho
giải thích thực trạng này là do sự khác biệt tâm lý
đến một lần bị cảnh sát tuýt còi vì sơ ý không xi
cá nhân giữa nam và nữ - phần lớn nữ giới thường
nhan xin đường, sau đó được các anh công an
hay lo sợ và nhạy cảm hơn đối với các vấn đề có
nhắc nhở đi đường không được phép đeo tai
tính rủi ro, nguy hiểm. Do đó họ cẩn thận, chú ý
nghe; nếu không sẽ bị xử phạt hành chính”.
hơn khi ra ngoài so với nam giới cũng như cẩn
(4). Có tần suất thấp hơn cả là hành vi “Xe
trọng hơn trong hành động của bản thân.
máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa ngoài
Nghiên cứu năm 2012 của Khairil Anuar Md.
khu vực đông dân cư: 50km/h” và “Sử dụng chất
Isaa và cộng sự về “Hành vi sử dụng điện thoại
kích thích (rượu, bia,…)” với ĐTB lần lượt là
di động khi lái xe của những thanh niên tại Đại
1,31 và 1,12. Qua điều tra phỏng vấn, các khách
học Urban” cũng cho kết quả tương tự, khi so
thể đều là học sinh, sinh viên nên việc đi lại chủ
sánh về giới, tỷ lệ sinh viên nam sử dụng điện
yếu là từ nhà đến trường hoặc đi chơi thì cũng ở
thoại di động (nhắn tin, nghe/gọi,…) khi đi
trong nội thành; còn nếu ra khỏi Hà Nội sang các
đường trong thành phố ở mức độ thường xuyên
khu vực xung quanh thì khá ít thanh niên tự tin
hơn so với sinh viên nữ [3]. 29 Hành vi Khách thể ĐTB Mức ý nghĩa
1. Sử dụng thiếu bị âm thanh (tai phone, tai nghe HS 2.22 p = 0.00 bluetooth,…) SV 1.45 HS 1.98 p = 0.00 2. Nhắn tin SV 1.58 HS 2.17 p = 0.00
3. Xem tin nhắn (sms, facebook, zalo…) SV 1.54 HS 2.13 p = 0.01 4. Thực hiện cuộc gọi SV 1.69 HS 1.81 1.23 p = 0.00 5. Lướt web SV HS 2.05 p = 0.00
6. Đi sai làn đường quy định SV 1.38 HS 1.70 p = 0.01 7. Đi lên vỉa hè SV 1.36 HS 1.67 p = 0.00 8. Đi ngược chiều SV 1.27 HS 1.58 1.29 p = 0.03
9. Chở quá số người quy định (từ 2 người lớn trở lên) SV
10. Xe máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa ngoài khu HS 1.06 p = 0.00 vực đông dân cư: 50km/h SV 1.46 HS 2.00 1.10 p = 0.00
11. Xe đạp điện chạy quá tốc độ tối đa: 25km/h SV lOMoAR cPSD| 45619127 HS 1.97 1.23 p = 0.00
12. Không đội mũ bảo hiểm khi đi xe SV HS 1.81 p = 0.00
13. Đội mũ bảo hiểm không đảm bảo an toàn SV 1.36
Bảng 2. So sánh hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của thanh thiếu niên theo giới tính Hành vi Tiêu chí ĐTB Mức ý nghĩa Nam 1.82 p = 0.04 1. Nhắn tin Nữ 1.66 Nam 2.00 p = 0.00
2. Xem tin nhắn (sms, facebook, zalo…) Nữ 1.54 Nam 2.09 p = 0.03 3. Nghe cuộc gọi Nữ 1.72 Nam 1.79 p = 0.02
4. Đi sai làn đường quy định Nữ 1.46 Nam 1.70 p = 0.00 5. Đi lên vỉa hè Nữ 1.26
6. Xe máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa Nam 1.63 p = 0.00
trong khu vực đông dân cư: 40km/h Nữ 1.24
7. Xe máy, xe máy điện chạy quá tốc độ tối đa Nam 1.46 p = 0.01
ngoài khu vực đông dân cư: 50km/h Nữ 1.16 Nam 1.67 p = 0.02
8. Không đội mũ bảo hiểm khi đi xe Nữ 1.34 Nam 1.21 p = 0.01
9. Sử dụng chất kích thích (rượu, bia) Nữ 1.02 *) Về nhóm tuổi
Bảng 3. So sánh hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của thanh thiếu niên theo nhóm tuổi 31 HS 1.00 p = 0.03
14. Sử dụng chất kích thích (rượu, bia) SV 1.20 HS 2.06 p = 0.00 15. Đi dàn hàng ngang SV 1.25 HS 2.06 p = 0.00 16. Vượt đèn đỏ SV 1.43
Theo bảng 3, giữa nhóm học sinh và sinh viên
tương lai, học tập,… thay vì việc vi phạm các
có sự khác biệt rõ ràng trong tần suất thực hiện chuẩn mực xã hội.
các hành vi nguy cơ - ĐTB của nhóm học sinh
Tuy nhiên, ở mục “Sử dụng chất kích thích
cao hơn so với nhóm sinh viên cách rõ rệt. Ngược
(rượu, bia,…) và mục “Xe máy, xe máy điện chạy
lại, nhóm học sinh lại có ĐTB tần suất thực hiện
quá tốc độ tối đa ngoài khu vực đông dân cư:
hành vi nguy cơ thấp và dao động không nhiều.
50km/h”, ĐTB của nhóm sinh viên lại trội hơn.
Có thể lý giải điều này như sau:
Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu
+ Theo tâm lý học phát triển, thiếu niên (tuổi
của các tác giả khác, chẳng hạn nghiên cứu của
học sinh cấp trung học phổ thông) là giai đoạn
Kulkarni và cộng sự (2012) về hành vi lái xe của
nhiều mâu thuẫn do sự thay đổi về tâm sinh lý
sinh viên ngành dược ở Ấn Độ cho thấy 25% sinh
(tuổi dậy thì). Ở lứa tuổi này xuất hiện “cảm giác
viên đã từng uống rượu khi lái xe trong vòng 1
mình là người lớn” với mong muốn được tự
năm qua và 20% đã sử dụng điện thoại khi lái xe
khẳng định bản thân, thể hiện cái Tôi và cá tính [dẫn theo 1; tr.41].
riêng [4]. Điều này dẫn đến sự chống đối những
Qua điều tra phỏng vấn, hành vi uống
chuẩn mực và quy tắc xã hội chung của thiếu
rượu, bia thường xuất hiện ở sinh viên, đặc
niên. Bên cạnh đó, sự thiếu ổn định về mặt nhân
biệt là sinh viên năm cuối khi đi liên hoan, đi
cách khiến thiếu niên dễ bị ảnh hưởng bởi các tác
xã giao, hội họp,…Bên cạnh đó, có thể lý giải
động bên ngoài, như là từ nhóm bạn, trò chơi điện
rằng ở mục này ĐTB của học sinh thấp là bởi
tử,… mà thiếu niên tham gia.
lứa tuổi thiếu niên vẫn còn chịu sự kiểm soát
Khi được phỏng vấn, một nam học sinh lớp
chặt chẽ từ phía gia đình và nhà trường, vì vậy
12 trường THPT Việt Nam – Ba Lan trả lời: “Em
mà hành vi sử dụng chất kích thích nói chung
chơi nhiều game tốc độ nên có hơi ảnh hưởng”.
ở các em xuất hiện ít.
Một bạn học sinh thì nói: “Đi cùng bạn nên bạn
Ngoài ra, phương tiện xe máy, xe máy
đi nhanh thì mình cũng đi nhanh theo chị ạ”.
điện chủ yếu là sinh viên sử dụng, mặc dù có
+ Về nhóm thanh niên, giai đoạn này tâm
một phần nhỏ học sinh chưa đủ tuổi vẫn đi
trạng của thanh niên ổn định hơn do họ đã bước
nhóm xe này nhưng phần lớn các khách thể
qua thời kỳ khủng hoảng tuổi dậy thì. Quan điểm
lứa tuổi thiếu niên được khảo sát đều có sự
về thế giới và con người của thanh niên dần trở
quản lý từ gia đình nên việc đi xe máy đường
nên độc lập và ít bị phụ thuộc. Cùng với đó, tâm
xa, ra ngoài khu vực đô thị là điều khó có thể
sinh lý ở lứa tuổi này không còn bị xáo trộn nhiều xảy ra.
mà đã hoàn thiện hơn, vì vậy mà cách thể hiện cái
c) Về nhóm phương tiện
Tôi và cá tính riêng của nhóm này được thể hiện
theo nhiều cách khác nhau như đường hướng
Theo số liệu bảng 4, nhóm xe máy, xe máy
điện có ĐTB thấp hơn xe đạp điện. Có thể lý lOMoAR cPSD| 45619127
giải cho điều này là các hành vi khi tham gia
kiểm soát của luật lệ; tất cả tạo điều kiện “thuận
giao thông của nhóm xe máy, xe máy điện đã
lợi” cho các em thực hiện các hành vi nguy cơ khi
được luật pháp quy định rõ ràng. Do đó, nhóm
tham gia giao thông đường bộ.
phương tiện này bị kiểm soát một cách sát sao
và chặt chẽ bởi cảnh sát giao thông. Ngược 4. Kết luận
lại, hiện nay xe đạp điện vẫn chưa có luật lệ
cụ thể, vì sự quản chế lỏng lẻo mà nhóm xe
(1). Nhìn chung, đa số khách thể trong nghiên
này có khả năng lách luật cao hơn so với
cứu này thực hiện dưới 3 hành vi nguy cơ khi
nhóm xe máy, xe máy điện.
tham gia giao thông trong vòng 30 ngày gần
Bảng 4. So sánh hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông của thanh thiếu niên theo nhóm phương tiện Hành vi Tiêu chí ĐTB Mức ý nghĩa
1. Sử dụng thiếu bị âm thanh (tai phone, Xe máy, xe máy điện Xe 1.59 p = 0.02 tai nghe bluetooth,…) đạp điện 2.03 Xe máy, xe máy điện Xe 1.33 p = 0.02 2. Lướt web đạp điện 1.67 Xe máy, xe máy điện Xe 1.37 p = 0.03 3. Đi lên vỉa hè đạp điện 1.71 Xe máy, xe máy điện Xe 1.32 p = 0.02 4. Đi ngược chiều đạp điện 1.62 Xe máy, xe máy điện Xe 1.34 p = 0.00
5. Không đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện 1.83 Xe máy, xe máy điện Xe 1.43 p= 0.00 6. Di dàn hàng ngang đạp điện 1.81 Xe máy, xe máy điện Xe 1.54 p = 0.02 7. Vượt đèn đỏ đạp điện 1.91
Nghiên cứu của tác giả Bùi Đức Trọng (2010)
nhất. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận khách thể
với đề tài “Thái độ tham gia giao thông của học
thường xuyên có những hành vi nguy cơ khi tham
sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố
gia giao thông đường bộ.
Hà Nội” đã chỉ ra thái độ tiêu cực của học sinh
(2). Có sự khác biệt theo tiêu chí giới, nhóm
đối với việc tham gia giao thông đường bộ.
tuổi và phương tiện sử dụng, cụ thể: tần suất thực
Nguyên nhân chủ quan một phần là bởi đặc điểm
hiện hành vi nguy cơ ở nhóm nam giới cao hơn
sinh lý lứa tuổi – hành động dựa trên cảm tính,
nữ giới; nhóm tuổi học sinh nhìn chung cao hơn
bắt chước thói xấu của bạn bè, người lớn. Bên
nhóm sinh viên; nhóm thanh thiếu niên sử dụng
cạnh đó, tác giả còn chỉ ra những nguyên nhân
phương tiện xe đạp điện cao hơn nhóm thanh
khách quan tác động lên thái độ tham gia giao
thiếu niên sử dụng xe máy, xe máy điện.
thông của các em học sinh là do công tác tuyên
(3). Các kết quả từ nghiên cứu này gợi ý
truyền, giáo dục về an toàn giao thông trong nhà
rằng, chúng ta cần phải tập trung vào mặt nhận
trường chưa tốt; ngoài ra còn do hệ thống pháp
thức để giảm thiểu hành vi nguy cơ khi tham gia
luật Việt Nam về trật tự an toàn giao thông còn
giao thông cho các nhóm đối tượng, đặc biệt là
chưa nghiêm và mang nhiều vấn đề bất cập [5].
nhóm khách thể là học sinh nam, sử dụng xe đạp
Như vậy, trong tổng số 58 khách thể đi xe đạp điện.
điện thì có tới 45 khách thể ở lứa tuổi học sinh.
Như đã phân tích ở trên, cùng với đặc điểm tâm
lý ở lứa tuổi này và sự thiếu sót, xao nhãng trong 33
Tài liệu tham khảo
Driving among Educated Young Adults in the
Urban University”, Procedia – Social and
[1] Vũ Thu Hằng (2010), “Một số giải pháp hạn chế tai
Behavioral Science, 36, 414 – 420.
nạn giao thông đường bộ tai Việt Nam”, Tạp chí
[4] Trương Thị Khánh Hà (2013), Giáo trình Tâm lý
Khoa học Giao thông vận tải, 31.
học phát triển, NXB ĐHQG Hà Nội.
[2] Nguyễn Thị Mai Lan (2015), Hành vi tham gia giao
thông đường bộ trong các nghiên cứu nước ngoài,
[5] Bùi Đức Trọng (2010), Thái độ tham gia giao thông
Tạp chí Tâm lý học, số 7/2015, tr.36 - tr.44.
của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành
[3] Khairil Anuar Md. Isaa, Mohamad Ghazali Masuria
phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, Hà Nội
et al (2012), “Mobile Phone Usage Behaviour while
Risky Behaviors among Youth in Road Traffic
Nguyễn Văn Lượt, Phí Thị Thái Hà
VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam
Abstract: The paper presents the result of a survey with 170 youths, aged between 15 and 24 years,
randomly selected from various areas in Hanoi to understand their road traffic risky behaviors when
using motobikes, electric bicycles and electric scooters. Data were collected from March to May 2015.
The main methods to access the survey results include questionaires and in-depth interviews. The survey
showed that most of young people had less than 3 risky behaviors in recent 30 days. The most traffic
risky behaviors are “using mobile phone while driving” and “riding on wrong lane”. There was a
significant difference in traffic risky behaviors between males and females, the ages of youths, and types of vehicle.
Keywords: Traffic risk behaviors, traffic, youth.