Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ LỮ HÀNH
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI:
Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế
Họ và tên sinh viên: Lê Việt Hà
MSV: 12001168
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh_01
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI
-
2022
0
lOMoARcPSD| 45469857
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
PHẦN 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 2
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin ................................................................... 2
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ............................................................................................................... 3
PHẦN 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY ................ 6
1. Đề cập thông qua các kì Đại hội Đảng ..................................................................... 6
2. Liên hệ thực tiễn hiện nay ......................................................................................... 8
2.1. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế .................................................... 8
2.2. Đột phá ở từng địa phương ................................................................................... 9
2.3. Việt Nam trở thành một trong các quốc gia thu hút FDI thành công nhất trong khu
vực .............................................................................................................................. 10
2.3. Trách nhiệm xã hội là thước đo của thành công ................................................. 11
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 12
MỞ ĐẦU
hội hội chủ nghĩa hội nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại chế độ công hữu về liệu sản xuất chủ yếu. Theo Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên
hội hội chủ nghĩa phải nền kinh tế phát triển cao n nền kinh tế của chủ
nghĩa tư bản, đấy là một nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa hội biểu hiện: Công cụ lao
động, phương tiện lao động trong quá trình sản xuất "đã phát triển dần đến máy móc,
sức điện, sức nguyên tử". Quan hệ sản xuất trong hội xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là liệu
sản xuất thuộc về nhân dân. Đây tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu
liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 45469857
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cấu kinh tế trong thời kỳ quá đlên chủ
nghĩa hội Việt Nam đã đề cập đến nhiều mặt, ảnh hưởng góp phần không
nhỏ đường lối xây dựng nên Nhà nước hội Chủ nghĩa vững mạnh. Liên hệ từ
thực tiễn đó, Đảng ta đã vận dụng những quan điểm tiến bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, Việt
Nam trở thành quốc gia đang phát triển mới nổi trong phạm vi ASEAN và toàn thế
giới giúp cho đời sống của nhân dân ngày càng tiến bộ và văn minh hơn.
Chính những do đó việc nghiên cứu làm đề tài: Quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
và sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay trở nên ý nghĩa thiết thực cả về luận lẫn
thực tiễn. Mặc dù đã cố gắng hết sức song với thời gian và trình độ học vấn còn hạn
chế, kính mong thầy cô thông cảm trước những thiếu sót của bài tập lớn này!
PHẦN 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
HỘI Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
C.Mác khẳng định: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng
với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không
thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản".
Vận dụng phát triển quan điểm của C.Mác Ph.Ăngghen trong điều kiện
mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: "Với sự giúp đỡ của giai
cấp sản các ớc tiên tiến, các nước lạc hậu thể tiến tới chế đ - viết,
qua những giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Quán triệt vận dụng, phát triển sáng tạo những luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế thời
đại, trong bối cảnh toàn cầu hoá cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu,
sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thể tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 45469857
3
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ
Chí Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền
kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây
là quá trình xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội. Giữa cải tạo
và xây dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của nước ta. Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt,
tính nguyên tắc về phát triển kinh tế ở Việt Nam.
2.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,…
có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
2.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý.
Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công
nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”.
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung
cấp đủ nguyên liệu….Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu
dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước,
phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cày,
máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp
phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì
tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh
lOMoARcPSD| 45469857
công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng
cho nhân dân.
2.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường
no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài con đường phía trước (ngày 20-011960),
Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy
móc để sản xuất thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông
nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm,
nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải
mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép, than, dầu… Đó là
con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
2.4. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam còn nhiều hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn các hình thức sở hữu
chính: “Sở hữu của nhà nước, tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở
hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu
sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành
phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại kinh tế
khác nhau…trong 5 loại ấy, loại A (kinh tế quốc doanh) là kinh tế lãnh đạo và phát
triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ
không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí
Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức
lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công,
khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá
nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây
dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải
phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân
dân.
lOMoARcPSD| 45469857
5
Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản không khỏi bóc lột. Nhưng Chính
phủ ngăn cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho
công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số
lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản
xuất lợi cả đôi bên.
Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ
cần dùng khác, để cũng cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất,
để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt
chặt liên minh giữa công nông.
Bốn là, lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho
các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra
và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch,
giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
2.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí,
quan liêu.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường
đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất
mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”. Theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết kiệm gắn với nhau như một phương châm. Phải luôn
thực hành trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom đạn
chiến tranh, chịu nhiều thiên tai bất thường. Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm
xã hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng trong các
chặng đường phát triển của đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng
phí, quan liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, ba căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của nhân
dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó không
mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công
việc của ta”. Dù có cố ý hay không, tham ô, lãng phí, quan liêu “cũng là bạn đồng
minh của thực dân và phong kiến”. “nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí
khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm,
lOMoARcPSD| 45469857
chính”. Nó “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ
và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.
PHẦN 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN
NAY
1. Đề cập thông qua các kì Đại hội Đảng
Những quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cấu kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội có ý nghĩa sở lý luận nền tảng trong việc
hoạch định chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đảng
Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng phát triển vào thực tiễn xây dựng chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam:
Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định và thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác sức mạnh toàn dân trong các
thành phần kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đại hội lần thứ VII của
Đảng (năm 1991) tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng hội chủ nghĩa. Kinh tế gia đình tuy không phải một thành
phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển. Đại hội lần thứ VIII của
Đảng (năm 1996) xác định nền kinh tế nước ta gồm các thành phần: kinh tế nhà
nước; kinh tế hợp tác; kinh tế bản nhà nước; kinh tế thể, tiểu chủ; kinh tế
bản tư nhân.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ rõ: “Đảng Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, với các thành phần: kinh tế nhà nước; kinh
tế tập thể; kinh tế thể, tiểu chủ; kinh tế bản nhân; kinh tế bản nhà nước
và kinh tế vốn đầu nước ngoài. Thành phần kinh tế vốn đầu nước ngoài
sự bổ sung mới, thể hiện tầm quan trọng của sự thu hút các nguồn lực bên ngoài
cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đây là sự vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về nguyên tắc "lưu thông trong - ngoài".
lOMoARcPSD| 45469857
7
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), Nghị quyết Đại hội
lần thứ X của Đảng (năm 2006) chỉ ra các thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân); kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế vốn đầu nước ngoài; khẳng định: “Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, song Đảng cũng chỉ “Kinh tế nhân vai trò quan trọng, một trong
những động lực của nền kinh tế”. Quan điểm này thể hiện sự đổi mới, kế thừa
phát triển tưởng Hồ Chí Minh trong duy kinh tế của Đảng ta, tạo động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nhân trong chiến lược phát triển chung
của nền kinh tế nước nhà.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục chủ trương phát triển nhanh,
hài hòa các thành phần kinh tế. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh
tranh lành mạnh”.
Đại hội XI, Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng đều thống nhất hoạch định
phương hướng phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế nhân kinh tế vốn
đầu nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng,
Đảng ta đã có những khái quát mới về luận: “Nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa Việt Nam nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế
vốn đầu nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng làm rõ hơn vị trí, vai trò và chính sách
phát triển đối với các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật
lOMoARcPSD| 45469857
chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết,
dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào
những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo
chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình
đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế là sự vận dụng sáng
tạo và phát triển những quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần, góp phần quan trọng trong việc huy động sức mạnh
của các thành phần kinh tế vào chiến lược phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Liên hệ thực tiễn hiện nay
2.1. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế
Từ chỗ chỉ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức sở hữu là toàn
dân (Nhà nước) và tập thể, hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể, đến nay, đã thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế.
Đây một bước đột phá trong đổi mới duy kinh tế, giúp giải phóng sức
sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia, từ đó
huy động được tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
Trong đó, vai trò kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, vai trò
của kinh tế tư nhân được nhìn nhận sẽ là những trụ cột để tạo nên sức mạnh kinh tế
cho quốc gia.
- Đối với thành phần kinh tế nhà nước trong đó doanh nghiệp Nhà
nước,sau 35 năm phát triển nền kinh tế nước ta đã những bước chuyển đáng kể.
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi từng bước được
củng cố và đóng góp vào thành tựu của quá trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp Nhà
nước đứng vững trên thị trường, sản xuất, kinh doanh hiệu quả, nắm các ngành
kinh tế then chốt, đóng góp lớn cho ngân sách.
Hiện doanh nghiệp Nhà nước số lượng không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số doanh
nghiệp cả nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh
lOMoARcPSD| 45469857
9
nghiệp trên thị trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và
vai trò điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội,
quốc phòng - an ninh…Những cái tên như: Viettel, EVN, PVN; Tập đoàn Dệt may
Việt Nam...đang phát triển lớn mạnh không chỉ ở Việt Nam mà đã vươn ra thế giới.
- Đối với khu vực kinh tế tư nhân, thực tiễn 35 năm Đổi mới đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước;
đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản
xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách
nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an sinh xã hội của đất nước.
Kinh tế nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 39-40% GDP,
thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong
huy động các nguồn lực hội cho đầu phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội,...
Đặc biệt lực lượng doanh nghiệp nhân đã góp phần thực hiện mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo đất ớc, tạo dấu ấn, nâng
cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều thương hiệu
có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Thực tế những tên tuổi của các thương hiệu như Sungroup, Vingroup,
Macsan, TH True Milk, Thaco, Vinfast... đã khẳng định được vị thế của sản phẩm
Việt Nam, mang tầm quốc tế ảnh ởng lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ngoài các mặt hàng nông sản như gạo, phê, hồ tiêu, hạt điều... thì nhiều sản phẩm
thuộc nhóm hàng công nghiệp của Việt Nam đã được thế giới biết tên, trong đó, ôtô
Vinfast là một minh chứng.
2.2. Đột phá ở từng địa phương
Quảng Ninh, địa phương điển hình với sự tham gia của khu vực nhân trong
việc thực hiện các dự án sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn đã giúp Quảng Ninh tạo đột
phát kinh tế. Trong đó phải kể đến Tập đoàn Sun Group tham gia xây dựng sân bay
Vân Đồn - sân bay nhân đầu tiên Việt Nam, với tốc độ "thần tốc" khi chỉ mất
gần 2 năm xây dựng với số vồn đầu tư khủng lên tới 7.463 tỷ đồng.
lOMoARcPSD| 45469857
Sân bay Vân Đồn không những vượt mặt nhiều sân bay khác về tốc độ thi
công nhanh chóng, hiệu quả và chuyên nghiệp mà còn xuất sắc trở thành một trong
chín sân bay quốc tế hiện đại nhất Việt Nam. Sân bay Vân Đồn đã hiện thực hóa ý
chí, quyết tâm của Quảng Ninh trong chiến ợc phát triển kinh tế hội, trong đó
ưu tiên hạ tầng đi trước một bước.
địa phương khác, Hải Phòng đang những bứt phá mạnh về mọi mặt
khiến đất cảng "lột xác" thần kỳ, trong đó không thể không kể đến sự hiện diện của
những dự án bất động sản đình đám, nhà máy sản xuất hiện đại thuộc Tập đoàn
Vingroup.
Vùng đất Cát Hải của Hải Phòng, vốn vùng nước lợ ven biển, người dân
sống chủ yếu với nghề nuôi trồng hải sản. Tuy nhiên, Cát Hải đã thay đổi hoàn toàn
khi trở thành một trong những "cứ điểm" sản xuất công nghiệp lớn nhất cả nước sau
chưa đầy 2 năm. Cát Hải là nơi đặt nhà máy sản xuất ôtô thương hiệu Việt đầu tiên
- VinFast với vốn đầu tư 4,2 tỷ USD.
Rất nhiều người Hải Phòng ngày nay, thay vì lao động trong những công
trường khói bụi thì làm việc trong những cao ốc văn phòng sang trọng hay những
nhà máy công nghệ cao vươn tầm thế giới như VinFast, hay tiếp đến là Vinsmart.
Không chỉ riêng Quảng Ninh, Hải Phòng, trên cả nước, rất nhiều dự án lớn
và khó, mang dấu ấn các doanh nghiệp tư nhân đã được hình thành nhiều năm qua.
thể kể đến một số dự án hạ tầng như hầm đường bộ Đèo Cả (26.000 tỷ đồng),
hầm Hải Vân 2 (7.200 tỷ đồng), cao tốc Nội - Hải Phòng (45.000 tỷ đồng), cầu
Bạch Đằng (7.200 tỷ đồng)…
2.3. Việt Nam trở thành một trong các quốc gia thu hút FDI thành công nhất trong
khu vực
Trong hơn 30 năm thu hút vốn FDI, Việt Nam đã thu hút trung bình hơn 7 tỷ
USD/năm. Nghiên cứu về hiệu quả khu vực FDI trong giai đoạn 2011-2019 thấy
rằng, khu vực FDI đóng góp khoảng 25,7% cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chiếm
khoảng 13% GDP năm 2010 và 19,6% GDP năm 2019.
Ngay trong bối cảnh dịch COVID-19, vẫn hàng loạt "đại bàng" công nghệ
trên thế giới như Foxcon, Luxshare, Pegatron..., những nhà sản xuất cung ứng linh
kiện, sản phẩm hàng đầu cho c "ông lớn" công nghệ toàn cầu Apple, Sony,
Microsoft đã đến đầu tại Bắc Giang, Hải Phòng gần đây. Nhiều chuyên gia nhận
lOMoARcPSD| 45469857
11
định những tên tuổi lớn này thể tạo ra làn sóng đầu mới vào Việt Nam thời
gian tới.
2.3. Trách nhiệm xã hội là thước đo của thành công
Vai trò của các thành phần kinh tế đã được thể hiện rõ nhưng trách nhiệm xã
hội của các thành phần kinh tế mục tiêu công bằng tiến bộ hội cũng được
quan tâm hơn bao giờ hết.
Hiệu quả, thành công của các thành phần kinh tế không chỉ được đo bằng
hiệu quả kinh tế, mà còn được đo đếm bằng trách nhiệm hội cao cả, bằng tiềm
năng và cơ hội cho tương lai dài rộng.
Các doanh nghiệp nước ngoài cũng ngày càng phát huy trách nhiệm với người
tiêu dùng, môi trường, xã hội hay các nhân viên tham gia lao động trong các doanh
nghiệp của mình.
Minh chứng nét nhất cho việc sẵn sàng gánh vác trách nhiệm hội phải
kể đến đóng góp của khối nền kinh tế nhân. Trách nhiệm hội của khu vực
tư nhân thể hiện rõ nét trong trường hợp Sân bay Vân Đồn trong mùa dịch COVID-
19.
Khi dịch bệnh nguy hiểm bùng phát tại Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam
bằng rất nhiều nỗ lực đã quyết định thực hiện những chuyến bay “giải cứu” đồng
bào về nước. Khi ấy, sân bay Vân Đồn là một trong những cái tên “tiên phong” sẵn
sàng nhận nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm chưa từng có tiền lệ này.
lOMoARcPSD| 45469857
KẾT LUẬN
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu nêu ra các quan niệm về thời kỳ quá độ
lên CNXH theo cách tiếp cận khác nhau, song đều chung một cách hiểu thời
kỳ độc lập tương đối, một hội mà đó các lĩnh vực cơ bản chưa hoàn toàn là xã
hội chủ nghĩa. Nói cách khác, trong xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
cái cái mới còn tồn tại đan xen, vừa chi phối nh hưởng lẫn nhau, vừa đấu
tranh với nhau để từng bước cho ra đời một thực thể hội mới, đúng nghĩa
hội xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Viêt
Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên sở kế thừa phát triển sáng
tạo
những giá trị của chnghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình hội Viê Nam.
Thực tiễn luôn vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung
tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung,
phát triển trong điều kiện mới. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, việc phát triển kinh
tế luôn được đặt lên hàng đầu yếu tố cực kỳ quan trọng để đưa Việt Nam tr
thành một quốc gia sở hữu nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.
Nước ta không chỉ thành công về kinh tế còn đạt nhiều tiến bộ nhanh
chóng về mặt xã hội. Cả nước trong nhữngm gần đây (2020-2021) đã tạo ra hơn
8 triệu việc làm, thu nhập và mức sống của người dân ngày càng tăng lên. Đó chính
những dấu ấn thành tựu tích cực sau một khoảng thời gian dài Đảng Nhà
nước đã học hỏi, phát huy rút ra bài học kinh nghiệm từ những lý tưởng đại
của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục đào tạo, Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh (2016),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb CTQG - ST, H.2001, tr.86.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG - ST, H.2006, tr.83.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.73.
lOMoARcPSD| 45469857
13
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.128-129; tr.139-141.
6. Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng, Bài đăng trên tạp chí Tuyên giáo
số 8/ 2019, Đại tá PGS. TS. Lê Xuân Thuỷ.
7. Báo Lao động, Thủ tướng: Việt Nam lọt top 16 nền kinh tế mới nổi
thành công nhất thế giới, số ra ngày 28/12/20210.
8. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa hội khoa học (2019),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
| 1/14

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ LỮ HÀNH BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu
trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
Họ và tên sinh viên: Lê Việt Hà MSV: 12001168
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh_01
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI - 2022 0 lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
PHẦN 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 2

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin ................................................................... 2
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ............................................................................................................... 3
PHẦN 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY ................ 6
1. Đề cập thông qua các kì Đại hội Đảng ..................................................................... 6
2. Liên hệ thực tiễn hiện nay ......................................................................................... 8
2.1. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế .................................................... 8
2.2. Đột phá ở từng địa phương ................................................................................... 9
2.3. Việt Nam trở thành một trong các quốc gia thu hút FDI thành công nhất trong khu
vực .............................................................................................................................. 10
2.3. Trách nhiệm xã hội là thước đo của thành công ................................................. 11
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 12 MỞ ĐẦU
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Theo Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên
xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của chủ
nghĩa tư bản, đấy là một nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao
động, phương tiện lao động trong quá trình sản xuất "đã phát triển dần đến máy móc,
sức điện, sức nguyên tử". Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư liệu
sản xuất thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa. 1 lOMoAR cPSD| 45469857
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã đề cập đến nhiều mặt, ảnh hưởng và góp phần không
nhỏ đường lối xây dựng nên Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa vững mạnh. Liên hệ từ
thực tiễn đó, Đảng ta đã vận dụng những quan điểm tiến bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, Việt
Nam trở thành quốc gia đang phát triển mới nổi trong phạm vi ASEAN và toàn thế
giới giúp cho đời sống của nhân dân ngày càng tiến bộ và văn minh hơn.
Chính vì những lí do đó việc nghiên cứu và làm rõ đề tài: Quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
và sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay trở nên có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận lẫn
thực tiễn. Mặc dù đã cố gắng hết sức song với thời gian và trình độ học vấn còn hạn
chế, kính mong thầy cô thông cảm trước những thiếu sót của bài tập lớn này!
PHẦN 1: TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
C.Mác khẳng định: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng
với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không
thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản".
Vận dụng và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện
mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: "Với sự giúp đỡ của giai
cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô - viết, và
qua những giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Quán triệt và vận dụng, phát triển và sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế thời
đại, trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu,
sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 45469857
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ
Chí Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền
kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây
là quá trình xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo
và xây dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của nước ta. Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có
tính nguyên tắc về phát triển kinh tế ở Việt Nam.
2.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,…
có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
2.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý.
Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công
nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”.
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung
cấp đủ nguyên liệu….Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu
dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước,
phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cày,
máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp
phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì
tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh 3 lOMoAR cPSD| 45469857
công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.
2.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường
no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài con đường phía trước (ngày 20-011960),
Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy
móc để sản xuất thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông
nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm,
nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải
mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép, than, dầu… Đó là
con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
2.4. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn các hình thức sở hữu
chính: “Sở hữu của nhà nước, tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở
hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu
sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành
phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại kinh tế
khác nhau…trong 5 loại ấy, loại A (kinh tế quốc doanh) là kinh tế lãnh đạo và phát
triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ
không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí
Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức
lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công,
khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá
nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây
dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải
phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân. lOMoAR cPSD| 45469857
Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản không khỏi bóc lột. Nhưng Chính
phủ ngăn cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho
công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số
lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.
Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ
cần dùng khác, để cũng cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất,
để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt
chặt liên minh giữa công nông.
Bốn là, lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho
các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra
và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch,
giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
2.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường
đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất
mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”. Theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết kiệm gắn với nhau như một phương châm. Phải luôn
thực hành trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom đạn
chiến tranh, chịu nhiều thiên tai bất thường. Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm
xã hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng trong các
chặng đường phát triển của đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng
phí, quan liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, ba căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của nhân
dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó không
mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công
việc của ta”. Dù có cố ý hay không, tham ô, lãng phí, quan liêu “cũng là bạn đồng
minh của thực dân và phong kiến”. “nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí
khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, 5 lOMoAR cPSD| 45469857
chính”. Nó “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ
và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.
PHẦN 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÊU TRÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Đề cập thông qua các kì Đại hội Đảng
Những quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa là cơ sở lý luận nền tảng trong việc
hoạch định chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đảng
Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển vào thực tiễn xây dựng chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam:
Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định và thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác sức mạnh toàn dân trong các
thành phần kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đại hội lần thứ VII của
Đảng (năm 1991) tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế gia đình tuy không phải là một thành
phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển. Đại hội lần thứ VIII của
Đảng (năm 1996) xác định nền kinh tế nước ta gồm các thành phần: kinh tế nhà
nước; kinh tế hợp tác; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ rõ: “Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, với các thành phần: kinh tế nhà nước; kinh
tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
là sự bổ sung mới, thể hiện rõ tầm quan trọng của sự thu hút các nguồn lực bên ngoài
cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đây là sự vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về nguyên tắc "lưu thông trong - ngoài". lOMoAR cPSD| 45469857
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), Nghị quyết Đại hội
lần thứ X của Đảng (năm 2006) chỉ ra các thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân); kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; và khẳng định: “Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, song Đảng cũng chỉ rõ “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế”. Quan điểm này thể hiện sự đổi mới, kế thừa và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong tư duy kinh tế của Đảng ta, tạo động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân trong chiến lược phát triển chung
của nền kinh tế nước nhà.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục chủ trương phát triển nhanh,
hài hòa các thành phần kinh tế. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.
Đại hội XI, Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng đều thống nhất hoạch định
phương hướng phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng,
Đảng ta đã có những khái quát mới về lý luận: “Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng làm rõ hơn vị trí, vai trò và chính sách
phát triển đối với các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật 7 lOMoAR cPSD| 45469857
chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết,
dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào
những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo
cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình
đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế là sự vận dụng sáng
tạo và phát triển những quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần, góp phần quan trọng trong việc huy động sức mạnh
của các thành phần kinh tế vào chiến lược phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Liên hệ thực tiễn hiện nay
2.1. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế
Từ chỗ chỉ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức sở hữu là toàn
dân (Nhà nước) và tập thể, hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể, đến nay, đã thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, giúp giải phóng sức
sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia, từ đó
huy động được tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
Trong đó, vai trò kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, vai trò
của kinh tế tư nhân được nhìn nhận sẽ là những trụ cột để tạo nên sức mạnh kinh tế cho quốc gia. -
Đối với thành phần kinh tế nhà nước trong đó có doanh nghiệp Nhà
nước,sau 35 năm phát triển nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể.
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi từng bước được
củng cố và đóng góp vào thành tựu của quá trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp Nhà
nước đứng vững trên thị trường, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nắm các ngành
kinh tế then chốt, đóng góp lớn cho ngân sách.
Hiện doanh nghiệp Nhà nước số lượng không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số doanh
nghiệp cả nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh lOMoAR cPSD| 45469857
nghiệp trên thị trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và
vai trò điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội,
quốc phòng - an ninh…Những cái tên như: Viettel, EVN, PVN; Tập đoàn Dệt may
Việt Nam...đang phát triển lớn mạnh không chỉ ở Việt Nam mà đã vươn ra thế giới. -
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, thực tiễn 35 năm Đổi mới đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước;
đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản
xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách
nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an sinh xã hội của đất nước.
Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 39-40% GDP,
thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong
huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội,...
Đặc biệt lực lượng doanh nghiệp tư nhân đã góp phần thực hiện mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo dấu ấn, nâng
cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều thương hiệu
có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Thực tế những tên tuổi của các thương hiệu như Sungroup, Vingroup,
Macsan, TH True Milk, Thaco, Vinfast... đã khẳng định được vị thế của sản phẩm
Việt Nam, mang tầm quốc tế và có ảnh hưởng lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ngoài các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều... thì nhiều sản phẩm
thuộc nhóm hàng công nghiệp của Việt Nam đã được thế giới biết tên, trong đó, ôtô
Vinfast là một minh chứng.
2.2. Đột phá ở từng địa phương
Quảng Ninh, địa phương điển hình với sự tham gia của khu vực tư nhân trong
việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn đã giúp Quảng Ninh tạo đột
phát kinh tế. Trong đó phải kể đến Tập đoàn Sun Group tham gia xây dựng sân bay
Vân Đồn - sân bay tư nhân đầu tiên ở Việt Nam, với tốc độ "thần tốc" khi chỉ mất
gần 2 năm xây dựng với số vồn đầu tư khủng lên tới 7.463 tỷ đồng. 9 lOMoAR cPSD| 45469857
Sân bay Vân Đồn không những vượt mặt nhiều sân bay khác về tốc độ thi
công nhanh chóng, hiệu quả và chuyên nghiệp mà còn xuất sắc trở thành một trong
chín sân bay quốc tế hiện đại nhất Việt Nam. Sân bay Vân Đồn đã hiện thực hóa ý
chí, quyết tâm của Quảng Ninh trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, trong đó
ưu tiên hạ tầng đi trước một bước.
Ở địa phương khác, Hải Phòng đang có những bứt phá mạnh về mọi mặt
khiến đất cảng "lột xác" thần kỳ, trong đó không thể không kể đến sự hiện diện của
những dự án bất động sản đình đám, nhà máy sản xuất hiện đại thuộc Tập đoàn Vingroup.
Vùng đất Cát Hải của Hải Phòng, vốn là vùng nước lợ ven biển, người dân
sống chủ yếu với nghề nuôi trồng hải sản. Tuy nhiên, Cát Hải đã thay đổi hoàn toàn
khi trở thành một trong những "cứ điểm" sản xuất công nghiệp lớn nhất cả nước sau
chưa đầy 2 năm. Cát Hải là nơi đặt nhà máy sản xuất ôtô thương hiệu Việt đầu tiên
- VinFast với vốn đầu tư 4,2 tỷ USD.
Rất nhiều người Hải Phòng ngày nay, thay vì lao động trong những công
trường khói bụi thì làm việc trong những cao ốc văn phòng sang trọng hay những
nhà máy công nghệ cao vươn tầm thế giới như VinFast, hay tiếp đến là Vinsmart.
Không chỉ riêng Quảng Ninh, Hải Phòng, trên cả nước, rất nhiều dự án lớn
và khó, mang dấu ấn các doanh nghiệp tư nhân đã được hình thành nhiều năm qua.
Có thể kể đến một số dự án hạ tầng như hầm đường bộ Đèo Cả (26.000 tỷ đồng),
hầm Hải Vân 2 (7.200 tỷ đồng), cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (45.000 tỷ đồng), cầu
Bạch Đằng (7.200 tỷ đồng)…
2.3. Việt Nam trở thành một trong các quốc gia thu hút FDI thành công nhất trong khu vực
Trong hơn 30 năm thu hút vốn FDI, Việt Nam đã thu hút trung bình hơn 7 tỷ
USD/năm. Nghiên cứu về hiệu quả khu vực FDI trong giai đoạn 2011-2019 thấy
rằng, khu vực FDI đóng góp khoảng 25,7% cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chiếm
khoảng 13% GDP năm 2010 và 19,6% GDP năm 2019.
Ngay trong bối cảnh dịch COVID-19, vẫn có hàng loạt "đại bàng" công nghệ
trên thế giới như Foxcon, Luxshare, Pegatron..., những nhà sản xuất cung ứng linh
kiện, sản phẩm hàng đầu cho các "ông lớn" công nghệ toàn cầu Apple, Sony,
Microsoft đã đến đầu tư tại Bắc Giang, Hải Phòng gần đây. Nhiều chuyên gia nhận lOMoAR cPSD| 45469857
định những tên tuổi lớn này có thể tạo ra làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam thời gian tới.
2.3. Trách nhiệm xã hội là thước đo của thành công
Vai trò của các thành phần kinh tế đã được thể hiện rõ nhưng trách nhiệm xã
hội của các thành phần kinh tế vì mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội cũng được
quan tâm hơn bao giờ hết.
Hiệu quả, thành công của các thành phần kinh tế không chỉ được đo bằng
hiệu quả kinh tế, mà còn được đo đếm bằng trách nhiệm xã hội cao cả, bằng tiềm
năng và cơ hội cho tương lai dài rộng.
Các doanh nghiệp nước ngoài cũng ngày càng phát huy trách nhiệm với người
tiêu dùng, môi trường, xã hội hay các nhân viên tham gia lao động trong các doanh nghiệp của mình.
Minh chứng rõ nét nhất cho việc sẵn sàng gánh vác trách nhiệm xã hội phải
kể đến là đóng góp của khối nền kinh tế tư nhân. Trách nhiệm xã hội của khu vực
tư nhân thể hiện rõ nét trong trường hợp Sân bay Vân Đồn trong mùa dịch COVID- 19.
Khi dịch bệnh nguy hiểm bùng phát tại Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam
bằng rất nhiều nỗ lực đã quyết định thực hiện những chuyến bay “giải cứu” đồng
bào về nước. Khi ấy, sân bay Vân Đồn là một trong những cái tên “tiên phong” sẵn
sàng nhận nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm chưa từng có tiền lệ này. 11 lOMoAR cPSD| 45469857 KẾT LUẬN
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu nêu ra các quan niệm về thời kỳ quá độ
lên CNXH theo cách tiếp cận khác nhau, song đều có chung một cách hiểu là thời
kỳ độc lập tương đối, một xã hội mà ở đó các lĩnh vực cơ bản chưa hoàn toàn là xã
hội chủ nghĩa. Nói cách khác, trong xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
cái cũ và cái mới còn tồn tại đan xen, vừa chi phối ảnh hưởng lẫn nhau, vừa đấu
tranh với nhau để từng bước cho ra đời một thực thể xã hội mới, đúng nghĩa là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Viêt
Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng ̣ tạo
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Viêṭ Nam.
Thực tiễn luôn vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung
tư tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung,
phát triển trong điều kiện mới. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, việc phát triển kinh
tế luôn được đặt lên hàng đầu và là yếu tố cực kỳ quan trọng để đưa Việt Nam trở
thành một quốc gia sở hữu nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.
Nước ta không chỉ thành công về kinh tế mà còn đạt nhiều tiến bộ nhanh
chóng về mặt xã hội. Cả nước trong những năm gần đây (2020-2021) đã tạo ra hơn
8 triệu việc làm, thu nhập và mức sống của người dân ngày càng tăng lên. Đó chính
là những dấu ấn và thành tựu tích cực sau một khoảng thời gian dài Đảng và Nhà
nước đã học hỏi, phát huy và rút ra bài học kinh nghiệm từ những lý tưởng vĩ đại
của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb CTQG - ST, H.2001, tr.86. 3.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG - ST, H.2006, tr.83. 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.73. lOMoAR cPSD| 45469857 5.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.128-129; tr.139-141. 6.
Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng, Bài đăng trên tạp chí Tuyên giáo
số 8/ 2019, Đại tá PGS. TS. Lê Xuân Thuỷ. 7.
Báo Lao động, Thủ tướng: Việt Nam lọt top 16 nền kinh tế mới nổi
thành công nhất thế giới, số ra ngày 28/12/20210. 8.
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (2019),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 13