lOMoARcPSD| 61601779
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
-------------------------------------------------
HỆ THỐNG VẤN ĐỀ ÔN TẬP KỲ 2023.2
1. sở thực tiễn hình thành tưởng Hồ Chí Minh: Bối cảnh lịch sử -xã
hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu XX. Vận dụng…
*Bối cảnh lịch sử Việt Nam hình thành Tư tưởng HCM(Cơ sở thực tiễn)
- Bối cảnh xã hội VN cuối XIX, đầu XX
+ Tớc khi thực dân pháp xâm lược, VN 1 quốc gia phong kiến độc lập, đời
sống nhân dân khổ cực ,kinh tế trì trệ kém phát triển( do chính sách khép kín,
tưởng nho giáo, trọng văn hóa, lễ nghi, k tập trung phát triển kinh tế)
+ Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược VN, VN trở thành quốc gia nửa phong kiến,
nửa thuộc địa, đời sống nhân dân ngày càng khổ cực, triều đình nhà Nguyn chống
trả quyết liệt nhưng sau chủ hòa + Năm 1884, VN trở thành thuộc địa của Pháp
+ Mâu thuẫn hội trở nên gay gắt( giữa dân tộc với thực dân pháp giữa dân
tộc với địa chủ phong kiến) Mâu thuẫn gay gắt nhất là của dân tộc với thực dân
Pháp dẫn đến nổ ra nhiều phong trào đấu tranh
+ Phong trào đấu tranh của sỹ phu đồng bào yêu nước(hoàng hoa thám ) +
Phong trào yêu nước theo con đương chủ nghĩa bản( phan bội châu, phan châu
trinh)
=> Tuy nhiên các phong trào thất bại, Đặt ra vấn đề tìm con đường cứu nước mới
- Khi HCM lớn lên:
+ Chứng kiến cảnh đàn áp dã man của thực dân Pháp
+ Chứng kiến cảnh các phong trào yêu nước thất bại, thủ lĩnh người bị lưu đày ra
côn đảo, người bị bắt giam, người bị cho vào máy chém.
+ Chứng kiến anh chị của mình bị bắt giam và lưu đày nhiều năm
+ Chứng kiến sự ươn hèn bạc nhược của quan lại Nam triều
lOMoARcPSD| 61601779
Ra đi tìm đường cứu nước
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Vận dụng…
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng của tất cả các dân tộc:
- Lịch sử Việt Nam luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập, thể
hiệnkhát khao tự do tinh thần yêu nước của dân tộc. Hồ Chí Minh
hiện thân của tinh thần này, mong muốn dân tộc được tự do và độc lập.
- Năm 1919, tại Hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh đã yêu cầu quyền bình
đẳngpháp các quyền tự do cho người dân An Nam, yêu cầu này
không được chấp nhận, nhưng đã hình thành tưởng về quyền tự do và
bình đẳng của các dân tộc thuộc địa.
- Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt mục tiêu chính trị là giành
độc lậpcho dân tộc.
- Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Hồ Chí Minh tuyên bố độc
lập vàkhẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc.
- Trong kháng chiến chống Pháp Mỹ, tư tưởng này tiếp tục được
khẳngđịnh, với quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân: - Hồ
Chí Minh nhấn mạnh độc lập phải đi đôi với tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Ông đánh gcao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về dân tộc độc lập,
dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
- Người khẳng định: “Nước độc lập dân không hưởng hạnh phúc
tự do, thìđộc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để:
- Hồ Chí Minh bác bỏ các hình thức “độc lập giả hiệu” của thực dân
đế quốc,khẳng định độc lập thật sự phải bao gồm quyền tự quyết về ngoại
giao, quân đội, tài chính.
- Hiệp định bộ 6-3-1946 một minh chứng cho scông nhận nước
ViệtNam Dân chủ Cộng hòa là quốc gia tự do.
lOMoARcPSD| 61601779
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
- Trong lịch sử đấu tranh, Việt Nam luôn đối mặt với âm mưu chia cắt
đấtnước của kẻ thù. Hồ Chí Minh luôn kiên trì đấu tranh để bảo vệ sự thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thể hiện qua các phát biểu và hành động cụ thể.
b. Trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc:
1. Nhận thức về độc lập dân tộc:
- Hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh vai trò của ông trong việc giành
độc lậpcho Việt Nam.
- Nắm vững các nguyên tắc giá trị của độc lập dân tộc, tôn trọng và
bảo vệquyền tự quyết, sự công bằng bình đẳng cho tất cả các thành viên
trong cộng đồng dân tộc.
- Đối thoại và hợp tác với các quốc gia khác để xây dựng một thế giới
hòabình, ổn định và phát triển bền vững.
2. Thể hiện trách nhiệm bảo vệ độc lập dân tộc:
- tri thức về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa dân tộc, hệ
thốngchính trị của Việt Nam.
- Cảnh giác và đấu tranh với các hành động sai trái, không để các thế
lực thùđịch lợi dụng, báo cáo các hành vi tuyên truyền trái pháp luật.
- Tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự và an toàn xã hội,
xây dựngnếp sống văn minh.
- Rèn luyện thể lực, học tập tốt môn giáo dục quốc phòng an ninh,
chuẩn bịsẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
- Nâng cao hiểu biết về toàn vẹn lãnh thổ và tuyên truyền những điều
đúngđắn, nắm chắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của nhà nước về quốc phòng và an ninh.
3. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng: Tập trung dân chủ,
Tự phê bình phê bình, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn. Vận
dụng…
lOMoARcPSD| 61601779
*Phân tích nguyên tắc:” tập trung dân chủ ; phê bình tự phê bình Tập
trung dân chủ:
+ nguyên tắc bản trong xây dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức chiến
đấu chặt chẽ, phát huy được sức mạnh của mỗi cá nhân và của tổ chức Đảng
Thế nào là tập trung, dân chủ, mqh giữa chúng
+ Theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo tập trung “phải thống nhất về tưởng, tổ chức
,hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. + Hồ Chí
Minh giải thích về dân chủ: “Chế độ ta chế độ dân chủ, tưởng phải tự do. Tự
do thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người được tự do trình bày ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lý, đó cũng một quyền lợi cũng là một nghĩa vụ
của mọi người”, “Khi mọi người đã phát biểu ú kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục tùng chân lý”
+ dân chủ tập trung mối quan hgắn với nhau: tập trung nền tảng dân
chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở
của tập trung, không phải là dân chủ theo phân tán, tùy tiện, vô tổ chức, hình thức.
Tập trung trên sở phát huy dân chủ thực strong đảng, không phải tập trung
quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền
+ Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ trong
nội bộ Đảng, song cũng nhắ nhở phải tránh tự do, tùy tiện. Vì nếu không có dân
chủ nội bộ sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”, không tạo nên sức mạnh của Đảng,
làm cho Đảng suy yếu từ bên trong và sớm muộn sẽ không còn là Đảng cộng sản
nữa
+ Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng muốn vững mạnh về tưởng, chính trị, tổ chức
thì phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này
*Phê bình và tự phê bình
- Hcm coi Luật phát triển của đảng và vũ khí để rèn luyện đảng viên
- Hcm dặt tự phê bình lên trc
- Mục đích của phê bình: để giúp nhau sửa chữa những cái sai , thiếu xót
- Phương pháp phê bình: thành khẩn tiên quyết có văn hóa
lOMoARcPSD| 61601779
- Mục đích của tự phê bình phê bình để làm cho phần tốt trong mỗi conngười
nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần đi,
tức nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính
tất yếu trong quá trình họat động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng một thực thể
hội, Đảng bao gồm các tầng lớp hội, đội nghũ của Đảng bao gồm những
người ưu tú, nhưng trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm,
không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều cái thiện
cái ác trong lòng. Chính vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất
là tự phê bình và phê bình.
- Thái độ, phương pháp tụ phê bình phê nh được HChí Minh nêu rõởnhững
điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày; phải
thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không dấu diếm cũng
không thêm bớt khuyết điểm; “phải có tình thương yêu lẫn nhau”.
cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”. + *Đảng
phải thường xuyên tự chỉnh đống tự đổi mới
Quyền lực của Đảng là do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
giao phó. Đảng phải không ngừng tự chính đốn bản thân mình. Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng không có mục đích tự thân, Đảng không phải là tổ chức để làm quan
phát tài Đảng từ trong hội ra, hoạt động Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng. Tờng xuyên tự chỉnh đốn, do đó, trở thành một nhiệm vụ cực
kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng. Điều này càng đặc biệt quan trọng hơn khi
Đảng đứng trước những thủ thách lớn trong quá tnh hoạt động, chẳng hạn, Hồ
Chí Minh nêu ý kiến rằng, ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Việt Nam hoàn toàn thắng lợi, “việc cần phải làm trước tiên chính đồn lại Đảng,
làm cho mỗi dùng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đầu ra sức làm tròn nhiệm vụ
đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân .Làm được như vậy,
thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thẳng lợi .
4. tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước:, Nnước dân chủ; Nhà nước pháp
quyền. Vận dụng
lOMoARcPSD| 61601779
Tư tưởng Hồ CMinh về xây dựng nhà nước pháp quyền được tóm tắt như sau:
Nhà nước Hiến pháp và hợp pháp: Hồ Chí Minh đề cao việc tổ chức nhà nước qua tổng
tuyển cử, tuân thủ nguyên tắc của hiến pháp. Chính quyền thuộc về nhân dân, và việc tổ
chức chính phủ thông qua việc đọc bản Tuyên ngôn độc lập đã làm cho chính phủ được
thừa nhận hợp pháp.
Nhà nước thượng tôn pháp luật: Hồ Chí Minh chú trọng vào việc xây dựng nền tảng
pháp cho nhà nước mới, đảm bảo việc tổ chức hoạt động của nnước phải tuân
thủ pháp luật. Việc này bao gồm cả công tác lập pháp việc đảm bảo thi hành pháp
luật, cũng như giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho người dân.
Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa: Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ đầy đủ các quyền
con người, đảm bảo lợi ích hợp pháp của mọi người. Pháp luật cần có tính nhân văn và
khuyến thiện, bảo vệ quyền con người dẫn dắt con người vào hành vi đúng đắn tốt
nh.
Tóm lại, tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền tập trung vào
việc tổ chức nhà nước theo cách hợp pháp, tuân thủ pháp luật bảo vquyền con người,
đồng thời khuyến khích sự công bằng nhân văn trong hệ thống pháp luật việc thực
thi pháp luật.
Liên hệ với việc xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam hiện nay:
Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, nhân dân
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị."
Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công
cụ để Nhà nước quản hội, vừa công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra,
giám sát quyền lực nhà nước. Quản nhà nước theo pháp luật, đồng thời coi
trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Phải xác định rõ cơ chế phân
công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất chế kiểm soát quyền lực
giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
pháp trên sở kiểm soát quyền lực nhà nước thống nhất; xác định hơn
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.
lOMoARcPSD| 61601779
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ
hoá công tác cán bộ, quy định trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi
cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức trong sáng, cố trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực
thi đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
# Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ
Bản chất giai cấp của nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam nhà nước dân chủ,
nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “Nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà
nước phi giai cấp. Nhà nước đâu bao giờ ng mang bản chất của một giai
cấp nhất định. Nhà ớc Việt Nam mới Nhà nước Việt Nam n chủ Cộng hòa,
theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nnước mang bản chất giai cấp công
nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên mấy
phương diện:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam givị trí vai trò cầm quyền. Lời nói
đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân
chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”.
Ngay trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà nước do nhân dân người chủ
nắm chính quyền, HChí Minh đã nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh
công – nông – trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng phương thức thích hợp sau đây:
(1) Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch; (2) Bằng hoạt động của các tổ chức đảng đảng viên
của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước; (3) Bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện tính định hướng
hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa
hội chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh.
Việc giành lấy chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới, chính đgiai cấp
lOMoARcPSD| 61601779
công nhân nhân dân lao động được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện
mục tiêu nói trên.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý
đến cả hai mặt n chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
quan nhà nước. Người nhấn mạnh đến scần thiết phải phát huy cao độ dân
chủ, đồng thời cũng nhấn mạnh phải phát huy cao đtập trung, Nhà nước phải tập
trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với
tính nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam.
Trong tư tưởng của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất giai cấp công
nhân của Nhà nước thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể
như sau:
Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế
kỷ XIX, khi đất nước bngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam, hết thế hệ
này đến thế hệ khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự
do của Tổ quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức
mạnh của toàn dân tộc đã được tập hợp phát huy cao độ, chiến thắng ngoại
xâm, giành lại độc lập, tdo, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên Đông Nam châu Á. Nhà nước Việt Nam
mới, do vậy, không phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào, là thuộc về nhân dân.
Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định luôn kiên
trì, nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm
nền tảng. Bản chất của vấn đề này chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi
bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động
của toàn dân tộc. Nhà nước Việt Nam mới người đại diện, bảo vệ, đấu tranh
lOMoARcPSD| 61601779
không chỉ cho lợi ích của giai cấp công nhân, còn của nhân dân lao động
của toàn dân tộc.
Ba là, trong thực tế, Nớc mới Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà
toàn thể dân tộc giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để
bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển
tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa
cộng sản con đường HChí Minh Đảng ta đã xác định, cũng sự nghiệp
của chính Nhà nước.
Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà
tất cả mọi quyền lực trong nhà nước trong hội đều thuộc về nhân dân. Người
khẳng định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả
mọi quyền lực đều của nhân dân”. Nhà nước của dân tức “dân chủ”.
Nguyên “dân chủ” khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực
nhân dân.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình
thức dân chủ trực tiếp dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ
trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của
quốc gia, dân tộc quyền lợi của dân chúng. Hồ Chí Minh luôn coi trọng hình
thức dân chủ trực tiếp bởi đây hình thức dân chủ hoàn bị nhất, đồng thời tạo
mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình
thức dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là
hình thức dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua
các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
Quyền lực nhà nước “thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản thân nhà
nước không quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do. Do
vậy, các quan quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ của đều “công
lOMoARcPSD| 61601779
bộc” của nhân dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè
đầu dân”. đây, Hồ Chí Minh đã xác định vthế mối quan hệ giữa nhân dân
với cán bộ nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Theo
Hồ Chí Minh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này uỷ
viên khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tcho nhân dân, chứ không phải là làm
quan cách mạng”; “Nước ta là nước n chủ, địa vcao nhất dân, dân chủ.
Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước
đều phân công làm đầy tớ cho dân”. HChí Minh kịch liệt phê phán những cán
bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, từ chỗ ng bộc của dân đã trở thành “quan
cách mạng”, đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên
rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.
Nhân dân quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, quyền bãi miễn những
đại biểu họ đã lựa chọn, bầu ra quyền giải tán những thiết chế quyền
lực họ đã lập nên. Đây quan điểm ràng, kiên quyết của Hồ Chí Minh
nhằm đảm bảo cho mọi quyền lực, trong đó quyền lực nhà nước, luôn nằm
trong tay dân chúng. Một nhà nước thật sự của dân, theo Hồ Chí Minh, luôn “mong
đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình
là người đầy tớ trung thành tận tuỵ của nhân dân”; trong Nhà nước đó, “nhân dân
quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những
đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”, thậm chí, “nếu
Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Luật pháp dân chủ công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh, sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với luật
pháp của các chế độ sản, phong kiến chỗ phản ánh được ý nguyện
bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật pháp đó của nhân dân, công cụ thực
thi quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước
do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà
lOMoARcPSD| 61601779
nước dựa trên nền tảng pháp của một chế độ dân chủ theo các trình tự dân
chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết, v.v..
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. Người khẳng định rõ:
“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”. Nếu “dân là
chủ” xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ”
nhấn mạnh quyền lợi nghĩa vụ của nhân dân với tư cách người chủ. Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, “nhân dân quyền lợi làm chủ, tphải nghĩa
vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Nhân dân làm chủ
thì phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật
tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng
hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, v.v..
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để
nhân dân được thực thi những quyền Hiến pháp pháp luật đã quy định,
hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Người yêu
cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân
dân cũng phải tự giác phấn đấu để đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của
mình. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta những người lao động làm chủ nước nhà.
Muốn làm chđược tốt, phải năng lực làm chủ”. Không chỉ tuyên bố quyền
làm chủ của nhân dân, ng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc nhà nước,
còn chuẩn bị động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm
đó thể hiện tư ởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do
nhân dân.
Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước dân là nnước phục vụ lợi ích nguyện vọng của nhân dân,
không đặc quyền đặc lợi, thực strong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí
Minh là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán
bộ nhà nước đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: "Các công việc của Chính
phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi
người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên
lOMoARcPSD| 61601779
hết thảy. Việc lợi cho dân thì làm. Việc hại cho dân thì phải tránh”.
Theo HChí Minh, thước đo một Nnước vì dân là phải được lòng n. Hồ Chí
Minh đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dân, dân tin,
dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân,
trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh
thần chí công vô tư”. Trong Nhà nước dân, cán bộ vừa đầy tớ, nhưng đồng
thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu
thuẫn, nhưng đó những phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước vì dân.
đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ. người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh
mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như
vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại
vừa minh. Phải như thế thì mới có thể “chẳng những làm những việc trực tiếp có
lợi cho dân, cũng khi làm những việc mới xem qua như hại đến dân”,
nhưng thực chất là vì lợi ích toàn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.
5. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc. Vận dụng
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc thể hiện ở
các vấn đề chính sau:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách
lược hay thủ đoạn chính trị chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng
Việt Nam.
Đây là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên chiến lược này
được duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cách mạng hội
chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu nhiệm vụ
khác nhau, chính sách phương pháp tập hợp đại đoàn kết thể cần thiết
phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ
được thay đổi chtrương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng.
lOMoARcPSD| 61601779
Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái
quát thành nhiều luận điểm mang tính chân về vai trò sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc: “Đoàn kết sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một lực
lượng địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, “Đoàn
kết sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, then chốt của
thành công” “Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng điểm mẹ. Điểm này
hực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”. Người đã đi đến kết luận:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Thứ hai, đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam:
Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ khẩu hiệu chiến lược
còn mục tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam nên tất yếu đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xác định nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng nhiệm vnày phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh
vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong
lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh
tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là:
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Cách mạng snghiệp của
quần chúng, do quần chúng vì quần chúng. Đại đoàn kết yêu cầu khách quan
của sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong
cuộc đấu tranh tgiải phóng bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất bại trong
cuộc đấu tranh lợi ích của chính mình. Nhận thức điều đó, Đảng Cộng sản
phải sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu
cầu, những đòi hỏi khách quan, tphát của quần chúng thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng
hợp trong cuộc đấu tranh độc lập của n tộc, tự do cho nhân n hạnh phúc
cho con người.
lOMoARcPSD| 61601779
Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc mục tiêu, nhiệm vụ của Nhân dân, Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
b. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Trước hết sinh viên cần nhận thức về vai trò của đại đoàn kết dân tộc,
quán triệt tưởng đại đoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc, từ đó ý thức được
trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng khối đại đoàn kết n tộc, phát huy
tính năng động của bản thân, tinh thần tự lực tự cường, vượt qua mọi thách thức.
Sinh viên cung cần hiểu được về vị trí, vai trò tầm quan trọng của
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số
05CT/TW của Bộ chính trị về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây
dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ
Chí Minh”. Đại đoàn kết sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều hình
thức; trong đó chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Sinh viên cần gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân: tuyên truyền, vận
động gia đình nhân dân trên địa bàn thực hiện tốt chính sách, chủ trương của
Đảng và Nhà nước; bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân, phát huy dân
chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Trong đời sống, sinh viên cần tích cực tham gia các tổ chức chính trị hội
nhằm tuyên truyền cho mọi người về tư tưởng đại đoàn kết toàn dân (mặt trận tổ
quốc Việt Nam, Hội sinh viên , Đoàn thanh niên. . . ).
6. Quan điểm Hồ Chí Minh vcác chuẩn mực đạo đức cách mạng: Trung
với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư. Vận dụng…
Trung với nước hiếu với dân.
lOMoARcPSD| 61601779
Đây phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất chi phối các phẩm chất
khác.
Từ khái niệm "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền
thống của hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với
dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh độc lập tự do
của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượtqua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu
gọi hành động, vừa định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam
không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Cần ,kiệm ,liêm ,chính, chí công vô tư.
- Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức lao động cần cù, siêng năng; lao động
kế hoạch, sáng tạo, năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy "lao động nghĩa v
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không
phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của ng và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không
tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc nh. vậy quang minh chính đại, không bao
giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự
cao, tđại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều
hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên,
không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết
lOMoARcPSD| 61601779
thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc
tư, việc nhà.
Chí công tư, Người nói: "Đem lòng chí công đối với người,
với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng th
thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
7. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa. Vận dụng…
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng.
Mục tiêu của Hồ Chí Minh về văn hóa cũng giống như mục tiêu của chủ
tịch Hồ Chí Minh, cũng giống như mục tiêu của toàn thể dân tộc Việt Nam: Đó
độc lập dân tộc và CNXH. Tuy nhiên trên lĩnh vực văn hóa, cụ thể hóa ra thành:
+ Quyền được sống, quyền sung sướng, quyền tự do quyền mưu cầu hạnh phúc.
+ Đó là khát vọng của nhân dân về các giá trị: Chân, thiện, mỹ
+ Đó là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc,. . . +
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, con người có điều
kiện phát triển toàn diện.
Động lực: Văn hóa là động lực cho sự thúc đẩy của kinh tế, chính trị và xã
hội. Ở góc độ:
+ Văn hóa chính trị: Soi đường, mở đường cho quốc dân đi, lãnh đạo nhân dân
thực hiện độc lập, tự chủ.
+ Văn hóa văn nghệ: góp phần nâng cao lòng yêu nước, tưởng, tình cảm cách
mạng.
+ Văn hóa giáo dục: Diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu được các quy
luật của xã hội.
+ Văn hóa đạo đức, lối sống: Nâng cao phẩm chất, phong cách lành mạnh hướng
đến chân, thiện, mỹ.
Văn hóa là một mặt trận.
Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa.
lOMoARcPSD| 61601779
Đấu tranh trên các lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống,. . . của các hoạt
động văn nghệ, báo chí, công tác luận, đặcbiệt định hướng giá trị Chân,
Thiện, Mỹ.
Anh em nghệ sĩ là chiến trên mặt trận có nhiệm vụ phụng sự tổ quốc
nhân dân.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Mọi hoạt động của văn hóa phải trở về cuộc sống thực tại của quần chúng,
phản ánh tư tưởng và khát vọng của quần chúng,
Văn hóa phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn. Phải trả lời được câu
hỏi. Viết cho ai? Viết vì mục đích gì? Viết như thế nào?
Viết phải thiết thực, tránh cái lối rau muống. Nói ít, nói cho chắc chắn, thấm
thía. . .
b. Liên hệ: Vai trò của văn hóa với sự phát triển bền vững của Việt Nam hiện
nay:
+ Văn hóa giữ vị trí đặc biệt vai trò quan trọng trong sự điều tiết, vận động mọi
mặt của xã hội; là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế - xã
hội; kích thích sự sáng tạo đánh thức những năng lực tiềm ẩn của con người.
Nhân tố văn hóa không nằm ngoài kinh tế - xã hội hay chính trị, đồng thời là một
bộ phận thiết yếu trong đường lối quân sự của chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam. Tóm lại, văn hóa mặt và giữ vị trí trọng yếu trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
+ Trong điều kiện hiện nay, văn hóa thấm vào mọi mặt của đời sống xã hội, nhất
những người đang giữ vai trò trong sáng tạo khoa học; vào lĩnh vực chính trị
với cách văn hóa chính trị; vào kinh tế với tư cách văn hóa kinh doanh,
văn hóa doanh nghiệp quản trị doanh nghiệp; vào tổ chức, quản trị điều hành
đất nước...
+ Văn hóa là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tác nhân văn hóa trong kinh tế
làm cho kinh tế trở thành văn hóa kinh tế. Kinh tế được bảo đảm bởi văn hóa sẽ
là kinh tế phát triển, cả trình độ và chất lượng, theo tính nhân văn, vì con người,
phục vụ lợi ích của con người, của cộng đồng.
lOMoARcPSD| 61601779
+ Văn hóa thúc đẩy vai trò của chính trị. Chính trị được bảo đảm bởi văn hóa, n
hóa chkhông đơn thuần học vấn, sẽ một nền chính trị nhân văn, con
người.
+ Văn hóa giáo dục góp phần nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, giúp cho
đất nước phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601779
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
-------------------------------------------------
HỆ THỐNG VẤN ĐỀ ÔN TẬP KỲ 2023.2
1. Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Bối cảnh lịch sử -xã
hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu XX. Vận dụng…
*Bối cảnh lịch sử Việt Nam hình thành Tư tưởng HCM(Cơ sở thực tiễn)
- Bối cảnh xã hội VN cuối XIX, đầu XX
+ Trước khi thực dân pháp xâm lược, VN là 1 quốc gia phong kiến độc lập, đời
sống nhân dân khổ cực ,kinh tế trì trệ kém phát triển( do chính sách khép kín, tư
tưởng nho giáo, trọng văn hóa, lễ nghi, k tập trung phát triển kinh tế)
+ Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược VN, VN trở thành quốc gia nửa phong kiến,
nửa thuộc địa, đời sống nhân dân ngày càng khổ cực, triều đình nhà Nguyn chống
trả quyết liệt nhưng sau chủ hòa + Năm 1884, VN trở thành thuộc địa của Pháp
+ Mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt( giữa dân tộc với thực dân pháp và giữa dân
tộc với địa chủ phong kiến) Mâu thuẫn gay gắt nhất là của dân tộc với thực dân
Pháp dẫn đến nổ ra nhiều phong trào đấu tranh
+ Phong trào đấu tranh của sỹ phu và đồng bào yêu nước(hoàng hoa thám ) +
Phong trào yêu nước theo con đương chủ nghĩa tư bản( phan bội châu, phan châu trinh)
=> Tuy nhiên các phong trào thất bại, Đặt ra vấn đề tìm con đường cứu nước mới - Khi HCM lớn lên:
+ Chứng kiến cảnh đàn áp dã man của thực dân Pháp
+ Chứng kiến cảnh các phong trào yêu nước thất bại, thủ lĩnh người bị lưu đày ra
côn đảo, người bị bắt giam, người bị cho vào máy chém.
+ Chứng kiến anh chị của mình bị bắt giam và lưu đày nhiều năm
+ Chứng kiến sự ươn hèn bạc nhược của quan lại Nam triều lOMoAR cPSD| 61601779
⇒Ra đi tìm đường cứu nước
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Vận dụng…
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng của tất cả các dân tộc: -
Lịch sử Việt Nam luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập, thể
hiệnkhát khao tự do và tinh thần yêu nước của dân tộc. Hồ Chí Minh là
hiện thân của tinh thần này, mong muốn dân tộc được tự do và độc lập. -
Năm 1919, tại Hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh đã yêu cầu quyền bình
đẳngpháp lý và các quyền tự do cho người dân An Nam, dù yêu cầu này
không được chấp nhận, nhưng nó đã hình thành tư tưởng về quyền tự do và
bình đẳng của các dân tộc thuộc địa. -
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt mục tiêu chính trị là giành độc lậpcho dân tộc. -
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Hồ Chí Minh tuyên bố độc
lập vàkhẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc. -
Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, tư tưởng này tiếp tục được
khẳngđịnh, với quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân: - Hồ
Chí Minh nhấn mạnh độc lập phải đi đôi với tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Ông đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về dân tộc độc lập,
dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. -
Người khẳng định: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do, thìđộc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để: -
Hồ Chí Minh bác bỏ các hình thức “độc lập giả hiệu” của thực dân
đế quốc,khẳng định độc lập thật sự phải bao gồm quyền tự quyết về ngoại
giao, quân đội, tài chính. -
Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 là một minh chứng cho sự công nhận nước
ViệtNam Dân chủ Cộng hòa là quốc gia tự do. lOMoAR cPSD| 61601779
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ: -
Trong lịch sử đấu tranh, Việt Nam luôn đối mặt với âm mưu chia cắt
đấtnước của kẻ thù. Hồ Chí Minh luôn kiên trì đấu tranh để bảo vệ sự thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thể hiện qua các phát biểu và hành động cụ thể.
b. Trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc:
1. Nhận thức về độc lập dân tộc: -
Hiểu rõ tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò của ông trong việc giành độc lậpcho Việt Nam. -
Nắm vững các nguyên tắc và giá trị của độc lập dân tộc, tôn trọng và
bảo vệquyền tự quyết, sự công bằng và bình đẳng cho tất cả các thành viên
trong cộng đồng dân tộc. -
Đối thoại và hợp tác với các quốc gia khác để xây dựng một thế giới
hòabình, ổn định và phát triển bền vững.
2. Thể hiện trách nhiệm bảo vệ độc lập dân tộc: -
Có tri thức về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa dân tộc, và hệ
thốngchính trị của Việt Nam. -
Cảnh giác và đấu tranh với các hành động sai trái, không để các thế
lực thùđịch lợi dụng, báo cáo các hành vi tuyên truyền trái pháp luật. -
Tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự và an toàn xã hội,
xây dựngnếp sống văn minh. -
Rèn luyện thể lực, học tập tốt môn giáo dục quốc phòng an ninh,
chuẩn bịsẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. -
Nâng cao hiểu biết về toàn vẹn lãnh thổ và tuyên truyền những điều
đúngđắn, nắm chắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của nhà nước về quốc phòng và an ninh.
3. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng: Tập trung dân chủ,
Tự phê bình và phê bình, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn. Vận dụng… lOMoAR cPSD| 61601779
*Phân tích nguyên tắc:” tập trung dân chủ ; phê bình và tự phê bình “ Tập
trung dân chủ:
+ Là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức chiến
đấu chặt chẽ, phát huy được sức mạnh của mỗi cá nhân và của tổ chức Đảng
Thế nào là tập trung, dân chủ, mqh giữa chúng
+ Theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo tập trung “phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức
,hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. + Hồ Chí
Minh giải thích về dân chủ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải tự do. Tự
do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người được tự do trình bày ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lý, đó cũng là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ
của mọi người”, “Khi mọi người đã phát biểu ú kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục tùng chân lý”
+ dân chủ và tập trung có mối quan hệ gắn bó với nhau: tập trung nền tảng dân
chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở
của tập trung, không phải là dân chủ theo phân tán, tùy tiện, vô tổ chức, hình thức.
Tập trung trên cơ sở phát huy dân chủ thực sự trong đảng, không phải tập trung
quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền
+ Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ trong
nội bộ Đảng, song cũng nhắ nhở phải tránh tự do, tùy tiện. Vì nếu không có dân
chủ nội bộ sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”, không tạo nên sức mạnh của Đảng,
làm cho Đảng suy yếu từ bên trong và sớm muộn sẽ không còn là Đảng cộng sản nữa
+ Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng muốn vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức
thì phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này
*Phê bình và tự phê bình
- Hcm coi Luật phát triển của đảng và vũ khí để rèn luyện đảng viên
- Hcm dặt tự phê bình lên trc
- Mục đích của phê bình: để giúp nhau sửa chữa những cái sai , thiếu xót
- Phương pháp phê bình: thành khẩn tiên quyết có văn hóa lOMoAR cPSD| 61601779
- Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi conngười
nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần đi,
tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính
tất yếu trong quá trình họat động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là một thực thể xã
hội, Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội, đội nghũ của Đảng bao gồm những
người ưu tú, nhưng trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm,
không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều có cái thiện
và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất
là tự phê bình và phê bình.
- Thái độ, phương pháp tụ phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõởnhững
điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày; phải
thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không dấu diếm và cũng
không thêm bớt khuyết điểm; “phải có tình thương yêu lẫn nhau”.
cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”. + *Đảng
phải thường xuyên tự chỉnh đống tự đổi mới
Quyền lực của Đảng là do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
giao phó. Đảng phải không ngừng tự chính đốn bản thân mình. Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng không có mục đích tự thân, Đảng không phải là tổ chức để làm quan
phát tài mà Đảng từ trong xã hội mà ra, hoạt động vì Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng. Thường xuyên tự chỉnh đốn, do đó, trở thành một nhiệm vụ cực
kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng. Điều này càng đặc biệt quan trọng hơn khi
Đảng đứng trước những thủ thách lớn trong quá trình hoạt động, chẳng hạn, Hồ
Chí Minh nêu ý kiến rằng, ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Việt Nam hoàn toàn thắng lợi, “việc cần phải làm trước tiên là chính đồn lại Đảng,
làm cho mỗi dùng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đầu ra sức làm tròn nhiệm vụ
đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân .Làm được như vậy,
thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thẳng lợi .
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước:, Nhà nước dân chủ; Nhà nước pháp
quyền. Vận dụng… lOMoAR cPSD| 61601779
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền được tóm tắt như sau:
Nhà nước Hiến pháp và hợp pháp: Hồ Chí Minh đề cao việc tổ chức nhà nước qua tổng
tuyển cử, tuân thủ nguyên tắc của hiến pháp. Chính quyền thuộc về nhân dân, và việc tổ
chức chính phủ thông qua việc đọc bản Tuyên ngôn độc lập đã làm cho chính phủ được thừa nhận hợp pháp.
Nhà nước thượng tôn pháp luật: Hồ Chí Minh chú trọng vào việc xây dựng nền tảng
pháp lý cho nhà nước mới, đảm bảo việc tổ chức và hoạt động của nhà nước phải tuân
thủ pháp luật. Việc này bao gồm cả công tác lập pháp và việc đảm bảo thi hành pháp
luật, cũng như giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho người dân.
Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa: Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ đầy đủ các quyền
con người, đảm bảo lợi ích hợp pháp của mọi người. Pháp luật cần có tính nhân văn và
khuyến thiện, bảo vệ quyền con người và dẫn dắt con người vào hành vi đúng đắn và tốt lành.
Tóm lại, tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền tập trung vào
việc tổ chức nhà nước theo cách hợp pháp, tuân thủ pháp luật và bảo vệ quyền con người,
đồng thời khuyến khích sự công bằng và nhân văn trong hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật.
Liên hệ với việc xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam hiện nay:
Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị."
Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công
cụ để Nhà nước quản lí xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra,
giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý nhà nước theo pháp luật, đồng thời coi
trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Phải xác định rõ cơ chế phân
công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp trên cơ sở kiểm soát quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. lOMoAR cPSD| 61601779
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ
hoá công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi
cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức trong sáng, cố trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực
thi đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
# Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ
Bản chất giai cấp của nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “Nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà
nước phi giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một giai
cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công
nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên mấy phương diện:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Lời nói
đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân
chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Ngay trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà nước do nhân dân là người chủ
nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh
công – nông – trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng phương thức thích hợp sau đây:
(1) Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch; (2) Bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên
của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước; (3) Bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng
xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh.
Việc giành lấy chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới, chính là để giai cấp lOMoAR cPSD| 61601779
công nhân và nhân dân lao động có được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu nói trên.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý
đến cả hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
cơ quan nhà nước. Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân
chủ, đồng thời cũng nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập
trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với
tính nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam.
Trong tư tưởng của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất giai cấp công
nhân của Nhà nước thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể như sau:
Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế
kỷ XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam, hết thế hệ
này đến thế hệ khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự
do của Tổ quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức
mạnh của toàn dân tộc đã được tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại
xâm, giành lại độc lập, tự do, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhà nước Việt Nam
mới, do vậy, không phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào, mà là thuộc về nhân dân.
Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên
trì, nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm
nền tảng. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi
cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và
của toàn dân tộc. Nhà nước Việt Nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh lOMoAR cPSD| 61601779
không chỉ cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Ba là, trong thực tế, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà
toàn thể dân tộc giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để
bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển
tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa
cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước.
Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà
tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người
khẳng định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả
mọi quyền lực đều là của nhân dân”. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”.
Nguyên lý “dân là chủ” khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình
thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ
trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của
quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Hồ Chí Minh luôn coi trọng hình
thức dân chủ trực tiếp bởi đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất, đồng thời tạo
mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình
thức dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là
hình thức dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua
các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản thân nhà
nước không có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do. Do
vậy, các cơ quan quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ của nó đều là “công lOMoAR cPSD| 61601779
bộc” của nhân dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè
đầu dân”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân
với cán bộ nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Theo
Hồ Chí Minh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này uỷ
viên khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm
quan cách mạng”; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ.
Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước
đều là phân công làm đầy tớ cho dân”. Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những cán
bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, từ chỗ là công bộc của dân đã trở thành “quan
cách mạng”, đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên
rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.
Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những
đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền
lực mà họ đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của Hồ Chí Minh
nhằm đảm bảo cho mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước, luôn nằm
trong tay dân chúng. Một nhà nước thật sự của dân, theo Hồ Chí Minh, luôn “mong
đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình
là người đầy tớ trung thành tận tuỵ của nhân dân”; trong Nhà nước đó, “nhân dân
có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những
đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”, thậm chí, “nếu
Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh, sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với luật
pháp của các chế độ tư sản, phong kiến là ở chỗ nó phản ánh được ý nguyện và
bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ thực
thi quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước
do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà lOMoAR cPSD| 61601779
nước dựa trên nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân
chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết, v.v..
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. Người khẳng định rõ:
“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”. Nếu “dân là
chủ” xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ”
nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, “nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa
vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Nhân dân làm chủ
thì phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật
tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng
hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, v.v..
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để
nhân dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định,
hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Người yêu
cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân
dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của
mình. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà.
Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ”. Không chỉ tuyên bố quyền
làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc nhà nước,
mà còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm
đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.
Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí
Minh là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán
bộ nhà nước đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: "Các công việc của Chính
phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi
người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên lOMoAR cPSD| 61601779
hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.
Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lòng dân. Hồ Chí
Minh đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dân, dân tin,
dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân,
trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh
thần chí công vô tư”. Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ, nhưng đồng
thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu
thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước vì dân. Là
đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh
mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như
vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại
vừa minh. Phải như thế thì mới có thể “chẳng những làm những việc trực tiếp có
lợi cho dân, mà cũng có khi làm những việc mới xem qua như là hại đến dân”,
nhưng thực chất là vì lợi ích toàn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.
5. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc. Vận dụng
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc thể hiện ở
các vấn đề chính sau:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách
lược hay thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt Nam.
Đây là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên chiến lược này
được duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ
khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết
phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ
được thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng. lOMoAR cPSD| 61601779
Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái
quát thành nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một lực
lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, “Đoàn
kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của
thành công” “Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà
hực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”. Người đã đi đến kết luận:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Thứ hai, đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam:
Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà
còn là mục tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam nên tất yếu đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng và nhiệm vụ này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh
vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong
lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh
tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là:
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan
của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong
cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất bại trong
cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng Cộng sản
phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu
cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng
hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người. lOMoAR cPSD| 61601779
Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ của Nhân dân, Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
b. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Trước hết sinh viên cần nhận thức rõ về vai trò của đại đoàn kết dân tộc,
quán triệt tư tưởng đại đoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc, từ đó ý thức được
trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy
tính năng động của bản thân, tinh thần tự lực tự cường, vượt qua mọi thách thức.
Sinh viên cung cần hiểu được về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số
05CT/TW của Bộ chính trị về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ
Chí Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều hình
thức; trong đó chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Sinh viên cần gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân: tuyên truyền, vận
động gia đình và nhân dân trên địa bàn thực hiện tốt chính sách, chủ trương của
Đảng và Nhà nước; bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân, phát huy dân
chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Trong đời sống, sinh viên cần tích cực tham gia các tổ chức chính trị xã hội
nhằm tuyên truyền cho mọi người về tư tưởng đại đoàn kết toàn dân (mặt trận tổ
quốc Việt Nam, Hội sinh viên , Đoàn thanh niên. . . ).
6. Quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng: Trung
với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Vận dụng…
Trung với nước hiếu với dân. lOMoAR cPSD| 61601779
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với
dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượtqua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu
gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam
không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Cần ,kiệm ,liêm ,chính, chí công vô tư.
- Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động
có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không
phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không
tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự
cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều
hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên,
không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết lOMoAR cPSD| 61601779
thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người,
với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ
thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
7. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa. Vận dụng…
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng.
Mục tiêu của Hồ Chí Minh về văn hóa cũng giống như mục tiêu của chủ
tịch Hồ Chí Minh, cũng giống như mục tiêu của toàn thể dân tộc Việt Nam: Đó là
độc lập dân tộc và CNXH. Tuy nhiên trên lĩnh vực văn hóa, cụ thể hóa ra thành:
+ Quyền được sống, quyền sung sướng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
+ Đó là khát vọng của nhân dân về các giá trị: Chân, thiện, mỹ
+ Đó là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc,. . . +
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, con người có điều
kiện phát triển toàn diện.
Động lực: Văn hóa là động lực cho sự thúc đẩy của kinh tế, chính trị và xã hội. Ở góc độ:
+ Văn hóa chính trị: Soi đường, mở đường cho quốc dân đi, lãnh đạo nhân dân
thực hiện độc lập, tự chủ.
+ Văn hóa văn nghệ: góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng.
+ Văn hóa giáo dục: Diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu được các quy luật của xã hội.
+ Văn hóa đạo đức, lối sống: Nâng cao phẩm chất, phong cách lành mạnh hướng đến chân, thiện, mỹ.
Văn hóa là một mặt trận.
Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa. lOMoAR cPSD| 61601779
Đấu tranh trên các lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống,. . . của các hoạt
động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặcbiệt là định hướng giá trị Chân, Thiện, Mỹ.
Anh em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận – có nhiệm vụ phụng sự tổ quốc và nhân dân.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Mọi hoạt động của văn hóa phải trở về cuộc sống thực tại của quần chúng,
phản ánh tư tưởng và khát vọng của quần chúng,
Văn hóa phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn. Phải trả lời được câu
hỏi. Viết cho ai? Viết vì mục đích gì? Viết như thế nào?
Viết phải thiết thực, tránh cái lối rau muống. Nói ít, nói cho chắc chắn, thấm thía. . .
b. Liên hệ: Vai trò của văn hóa với sự phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay:
+ Văn hóa giữ vị trí đặc biệt và vai trò quan trọng trong sự điều tiết, vận động mọi
mặt của xã hội; là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế - xã
hội; kích thích sự sáng tạo và đánh thức những năng lực tiềm ẩn của con người.
Nhân tố văn hóa không nằm ngoài kinh tế - xã hội hay chính trị, đồng thời là một
bộ phận thiết yếu trong đường lối quân sự của chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam. Tóm lại, văn hóa có mặt và giữ vị trí trọng yếu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Trong điều kiện hiện nay, văn hóa thấm vào mọi mặt của đời sống xã hội, nhất
là những người đang giữ vai trò trong sáng tạo khoa học; vào lĩnh vực chính trị
với tư cách là văn hóa chính trị; vào kinh tế với tư cách là văn hóa kinh doanh,
văn hóa doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp; vào tổ chức, quản trị và điều hành đất nước...
+ Văn hóa là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tác nhân văn hóa trong kinh tế
làm cho kinh tế trở thành văn hóa kinh tế. Kinh tế được bảo đảm bởi văn hóa sẽ
là kinh tế phát triển, cả trình độ và chất lượng, theo tính nhân văn, vì con người,
phục vụ lợi ích của con người, của cộng đồng. lOMoAR cPSD| 61601779
+ Văn hóa thúc đẩy vai trò của chính trị. Chính trị được bảo đảm bởi văn hóa, văn
hóa chứ không đơn thuần là học vấn, sẽ là một nền chính trị nhân văn, vì con người.
+ Văn hóa giáo dục góp phần nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, giúp cho
đất nước phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu