









Preview text:
lOMoAR cPSD| 58794847
MỞ ĐẦU NỘI DUNG CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆU
LỰC CỦA QUY PHẠM XUNG ĐỘT 1.1. Khái niệm quy phạm xung đột
Khác với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật quốc gia1, Tư pháp
quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài2.
Những quan hệ này không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật của một quốc
gia mà còn chịu sử điều chinh bởi hệ thống pháp luật của quốc gia khác3. Chính
sự “đan xen” ấy đã dẫn đến vấn đề xung đột pháp luật (conflict of law), khi hai
hoặc nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau cùng có thể điều
chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế4. Để giải quyết tình trạng này, Tư pháp quốc
tế đưa ra hai phương pháp chính: phương pháp thực chất và phương pháp xung đột5.
Phương pháp thực chất được ưu tiên áp dụng nhờ ưu điểm dễ thực thi và
khả năng giải quyết trực tiếp vấn đề pháp lý khi được áp dụng6. Tuy nhiên, hiệu
quả của phương pháp này phụ thuộc vào sự tồn tại của các quy định thực chất
phù hợp, trong khi trên thực tế, không phải lúc nào các quốc gia cũng đạt được
sự đồng thuận về những quy định này7. Do đó, không phải mọi quan hệ pháp lý
đều có thể được điều chỉnh trực tiếp bởi loại quy phạm này. Trong những trường
hợp đó, cơ quan có thẩm quyền buộc phải lựa chọn giữa hai hoặc nhiều hệ thống
pháp luật liên quan để xác định luật áp dụng. Quyết định này không thể mang
tính chủ quan mà phải dựa trên quy phạm xung đột làm căn cứ pháp lý.
1 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2024), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.17.
2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2024), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, Tr.25.
3 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2024), Tlđd, Tr.27.
4 Trường Đại học Luật Hà Nội (2024), Tlđd, Tr.48.
5 Nhóm tiếp cận theo các phương pháp được đưa ra trong giáo trình tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật
Hà Nội, ngoài hai phương pháp chính như trên còn có phương pháp áp dụng tập quán quốc tế hoặc “pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự”. Tài liệu khác như giáo trình tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra các phương pháp tương tự: xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật thực
chất; xây dựng và áp dụng quy phạm luật xung đột; hài hoà luật thực chất trong nước. Hay quan điểm trong
giáo trình tư pháp quốc tế của Đại học Luật Đại học quốc gia Hà Nội chỉ trình bày hai phương pháp như trên.
Trong sách chuyên khảo Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tập thể tác giả Đỗ Văn Đại, Mai Hồng
Quỳ, Ngô Quốc Chiến lại đưa ra hai phương pháp khác: phương pháp trực tiếp giải quyết xung đột pháp luật
và phương pháp gián tiếp giải quyết xung đột pháp luật.
6 Trường Đại học Luật Hà Nội (2024), Tlđd, Tr.56-57. 7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2024), Tlđd, Tr. 59. lOMoAR cPSD| 58794847
Quy phạm xung đột trước hết là một quy phạm pháp luật, nhưng mang
tính chất đặc biệt, bởi nó không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ pháp lý. Thay vào đó, chức năng chính của nó là xác định hệ
thống pháp luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó7. Sau đó, trên cơ sở hệ
thống pháp luật đã được viện dẫn, cơ quan áp dụng pháp luật sẽ tìm ra quy
phạm pháp luật để giải quyết vấn đề pháp lí phát sinh trong quan hệ đó.
Như vậy, có thể định nghĩa, “Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định
pháp luật nước nào cần phải áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự
theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể.”8
1.2. Hiệu lực của quy phạm xung đột
“Hiệu lực của VBQPPL là tác động (ảnh hưởng) của văn bản đối với
quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh”9. Thông thường, các giới hạn này được xác
định trực tiếp trong văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hoặc thông qua
quy định chung về hiệu lực theo thời gian, không gian và đối tượng11. Quy phạm
xung đột, dù mang tính đặc thù, vẫn chịu sự chi phối của các yếu tố này như
mọi quy phạm pháp luật khác10. Cách tiếp cận trên chủ yếu mang ý nghĩa nhận
thức, xem xét hiệu lực của VBQPPL hay quy phạm pháp luật còn phải xét đến
hiệu lực thực tế11. Do đó, cần đánh giá hiệu lực của quy phạm xung đột trên cả
phương diện pháp lý và thực tiễn áp dụng.
7 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2024), tlđd, tr. 170.
8 Nhóm tiếp cận theo khái niệm của giáo trình tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội. Hầu hết các
tài liệu nhóm tiếp cận được không đưa ra định nghĩa quy phạm xung đột, số ít tài liệu có trình bày các khái
niệm, tuy khác về hình thức nhưng cùng nội hàm như giáo trình trường tư pháp quốc tế của Đại học Luật Đại
học quốc gia Hà Nội: “quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật đặc biệt, không trực tiếp quy định về quyền
và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế, mà nó chỉ đặt ra việc áp dụng pháp luật
của một nước nào đó nhằm điều chỉnh một quan hệ Tư pháp quốc tế nhất định”.
9 Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB. Tư Pháp, Hà Nội, tr.305 11
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình lí luận chung về nhà nước và pháp luật (Hoàng Thị
Kim Quế - chủ biên), NXB. Tư Pháp, Hà Nội, tr.185 – 186.
10 Trường Đại học Luật Hà Nội (2024), Tlđd, tr.88.
11 Bùi Xuân Phái, Vấn đề hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam, Tạp chí Luật học số 12/2023,
tr.13: “…Trên thực tế các quan điểm nghiên cứu nói chung chủ yếu mới chỉ tiếp cận dưới góc độ pháp lí để
cung cấp hiểu biết cần thiết (trên phương diện nhận thức) về giá trị thi hành của VBQPPL.” lOMoAR cPSD| 58794847
Về phương diện pháp lý, hiệu lực theo thời gian của quy phạm xung đột
giống các QPPL khác, điều chỉnh quan hệ pháp luật trong một khoảng thời gian
nhất định12, ví dụ: QPXĐ trong BLDS 2005 điều chỉnh các quan hệ tư pháp
quốc tế từ 01/01/2006 ngày đến trước ngày 01/01/201713. Hiệu lực theo không
gian xác định phạm vi lãnh thổ áp dụng, thường giới hạn trong quốc gia ban
hành nhưng có thể áp dụng tại nhiều quốc gia nếu là quy phạm xung đột thống
nhất16, ví dụ: các quy phạm xung đột 14trong Hiệp định tương trợ tư pháp và
pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Liên bang Nga sẽ được áp dụng tại lãnh thổ cả hai nước15.Hiệu lực
theo đối tượng tác động xác định các quan hệ tư pháp quốc tế chịu sự điều chỉnh
và thường được nhận biết qua phần phạm vi áp dụng của quy phạm19, ví dụ: các
QPXĐ tại Điều 21, 22, 24 Hiêp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn
đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Cộng hòa Bêlarút được áp dụng với quan hệ về quy chế pháp lí nhân
thân trong các quan hệ pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và lao động, bao gồm cả thương mại16.
Về phương diện thực hiện và áp dụng pháp luật, hiệu lực thực tế của quy
phạm xung đột được thể hiện ở việc quy phạm đó có được áp dụng trên thực tế
hay không. Chức năng của quy phạm xung đột chính là lựa chọn luật áp dụng,
do đó hiệu lực thực tế của QPXĐ chính là việc HTPL được quy phạm xung đột
đó dẫn chiếu có được áp dụng để điều chỉ quan hệ tư pháp quốc tế hay không.
12 Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), tlđd, tr.306 – 309.
13 Theo quy định tại Điều 689 BLDS 2015: “Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật này có hiệu lực”. Ở đây nhóm giả thiết trường
hợp không áp dụng điều khoản chuyển tiếp. 16 Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), tlđd, tr.309 – 310.
14 Ví dụ quy phạm xung đột điều chỉnh các vấn đề về quy chế nhân thân tại Điều 19,20,22 chương I của Hiệp
định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga.
15 Theo khoản 1 Điều 1 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga: “1. Công dân của bên ký kết này được hưởng trên
lãnh thổ của Bên ký kết kia sự bảo vệ pháp lý đối với nhân thân và tài sản như công dân của Bên ký kết kia.”
19 Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), tlđd, tr.310 – 311.
16 Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Hiêp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao
động và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Bêlarút: “4. Trong Hiệp định này,
khái niệm “các vấn đề dân sự” được hiểu bao gồm cả các vấn đề thương mại.”. lOMoAR cPSD| 58794847
Tòa án áp dụng quy phạm này để xác định pháp luật điều chỉnh các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài. Nếu luật nước ngoài được chỉ định vi phạm trật
tự công cộng, có thể bị từ chối áp dụng.
CHƯƠNG 2. CÁC TRƯỜNG HỢP LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU
LỰC CỦA QUY PHẠM XUNG ĐỘT
Theo quan điểm của các tác giả Vũ Thị Phương Lan, Nguyễn Thai Mai,
các trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung đột là trong các
trường hợp, “... quy phạm xung đột đã xác định pháp luật nước ngoài được áp
dụng nhưng cuối cùng pháp luật nước ngoài không được áp dụng như sự dẫn
chiếu của quy phạm xung đột, điều này làm mất hiệu lực của quy phạm xung
đột, hay triệt tiêu hiệu lực hoặc vô hiệu hoá hiệu lực của quy phạm xung đột”.17
Theo đó, hiệu lực bị ảnh hưởng không phải là hiệu lực theo VBQPPL mà chính
là hiệu lực thực tế của quy phạm, thể hiện ở việc quy phạm xung đột đã được
áp dụng để xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ nhưng cuối cùng lại
không được áp dụng như đã dẫn chiếu. Nói cách khác, theo quan điểm của
nhóm, “các trường hợp ảnh hưởng” chính là các yếu tố, tình huống, hoặc điều
kiện tác động đến hiệu lực thực tế của quy phạm xung đột, làm mất hoàn toàn,
triệt tiêu hoặc vô hiệu hoá hiệu lực của quy phạm xung đột.
2.1. Bảo lưu trật tự công cộng
2.1.1 Khái niệm bảo lưu trật tự công
Trên thực tế, trật tự công chưa có một định nghĩa chính thức được thống
nhất18. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội
định nghĩa trật tự công “là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật mỗi quốc gia”19.
Tuy nhiên, cách giải thích này vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng20. Dù mang tính
mở nhưng các nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia được
17 Trường Đại học Luật Hà Nội, Hướng dẫn học Tư pháp quốc tế (Vũ Phương Lan, Nguyễn Thai Mai), Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 42
18 Trường Đại học Luật Hà Nội (2024), tlđd, Tr.89.
19 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.245.
20 Bùi Thị Thu (2010), “Vấn đề bảo lưu trật tự công trong tư pháp”, https://phapluatdansu.edu.vn/, ngày truy cấp: 18/03/2025. lOMoAR cPSD| 58794847
cho là có nội hàm gần gũi, tiệm cận nhất với trật tự công21. Theo quan điểm của
nhóm, các nguyên tắc cơ bản là tập hợp các nguyên tắc, giá trị và chuẩn mực
được coi là thiết yếu để duy trì trật tự xã hội, đạo đức, và hệ thống pháp luật
của một quốc gia. Đây là những nền tảng cốt lõi, phản ánh lợi ích công cộng và
sự ổn định của xã hội, mà quốc gia đó không thể thỏa hiệp. Và bảo lưu trật tự
công chính là bảo vệ các nguyên tắc cơ bản đó. Nhìn từ góc độ áp dụng pháp
luật, bảo lưu trật tự công là cơ chế pháp lý cho phép một quốc gia từ chối áp
dụng luật nước ngoài mặc dù đã có sự dẫn chiếu của QPXĐ nếu việc áp dụng
đó mâu thuẫn với trật tự công của quốc gia đó.22
2.1.2. Bảo lưu trật tự công theo quy định của một số quốc gia trên thế giới
Bảo lưu trật tự công phản ánh rõ chủ quyền quốc gia trong việc áp dụng
luật nước ngoài, với cách tiếp cận khác nhau tùy theo lợi ích từng nước. Mỗi
quốc gia trên thế giới đều có những lợi ích khác nhau trong vấn đề này, vì vậy
khái niệm trật tự công hoàn toàn mang màu sắc quốc gia.23 Chẳng hạn, Thụy
Điển từ chối áp dụng luật nước ngoài trong hôn nhân nếu vi phạm các nguyên
tắc cơ bản của trật tự pháp luật Thuỵ Điển24. Hoặc ở Pháp, trật tự công cộng
không chỉ là các nguyên tắc cơ bản được quy định trong pháp luật mà còn bao
gồm cả các chính sách pháp luật của đất nước25. Còn đối với Đức, Việc áp dụng
luật nước ngoài sẽ phải hủy bỏ nếu như việc áp dụng đó chống lại đạo lý hoặc
21 Trường Đại học Luật Hà Nội (2024), tlđd, Tr.89
22 Bùi Thị Thu (2010), Tlđd, “Trong tư pháp quốc tế, vấn đề bảo lưu trật tự công được sử dụng “khi cơ quan
có thẩm quyền sử dụng các quy phạm xung đột của quốc gia dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài, nhưng không
áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài đó (mà trên thực tế đáng lẽ sẽ được áp dụng), ... nếu xét thấy việc áp
dụng pháp luật nước ngoài là vi phạm các quy định có tính chất thiết lập nền tảng chính trị, pháp lý, kinh tế,
xã hội của quốc gia mình, nhằm bảo vệ trật tự công quốc gia”
23 Nguyễn Thai Mai (2011). Chủ quyền của Việt Nam trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Chủ quyền
quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tr. 109.
24 Đạo luật về Một số Quan hệ Pháp lý Quốc tế liên quan đến Hôn nhân và Giám hộ (1904:26 s.1) của Thụy
Điển, Chương 1, Điều 7, khoản 2: 'Tillämpningen av utländsk lag i äktenskapsfrågor kan vägras om
tillämpningen uppenbarligen är oförenlig med grundläggande principer i den svenska rättsordningen' (tạm
dịch: Việc áp dụng luật nước ngoài trong các vấn đề hôn nhân có thể bị từ chối nếu rõ ràng không tương thích
với các nguyên tắc cơ bản của trật tự pháp luật Thụy Điển).
25 Bộ luật Dân sự của Pháp, Điều 6: “On ne peut déroger, par des conventions particulières, aux lois qui
intéressent l'ordre public et les bonnes moeurs.” (Tạm dịch: Những thỏa thuận tư không thể làm thay đổi
hiệu lực của những đạo luật công mà trong đó quy định trật tự công cộng và đạo ly) lOMoAR cPSD| 58794847
là các tiêu chí của pháp luật Đức26. Như vậy, có thể thấy với cách nhìn nhận
trên về bảo lưu trật tự công cộng, các quốc gia như Thụy Điển, Pháp hay Đức
đã vận dụng bảo lưu trật tự công cộng rất rộng mà không có bất kỳ giới hạn cụ
thể nào. Điều này cho thấy trật tự công cộng không có khuôn mẫu cố định mà
phụ thuộc vào hoàn cảnh từng quốc gia.
2.1.3. Bảo lưu trật tự công theo quy định của pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, quy định về bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận tại
khoản 1 Điều 670 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, “pháp luật nước ngoài
được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp hậu quả của việc áp
dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, trật tự công chính là các nguyên tắc
cơ bản, tạo ra một trật tự pháp lý trong chế độ chính trị - xã hội, ví dụ như
nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận; nguyên tắc hôn nhân một vợ
một chồng; nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật; v.v….
Các nguyên tắc cơ bản này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quan
trọng như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, v.v… Mặt
khác, quan điểm của pháp luật Việt Nam, việc thực hiện nguyên tắc bảo lưu trật
tự công cộng không phải là việc phủ nhận các hệ thống pháp luật nước ngoài
mà chỉ là không áp dụng một số quy định liên quan không phù hợp, nếu vẫn áp
dụng thì sẽ gây ra hậu quả xấu, không lành mạnh đến các nền tảng, trật tự pháp
lý cơ bản của Việt Nam.
2.2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba
2.2.1. Khái niệm dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba
Trong tư pháp quốc tế, mỗi quốc gia đều xây dựng các hệ thống quy phạm
xung đột riêng để xác định luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố
26 Bộ luật Dân sự Đức, Điều 30: “Die Anwendung ausländischen Rechts muss aufgehoben werden, wenn
diese Anwendung gegen die Moral oder die Kriterien des deutschen Rechts verstößt.” (Tạm dịch: Việc áp
dụng luật nước ngoài sẽ phải hủy bỏ nếu như việc áp dụng đó chống lại đạo lý hoặc là các tiêu chí của pháp luật Đức) lOMoAR cPSD| 58794847
nước ngoài.27 Các hệ thuộc luật có thể khác nhau giữa các quốc gia28, sự khác
biệt này phát sinh hai hiện tượng quan trọng: dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu
đến pháp luật của nước thứ ba.
Dẫn chiếu ngược hay phản chí là hiện tượng khi pháp luật nước được dẫn
chiếu lại có quy phạm xung đột dẫn chiếu trở lại pháp luật nước đã dẫn chiếu ban đầu29.
Dẫn chiếu đến nước thứ ba hay chuyển chí là hiện tượng khi pháp luật
nước được dẫn chiếu có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của một
nước khác, thay vì áp dụng chính hệ thống pháp luật của nước được dẫn chiếu30.
Khi một quốc gia chấp nhận dẫn chiếu toàn bộ hệ thống pháp luật nước
ngoài, bao gồm cả quy phạm xung đột của nước đó, thì có thể phát sinh hiện
tượng dẫn chiếu ngược hoặc dẫn chiếu đến nước thứ ba. Ngược lại, nếu một
quốc gia chỉ chấp nhận dẫn chiếu phần luật thực định của nước ngoài mà không
bao gồm quy phạm xung đột của nước đó, thì các hiện tượng trên không thể
xảy ra. Khi đó, tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng trực tiếp các
quy định của luật thực định nước ngoài mà không cần xét đến hệ thống quy
phạm xung đột của nước đó.
Việc một quốc gia chấp nhận dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến nước
thứ ba phụ thuộc vào chính sách lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật. Các
quốc gia theo Civil Law như Pháp, Đức thường chấp nhận dẫn chiếu toàn bộ35,
tức là khi dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài, họ sẽ dẫn chiếu cả phần quy
phạm xung đột và phần pháp luật thực định của nước đó. Ngược lại, một số
quốc gia theo hệ thống Common Law như Anh và Hoa Kỳ thường chỉ chấp
nhận dẫn chiếu đến phần luật thực định31 của nước ngoài, nghĩa là họ chỉ áp 27 28 29
30 Vấn đề dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba trong tư pháp quốc tế - Lý Vân Anh 35
31 The Contracts (Applicable Law) Act 1990 (Amendment) Order 1994; Chapter 8, Restatement of the Law
Second, Conflict of Laws (1988) lOMoAR cPSD| 58794847
dụng các quy định nội dung của pháp luật nước ngoài mà không xem xét quy
phạm xung đột của nước đó.
Pháp luật Việt Nam quy định về dẫn chiếu tại Điều 668 Bộ luật Dân sự
2015, cho phép dẫn chiếu toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài, bao gồm cả
quy phạm xung đột, dẫn đến khả năng xảy ra dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến
pháp luật của nước thứ ba. Khi dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam, chỉ áp dụng
pháp luật thực định của Việt Nam. Khi dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba,
chỉ phần pháp luật thực định của nước đó được áp dụng. Quan điểm của Việt
Nam về dẫn chiếu đảm bảo tính linh hoạt nhưng vẫn giữ vững chủ quyền pháp
lý và hạn chế phức tạp trong xét xử.
2.2.2. Các trường hợp ngoại lệ:
Hai trường hợp chính không xuất hiện hiện tượng dẫn chiếu ngược hoặc
dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba đó là: khi áp dụng quy phạm xung đột
thống nhất và khi các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng37.
Thứ nhất, đối với quy phạm xung đột thống nhất, khi các quốc gia ký kết
điều ước quốc tế có quy định về hệ thống luật áp dụng, điều này đồng nghĩa với
việc các bên đã thống nhất về luật áp dụng mà không cần dẫn chiếu thêm. Điều
này loại bỏ hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến nước thứ ba. Pháp
luật Việt Nam hiện không có quy định cụ thể về vấn đề này, nhưng theo bản
chất của quy phạm xung đột thống nhất, hiện tượng dẫn chiếu ngược khó có thể xảy ra38.
Thứ hai, khi các bên có quyền lựa chọn pháp luật áp dụng, chỉ phần luật
thực định của hệ thống pháp luật được lựa chọn sẽ áp dụng, không bao gồm các
quy phạm xung đột. Điều này được quy định tại khoản 4 Điều 668 Bộ luật Dân
sự 2015. Do đó, pháp luật Việt Nam không chấp nhận dẫn chiếu 37 38 lOMoAR cPSD| 58794847
ngược hoặc dẫn chiếu đến nước thứ ba trong trường hợp các bên đã thỏa thuận
tự do về luật áp dụng, nhằm bảo vệ ý chí các bên và đảm bảo tính chắc chắn
trong giao dịch dân sự quốc tế.
2.3. Lẩn tránh pháp luật
2.3.1. Khái niệm lẩn tránh pháp luật:
Trên thực tế, sự khác biệt về hệ thống pháp luật giữa các quốc gia bắt
nguồn từ yếu tố văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, dẫn đến cách tiếp cận khác
nhau đối với cùng một vấn đề pháp lý. Vì vậy, một quan hệ pháp luật có thể
được điều chỉnh theo nhiều hướng khác nhau tùy vào hệ thống pháp luật được
áp dụng. Do đó, khi tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các bên đặc
biệt quan tâm đến hệ thống pháp luật áp dụng, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích của họ. Đây cũng là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến hiện tượng
lẩn tránh pháp luật trong tư pháp quốc tế. Về cơ bản, lẩn tránh pháp luật là việc
các đương sự bằng các hành vi của mình để đạt được mục đích là áp dụng hệ
thống pháp luật có lợi nhất cho mình32.
Lẩn tránh pháp luật có thể diễn ra theo hai cách chính. Trường hợp thứ
nhất, các chủ thể tìm cách để bỏ qua việc áp dụng quy phạm xung đột33. các chủ
thể cố tình thay đổi hoàn cảnh pháp lý để tránh bị điều chỉnh bởi quy phạm
xung đột. Trường hợp thứ hai, các chủ thể không bỏ qua sự điều chỉnh của quy
phạm xung đột nhưng làm thay đổi phạm vi hoặc uốn sự điều chỉnh của QPXĐ theo hướng có lợi34.
2.3.2. Quan điểm liên quan đến tính hợp pháp của lẩn tránh pháp luật: Nhiều
quốc gia và hệ thống pháp luật coi lẩn tránh pháp luật là hành vi vi phạm pháp
luật, đi ngược lại tinh thần của pháp luật, dù có thể không vi phạm trực tiếp quy
phạm pháp luật nào35. Quan điểm này cho rằng cần bảo vệ trật tự công của quốc
gia, vì nếu cho phép lẩn tránh pháp luật, quy định pháp luật của quốc gia có thể 32 33 34
35 Tư pháp quốc tế Việt Nam lOMoAR cPSD| 58794847
bị vô hiệu hóa trên thực tế. Ngoài ra, việc đảm bảo công bằng trong hệ thống
pháp luật là điều cần thiết, bởi nếu các cá nhân, tổ chức có thể tự do lựa chọn
luật có lợi nhất, hệ thống pháp luật sẽ mất đi tính thống nhất và khách quan.
Một số hệ thống pháp luật còn cho phép tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền
bác bỏ hành vi lẩn tránh pháp luật nếu phát hiện dấu hiệu gian lận.
Thực tiễn ở nước ta về hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong TPQT hầu như
chưa có quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý.
Tuy nhiên, một số quan điểm khác cho rằng, nếu hành vi lẩn tránh pháp luật
không vi phạm trực tiếp bất kỳ quy định nào, thì đó là quyền của cá nhân, tổ
chức được làm những điều mà pháp luật không cấm. Việc thực hiện quyền lựa
chọn pháp luật áp dụng là một phần quan trọng trong nhiều quan hệ dân sự
thương mại quốc tế, nơi các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng phù hợp với
lợi ích của mình. Nếu pháp luật không có quy định cấm cụ thể, thì hành vi thay
đổi yếu tố kết nối không thể bị coi là bất hợp pháp. Hơn nữa, trong bối cảnh
toàn cầu hóa, việc cá nhân và doanh nghiệp tìm kiếm môi trường pháp lý thuận
lợi hơn là điều tất yếu. KẾT LUẬN