Hình thái kinh tế xã hội - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Trước khi đi vào phân tích “Sự phát triển của hình thái KT - XH là quátrình lịch sử tự nhiên” cần phải hiểu hình thái KT - XH là gì, kết cấu của nó như thếnào? Hình thái KT - XH là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giaiđoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1, Hình thái KT - XH
Trước khi đi vào phân tích “Sự phát triển của hình thái KT - XH là quá
trình lịch sử tự nhiên” cần phải hiểu hình thái KT - XH là gì, kết cấu của nó như thế
nào? Hình thái KT - XH là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến thức thượng tầng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất Êy. Tất nhiên những mặt trên là cơ bản,
ngoài ra hình thái KT - XH còn bao gồm cả những quan hệ về dòng tộc, gia đình, lịch
sử và các quan hệ khác quan hệ trên đây có vai trò độc lập nhất định, đồng thời cũng
bị chi phối bởi những điều kiện vật chất kinh tế cụ thể và những quan hệ cơ bản khác của xã hội
Như vậy, về cơ bản cấu trúc của hình thái KT - XH bao gồm: lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Ngoài ra cấu trúc hình thái KT XH còn có thêm
các quan hệ về dân tộc, gia đình và các loại quan hệ xã hội khác. Vậy thì 3 mặt cơ bản
của hình thái KT - XH cụ thể là gì?
Trước khi lo nghĩ đến những vấn đề chính trị, nghệ thuật, khoa học,... thì nhu cầu tối
thiểu của một con người là phải ăn, uống, ở, mặc. Đây là những nhu cầu đơn giản nhất
nhưng là thiết yếu nhất để con người có thể tồn tại. Tại sao lại bàn đến con người ở
đây. Bởi con người chính là trung tâm, là nguyên nhân, là một trong những nhân tố
tạo nên hình thái KT - XH. Những thứ cơ bản cho nhu cầu tồn tại của con người hoàn
toàn không có sẵn trong tự nhiên, mà con người muốn sống phải sáng tạo lại hiện
thực, những sản phẩm cần thiết để sống phải được tạo ra chứ không có trong tự nhiên
dưới dạng trực tiếp sẵn có. Sống là phải sáng tạo và sáng tạo một cách thực tiễn hay
nói cách khác là phải sản xuất để mà sống.
Mỗi mét con người có sự suy nghĩ sáng tạo khác nhau, nên cách thức sáng tạo làm
việc khác nhau, vì vậy mỗi xã hội lại có phương thức sản xuất khác nhau. Phương
thức sản xuất là cách thức sản xuất ra của cải vật chất mà trong đó lực lượng sản xuất
đạt đến một trình độ nhất định, thống nhất với các quan hệ sản xuất tương ứng với nó.
+ Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành
trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất gồm có đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động là
những cái mà con người muốn tác động vào để biến nó trở thành những sản phẩm con
người mong muốn. Nó là toàn bộ những tài nguyên thiên nhiên có sẵn mà con người
đã, đang và sẽ trực tiếp sử dụng và đưa vào sản xuất;
nó còn là những sản phẩm không có sẵn trong tự nhiên mà do con người bằng lao
động của mình đã tạo ra như: các loại hoá chất, sợi tổng hợp, các chất hợp kim, các
loại nguyên vật liệu mới, giống và cây con mới. Con người không bao giê chỉ bằng
lòng với những thứ đang hiện có, việc tìm kiếm ra những đối tượng lao động mới, việc
tạo ra những sản phẩm mới luôn là động lực cuốn hút mọi hoạt động sáng tạo của con
người. Vì vậy đối tượng lao động luôn luôn được biến đổi, đổi mới không ngừng.
Tư liệu lao động chính là công cụ lao động (máy móc, thiết bị, hệ thống công nghệ,...)
để con người tác động vào đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm mà mình
mong muốn. Ngoài ra, tư liệu lao động còn có cả phương tiện lao động, đó là những
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình sản xuất như: nhà xưởng, kho bãi, bến
cảng, sân ga, phương tiện liên lạc, đường xá, cầu cống,... Tư liệu lao động luôn luôn
được cải thiện, biến đổi theo sự phát triển sáng tạo của con người. Chính công cụ lao
động và phương tiện lao động là cơ sở để đánh giá sự phát triển của mỗi thời đại kinh
tế, mỗi chế độ chính trị xã hội. Người lao động là nhân tố trung gian nối kết tư liệu lao
động với đối tượng lao động. Nếu một xã hội dự cú tư liệu lao động hiện đại đến đâu
không có người lao động thì tác dụng tích cực của tư liệu lao động cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Hơn nữa, tư liệu lao động cũng là do con người lao động tạo ra. Chính vì vậy
con người luôn cần được quan tâm giáo dục và đào tạo để phát huy sức mạnh trí tuệ của mình.
+ Quan hệ sản xuất là toàn bộ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. Nó thể hiện ở 3 mặt quan hệ cơ bản: quan hệ
sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất; quan hệ
phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt kinh tế nói trên là một thể thống nhất hữu cơ,
tạo thành quan hệ sản xuất, trước đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa
quyết định đối với các mặt quan hệ khác. Quan hệ sản xuất cũng thay đổi tuỳ thuộc
vào trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của con người,
chứ không phụ thuộc vào ý thức của con người. Sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau
giữa quan hệ sản xuất với tích chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trong những quy luật cơ bản nhất của đời sống xã hội. Tính chất của lực lượng sản
xuất là tính chất của tư liệu và sức lao động. Khi công cụ sản xuất được sử dụng bởi
từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội, không cần đến lao
động của nhiều người thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội. Trình độ của lực
lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện đại của công cụ sản xuất;
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng, kỹ xảo của người lao động, trình độ phân
công lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động
càng sâu. Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thước đo trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
+ Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương
ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định. Toàn bộ tư tưởng xã hội là chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, khoa học,...
trong đó hệ tư tưởng chính trị, pháp luật là sự phản ánh trực tiếp cơ sở hạ tầng và có vị
trí chi phối toàn bộ đời sống tư tưởng xã hội. Những tổ chức thiết chế tương ứng bao
gồm cơ quan quản lý Nhà nước các cấp từ Trung ương tới địa phương, bộ máy bạo
lực, quan đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,... các Đảng phái chính trị, các tổ chức tôn giáo,
và tổ chức quần chúng khác. Những mối quan hệ nội tại giữa các bộ phận của kiến
trúc thượng tầng với nhau trong đó quan trọng hơn cả là mối quan hệ giữa hệ tư tưởng
chính trị với bộ máy quản lý Nhà nước; hệ tư tưởng chính trị, bộ máy quản lý Nhà
nước với các tổ chức chính trị xã hội, các lĩnh vực khác nhau của đời sống tinh thần.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những mối quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái KT - XH nhất định. Cơ sở hạ tầng chính là tổng hợp các kiểu quan hệ
sản xuất, đó là những quan hệ vật chất, l cơ sở kinh tế của đời sống xã hội. Trong xã
hội có giai cấp, tính chất đối kháng về mặt kinh tế của cơ sở hạ tầng chính là cơ sở nảy
sinh những đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp nào thống trị về kinh tế sẽ
thống trị về chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tinh thần đối với xã hội, trong
đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý Nhà nước có vị trí quan trọng nhất. Cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng. Và kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối,
tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
2 ,Sự phát triển của hình thái KT - XH
Nhân loại đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau tương ứng với mỗi giai đoạn lại là
một hình thái KT - XH nhất định. Các hình thái KT - XH vận động, phát triển và thay
thế lẫn nhau đều do tác động của các quy luật khách quan, trong đó quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất một
trong những quy luật quan trọng nhất đó là quá trình phát triển tự nhiên của lịch sử.
Trong bộ “Tư bản” và các tác phẩm khác của Mác, theo Mác, sự phát triển
của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, trong đó bản thân con
người làm ra lịch sử của mình, nhưng không phải con người làm ra lịch sử một
cách tuỳ tiện, một sự lựa chọn tuỳ ý, mà làm ra lịch sử phụ thuộc vào toàn bộ sự
phát triển đã qua của sinh hoạt vật chất của xã hội. Ngay cả sinh hoạt tinh thần
của xã hội cũng phản ánh sinh hoạt vật chất của xã hội. Từ đó Mác & Ăng ghen đã
nêu lên hàng loạt những quy luật chi phối xã hội, đó là quy luật về quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật về
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, về cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc hạ tầng.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán chính trị kinh tế học”, Mác viết:
“Trong sản xuất xã hội, để cung cấp cho đời sống của mình, con người hình
thành những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc vào ý chí của mình -
những quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của những
lực lượng sản xuất vật chất của mình. Tập hợp những quan hệ sản xuất ấy hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội cơ sở hiện thực trên đó dựng lên kiến trúc
thượng tầng về pháp lý và chính trị và phù hợp với cơ sở đó là những hình thái
nhất định của ý thức xã hội. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định
quá trình đời sống xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Nhưng trong phương
thức sản xuất thì công cụ lao động đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, còn con người - người công nhân giữ vai trò quyết định cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất ổn định tương đối, ngày càng mâu
thuẫn với lực lượng sản xuất không ngừng phát triển được biểu hiện về mặt xã
hội, là mâu thuẫn giai cấp dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là
động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng.
Do phải duy trì sự sống và bảo đảm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của
mình, con người phải phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất tuy được
tạo ra bằng năng lực thực tiễn của con người, song không phải con người làm ra
theo ý muốn chủ quan. Người ta làm ra lực lượng sản xuất của mỡnh dựa trờn
những lực lượng sản xuất đã đạt được trước đó. Lực lượng sản xuất phát triển
kéo theo quan hệ sản xuất phải thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất do lực lượng
sản xuất quyết định, nhưng đến lượt nó, quan hệ sản xuất lại quy định các quan
hệ khác của xã hội như quan hệ về chính trị, tư tưởng pháp quyền, đạo đức, khoa
học,... Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ
dẫn đến cách mạng xã hội thay thế quan hệ sản xuất cũ và dẫn đến sự thay đổi
toàn bộ các quan hệ sản xuất khác. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chi phối toàn bộ quá trình
phát triển của lịch sử. Nó quyết định sự thay thế của các phương thức sản xuất,
quyết định sự hình thành và biến đổi của các hình thái KT - XH.
Có thể lấy ví dụ đơn giản về sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Ở những công ty bánh kẹo bây giờ thì hầu hết trước đây đều sản
xuất mì sợi. Do nhu cầu con người, do sự sáng tạo, phát triển của con người, do
những yếu tố khách quan thay đổi, công ty chuyển sang sản xuất bánh kẹo. Đây
là một lĩnh vực sản xuất khác vì vậy đòi hỏi phải có phương thức sản xuất khác,
đối tượng lao động thay đổi yêu cầu tư liệu lao động cũng phải thay đổi, và trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của con người cũng phải được thay đổi làm cho quan
hệ sản xuất thay đổi theo.
Hình thái KT - XH cò bao giê cũng thai nghén, tạo tiền đề, tổ chức để cho
hình thái KT - XH mới ra đời từ trong lòng nó dưới các dạng và mức độ khác
nhau. Đối với triết học biện chứng thì không có hình thái nào là tối hậu, là tuyệt
đối, là thiêng liêng cả, tất cả đều quá độ, đều dẫn đến cái khác theo sự phát triển của tiến bộ xã hội.
Lịch sử nhân loại là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái KT - XH, song
không vì vậy mà cho rằng sự phát triển và thay thế các hình thái KT - XH ở mọi
quốc gia, mọi lục địa đều diễn ra giống nhau và tiến trình như nhau. Lịch sử
không phát triển theo đường thẳng và ở mỗi nước khác nhau có thể sẽ có những
hình thái KT - XH và trình độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên mỗi nước không
phải là sự phát triển riêng biệt, sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng
được diễn ra dưới nhiều hình thức sẽ có tác động quan trọng đến sự phát triển
của các dân tộc và của lịch sử nói chung. Tính chất không đồng đều này biểu
hiện ở một số dân tộc tiến lên phía trước, một số dân tộc khác lại ngưng trệ do
rất nhiều nguyên nhân chi phối, một số nước do những điều kiện cụ thể lại bỏ
qua một hình thái kinh tế đó.
Như vậy lịch sử là một thể thống nhất, nhưng rất đa dạng và nhiều vẻ, chứa
đựng trong các hình thái KT - XH khác nhau. Nó vận động từ thấp tới cao theo
những nguyên nhân nội tại của nó, bởi tính logic khách quan tất yếu của lịch sử quy định.
3,Thực trạng KT - XH ở Việt Nam, phương hướng và giải pháp
Cú mét số quan điểm cho rằng theo lý thuyết hình thái KT - XH thì Việt
Nam không thể đi lên CNXH được. Và có đi lên theo ý nghĩa của Lênin thì
những điều kiện như Lênin nêu ra Việt Nam hiện cũng không có. Hơn nữa, kinh
tế thị trường không thể đi đôi với CNXH.
Đây là cách tư duy so sánh tình thức không gắn với hiện thực lịch sử. Sự
phát triển của hình thái KT - XH của mỗi nước là do sự tác động của rất nhiều
yếu tố cụ thể của từng quốc gia dân tộc và thời đại. Không có cái chung nào tồn
tại ngoài cái riêng, do đó mỗi quốc gia dân tộc thể hiện cái chung qua những
hoàn cảnh cụ thể của mỡnh. Các sự kiện diễn ra và các chế độ xã hội hình thành
và phát triển là do sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và chính trị tư tưởng trên quy mô dân tộc và thời đại lúc đó. Việc bỏ qua một số
hình thái KT - XH trong lịch sử của nhiều dân tộc là một khả năng thực tế được
tạo nên do chính các quy luật chung nhất của vận động lịch sử cùng tác động
trên mọi quy mô đã được vạch ra trong lý luận về hình thái KT - XH của chủ
nghĩa Mác. Tách cái trừu tượng khỏi cái cụ thể là một thứ tư duy hình thức
thuần tuý do vậy đã không hiểu đúng ý Mac - Lênin đó khẳng định rằng quy
luật chủ yếu không phải là trật tự trước, sau mà là quan hệ tác động qua lại. Do
đó, nếu ở một nước lực lượng sản xuất phát triển chưa cao nhưng trong những
tác động chung của thời đại và hoàn cảnh chính trị trong nước cho phép, nhân
dân lao động có thể nắm lấy chính quyền và từ chính quyền đó có thể tạo ra các
điều kiện văn minh để hình thành chế độ mới.
Theo Lênin, những nước còn ở trình độ phát triển quá thấp muốn quá độ
lên CNXH phải có 3 điều kiện. Thực tế cho thấy một số nước phát triển hoặc
tương đối phát triển xây dựng thành công CNXH và đặc biệt chú ý, những năm
gần đây Việt Nam đã giải quyết thành công các điều kiện trên bằng những mối
quan hệ quốc tế mới cả về vật chất lẫn trí tuệ. Trí tuệ người Việt Nam ngày nay
không phải chỉ từ bài học của mình mà từ cả những giá trị chung của nhân loại
đã đạt được trong nền văn minh đương đại.
Tin tưởng sắt đá vào nguyên lý phát triển macxit, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Chủ nghĩa xã hội là đường đi tất yếu của lịch sử nhân loại. Người viết:
“Loài người đã trải qua sự phát triển từ xã hội nguyên thủy sang xã hội chiếm
hữu nô lệ, xã hội phong kiến rồi đến xã hội tư bản, xã hội tư bản với bản chất vô
nhân đạo và đầy mâu thuẫn trong lòng nó, cũng giống như những quy luật của
lịch sử xã hội, xã hội tư bản sẽ chuyển sang xã hội chủ nghĩa - cộng sản chủ
nghĩa” (Hồ Chí Minh - Toàn tập, T7 - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội một 996,
trang 246). Tư tưởng sâu xa của HCM không chỉ là ở sự lựa chọn
hướng đi của dân tộc phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Giá trị nhân
văn trong cách nhìn mới của HCM là ở chỗ người xem xã hội XHCN là hướng
đi tối ưu của loài người. Chính vì vậy, ngay từ khi đất nước còn chìm đắm trong
vòng nô lệ, HCM đã quyết chọn con đường cách mạng dân quyền để thực hiện
dân sinh, tiến lên CNXH. CNXH, với bản chất nhân đạo và đầy sức sống của nó,
nơi thể hiện lý tưởng cao đẹp của con người, có khả năng tự tạo ra sức mạnh nội
sinh để thúc đẩy xã hội đi lên phù hợp với lý tưởng chân chính của nhân dân
Việt Nam. Độc lập dân tộc & CNXH đã trở thành những lời xuyên suốt lý tưởng
xây dựng XH mới và triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh.
Xã hội XHCN với bản chất và sức sống của nó thì chỉ có thể thực hiện
được trên cơ sở một Nhà nước vững mạnh của dân, do dân và vỡ dõn. Đó là một
Nhà nước do nhân dân làm chủ. Chính phủ là cơ quan Nhà nước cao nhất tập
trung quyền lực của nhân dân do nhân dân giao phó vận hành theo cơ chế pháp
quyền, thực hiện mọi trách nhiệm vì cuộc sống của nhân dân. Cán bộ là người
đại diện cho ý chí của nhân dân, là công bộc của dân. Một Nhà nước như vậy sẽ
là nơi tập trung và thể hiện toàn bộ sức mạnh của nhân dân, tạo ra sức mạnh xã hội.
Kinh tế quyết định chính trị, chính trị tập trung ở kinh tế. Vì vậy cần phải
tăng cường phát triển kinh tế cho đất nước, ngày càng phải quan tâm đến vấn đề
hợp tác hoá nhiều hơn để quy tụ sức mạnh toàn dân trong xây dựng nền kinh tế
mới, cải tạo quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, từng bước công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Tóm lại cần phải có một nền kinh tế vững mạnh, do nhân dân lao động làm
chủ đất nước và làm chủ kinh tế để bảo đảm cho đất nước phát triển.
Kinh tế là nền tảng và là yếu tố hàng đầu của phát triển xã hội thì văn hoá khoa học -
giáo dục là nguồn lực nội sinh từ thượng tầng kiến trúc tác động đến
tận hạ tầng cơ sở, tạo nên sự vận động của tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội.
Vì vậy, cần phải thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng
suất lao động, tạo động lực chuyển biến nền KT - XH, thay đổi quan hệ sản
xuất, quan hệ xã hội, góp phần làm chuyển chất xã hội và đưa xã hội đi theo con đường XHCN.
Phát triển khoa học - kỹ thuật tất yếu gắn liền với giáo dục - đào tạo con
người. Con người là nội lực quyết định nhất của lực lượng sản xuất; nó là chủ
thể tạo ra, đồng thời sử dụng khoa học - kỹ thuật, điều hành toàn bộ quá trình xã
hội. Vì vậy mà Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Muốn xây dựng CNXH phải có con
người xã hội chủ nghĩa” - “Những con người vừa hồng vừa chuyên”. Sức mạnh
của một dân tộc là tri thức, là trí tuệ “Một dân tộc dốt là dân tộc yếu”. Phải diệt
giặc dốt, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài. Dân trí là điều
kiện để thực hiện văn hoá - xã hội, tạo tiềm năng trí tuệ và sức vươn lên một xã hội nhân văn.
Sức sống của phát triển lâu bền chỉ có được khi một xã hội phát huy cao độ
các yếu tố sức mạnh truyền thống và cái mới hiện đại. Sự gắn bó hài hòa truyền
thống - hiện đại là nguyên tắc của phát triển. Bởi ở đó, tương lai được tiếp sức từ
nguồn sống của quá khứ và của hiện tại. Truyền thống là tinh hoa và sức mạnh
kết tụ từ ngàn đời của một dân tộc. Nú làm cơ sở cho xã hội truyền thống đi vào
hiện đại. Hiện đại nâng cao truyền thống - đó là sức mạnh và sức bền của phát triển.
Yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế được thể hiện qua quan hệ riêng chung
trong triết lý phát triển xã hội. Dân tộc là bộ phận của quốc tế. Một dân tộc phải
nằm trong và rùa vào nhiều dân tộc khóc như là quan hệ tất yếu tự nhiên mới có
thể cùng tồn tại và trưởng thành. Xu thế và hoàn cảnh quốc tế là điều kiện quan
trọng cho sự tồn tại và phát triển của một quốc gia. Vì vậy, cần phải học hỏi hợp
tác quốc tế, giao lưu văn hoá xã hội với thế giới để đất nước có điều kiện tiến xa và nhanh hơn nữa.
Yếu tè tự nhiên cũng hết sức quan trọng đối với sự phát triển đất nước, nó
là một trong những yếu tố của đối tượng lao động. Vì vậy cần phải biết khai thác
hợp lý các tài nguyên, đảm bảo tái sản xuất, đảm bảo không gây ô nhiễm môi
trường. Đảm bảo cho sức khỏe con người - điều kiện quan trọng cho sức mạnh của một quốc gia.