



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60791848
PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Học thuyết đó vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã
hội, vạch ra phương pháp luận duy nhất khoa học để nhận thức và cải tạo xã hội. Đây
là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chỉ đạo các chính đảng và nhà nước vô sản
xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở khoa học
của việc xác định con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu nắm vững lý luận hình thái kinh tế -
xã hội là vấn đề cơ bản, quan trọng đối với cán bộ trung, cao cấp của Đảng ta.
1. Bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
I.1. Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội
Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người. Đó
là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thoả
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá trình sản xuất diễn ra trong xã
hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực. Sự sản xuất xã hội bao gồm ba phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người.
Ph.Ăngghen khẳng định: "… theo quan nịêm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết
định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc
luận điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người
đó đã biến lời khằng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”1.
1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1997, t. 37, tr. 641 lOMoAR cPSD| 60791848
Các phương diện của sự sản xuất xã hội không tách rời nhau, không thể thiếu
phương diện nào. Mỗi phương diện có vị trí, vai trò khác nhau, trong đó sản xuất vật
chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, và xét đến
cùng quyết định toàn bộ sự vận động đời sống xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra
của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Triết học Mác - Lênin khẳng định, vai trò của sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng
của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Trước hết, sản xuất vật chất là tiền đề
trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người “nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển
của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói riêng. Theo Ph. Ăngghen:
"Cái sự thật hiển nhiên mà cho mãi đến lúc đó người ta vẫn bỏ quên mất, là trước hết
con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu
tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học,
v.v."1. Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người. Hoạt động
sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người, từ đó hình thành nên các quan hệ xã hội khác. Nhờ sự sản xuất ra của cải vật
chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người đã đồng thời sáng tạo ra
toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và
phức tạp của nó. Sản xuất vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho
hoạt động tinh thần của con người và duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh thần
của xã hội. Ph. Ăngghen chỉ rõ: "… việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất
trực tiếp ... tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các
quan điểm pháp quyền, nghệ thụt và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta"2.
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người. Nhờ hoạt
động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình
cảm, đạo đức…Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản quyết định nhất hình thành, phát
triển phẩm chất xã hội của con người. Chính vì vậy, Ph.Ăngghen khẳng định rằng, trên
một ý nghĩa cao nhất, lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người. Như vậy, nhờ
1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 19, tr. 166
2 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 19, tr. 50. lOMoAR cPSD| 60791848
lao động sản xuất mà con người tách khỏi tự nhiên, hoà nhập với tự nhiên, cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần.
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người là
một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Do đó, để giải thích mỗi hiện
tượng của xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất, từ nền sản xuất vật chất xã hội.
Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần. Sự nghiệp xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng, xét đến cùng phụ thuộc vào sự phát triển của nền
sản xuất vật chất xã hội. Phát triển kinh tế là cơ sở, nền tảng cho xây dựng quân đội.
Ph.Ăngghen khẳng định: "Không có gì lại phụ thuộc vào tiền đề kinh tế hơn là chính
ngay quân đội và hạm đội "1. “Toàn bộ việc tổ chức, phương thức tác chiến và do đó
thắng lợi hay thất bại của quân đội đều phụ thuộc vào điều kiện vật chất, có nghĩa là
điều kiện kinh tế”3.
1.2. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất
định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình, đó là phương thức
sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất
là cái mà nhờ đó mà người ta có thể 3
phân biệt được sự khác nhau của các thời đại kinh tế khác nhau. Thời đại đồ đá, đồ
đồng, đồ sắt, văn minh công nghiệp, văn minh tin học. C. Mác khẳng định: “ Những
thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”2.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
các khái niệm chỉ “quan hệ song trùng" của nền sản xuất vật chất của xã hội: quan hệ
giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với nhau.
1 Ph. Ăngghen, Tuyển tập luận văn quân sự, Nxb QĐND. H. 1982, tập 1, tr. 20 3 Ph.
Ăngghen, Tuyển tập luận văn quân sự, Nxb QĐND. H. 1982, tập 1, tr. 27
2 C. Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1993, t. 23, tr. 269 lOMoAR cPSD| 60791848
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động có kinh nghiệm,
kỹ năng và tri thức nhất định với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo ra
sức sản xuất và năng lực chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất là
phương thức kết hợp giữa lao động sống với lao động vật hóa. Quan hệ sản xuất là tổng
hợp các quan hệ kinh tế vật chất giữa người với người trong quá trình sản xuất, bao
gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao
đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Các mặt trong quan
hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và tính chất
của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan hệ
đầu tiên, cơ bản, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản
xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,
quan hệ sản xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lương sản xuất.
Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội. lOMoAR cPSD| 60791848
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng
động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập tương đối. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản
xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng (cả tính chất và trình độ)
sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ
chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở thành
“xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Con người bằng năng lực
nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm
cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn. Sự tác động biện chứng
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch
sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Lịch sử xã hội
loài người phát triển từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ qua phương thức
sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản
xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xoá bỏ một
quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành
chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách
quan của quy luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí. Nhận thức
đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng ta.
1.3 . Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Cấu trúc của cơ sở
hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất lOMoAR cPSD| 60791848
mầm mống. Mỗi quan hệ sản xuất có vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó, quan hệ sản
xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội với những thiết chế xã
hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định. Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan
điểm, tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… cùng
những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và
tổ chức xã hội khác Các yếu tố về quan điểm, tư tưởng và thiết chế xã hội cùng với
những quan hệ nội tại của chúng hợp thành kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy
luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng là hai mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện chứng, trong đó cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại
to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Thực chất sự hình thành, vận động và phát triển
của các quan điểm, tư tưởng cùng với những thể chế chính trị xã hội tương ứng, phụ
thuộc vào quá trình sản xuất và tái sản xuất các quan hệ kinh tế.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế, quyết
định tính tất yếu chính trị - xã hội. Cơ sở hạ tầng quyết định sự ra đời (nguồn gốc) của
kiến trúc thượng tầng; quyết định cơ cấu của kiến trúc thượng tầng; quyết định tính
chất của kiến trúc thượng tầng; quyết định sự vận động, phát triển của kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối. Ý thức, tinh thần khi ra đời, tồn tại có
quy luật vận động nội tại của nó. Vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh
vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế.
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó;
ngăn chặn cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xoá bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ
chức, xây dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng. Thực chất vai trò kiến trúc
thượng tầng là bảo vệ duy trì, củng cố lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị xã hội. lOMoAR cPSD| 60791848
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính
trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Quan hệ kinh tế quyết
định địa vị kinh tế của các giai cấp khác nhau. Giai cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị
về chính trị. Lợi ích kinh tế, xét đến cùng là nguyên nhân của những hành động chính
trị. Tính tất yếu kinh tế sẽ quyết định tư tưởng chính trị và tổ chức chính trị tương ứng.
Sự vận động biến đổi của các quan hệ kinh tế sẽ quyết định sự thay đổi ít nhiều nhanh
chóng của tổ chức chính trị- xã hội. Giai cấp nào thống trị chính trị, phải hoàn thành
nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực kinh tế. Mặt khác, giai cấp thống trị xã hội phải có
lập trường chính trị, tư tưởng chính trị đúng mới hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo trong
lĩnh vực kinh tế. Mọi biến đổi trong chế độ kinh tế phải thông qua kiến trúc thượng
tầng về chính trị, thông qua đường lối, quan điểm của đảng cầm quyền, của giai cấp
thống trị, chính sách, pháp luật của nhà nước. Lợi ích trọng yếu của giai cấp thống trị
chỉ được thoả mãn bằng cuộc cách mạng về chính trị (nắm được quyền lực chính trị là
điều kiện tiên quyết cho thực thi quyền lực kinh tế). Sự tác động của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng, trước hết và chủ yếu thông qua đường lối, chính sách của
đảng, nhà nước. Chính vì vậy, V.I. Lênin viết: lOMoAR cPSD| 60791848
"Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế ... Chính trị không thể không chiếm địa
vị hàng đầu so với kinh tế "1.
Trong nhận thức và thực tiễn nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào giữa
kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Tuyệt đối hoá kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố
chính trị là rơi vào quan điểm duy vật tầm thường. Trong thực tiễn sẽ dẫn đến vô chính
phủ, bất chấp kỷ cương, pháp luật và không tránh khỏi thất bại. Nếu tuyết đối hoá về
chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn
nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn và tất yếu cũng không tránh khỏi thất bại. Quân đội
là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng về chính trị, có vai trò đặc biệt quan trọng, là
một cột trụ của chế độ xã hội chủ nghĩa, có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ
hệ tư tưởng Mác - Lênin giữ vững ổn định chính trị. Quân đội góp phần xây dựng kinh
tế các doanh nghiệp quân đội góp phần giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Phạm trù hình thái kinh tế xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định, bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động,
phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản,
chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội,
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1977, t. 42, tr. 349
đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác
nhau. Kiến trúc thượng tầng thể hiện bộ mặt tinh thần của xã hội. lOMoAR cPSD| 60791848
Ba yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tác động
qua lại một cách biện chứng, hình thành sự vận động tổng hợp của hai quy luật cơ bản:
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy
luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Sự vận động, phát triển của xã hội bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất mà
trước hết là sự phát triển của công cụ sản xuất, của về tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng
của người lao động. Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo khả năng, điều
kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Sự phù hợp
biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yêu
cầu khách quan của nền sản xuất xã hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất, đòi
hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát
triển về chất của quan hệ sản xuất, tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ sở hạ
tầng xã hội. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển
căn bản (nhanh, chậm, ít, nhiều) của kiến trúc thượng tầng xã hội. Hình thái kinh tế xã
hội cũ mất đi, hình thái kinh tế xã hội mới, tiến bộ hơn ra đời. Cứ như vậy lịch sử xã
hội loài người là một tiến trình lịch sử tự nhiên nối tiếp nhau từ thấp đến cao của các
hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thống nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến
với quy luật đặc thù và quy luật riêng của lịch sử xã hội. C. Mác viết: "Tôi coi sự phát
triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"1.
Hình thái kinh tế xã hội cộng chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử
xã hội. Phát triển là xu hướng tất yếu, cơ bản của lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa
tư bản không phải là nấc thang phát triển cuối cùng của xã hội loài người. Chính những
mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản đã quyết định sự vận động, phát triển của
xã hội loài người. Những
C. .Mác và Ph Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1993, t. 23, tr. 21
tiền đề vật chất cho sự vận động, phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội
tư bản. Đó là lực lượng sản xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô
sản tiên tiến, cách mạng, đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Sự thay thế hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. lOMoAR cPSD| 60791848
Xu hướng chung của sự vận động , phát triển lịch sử xã hội, loài người là do sự
chi phối của quy luật khách quan (thống nhất giữa cái chung với cái đặc thù và cái
riêng), là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lôgíc của toàn bộ tiến trình lịch sử loài
người là sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là con
đường tất yếu của tiến bộ lịch sử. Mặt khác, sự phát triển của xã hội loài người còn
mang tính lịch sử. Các hình thái kinh tế - xã hội như những trạng thái khác nhau về
chất trong tiến trình lịch sử (với các tiêu chí về sự phát triển của lực lượng sản xuất,
kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng). Sự phát triển phong phú, nhiều vẻ,
đa dạng, phức tạp của các hình thái kinh tế- xã hội cụ thể của các giai đoạn xã hội, các
quốc gia, dân tộc cụ thể. Bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí những bước thụt
lùi lớn, khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định..
V.I.Lênin viết: “Tính quy luật chung của sự phát triển lịch sử toàn thế giới đã không
loại trừ mà trái lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm về
hình thức hoặc về trật tự của sự phát triển đó”1. Tiến trình lịch sử xã hội loài người là
kết quả của sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội có giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa
cách mạng. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc cách mạng trong
toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Đây là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật
về lịch sử xã hội, bác bỏ quan niệm duy tâm, phi lịch sử về xã hội trước đó, trở thành
hòn đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương pháp luận khoa học và cách mạng cho
sự phân tích lịch sử xã hội. Lý luận hình thái kinh tế xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1974, t. 45, tr. 431. lOMoAR cPSD| 60791848
loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình
trước đó đã thống trị trong khoa học xã hội. Đồng thời, chỉ ra động lực phát triển của
lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh thần hoặc lực lượng siêu nhiên thần bí
nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn sản xuất vật
chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận thức và tác
động cả ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến
trúc thượng tầng. Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào cũng sai lầm, xét đến
cùng là bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất.
Đây là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học trong quán triệt quan điểm,
đường lối của Đảng ta. Mô hình, mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định
với các tiêu chí về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Đồng
thời, xác định các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con
đường phát triển của nước ta, đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Đây chính là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, có khả năng và điều kiện để
thực hiện. Đây cũng là cơ sở lí luận, khoa học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ
những quan điểm sai trái về sự phát triển xã hội. Phê phán thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ
đã tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật, xoá nhoà sự khác nhau về bản chất của các
chế độ xã hội nhằm chứng minh cho sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ tư bản. Phê phán
quan điểm tuyệt đối hoá cách tiếp cận xã hội bằng các nền văn minh. Alvin Tôpplơ đã
chia lịch sử ra thành ba "làn sóng" tức ba nền văn minh lần lượt kế tiếp nhau: nông
nghiệp, công nghiệp và sau công nghiệp (còn gọi là văn minh tin học, văn minh trí tuệ),
tức là tuyệt đối hoá yếu tố lực lượng sản xuất, xem nhẹ yếu tố quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Cách tiếp cận nền văn minh có giá trị nhất định nhưng không thấy
được nguồn gốc, động lực của sự phát triển lịch sử xã hội. Ngày nay, thực tiễn xã hội
và sự phát triển của nhận thức khoa học đã bổ sung, phát triển mới các quan niệm lịch
sử xã hội, song lí luận hình thái kinh tế- xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, là quan niệm
khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội, là cơ sở,
nền tảng lí luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học. lOMoAR cPSD| 60791848
2. Tính tất yếu, khả năng và điều kiện của con đường phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tính tất yếu của con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã và đang bị chủ nghĩa cơ hội, xét lại tìm
mọi cách để bác bỏ. Các luận điểm sai trái ấy được thể hiện trong các học thuyết “sự
tận cùng của thế giới”, “ngõ cụt của lịch sử”, “chủ nghĩa xã hội đẻ non”.. Plêkhanốp
đã từng chỉ trích Đảng Bônsêvích do V.I. Lênin lãnh đạo là chính quyền nước Nga chưa
có sự chuẩn bị tốt cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, do vậy có thể đẩy xã hội tới
“con đường tai hoạ lịch sử lớn nhất”. Causky đã từng công kích xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước Nga chẳng khác nào” một phụ nữ mang thai”, tìm mọi cách để” rút ngắn
thời gian mang thai dẫn đến đẻ non”. Một chủ nghĩa xã hội như vậy chẳng khác nào
một đứa trẻ đẻ non và thông thường không sống nổi.
Hiện nay, họ cho rằng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ
chứng tỏ chủ nghĩa tư bản còn khả năng phát triển, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa chưa lỗi thời, lạc hậu, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa tỏ rõ tính tiên
tiến của nó và điều kiện chủ quan của chúng ta chưa sẵn sàng, rằng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu không phù hợp với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa
học, không đủ điều kiện vật chất, văn hoá cần thiết cho sự phát triển..
Ở Việt Nam, những người theo quan điểm cơ hội, xét lại cho rằng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là quá sớm và sai, do đó phải “quay lại chủ nghĩa tư bản” như
hiện nay ở Liên Xô và các nước Đông Âu “đang quá độ từ chủ nghĩa xã hội lên chủ
nghĩa tư bản”! Quá độ lên chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là tất yếu, không có khả
năng và chưa sẵn sàng các điều kiện để thực hiện .
Một dạng luận điểm khác, họ lấy căn cứ từ những tư tưởng của MácĂng ghen,
song họ đã thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể về vấn đề này, rơi vào quan điểm duy vật
tầm thường, máy móc, siêu hình. Họ cho rằng, cứ để nước ta phát triển chủ nghĩa tư
bản, rồi do tiến trình lịch sử tự nhiên sẽ đưa nước ta phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Do
vậy, hiện nay nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, một dân tộc muốn quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phải có đủ những điều kiện khách quan và nhân lOMoAR cPSD| 60791848
tố chủ quan. Muốn thực hiện thành công quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết trên thế
giới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa đã ra đời và tỏ rõ sự ưu việt trong
thực tế; chủ nghĩa tư bản phải bộc lộ sự hạn chế, lỗi thời, phản động; phải có sự giúp
đỡ về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước. Cùng với điều kiện
khách quan, các quốc gia, dân tộc phải có đủ nhân tố chủ quan như vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản; đất nước đã sẵn sàng những yếu tố nội lực để thực hiện sự quá độ lên
chủ nghĩa xã hội…Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin để xem xét tính
tất yếu và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, đòi hỏi phải tính
đến cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của nước ta trong điều kiện hoàn
cảnh lịch sử mới hiện nay.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử
Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm cả sự phát triển tuần
tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới, cả sự phát triển “bỏ qua” một hay vài hình
thái kinh tế xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể. Toàn bộ tiến trình lịch sử
loài người vận động, phát triển theo một lôgíc khách quan. Do sự chi phối của các quy
luật khách quan, trước hết là các quy luật cơ bản, xét đến cùng là sự phát triển của lực
lượng sản xuất, lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh
tế - xã hội từ thấp đến cao. Trong tiến trình lịch sử, các hình thái kinh tế - xã hội như
những trạng thái khác nhau về chất với các tiêu chí có thể xác định được về sự phát
triển của lực lượng sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng và kiểu kiến trúc thượng
tầng tiêu biểu cho xã hội đó.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, của các giai đoạn lịch sử
xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể mang tính phong phú, nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp.
Sự phát triển của xã hội loài người trong lịch sử bao gồm cả những bước quanh co,
thậm chí những bước thụt lùi lớn; bao gồm cả khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định. Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự
thống nhất giữa lôgíc và lịch sử, giữa phát triển tuần tự và phát triển “bỏ qua”. Việt
Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phù hợp với quy
luật khách quan của lịch sử. lOMoAR cPSD| 60791848
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một hay vài hình thái
kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ
lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái
kinh tế - xã hội đã có. Nhưng do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự
tác động của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển
tuần tự, nhưng có những quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Do quy luật phát triển không đều, trên thế giới thường xuất hiện những trung
tâm phát triển cao hơn, đồng thời bên cạnh đó còn có những vùng, những quốc gia, dân
tộc ở trình độ phát triển thấp, thậm chí rất thấp. Thực tiễn lịch sử cho thấy, thời cổ đại
đã từng xuất hiện và tồn tại những trung tâm phát triển cao như Trung Quốc, Ấn Độ,
La Mã. Giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện các nước Tây Âu với trình độ
phát triển kinh tế – xã hội cao như Anh, Pháp, Đức. Hiện nay, Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu
là ba trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển cao của thế giới. Bên cạnh đó có các vùng,
các khu vực vẫn ở trình độ phát triển thấp như các nước châu Phi, Mỹlatinh… Do sự
giao lưu, hợp tác quốc tế mà giữa các trung tâm, các khu vực, các quốc gia xuất hiện
khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử. Quy luật kế thừa sự phát
triển lịch sử luôn luôn cho phép các quốc gia, dân tộc có thể bỏ qua các giai đoạn phát
triển không cần thiết để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại. Tuy nhiên, việc phát
triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế xã hội, bên cạnh những điều kiện khách quan
của thời đại, còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nhân loại đã chứng kiến trong lịch sử, một số nước như: Nga, Ba Lan, Đức…
đã phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ lên chế độ phong kiến không qua chế độ
chiếm hữu nô lệ; Mỹ, Canađa…phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ tư bản
chủ nghĩa không qua chế độ phong kiến; Trung Quốc quá độ lên chủ nghĩa xã hội
không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Lịch sử cũng đã chứng minh Việt Nam từ xã hội
cộng sản nguyên thuỷ phát triển lên chế độ phong kiến không qua phát triển chế độ
chiếm hữu nô lệ… Như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển rút ngắn trong lịch sử loài người.
Bản chất của sự phát triển rút ngắn xã hội là rút ngắn các giai đoạn, các bước đi của
nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD| 60791848
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay là do tính tất yếu về chính trị và kinh tế.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam do nhân dân lao động tiến hành, dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản trải qua các giai đoạn giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn của chính lịch sử. Đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam
khủng hoảng đường lối, thiếu một đảng cách mạng lãnh đạo. Lịch sử đã giao phó cho
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là do chính thực tiễn cách
mạng lựa chọn sau khi các phong trào cách mạng theo tư tưởng phong kiến và tư sản
đã thất bại. Để giải quyết mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, Đảng Cộng sản
Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng từ 1930 đến nay, cách mạng Việt Nam trải qua các giai đoạn giành độc lập
dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân
dân, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với xu thế của thời đại. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thắng lợi, tiếp theo là cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến
chống Mỹ thắng lợi là thành quả cách mạng của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc thì lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tất yếu. Mục tiêu
chủ nghĩa xã hội thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thành quả cách
mạng không thể trao cho giai cấp tư sản và các lực lượng phản động, bóc lột khác lái
đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa để nhân dân lao động trở lại thân phận những
người bị áp bức bóc lột. Như vậy, ở Việt Nam tính tất yếu chính trị giữ vị trí hàng đầu
trong việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Xét về tiền đề kinh tế vật chất thì ở Việt Nam tiền đề đó đang trong quá trình
phát triển. Những cơ sở kinh tế, kỹ thuật và tài nguyên quốc gia chúng ta đã bước đầu
có được và giành được – là thành quả của nhân dân lao động trải qua các cuộc đấu
tranh cách mạng chống các thế lực xâm lược Pháp, Mỹ và tay sai. Đó chính là tiền đề
tất yếu của việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Những cơ sở
kinh tế – xã hội đó còn do chúng ta xây dựng được trong quá trình xây dựng đất nước
từ trước đến nay, có sự giúp đỡ của các nước anh em. Đó còn là thành quả của công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, cơ sở kinh tế kỹ
thuật nước ta đang trong quá trình phát triển, gắn với yếu tố thời đại. Đây là tiền đề
kinh tế - vật chất cho bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, không phải máy móc lOMoAR cPSD| 60791848
chờ đợi phát triển tư bản chủ nghĩa, càng không thể lặp lại con đường tích luỹ nguyên
thuỷ đầy máu và tội ác của chủ nghĩa tư bản.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bảo đảm tốt
nhất cho độc lập dân tộc thật sự ở nước ta, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam hiện nay.
Nước ta thuộc nhóm nước kém phát triển của thế giới, đang xây dựng chủ nghĩa
xã hội, yêu cầu giữ vững độc lập dân tộc đặt ra gay gắt, bao gồm cả giữ vững chủ quyền
quốc gia, chủ quyền kinh tế, chính trị và văn hóa. Thực tiễn chứng minh rằng, chỉ có
lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo cho ta đủ sức cạnh tranh trong cơ
chế thị trường quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế; đủ sức mở cửa làm ăn với chủ nghĩa
tư bản; đủ sức giải quyết các vấn đề xã hội, giải quyết các “chấn động” kinh tế - xã hội;
đủ sức động viên vật chất - tinh thần để bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện nay. Độc
lập dân tộc là cơ sở để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, xây dựng chủ nghĩa xã
hội là điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc thật sự ở Việt Nam.
2.2. Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
Thời đại ngày nay mở ra khả năng khách quan cho các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã mở ra thời đại mới – thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới, mở ra khả năng
khách quan cho các dân tộc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa đã xuất hiện và tỏ rõ tính ưu việt
trên thực tế. Đó là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ, dần dần tiến đến xóa bỏ
hoàn toàn áp bức, bóc lột vì tự do, hạnh phúc của con người. Thực tiễn cho thấy, các
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đã có tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh.
Liên Xô đã tiến hành công nghiệp hóa trong một thời gian ngắn, Trung Quốc cải cách
phát triển với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm rất cao. Chế độ xã hội chủ nghĩa
của Liên Xô đã góp phần quan trọng trong việc đẩy lùi chiến tranh thế giới, đánh bại
chủ nghĩa phát - xít. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã từng là trụ cột của phong
trào độc lập dân tộc, thành trì của hoà bình thế giới. Hiện nay, mặc dù hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới bị tan vỡ nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu lý tưởng phấn đấu lOMoAR cPSD| 60791848
của hơn một tỷ người trên hành tinh. Qua khủng hoảng, thoái trào phong trào xã hội
chủ nghĩa đang nhận thức lại cả lý luận và thực tiễn, tiến hành đổi mới cải cách, phát
triển phù hợp với xu thế của tiến bộ xã hội. Bước vào thế kỷ XXI, chủ nghĩa xã hội thế
giới đang có dấu hiệu phục hồi dần và phát triển, tuy chậm chạp và rất khó khăn. Những
thành tựu quan trọng trong cải cách, đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa chứng tỏ
chủ nghĩa xã hội có sức sống nội tại của một chế độ xã hội hợp quy luật khách quan,
hợp lợi ích, nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Chủ nghĩa tư bản tuy lợi dụng được những thành quả của khoa học công nghệ
hiện đại, “điều chỉnh” các chính sách xã hội, “thích nghi” và còn “phát triển” nhưng
không hề thay đổi bản chất kinh tế và chính trị, không thể khắc phục được những mâu
thuẫn nội tại. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột, giữa tính chất xã hội hoá
rất cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản
đã và đang tạo ra sự phân cực của thế giới. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ lúc
xuất hiện cho đến nay luôn luôn gắn liền với chiến tranh. Chủ nghĩa tư bản không thể
là đỉnh cao sự phát triển lịch sử xã hội, càng không phải là tương lai của loài người,
nhất định bị thay thế bởi hình thái kinh tế xã hội tiến bộ hơn - hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, toàn cầu hoá tạo ra khả năng
khách quan cho các dân tộc đang phát triển và Việt Nam có thể “phát triển rút ngắn”,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của nền kinh
tế tri thức, các dân tộc đang đứng trước cả thời cơ và thách thức.Sự phát triển của khoa
học công nghệ hiện đại, của nền kinh tế tri thức là phù hợp với bản chất của chủ nghĩa
xã hội - một chế độ xã hội vì hạnh phúc con người. Thành tựu của trí tuệ loài người về
khoa học và công nghệ hiện đại, về kinh tế tri thức phải được sử dụng để phục vụ lợi
ích chung của con người. Trong điều kiện toàn cầu hoá, chúng ta có thể chủ động hội
nhập, tận dụng những thành tựu đó để đẩy nhanh, rút ngắn sự phát triển.
Việt Nam nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của thé giới, thông
qua giao lưu hợp tác quốc tế có thể tận dụng lợi thế để phát triển.
Việt Nam có lợi thế về địa - kinh tế, địa - chính trị, nằm trong một khu vực phát
triển năng động nhất thế giới là vành đai Châu Á- Thái Bình Dương, và khu vực Đông lOMoAR cPSD| 60791848
- Nam Á. Đây là một khu vực có nhiều cường quốc kinh tế, có nhiều nước công nghiệp
mới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, giao lưu, hợp tác quốc tế, chúng ta có thể tận
dụng lợi thế so sánh như về vị trí địa lý, dân số, lao động, tài nguyên, sự ổn định chính
trị để đi tắt, đón đầu và phát triển.
2.3. Điều kiện của sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Muốn thực hiện thắng lợi sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam, biến khả năng đó thành hiện thực phải có đủ điều kiện, phải giải
quyết tốt mối quan hệ giữa điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài.
Các điều kiện bên trong chủ yếu là có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân;
có tiềm năng to lớn của đất nước và con người Việt Nam...
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã được
chứng minh, khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mặc dù còn có những
sai lầm khuyết điểm, nhưng những sai lầm khuyết điểm đó của Đảng Cộng sản Việt
Nam không phải do chủ nghĩa cơ hội, xét lại mà do năng lực của Đảng, do thiếu kinh
nghiệm trong quản lý kinh tế xã hội. Hiện nay, Đảng đang tự chỉnh đốn để có đủ bản
lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của sự nghiệp cách
mạng. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đất nước đã khẳng định
đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Hiện nay, không thể có lực lượng chính trị nào
đủ sức gánh vác sứ mệnh lãnh đạo công cuộc đổi mới ở nước ta. Đảng là nhân tố chủ
quan năng động sáng tạo ở tầm chiến lược có thể biến khả năng khách quan thành hiện
thực. Thông qua sự lãnh đạo của Đảng mà khơi dậy, quy tụ và nhân lên sức mạnh nội
lực của đất nước, tranh thủ được sức mạnh ngoại lực, liên kết và giải quyết tốt mối
quan hệ giữa nội lực và ngoại lực. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải có đủ bản lĩnh chính
trị, trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn mới có thể hoàn thành trọng trách của mình.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân là
công cụ chính trị mạnh mẽ nhất của nhân dân ta đang chứng minh trên thực tế hiệu lực, lOMoAR cPSD| 60791848
hiệu quả quản lý kinh tế xã hội. Vấn đề là phải khắc phục những yếu kém của bộ máy
nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, đồng thời phải tiến hành cải cách nền
hành chính quốc gia và xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ
Đất nước và con người Việt Nam có tiềm năng to lớn về điều kiện tự nhiên, vị
trí địa lý, tài nguyên, quy mô dân số, nguồn nhân lực, phẩm chất con người và sự ổn
định chính trị xã hội… Đó là điều kiện bên trong thuận lợi để có thể phát huy, tận dụng
thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển.
Muốn thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, còn phải có những
điều kiện bên ngoài quan trọng, không thể thiếu được. Trước đây, cách mạng Việt Nam
có sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa cả về tính thần và vật chất. Trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, các nước xã hội chủ nghĩa đã giúp đỡ về vật chất,
kỹ thuật, về vũ khí trang bị, phương tiện quân sự, về lương thực, thuốc men…và cả
đào tạo nguồn nhân lực. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, các nước anh em đã giúp đỡ về kinh tế kỹ thuật, kinh nghiệm và đào tạo con
người. Sự giúp đỡ đó là vô cùng quan trọng, không thể thiếu được trong điều kiện cách
mạng Việt Nam ở giai đoạn đầu đang gặp nhiều khó khăn. Ngày nay, sự giúp đỡ đó
trên nhiều mặt đã và đang tiếp tục phát huy hiệu quả. Đây là một điều kiện rất quan
trọng để nước ta có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong lúc tính tất yếu về chính
trị có đủ nhưng tính tất yếu về kinh tế vật chất chưa đầy đủ.
Trong điều kiện quốc tế mới, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn nữa, các
quan hệ quốc tế của Việt Nam đã được đa dạng hoá, đa phương hoá. Trong xu thế toàn
cầu hoá, Việt Nam tham gia cơ chế thị trường quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế. Hiện nay, nước ta có điều kiện hơn bao giờ hết để mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu
quốc tế. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, “bao cấp quốc tế mất”, trong cơ chế thị
trường quốc tế mới đòi hỏi phải hợp tác, làm ăn có hiệu quả hơn, phải sử dụng có hiệu
quả các điều kiện vật chất kỹ thuật. Chúng ta đã chuyển hướng từ tư tưởng trông chờ
ỷ lại “bao cấp quốc tế” sang chiến lược dựa vào sức mình, dựa vào nguồn lực bên trong là chính. lOMoAR cPSD| 60791848
Trên thế giới hiện nay, thế mạnh về khoa học và công nghệ hiện đại đang nằm
trong tay các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải mở
cửa, hợp tác, làm ăn trên cơ sở có nguyên tắc với các nước có chế độ chính trị xã hội
khác nhau mới có thể rút ngắn khoảng cách lạc hậu về kinh tế, khoa học công nghệ.
Phải phân biệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Loài người đang đứng trước những vấn đề toàn cầu của thời đại như bảo vệ hoà
bình thế giới, chống chạy đua vũ trang, chống khủng bố, bảo vệ môi trường sống, chống
cạn kiệt tài nguyên, chống đói nghèo, chống bệnh tật, giải quyết vấn đề bùng nổ dân
số, vấn đề phân cực, vấn đề nợ nần, chống phân biệt chủng tộc, vấn đề bảo vệ bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, bảo vệ chủ quyền kinh tế, chính
trị, văn hoá, chống cường quyền, … Đòi hỏi phải hợp tác giữa các lực lượng, các quốc
gia mới có thể giải quyết được.
Hiện nay, nước ta muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa phải kết hợp tốt điều kiện bên trong với điều kiện bên ngoài, kết hợp nội lực với
ngoại lực, trong đó nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng không thể thiếu được.
Trong các yếu tố của nội lực thì sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, Đảng phải tiếp tục đường lối
đổi mới đúng đắn, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Thực chất và định hướng giải pháp của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.1. Thực chất của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Qua quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chỉ ra thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu của nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về