

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297 lOMoAR cPSD| 44985297 BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Triết học Mác – Lênin 2 lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE **************************** ĐỀ TÀI:
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội – cơ sở lý luận của lựa chọn Lớp :
Tài chính doanh nghiệp CLC 63A Mã sinh viên 3
con đường phát triển ở Việt Nam hiện nay lOMoAR cPSD| 44985297
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Hồng
Sinh viên thực hiện : Hoàng Tuấn Minh : 11213806
Hà Nội, tháng 4 năm 2022 MỤC LỤC:
Mục lục:……………………………………………………………………………. 2
Phần mở đầu……………………………………………………………………….. 3
Phần nội dung……………………………………………………………………….4
I. Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội………………………………………………4
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồ tại và phát triển xã hội……………………..4
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất………………………..6
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tàng của xã hội……………..10
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên………11
II. Con đường phát triển của Việt Nam hiện tại………………………………………13
1. Những nội dung và thành tựu đã đạt được của Việt Nam…………………………13
2. Hạn chế còn tồn tại và giải pháp…………………………………………………...14
Phần kết luận………………………………………………………………………….15
Phần tư liệu tham khảo………………………………………………………………..16 Phần mở đầu:
1. Tính cấp thiết của đề bài:
Đi nghiên cứu về chặng đường của Mac- Lenin, học thuyết hình thái kinh tế -xã hội là một
trong những nội dung cơ bản và có vị trí quan trọng nhất trong triết học Mác. Hình thái kinh
tế- xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác xây dựng lên và chính nhờ
lý luận đấy, lần đầu trong lịch sử loài người, Mác đã cho thấy rõ được nguồn gốc, động lực
bên trong, những vấn đề bên trong của sự phát triển xã hội và bản chất của từng chế độ xã hội. 4 lOMoAR cPSD| 44985297
Và lý luận hình thái kinh tế xã hội đã giúp con người có cái nhìn, nghiên cứu mang tính đúng
đắn cao và có khoa học sự vận hành của toàn xã hội trong khoảng thời gian, giai đoạn nhất
định và cũng như tiến trình vận động lịch sử của toàn xã hội loài người. Lý luận đã có 172
năm tồn tại và phát triển dù thời gian dài và chính trị, xã hội có nhiều thay đổi, khoa học công
nghệ và đời sống con người thay đổi theo từng giây từng phút nhưng học thuyết này vẫn luôn
được đánh giá cao và cơ bản và vẫn giữ nguyên giá trị của khoa học.
Hiện nay, Việt Nam đang trên con đường thực hiện công cuộc xây dựng theo chủ nghĩa xã
hội và Đảng ta đã luôn khẳng định vai trò lớn, sự kiên định lớn đặt niềm tin lên chính chủ
nghĩa xã hội ấy. Trong cuộc sống hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ và vượt trội đã đặt ra thêm
nhiều vấn đề lớn, vô cùng khó khăn trên tất cả các mặt lĩnh vực và điều đó cũng đã nổi bật lên
giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội và Việt Nam là một trong những đất nước
đang cố gắng vấn dụng lý luận ấy để có thể tìm ra được những vấn đề, những giải pháp phù
hợp, tìm ra con đường xây dựng đất nước Việt Nam trở thành đất nước giàu, mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Bởi vì vậy, từ những lý luận trên, nghiên cứu đề tài: “HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH
TẾ - XÃ HỘI VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY” mang nhiều giá trị và có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
a. Mục đích: Có sự hiểu biết rõ ràng về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội, hiểu giá trị khoa
học, hình thái của ý luận và phương thức, cách vận dụng vào đất nước Việt Nam hiện nay, mai sau.
b. Nhiệm vụ: Đưa ra những thông tin rõ ràng, dễ hiểu để làm rõ mục đích.
Có thể đưa ra những chứng minh cho thấy lý luận hình thái kinh tế- xã hội đã,
đang và sẽ tác động đến công cuộc xây dựng đất nước.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Chứng minh giá trị khoa học, giá trị của lý luận và tính thời đại của học thuyết hình thái kinh tế- xã hội. Phần nội dung:
I.Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội: 5 lOMoAR cPSD| 44985297
“Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã
thể hiện rõ những quy luật cơ bản của sự vận động pháp triển xã hội, là những phương pháp
luận khoa học để giúp con người có thể nhận thức, cải tạo xã hội trở nên tốt đẹp hơn.” theo
giáo trình triết học Mac- Lenin. Hiện nay, thế giới ngày ngày càng phát triển và sự thay đổi trở
nên vô cùng nhanh chóng như lý luận hình thái kinh tế- xã hội vẫn giữ được vai trò trong mọi
thời đại. Đây là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học chỉ đạo cho các chính đảng
và nhà nước xã hội chủ nghĩa đã có thực hiện, vận dụng vô cùng sáng tạo trong xác định
cương lĩnh, chủ chương, đường lối và các chính sách. Đó cũng chính là cơ sở giúp xác định
con đường phát triển của Việt Nam trong quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội.
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Để tồn tại và phát triển, con người cần hành động: SẢN XUẤT. Theo giáo trình triết học
MacLenin: thì đây là “hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người. Sản
xuất là hoạt động tạo ra thêm nhiều giá trị vật chất, giá trị tinh thần và thoả mãn nhu cầu và
phát triển của con người”. Sự sản xuất xã hội – sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực
là quá trình sản xuất của con người; gồm 3 phương diện không tách rời đó là sản xuất vật chất,
sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản chất con người và với mỗi phương diện trên thì đều mang
vị trí và vài trò khác nhau.
Trong đó, sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển loài người và cũng chính bởi vì
vậy, khi xét đến cùng thì nó đã quyết định toàn bộ sự vận động và pháp triển của đời sống xã
hội. Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng đến các công cụ lao động và
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, thay đổi các dạng vật chất của tự nhiên và tạo ra
các giá trị cho xã hội, từ đó có thể thoả mãn nhiều nhu cầu tồn tại và sự phát triển mạnh mẽ
của con người. Một trong những ví dụ điển hình có thể kể đến là con người làm ruộng bậc
thang. Từ những hành động đốt cây, phá rừng, xây dựng thành các bậc thang với mục đình
trồng ruộng thì con người đã tác động lên thế giới tự nhiên vô cùng mạnh mẽ và tự đó tạo ra
thêm nhiều giá trị cho cuộc sống và ở đây đó là giá trị về lương thực. Một hoạt động sản xuất
bao giờ cũng sẽ có 3 tính chất cơ bản sau đây:
1. Sản xuất vật chất mang tính mục đích của con người và từ đó tạo ra thêm tư liệu sinh
hoạt cho con người. Không hoạt động nào của sản xuất vật chất có thể thiếu đi mục
đích. Trong cuộc sống hiện nay, bất kì một cơ sở sản xuất hay một dự án thì đều có
những mục tiêu được đề ra để con người có sự phát triển và cố gắng hành động.
2. Sản xuất vật chất gắn với việc chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Chính trong quá
trình sản xuất vật chất, con người đã tạo ra những dụng cụ trong quá trình lao động để
công việc sản xuất vật chất trở nên đơn giản hơn, hiệu quả hơn. Không chỉ vậy, công 6 lOMoAR cPSD| 44985297
cuộc của tạo ra vật chất trở nên dễ dàng hơn khi kết hợp với khoa học tiên tiến như hiện
nay và kết quả, năng suất trở nên cao hơn rất nhiều. Ví dụ như công nghệ đặt xe thông
qua nhiều ứng dụng như Grab, Gojeck, Bee… Để có được sự tiện lợi như hiện nay, con
người đã tạo được sự kết nối giữa người có nhu cầu muốn đi xe và người có nhu cầu
trở xe và giúp lợi ích của 2 bên cùng có lợi hơn khi mà trước kia không hề có công
nghệ tân tiến, con người phải đi đến những bến xe và những người trở khách khó để có khách hơn.
3. Sản xuất vật chất gắn với việc biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội chúng ta có thể hiểu
biến đổi này theo 2 chiều hướng tích cực và tiêu cực. Ví dụ đơn giản chúng ta có thể
biết được đó là con người xây dựng những toà nhà cao tầng với mục đích cho thuê căn
hộ. Với những dự án trên sẽ luôn có 2 chiều hướng tích cực và tiêu cực. Tích cực bởi vì
con người sẽ dễ dàng tìm mặt bằng cho thuê, tìm được nơi chốn để ở thay vì việc phải
mua đất, xây nhà,…..; nhưng vấn đề tiêu cực ta vẫn thấy rất rõ đó là ô nhiễm môi
trường bị ảnh hưởng trực tiếp, xuất hiện các nhà môi giới với những tư tưởng xấu khiến
nhiều người bị lừa và trả tiền với mức giá cao hơn so với giá thị trường.
Quá trình sản xuất vật chất sẽ có 3 yếu tố hợp thành: Sức lao động, đối tượng lao động và tư liêu lao động.
Vai trò của sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn và sự phát triển của
xã hội. Trong quá trình tồn tại, phát triển và quá trình sản xuất, con người luôn không thoả
mãn với những gì đã có sẵn trong thế giới hiện tại mà luôn có suy nghĩ tìm ra những ý tưởng
và phát triển những cái ban đầu để tiến hành sản xuất và từ đó đã tạo thêm nhiều tư liệu sản
xuất trong mọi thời kì để thoả mãn nhu cầu càng cao, càng phong phú và tăng thêm sự đa dạng
trong đời sống con người. C. Mác đã đưa ra: “ Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt vật chất
trực tiếp… tạo ra một cơ sở từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm
pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí những quan điểm tôn giáo của con người ta”. Việc sản
xuất ra các tư liệu sinh hoạt là hành động khách quan của thế giới xã hội và chính hành động
ấy con người đã gián tiếp xây dựng đời sống của mình. Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi
hoạt động lịch sử của con người được hình thành qua nhiều quan hệ xã hội, chính trị, pháp
luật, tôn giáo….Ví dụ điển hình là Việt Nam là đất nước phát triển mạnh về nông nghiệp và để
có thể phát triển mạnh mẽ thì cần có sự giao thoa về kinh tế, chính trị giữa các nước từ đó cần
hiểu biết nhiều về văn hoá, tôn giáo…. Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra chính
bản thân con người và từ đó, con người đã hình thành nên những ngôn ngữ, sự nhận thức, tình
cảm, tư duy logic,….. và cũng bởi vì vậy, sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản và từ đó đã
quyết định sự hình thành và pháp triển phẩm chất xã hội.
2. Biện chứng giữa lựu lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 7 lOMoAR cPSD| 44985297
a. Phương thức sản xuất:
Ở mỗi giai đoạn trong mọi thời kì, con người đã “tiến hành sản xuất theo cách thức nhất
địnhcùng cách sinh sống, có cách sản xuất riêng mình và đó chính là phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách con người tiến hành quá trình sản xuất vất chất theo giai đoạn
nhất định từ lịch sử trong xã hội.” theo giá trình triết học Mac- Lenin. Phương thức sản xuất có
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ( nội dung vật chất trong quá trình sản xuất) có trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất ( quan hệ vật chất xã hội) tương ứng, có quan hê giữa người với
tự nhirn và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Theo chính trị C.Mac và
Ph. Ăngghen (1993) đã đưa ra: “Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với
nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản
xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của
họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”.
“Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất
và năng lực thực tiễn làm biến đổi về các đối tượng vật chất theo tự nhiên phụ thuộc vào nhu
cầu của con người, thiên hướng của xã hội.” theo giáo trình triết học Mac- Lenin. Về cấu trúc,
2 mặt được xem xét là mặt kinh tế- kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế- xã hội ( người
lao động) và thuộc lực lượng sản xuất.
Người lao động là con người có khả năng, tri thức, kinh nghiệm, sức sáng tạo và kỹ năng lao
động trong quá trình sản xuất. Người lao động là chủ thể sáng tạo và cũng chính là chủ thể tiêu
dùng của mọi của cái vật chất trong xã hội và đó cũng chính là nguồn lực cơ bản, vô tân và có
sự đặc biệt của sản xuất. Hiên nay, theo như nghiên cứu, trong nền sản xuất thì tỉ trọng lao
động trí tuệ ngày càng tăng cao và lao động cơ bắp đang giảm.
“ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động
và đối tượng lao động.” theo giáo trình triết học Mác- Lenin. Đối tượng lao động gồm những
yếu tố mà lao động con người dùng tư liệu tác động, biến đối chúng phù hợp với mục tiêu mà
con người đặt ra để sử dụng hiệu quả. Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất mà con người
dựa vào để tác động đối tượng lao động và biến chính những đối tượng ấy thành sản phẩm có
khả năng thoả mãn về nhu cầu sản xuất trong xã hội; bao gồm phương tiện lao động ( những
yếu tố bao gồm sản xuất ra các vật chất kết hợp với các công cụ lao động từ đó ảnh hưởng trực
tiếp đến đối tượng lao động và gây ra sự biến đối và tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ con người)
và công cụ lao động ( dụng cụ, phương pháp để con người sử dụng tác động lên các đối tượng
từ đó tạo ra các sản phẩm phục vụ con người, xã hội; mang yêu tố “trung gian”, “truyền dẫn”
giữa người lao động và đối tượng lao động; là yếu tố động nhất bởi thường xuyên biến đổi
nhất từ lòng người, cách mạng nhất và từ đó chính là nguyên nhân gián tiếp của sự biến đổi 8 lOMoAR cPSD| 44985297
kinh tế trong mọi thời đại; là sự phân biệt các trình độ, thay đổi yếu tố tự nhiên và những
chuẩn mực trong thời đại khác nhau.
“ Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định” theo
giáo trình triết học Mác- Lenin. Điều đó được khẳng định bởi vì người lao động chính là
những nguồn gốc của sự sáng tạo, phát minh và cũng chính là người phát triển và sử dụng về
sau này và từ đó đã tạo ra các tư liệu sản xuất và chính những tư liệu ấy được đánh giá phụ
thuộc theo trình độ của chính người phát minh, người sử dụng ( người lao động). Đối tượng
lao động gồm đối tượng lao động tự nhiên tức là đã có sẵn (ví dụ như đất phục vụ cho việc sản
xuất nông nghiệp; nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cơ khí; cát phục vụ cho xây
dựng….) và đối tượng lao động nhân tạo (ví dụ như những người công nhân hoặc các sản
phẩm đã qua chế biến…)
“ Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hoá trong
việc sử dụng tư liệu sản xuất” theo giáo trình triết học Mac- Lenin. Trình độ ấy được đánh giá
qua các trình độ của công cụ lao động, tổ chức xã hội, áp dụng KH- KT trong xã hội, kiến thức
của người tham gia lao động, trình độ phân công lao động trong cả xã hội. Và cũng chính bởi
vì vậy, thực tế cho thấy rằng trình độ và tính chất luôn được song hành với nhau.
Không chỉ vậy, hiên nay khoa học đã vô cùng phát triển và trở thành một trong những lực
lượng chính trong công cuộc sản xuất. Khoa học trở thành “nguyên nhân mọi biến đổi trong
LLSX”*. Ví dụ có thể kể đến là với sự phát triển bùng nổ của khoa học đã sáng tạo ra những
robot dựa trên hình ảnh con người và thay thế con người làm những công việc nặng nề và vô
cùng nguy hiểm. Không chỉ vậy, khoa học “ rút ngắn khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến
ứng dụng vào sản xuất, làm cho năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh”*. Điều này có
thể dễ dàng chứng minh thông qua hình ảnh máy gặt lúa. Trước kia, con người phải tự bỏ
công sức, thời gian của bản thân mình cực khổ mới có thể gặt lúa hết nhưng với máy gặt lúa
năng suất cao, chưa đầy một buổi sáng, họ đã hoàn thành xong nhiệm vụ của mình. Khoa học
đã “kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, yêu cầu sản xuất đặt ra.”* Không chỉ vậy, khoa học
đã “thâm nhập vào các yếu tố, trở thành mắt khâu bên trong quá trình sản xuất”*. Đó là trong
qúa trình sản xuất, khoa học đã hoà nhập vào với công việc lao động của con người, trở thành
một công cụ quan trọng. Ví dụ như hiện nay, trong tiềm thức của mỗi người nông dân, máy
tuột lúa đã trở thành công cụ khó có thể thiếu bởi vì máy tuốt lúa với gia đình làm nông được
sử dụng vô cùng phổ biến và nếu những gia đình nào thiếu họ thường đi thuê thay vì sử dụng
bằng sức của bản thân. Khoa học còn là “kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất
của con người”* Con người sẽ luôn phát triển và không bao giờ ngừng lại ví dụ như MacBook
Air 2017 thì họ phát triển lên các sản phẩm nâng cấp mới theo các năm hoặc phát triển icore 9 lOMoAR cPSD| 44985297
mới và hiện nay chúng ta có thể thấy rất nhiều sản phẩm mới như MacBook 2020, Macbook Pro….
“ Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế- vật chất giữa người với người trong quá
trình sản xuất vật chất” theo giáo trình triết học Mac- Lenin. Và chính quan hệ sản xuất ấy đã
trở thành quan hệ vật chất quan trọng nhất trong quan hệ thuộc kinh tế, quan hệ người và
người. Qúa trình ấy tổng hợp nhiều yếu tố trong quá trình gồm sản xuất, trao đổi, phân bố và
sử dụng vật chất. “ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát cơ bản, trung tâm
của các quan hệ sản xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác. Bởi vì, lực lượng xã hội
nào nằm phương tiện vật chất củ yêu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá
trình sản xuất và phân phối sản phẩm.” theo giáo trình triết học Mac Lenin.
“Quan hệ về tổ chúc quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc tổ chúc
sản xuất và phân công lao động” theo giáo trình triết học Mac Lenin. Và chính quan hệ ấy có
khả năng quyết định đến nhiều yếu tố của nền sản xuất: quy mô, thời gian và hiệu quả và từ đó
phát triển hoặc gây ra sự trì trệ của một nền sản xuất. Bởi vì vậy, khoa học tổ trức quản lý
mang vai trò vô cùng to lớn cho cả một quá trình sản xuất.
“ Quan hệ về phân phôi sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân
phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn
người được hưởng” theo giáo trình triết học Mac Lenin. Quan hệ này có khả năng làm phát
triển, nâng cao lợi ích của con người, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có thể là
nguyên nhân gây ra sự trì trệ, tổn thất lớn trong quá trình sản xuất.
“ Các mặt trong quan hệ sản xuất có một quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh
hưởng lẫn nhau. Trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất
vad tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan
hệ đầu tiên, cơ bản chỉ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội” theo giáo trình triết học Mac Lenin.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Theo chủ nghĩa Mac- Lenin : “Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một
phương thức sản xuất có tác động biện chứng” trong đó thì “lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác dộng trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng
sản xuất, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất” theo
giáo trình triết học Mac Lenin. 10 lOMoAR cPSD| 44985297
Lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất đó và chính nội dung của quan hệ sản xuất sẽ do
lực lượng sản xuất quyết định. Theo như triết học Mac – Lenin đã viết: “ Lực lượng sản xuất
quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch sự, quyết định đến nội dung
và tính chất của quan hệ sản xuất. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện
và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình phát triển đạt tới nấc thang cao hơn”.
Không chỉ vậy, quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại với lực lượng sản xuất theo 2 chiều
hướng. Nếu quan hệ sản xuất phát triền và PHÙ HỢP thì sẽ giúp cho lực lượng sản xuất có đà
phát triển mạnh hơn nhưng nếu thiếu đi sự phù hợp tức là KHÔNG PHÙ HỢP thì sẽ gây ra
những khó khăn đến lực lượng sản xuất.Bởi vì vậy, ta rất cần quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất bởi điều đó tạo ra: “Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất. Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cầu thành quan hệ sản xuất. Sự
kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất Tạo điều kiện tối ưu sử dụng
và kết hợp giữa lao động và TLSX Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản
xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.”*
Trong một phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất cần có sự phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất và bởi vì vậy, khi lượng lượng sản xuất có sự biến đổi thì quan hệ sản
xuất cần có sự thay đổi để phù hợp. Trong thực tế: phù hợp Không phù hợp Phù hợp mới
cao hơn ... Ví dụ điển hình là trong một khoảng thời gian nhất định thì có thể phương thức
đó vô cùng phù hợp nhưng sau một thời gian, xã hội thay đổi thì phương thức đó không còn
phù hợp nên bởi vì vậy phương thức ấy cần thay đổi và phát triển để phương thức mới xuất
hiện và phù hợp hơn. “Con người giữ vai trò chủ thể nhận thức giải quyết mâu thuẫn, thiết lập
sự phù hợp. Trong xã hội có đối kháng giai cấp: Mâu thuẫn LLSX và QHSX đuợc biểu hiện về
mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp; được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội”*
“Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật quyết định
sự vận động, phát triển nội tại của bản thân PTSX và là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ
tiến trình lịch sử nhân loại”*
Ý nghĩa của quy luật trong đời sống xã hội là cần phát triển lực lượng sản xuất để tạo thành
tiên đề phát triển kinh tế. Để loại bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới cần
bắt đầu từ khả năng của lực lượng sản xuất .
3. Biện chứng giữa các cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. 11 lOMoAR cPSD| 44985297
“ Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội….hợp thành cơ cấu kinh tế
xã hội, hình thành khách quan trong quá trình sản xuất vất chất của xã hội… toàn bộ các quan
hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh
tế hiện thực” theo giáo trình của Mác – Lenin. Các quan hệ sản xuất được hiểu là các quan hệ
đầu tiên, cơ bản và mang tính thiết yếu và từ đó đưa ra quyết định về mọi quan hệ xã hội khác.
“ Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư,
quan hệ sản xuất mầm mống. Mối quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau.” theo giáo
trình của Mác – Lenin. Đặc biệt, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo, quyết định xã
hội chung của cơ sở hạ tầng.
“ Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã
hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định. Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… cùng những thiết chế xã hội
tương ứng nhà nước, đảng phái, giáo hội và các đoàn thể tổ chức xã hội khác” theo triết học Mac – Lenin.
Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng tồn tại thông qua sự tác động lẫn nhau và đều phát triển
trên cơ sở hạ tầng từ đó phản ánh cơ sở hạ tầng nhất định. Nhưng các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng không phải yếu tố nào cũng có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp như
là: triết học, tôn giáo, nghệ thuật…. có liên kết gián tiếp với cơ sở hạ tầng.
Tính chất đối kháng thường thấy trong kiến trúc thượng tầng trong xã hội có đối kháng giai
cấp. “ Tính chất đối kháng của kiến trúc thượng tầm phản ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng
và được biểu hiện ở sự xung đột, sự đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng”*. Thực
tế, con người có thể thấy xã hội có đối kháng giai cấp thuộc kiến trúc thượng tầng và có những
bộ phận đối lập với nó và đó chính là những quan điểm, ý tưởng và các tổ chức chính trị thuộc giai cấp.
Bộ phận mang tính quyền lơị nhất có đối kháng giai cấp là nhà nước- yếu tố quan trọng nhất.
Bởi vì nhà nước mang trong mình sức mạnh thống trị, tạo ra chuẩn mực, những bộ luật để
người dân nghe theo và phát triển đất nước. Theo như giáo trình triết học Mac – Lenin: “Giai
cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng, cũng như
thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu
hướng và toàn bộ đời sống tinh thần và cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng”.
b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội. 12 lOMoAR cPSD| 44985297
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng
tầng cũng thay đổi. Từ quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần, từ tính tất yếu kinh tế
xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội thì chúng ta thấy rằng cơ sở hạ tầng thể
hiện mặt kinh tế, còn kiến trúc thượng tầng thể hiện mặt chính trị, cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng. Và nội dung của quyết định là “CSHT như thế nào thì KTTT như thế
đó, QHSX nào là thống trị thì nó sẽ tạo ra một KTTT như thế ấy, giai cấp nào mà thống trị
trong xã hội thì toàn bộ tư tưởng của giai cấp đó sẽ là tư tưởng thống trị trong xã hội; CSHT
mà mất đi, CSHT mới ra đời thì sớm hay muộn KTTT cũng mất đi để ra đời một KTTT mới;
Nội dung của KTTT do CSHT quy định”
* Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng :
Do tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng, tính phát triển, lên ý tưởng mới của ý
thức, yếu tố tinh thần và vai trò mạnh mẽ về vật chất thuộc bộ máy và từ đó, sự tác động ấy đã
làm chắc chắn và thêm phần bảo vệ củng cố giá trị của cơ sở hạ tầng và cũng chính là bảo vệ
lợi ích kinh tế thuộc thời kì, giai cấp đó; ngăn chặn những cơ sở hạ tầng mới và những điều cũ
trong quá khứ, định hướng, phát triển để tạo nên một chế độ kinh tế có sự phù hợp cao.
Một vài phương thức tác động trở lại đó là tác động theo hai chiều. Cùng chiều với quy luật
kinh tế tạo ra khả năng phát triển xã hội nhưng nếu người chiều thì sẽ gây ra sự trì trệ những
khó khăn trong nền phát triển kinh tế. Kiến trúc thượng tầng chính trị mang tầm quan trọng
lớn nhất do sự phản ảnh từ cơ sở hạ tầng trực tiếp có biểu hiện tập trung kinh tế.
Không chỉ vậy, quy luật ấy còn mang ý nghĩa đời sống cao: “Giúp nhận thức đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị”.
4. Sự phát triển các HT KTXH là một quá trình lịch sử - tự nhiên
a. Phạm trù hình thái kinh tế:
Trên lập trường duy vật lịch sử, các nhà kinh điển cho thấy những “quan hệ vật chất của xã hội
là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ xã hội khác và chỉ ra cấu trúc hiện thực của một xã
hội cụ thể thông qua phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.” theo giáo trình triết học Mac – Lenin.
“Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên kiểu quan hệ sản xuất đó.”* 13 lOMoAR cPSD| 44985297
Phạm trù hình thái kinh tế xã hội gồm 3 yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng, Lực lượng sản xuất là nền tảng của vất chất trong xã hội, tiêu chuẩn
phân biệt thời đại khác nhau, yếu tố mang tính quyết định sự vận động của cả hình thái kinh tế.
Theo chủ nghĩa Mac- Lenin: “Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và
quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất
có các chế độ xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa
người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.”
Đây có thể là sự trừu tượng hoá những mặt yếu tố mang tính phổ biến cao của mọi xã hội
trong mọi thời gian từ quá khứ. Phạm trù hình thái kinh tế mang tính trừu tượng và có sự cụ
thể xét xã hội theo từng giai đoạn, quốc gia,….với các tiêu chí nhất định, trình độ cần đủ khả
năng và có tiềm năng phát triển và kiểu kiến trúc thượng tầng có sự tiêu biểu cho tinh thần xã
hội và từ đó cho con người sự nhận thức rõ ràng hơn và có tư duy hiểu biết về lịch sử xã hội.
b. Tiến trình lịch sử- tự nhiên của xã hội loài người.
Tiến trình lịch sử- tự nhiên của xã hội loài người được thể hiện “Một là, sự vận động và phát
triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan. Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động và
phát triển của xã hội đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của LLSX xã
hội. Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội còn chịu sự tác động của các
nhân tố chủ quan khác nên Xu hướng chung của các HTKT – XH là sự phát triển từ thấp lên
cao. Nhưng sự phát triển đó được diễn ra bằng nhiều cách: Có thể phát triển tuần tự, có thể phát triển nhảy vọt.
Lựa chọn con đường phát triển như thế nào cho phù hợp là do phải xét tới điều kiện lịch sử
của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và chủ quan)” *.Những điều kiện để bỏ qua
học thuyết hình thái kinh tế- xã hội: Điều kiện khách quan (phương thức sản xuất định bỏ qua:
Đã tỏ ra lạc hậu với tiến trình lịch sử TG, phương thức sản xuất mới đinh tiến lên đã xuất hiện)
và nhân tố chủ quan ( đủ năng lực và khả năng của lãnh đạo để có được sự phát triển mạnh mẽ
hơn, cần biết đến các yếu tố về mọi mặt đời sống: kinh tế, chính trị, văn hoá….)
c. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã ra đời 172 năm và mang lại nhiều giá trị tồn tại, ý nghĩa
cho đến ngày hôm nay. Một trong những vai trò không thể thiếu đó là đem lại một cuộc cách
mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội để giúp con người nâng cao nhận thức hiểu biết và có
sự so sánh rõ ràng tìm toi tư duy về các quan niệm trước Mác có đúng hay không. Không chỉ
vậy nó còn là phương phát luận trong hoạt động về vật chất, nhận thức và hướng tới sự phát 14 lOMoAR cPSD| 44985297
triển xã hội. Và cuối cùng, nó còn tạo ra được cơ sở khoa học trong tư duy, đấu tranh nhiều tư tưởng và lý luận.
Đối với Việt Nam, học thuyết lý luận về hình thái kinh tế mang giá trị vô cùng lớn lao.
II. Con đường phát triển của Việt Nam hiện tại:
1. Những nội dung và thành tựu đã đạt được của Việt Nam :
Việt Nam đã chọn con đường chủ nghĩa xã hội thay vì tư bản chủ nghĩa. Sự lựa chọn này được
thể hiện rõ từ cương lĩnh đầu tiên năm 1930 do đồng chí Trấn Phú soạn: “ Cách mạng Việt Nam
sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ thì tiến thẳng lên làm cách mạng XHCN mà
không kinh qua chế độ TBCN”. Đất nước đã và đang theo con đường ấy hơn 90 năm và chúng
ta vẫn luôn tự hào được đi từ những thắng lợi này sang thắng lợi khác. Nhiều nhà khoa học đã
khẳng định: “ Chủ nghĩa Mac vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới
hiện đại”. Trong năm 1986 ( thời kì đổi mới), Đảng ta đã đổi mới về những tư duy về kinh tế,
chính trị và có tầm chiến lược: bỏ qua chủ nghĩa tư bản ( chỉ bỏ qua về những mặt tiêu cực rõ
ràng: quan hệ bóc lột những điều mà con người bị áp bức, những bất công trong xã hội về thuế,
về bộ máy hoạt động thời bấy giờ), bỏ qua tư bản chủ nghĩa ( bỏ qua về tính chất quá hiếu chiến
mà vô tình mất đi tính nhân văn cao, phương thức bóc lột sức lao động vô cùng dã man của thời
bấy giờ) nhưng chúng ta vẫn giữ tồn tại nền kinh tế hàng hoá và áp dụng mạnh mẽ về mặt khoa
học kĩ thuật; trình độ sản xuất phát triển mạnh của chủ nghĩa tư bản; quy luật kinh tế khách quan….
Trong quá trình phát triển đất nước và đặt biệt là nền kinh tế thị trường, Đảng ta đã thực hiện
những chính sách mang tính về lâu về dài phát triển nền kinh tế thị trường mang theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Và chính nền kinh tế ấy có nhiều hình thức sở hữu và bao gồm nhiều thành
phần kinh tế, giữ tầm quan trọng lớn là Nhà nước. Bởi vì vậy, kinh tế tập thể và kinh tế Nhà
nước ngày càng phát triển và là tiền đề vững chắc. Đảng ta đã khẳng định: “mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho CNXG, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: Sở hữu, quản
lý và phân phối” theo báo text.xemtailieu.com. Nền kinh tế thị trường không thể thiếu đi vai trò
của Nhà nước. “ Nhà nước ta là Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế
và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, gỉai phóng sức sản xuất, 15 lOMoAR cPSD| 44985297
phát huy tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tieu cực của cơ chế thị trừơng, bảo vệ lợi ích của
nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân” theo báo text.xemtailieu.com.
Năm 1996, đại hội VIII của Đảng, đất nước đã chuyển sang giai đoạn phát triển mạnh mẽ về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đó cũng chính là yếu tố quyết định, giúp đất nước không bị
rơi vào: “Nguy cơ tụt hậu xã hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới”.Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một trong những bước đi vô cùng quan trong
của Đảng và nhà nước Việt Nam và đây cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kì quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ con đường phát triển theo công nghiệp hoá, hiện
đại hoá có sự nhảy vọt nhưng có những bước đi chắc chắn và áp dụng, phát huy những lợi thế,
phát triển khoa học kĩ thuật, các công nghệ về mọi mặt: kinh tế, sinh học, hoá học…. Đặc biệt
là những chính sách phát huy từ trí tuệ, tri thức của con người Việt Nam: chính sách học bổng,
có những chính sách để khuyến khích những người giỏi,…; chú trọng phát triển về giáo dục….
Bên cạnh sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, nhà nước vẫn luôn thúc đẩy, quan tâm tới phát triển
văn hoá, nghệ thuật và giữ gìn truyền thống văn hoá dân tộc, trân trong gía trị tinh thần của
dân tộc; nâng cao phát triển giáo dục có những chính sách bồi dưỡng nhân tài, nâng cao nhận
thức con người về vấn đề xã hội và thực hiện sự công bằng giữa pháp lý, xã hội để dân giàu
nước mạnh và xã hội văn minh.
2. Những hạn chế tồn tại và giải pháp:
Trên con đường phát triển và tồn tại đi theo chủ nghĩa Mac – Lenin, chắc hẳn không có gì là
có thể hoàn hảo tuyệt đối và Việt Nam cũng vậy, chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế tồn động và
tư đó cần những giai pháp kịp thời và hết sức phù hợp và dưới đây sẽ là một vài hạn chế tiêu
biểu và các giaỉ pháp trực tiếp:
Vấn đề lực lượng sản xuất hiện nay có sự không đồng đều trong trình độ lực lượng sản xuất và
mục tiêu có sự kết hợp thành lực lượng sản xuất hiện đại. Để có thể đạt được như vậy, nhà
nước cần có sự hợp tác kinh tế với quốc tế, đổi mới nền giáo dục, đào tạo phát triển dạy nghề ,
… đào tạo người lao động hiện đại. Kỹ năng, sức sáng tạo con người cần cố gắng phát triển,
số lượng người có học thức cao sẽ tạo ra những phát minh, sáng chế mới, lý tưởng mới và
rạng danh tên tuổi người Việt Nam.
Về vấn đề quan hệ sản xuất, chúng ta không thể áp đạt toàn bộ một loại hình cụ thể mà cần có
sự linh hoạt, phù hợp với từng lực lượng sản xuất, mang tính phù hợp cao và đặc biệt đều
hướng tới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì vậy, nhiệm vụ chúng ta cần đặt ra đó là:
“Như vậy, nhiệm vụ đặt ra là vừa phát huy vai trò của lực lượng sản xuất của tất cả các thành 16 lOMoAR cPSD| 44985297
phần kinh tế phi nhà nước, phi tập thể, vừa phải có biện pháp phát triển lực lượng sản xuất của
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Trên cơ sở đó mới từng bước xây dựng, hoàn thiện được
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” theo báo tulieuvankien.dangcongsan.vn. Đặc biệt, chế độ
phân phối là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng trong Nhà nước. Hiện nay số lượng
người đổ xô về thành thị vẫn rất cao và sự phân phối về lực lượng sản xuất không đồng đều
gây ra thiệt hại nhiều về của cải, vật chất và chính sức khoẻ của người dân.
Về kiến trúc hạ tầng, hiện nay các dự án đang được xây dựng, phát triển và đi đến hoàn thiện
nhưng thời gian mỗi dự án diễn ra quá lâu gây ra sự thất vọng đối với mỗi công dân Việt Nam,
gây ô nhiễm và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội của con người. Những cơ sở kiến trúc
hạ tầng cần phải đẩy nhanh tiến độ thời gian, thực hiện liên tục thay vì thường xuyên bị đóng
băng và lãng quên dễ dàng, nhận được nhiều sự quan tâm hơn từ bộ máy chính trị.
Về vấn đề xuất nhập khẩu, hiện nay đây đã trở thành vấn đề vô cùng nóng hổi trong mạng xã
hội hiện nay. Bởi vì sự quản lý thiếu chặt chẽ của nhà nước và những con người ý thức kém tổ
chức các cuộc xuất nhập khẩu không đúng đắn và trái pháp luật đã để người bị nhiễm bệnh
COVID-19 có thể sinh hoạt tại Việt Nam và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về sau này.
Không chỉ vậy, xuất nhập khẩu là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng đối với nền
kinh tế. Chúng ta vô cùng tự hào khi đã có thể xuất khẩu sản phẩm ra thế giới nhưng giá thuế
chúng ta phải chịu rất cao và giá của những sản phẩm chúng ta xuất khẩu vẫn còn rất rẻ. Từ
đó, có rất nhiều gánh nặng đặt lên vai của những cán bộ, chính quyền thuộc Nhà nước và Nhà
nước cần có sự quản lý chặt chẽ hơn, tạo ra thêm nhiều khu công nghiệp để xuất khẩu ra sản
phẩm hoàn thành thay vì sản phẩm thô sơ, có sự kết hợp gắn kết bền chặt với các nước trên toàn thế giới. Phần kết luận:
Một lần nữa, chúng ta có thể khẳng định: “Lý luận đã có 172 năm tồn tại và phát triển dù thời
gian dài và chính trị, xã hội có nhiều thay đổi, khoa học công nghệ và đời sống con người thay
đổi theo từng giây từng phút nhưng học thuyết này vẫn luôn được đánh giá cao và cơ bản và
vẫn giữ nguyên giá trị của khoa học.” khẳng định phần mở đầu.
Học thuyết này đã mang lại giá trị, vai trò to lớn với xã hội đặc biệt với đất nước Việt Nam.
Đặc biệt, học thuyết đã cho thấy rõ sự phát triển hình thái kinh tế theo quá trình lịch sử đến
hiện nay, diễn ra theo quy luật khách quan, muốn có sự hiểu biết về đời sống xã hội cần hiểu
rõ các quy luận vận động.
Sự lựa chọn của Việt Nam ta chọn đi theo con đường chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng
đắn. Đảng ta đã đạt được nhiều thành công, cần phát triển và thay đổi những hạn chế. 17 lOMoAR cPSD| 44985297
Phần tư liệu tham khảo:
Sách giáo trình triết học Mac- Lenin.
Link: “http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3132-nhung-goi-mo-
choviet-nam-tu-hoc-thuyet-hinh-thai-kinh-te-xa-hoi-cua-chu-nghia-mac-lenin.html”
“https://text.xemtailieu.com/tai-lieu/ly-luan-hinh-thai-kinh-te-xa-hoi-va-van-dung-no-
trongqua-trinh-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-187339.html” 18