



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …...0O0…… BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Đề tài:
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng
của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay
Họ, tên SV: Phạm Việt Hưng Mã SV: 11226269
Lớp: Quan hệ công chúng 64 Khóa: 64
Lớp học phần: Triết học Mác Lê-nin_28 Hà Nội – 01/2023 lOMoAR cPSD| 44985297 LỜI MỞ ĐẦU
Bắt đầu vào những năm 20 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa
Mác-Lênin đã dần dần được giới thiệu vào Việt Nam dưới sự chỉ đạo và tiên phong
của Nguyễn Ái Quốc và một vài tên tuổi nổi bật khác như: Phan Văn Trường, Nguyễn
Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Đào Duy Anh,... Bắt đầu từ đó, chủ nghĩa này đã đồng
hành và xuyên suốt trong quá trình đấu tranh giải phóng của dân tộc ta như Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Lời tựa viết cho bản tiếng Nga
quyển “Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói chọn lọc” 1959, do chính Hồ Chí Minh
gạch dưới, Tuyển tập Hồ Chí Minh, NXB Sự thật 1960, tr. 705). Tiêu biểu nhất cho chí
hướng trên là các cuộc biểu tình khởi nghĩa hồi tháng Tám năm 1945 và sau đó là
những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm,... Đến tận khi chúng ta đã giành được
độc lập, bước vào thời kỳ phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội thì Chủ nghĩa
Mác- Lênin vẫn luôn giữ cho mình vai trò nòng cốt và là kim chỉ nam cho những hoạt
động, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong triết học Mác- Lênin, những quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên
được thể hiện vô cùng rõ ràng và những quan điểm trên còn được áp dụng và mở rộng
vào việc nhận thức và nghiên cứu xã hội. Từ đó, Mác đã đưa ra và phát triển lên một
trong ba phát kiến vĩ đại của mình mang tên: Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, Học
thuyết hình thái kinh tế xã hội là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử bởi vì nó đã vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển
của xã hội và phương pháp luận khoa học để ta nhận thức và cải tạo xã hội.
Hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật đã đưa thế
giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự chiếm lĩnh của trí tuệ nhân tạo
(AI) và Internet. Trải qua vô số sự phát triển, biến đổi to lớn và không ngừng như vậy
nhưng những lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin vẫn giữ
nguyên giá trị của mình. Những lý luận đó chính là cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận khoa học để chỉ đạo cho những chính sách, chính đảng; xác định cương
lĩnh, đường lối của các nhà nước xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu là Việt Nam.
Tính thực tiễn, khoa học và liên hệ chặt chẽ của những lý luận về hình thái kinh
tế- xã hội với chính sách, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước Việt Nam ta
chính là lý do tại sao em cho rằng chủ đề: “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự
vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay” mang trong mình một vai trò vô cùng
quan trọng và cần thiết. PHẦN MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1 lOMoAR cPSD| 44985297
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................................1
Phần A: HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI...............................................................1
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI.........................1
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI......1
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.................................................1
1.1. Khái niệm sản xuất vật chất............................................................................................1
1.2. Các đặc trưng cơ bản của sản xuất vật chất...................................................................1
1.3. Các yếu tố cơ bản của sản xuất vật chất.........................................................................1
1.4. Vai trò của sản xuất vật chất...........................................................................................1
2. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.........................................1
2.1 Phương thức sản xuất......................................................................................................1
2.1.1 Lực lượng sản xuất....................................................................................................1
2.1.2 Quan hệ sản xuất......................................................................................................1
2.2. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất..................................1
2.2.1 Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất.........................1
2.2.2 Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất...................................1
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.......................................................1
3.1 Cơ sở hạ tầng...................................................................................................................1
3.2 Kiến trúc thượng tầng......................................................................................................1
3.3 Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và Kiến trúc thượng tầng........1
3.3.1 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng..........................1
3.3.2 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.........................1
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.......................1
4.1 Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội...................................................................................1
4.2 Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội............................................................................1
4.2.1 Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan.................1
4.2.2. Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội đều có nguyên nhân trực tiếp
hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội (công cụ lao động)........1
4.2.3. Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội còn chịu sự tác động của các
nhân tố chủ quan khác.......................................................................................................1
4.3 Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng:...........................................................1
Phần B: SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................................................1 lOMoAR cPSD| 44985297
I.VẤN ĐỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM................................................1
1. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.........1
2. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay.............................................................................................................................1
3. Những thành tựu đã đạt được................................................................................................1
4. Một số hạn chế còn tồn tại.....................................................................................................1
5. Giải pháp...............................................................................................................................1
II. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA.................................................................................................................................1
1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự đột phá về lý luận và
xâydựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt
Nam................................................................1
2. Những thành tựu đã đạt được................................................................................................1
3. Những hạn chế còn tồn tại.....................................................................................................1
4. Giải pháp...............................................................................................................................1
III. VẤN ĐỀ CỦNG CỐ VÀ HOÀN THIỆN KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................................................................1
1. Lý luận về kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam hiện nay...........................................................1
2. Những thành tựu đã đạt được................................................................................................1
3. Những hạn chế còn tồn tại.....................................................................................................1
4. Giải pháp...............................................................................................................................1
KẾT LUẬN...............................................................................................................................1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................1 PHẦN NỘI DUNG
Phần A: HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội (Lý luận hình thái kinh tế - xã hội) là một
phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ những yếu tố cơ bản, chung nhất
và sự tác động qua lại lẫn nhau của những yếu tố cơ bản đó trong xã hội. Học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội còn là phương pháp luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã
hội với giá trị khoa học và giá trị thời đại được giữ nguyên bất chấp những sự biến đổi
to lớn, sâu sắc của thế giới. Chính vì vậy, những phương pháp luận khoa học này đã lOMoAR cPSD| 44985297
được Đảng và Nhà nước ta vận dụng linh hoạt trong việc xác định cương lĩnh, đường
lối, chủ trương, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm các
quan điểm cơ bản như sau: Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát
triển xã hội; biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên. Hệ thống quan điểm lý luận khoa học này đã và đang
phản ánh một cách chính xác quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
1.1. Khái niệm sản xuất vật chất
Khác với các nhà duy tâm, khi nghiên cứu về xã hội thì họ xuất phát từ yếu tố
tinh thần; tuy nhiên, với quan điểm của một nhà duy vật biện chứng thì C.Mác lại xuất
phát từ sản xuất vật chất, con người hiện thực và xã hội nói chung.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng: Để tồn tại và phát triển thì con người
cần phải không ngừng sản xuất. Vậy sản xuất là gì? Sản xuất là hoạt động có mục
đích và không ngừng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người. Trong cuộc sống hằng ngày, việc sản xuất là
một đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người, phân biệt chúng ta với
những sinh vật khác loài nhờ tính có mục đích và chủ quan của nó. Quá trình sản xuất
diễn ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực.
Sự sản xuất xã hội, bao gồm ba phương diện không tách rời nhau đó chính là
sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người để thỏa mãn
những nhu cầu của con người về vật chất, tinh thần, tâm sinh lý,... nhằm tồn tại và
phát triển. Mỗi phương diện đều có những vị trí, vai trò khác nhau nhưng sản xuất vật
chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội và quyết định toàn bộ sự vận động
và phát triển đời sống xã hội. Sở dĩ có nhận định này là bởi vì con người muốn tồn tại
chưa nói đến phát triển thì đã cần phải sản xuất vật chất giống như một quan điểm của
C.Mác như sau: “Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có
thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,...”. Chính vì vậy, trước khi có thể
phát triển và sản xuất ra những giá trị tinh thần thì con người cần phải sản xuất và thỏa
mãn những nhu cầu về vật chất.
Sản xuất vật chất chính là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ
lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của lOMoAR cPSD| 44985297
giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
1.2. Các đặc trưng cơ bản của sản xuất vật chất
Các hoạt động sản xuất vật chất bao giờ cũng mang trong mình ba đặc trưng cơ
bản. Thứ nhất, sản xuất vật chất là hoạt động mang tính mục đích của con người
nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt cho mình. Một vài ví dụ tiêu biểu ta có thể nhận
thấy như quá trình gieo cấy và nuôi trồng hạt thóc nhằm mục đích sản xuất ra thóc
phục vụ cho nhu cầu cơ bản của con người là việc ăn uống hay quá trình xây dựng
nhằm mục đích sản xuất sản xuất ra nhà cửa để phục vụ nhu cầu có mái ấm của con người.
Đặc trưng thứ hai đó chính là sản xuất vật chất gắn với việc chế tạo và sử dụng
công cụ lao động. Chính trong quá trình sản xuất vật chất, con người chế tạo ra công
cụ lao động để biến việc sản xuất dễ dàng và hiệu quả hơn, cùng với đó thì việc sử
dụng những công cụ lao động này một cách hợp lý và khoa học cũng giúp ta đạt được
kết quả cao trong việc sản xuất vật chất.
Một vài công cụ lao động và tác dụng của chúng
Đặc trưng cuối cùng của sản xuất vật chất đó chính là sản xuất vật chất gắn với
việc biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội. Quá trình sản xuất luôn luôn tác động khiến
yếu tố tự nhiên và xã hội thay đổi. Việc biến đổi có thế phát triển theo hai chiều hướng:
tích cực và tiêu cực. Vụ việc của nhà máy Formosa chính là một ví dụ tiêu biểu cho đặc
trưng này của sản xuất vật chất. Nhờ việc xây dựng nhà máy gang thép đã đem lại những
biến đổi tích cực như: đem lại việc làm cho bà con, sản xuất gần 5,8 triệu gang thép cho
thị trường và đem lại doanh thu gần 4 tỷ USD vào năm 2022. Tuy nhiên, vụ việc nhà
máy Formosa xả thải ra môi trường gây chết gần 70 tấn cá biển tự nhiên, 30 tấn cá nuôi
lồng bè đã chết vào năm 2016 gây thiệt hại nặng nề đến kinh tế, xã hội và môi trường
biển. Chính vì vậy mà chúng ta cần có biện pháp, chính sách phù hợp để sản xuất vật
chất nhằm tối đa hóa những biến đổi tích cực và tối thiểu hóa những biến đổi tiêu cực. lOMoAR cPSD| 44985297
Hậu quả nặng nề của vụ việc nhà máy Formosa Hà Tĩnh xả thải ra môi trường
1.3. Các yếu tố cơ bản của sản xuất vật chất
Trong các hoạt động sản xuất vật chất thì không thể thiếu các yếu tố cơ bản
như: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Sức lao động chính là
người lao động: con người có tri thức, trình độ, kinh nghiệm, kĩ năng lao động và năng
lực sáng tạo nhất định. Họ vừa là chủ thể sáng tạo, vừa tiêu dùng của cải vật chất. Đối
tượng lao động là những thứ lao động của con người tác động lên và biến đổi để phù
hợp với nhu cầu của con người và đối tượng lao động có thể có trong tự nhiên (đất,
nước,...) và nhân tạo (thóc, lụa,...). Tư liệu lao động chính là yếu tố sản xuất của vật
chất mà con người dựa vào đó tác động lên đối tượng lao động nhằm biến thành sản
phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Tư liệu lao động được chia thành 2 loại đó
chính là công cụ lao động (dao, kéo,...) và phương tiện lao động (hệ thống bình chứa và cơ sở hạ tầng). Sức lao động
Đối tượng lao động Tư liệu lao động Con người gặt lúa Đất, nước,... Máy cày
Những yếu tố cơ bản của sản xuất vật chất trong việc sản xuất lúa
1.4. Vai trò của sản xuất vật chất
Với những yếu tố và đặc trưng như vậy thì ta có thể khẳng định rằng: sản xuất
chính là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vai trò của sản xuất vật chất lOMoAR cPSD| 44985297
được thể hiện chính là nhân tố quyết định sự sinh tồn và phát triển của con người và
xã hội bằng cách trực tiếp tạo ra tư liệu sinh hoạt của con người duy trì sự tồn tại của
xã hội loài người. Xã hội sẽ không tồn tại nếu ngừng sản xuất ra của cải vật chất.
Ngoài ra, sản xuất vật chất còn là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển mối quan
hệ xã hội của con người và là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người, hình
thành nên quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người, từ đó hình thành nên các
quan hệ xã hội khác,... Sản xuất vật chất đã tạo điều kiện đảm bảo cho tinh thần của con
người và duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh thần của xã hội. Nhờ sự sản xuất
ra của cải vật chất mà con người đã sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần
của xã hội với sự phong phú và phức tạp của nó.
Hơn nữa, sản xuất vật chất còn là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người,
qua lao động, từ đó phát triển lên việc hình thành ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm,
đạo đức,... Sản xuất vật chất chính là cơ sở cho sự hình thành, tiến bộ của xã hội loài
người. Nhờ lao động mà con người đã tách mình khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập, vừa cải
tạo tự nhiên, từ đó con người sáng tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần, thậm chí sáng
tạo ra chính bản thân con người để thỏa mãn những nhu cầu của chính họ.
2. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
2.1 Phương thức sản xuất
Đối với mỗi giai đoạn lịch sử thì con người sẽ tiến hành sản xuất theo một cách
thức nhất định, họ sẽ có cho mình cách sống và sản xuất riêng biệt, đó chính là
phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá
trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của lịch sử loài người.
Phương thức sản xuất còn là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định (mặt tự nhiên của sản xuất/ nội dung vật chất của sản xuất) và quan hệ sản xuất
tương ứng (mặt xã hội của sản xuất/ hình thức xã hội của sản xuất). Ở đây, các khái
niệm của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được dùng để chỉ mối quan hệ “song
trùng” giữa con người và tự nhiên, con người và con người trong quá trình sản xuất vật chất.
C.Mác đã từng nói: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng
sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao
động nào.” Từ trước tới giờ, những nhu cầu cơ bản của con người vẫn không hề thay
đổi: ăn uống, nhà cửa,... mà chính cách thức con người tác động ở mỗi thời đại lại
khác nhau, với những công cụ vô cùng khác nhau. Sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người chính là sự thay thế của các phương thức sản xuất.
2.1.1 Lực lượng sản xuất
Là tất cả những yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất là sự
kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra sức sản xuất và năng lực lOMoAR cPSD| 44985297
thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của tự nhiên theo nhu cầu của con người
và xã hội. Về mặt kết cấu, lực lượng sản xuất được chia thành hai bộ phận: mặt kinh tế
- xã hội (người lao động) và mặt kinh tế- kỹ thuật (tư liệu sản xuất).
Người lao động ở đây chính là những con người có tri thức, trình độ, kinh
nghiệm, kĩ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định. Họ vừa là chủ thể sáng tạo,
vừa tiêu dùng của cải vật chất. Những người lao động là nguồn lực cơ bản, vô hạn và
đặc biệt của sản xuất. Người lao động quyết định mức độ và sự hiệu quả, họ là yếu tố
quan trọng hàng đầu do người lao động tạo ra tư liệu sản xuất, quyết định trình độ tư
liệu sản xuất, quyết định hiệu quả tư liệu sản xuất. Trong quá trình phát triển nhân lực
phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, lực lượng lao động
hay người lao động ở Việt Nam gặp phải một vấn đề đặc thù mang tên “thừa thầy
thiếu thợ”. Người thầy ở đây đó chính là những lao động trí óc và sản phẩm mà họ tạo
ra thông thường rất khó có thể cân đo đong đếm do tính trừu tượng của nó. Đối với
những người thợ thì họ là những lao động trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật
chất mang tính ứng dụng trực tiếp và có thể cân đo đong đếm được. Ngày nay, tỷ trọng
người lao động cơ bắp giảm, người lao động trí tuệ ngày càng tăng. Theo khảo sát của
Thành phố Hồ Chí Minh về các nhóm ngành với nhu cầu tìm việc cao thì nhóm ngành
yêu cầu lực lượng lao động trí tuệ có tỷ lệ khá cao như Marketing, kế toán, kiểm
toán,... còn nhóm ngành yêu cầu lực lượng lao động cơ bắp như kỹ thuật, điện tử,... khá thấp.
Khảo sát của Thành Phố Hồ Chí Minh về các nhóm ngành có nhu cầu tìm việc
cao năm 2020 (Đơn vị: %)
Tư liệu sản xuất bao gồm hai thành phần cơ bản là đối tượng lao động và tư
liệu lao động với vai trò là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất. Đối tượng
lao động là những thứ con người tác động lên và biến đổi để phù hợp với nhu cầu của
con người và xã hội. Đối tượng lao động được chia thành hai loại đối tượng lao động
tự nhiên: có sẵn trong tự nhiên, các yếu tố liên quan đến môi trường (đất, nước,...) và
đối tượng lao động nhân tạo: đã được qua chế biến, tác động bởi con người (nguyên lOMoAR cPSD| 44985297
liệu). Tư liệu lao động chính là các yếu tố sản xuất của vật chất mà con người dựa vào
đó tác động lên đối tượng lao động nhằm biến thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của
con người. Tư liệu lao động cũng được chia thành hai loại là công cụ lao động và
phương tiện lao động. Công cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian” và “truyền
dẫn” giữa người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Ngày càng
phát triển hiện đại thông qua các thời kỳ phát triển khác nhau của con người. Công cụ
lao động mang tính “động” nhất do nhu cầu con người. Phương tiện lao động là yếu
tố thứ hai của tư liệu bao gồm hệ thống bình chứa và cơ sở hạ tầng.
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sở dĩ là do khoa
học trở thành nguyên nhân mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất; rút ngắn khoảng
cách từ phát minh, sáng chế đến việc ứng dụng trong sản xuất, làm năng suất và của
cải tăng nhanh; kịp thời giải quyết những mâu thuẫn và yêu cầu sản xuất đặt ra; thâm
nhập vào các yếu tố sản xuất để trở thành mắt khâu quan trọng trong sản xuất; kích
thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người. Nếu như các phát minh
lớn của cuộc cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII như: máy hơi nước, máy phát
điện… chủ yếu bắt nguồn từ những cải tiến về kĩ thuật, những người phát minh không
phải những nhà khoa học mà là những người lao động trực tiếp thì những phát minh
của khoa học - công nghệ có nguồn gốc từ nghiên cứu khoa học. Khoa học đi trước
mở đường cho kĩ thuật. Đến lượt mình, kĩ thuật lại đi trước mở đường cho sản xuất.
Đầu tư vào khoa học mang lại hiệu quả ngày càng cao.
Khoa học ứng dụng vào trong sản xuất làm gia tăng năng suất lao động
2.1.2 Quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất phát triển và tác động qua lại với quan hệ sản xuất. Vậy
quan hệ sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế- vật chất
giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm
quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất: quy định địa vị kinh tế - xã hội của con lOMoAR cPSD| 44985297
người trong sản xuất từ đó quy định quan hệ quản lý và phân phối; quan hệ giữa người
với người trong tổ chức, quản lý sản xuất (quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc phân phối sản phẩm lao động xã hội) quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ,
hiệu quả của sản xuất, có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển nên chúng ta cần
biết vận dụng quan hệ này hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất;
quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm (quan hệ giữa các tập đoàn
trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, thể hiện cách thức và quy mô của cải
vật chất mà các tập đoàn được hưởng) từ đó kích thích lợi ích con người; thúc đẩy tốc
độ, nhịp điệu sản xuất; năng động hóa đời sống kinh tế - xã hội hoặc kìm hãm quá trình sản xuất.
Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, quan hệ trong sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết
định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Trong xã hội, quan hệ sản xuất được
hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
2.2. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định
sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong xã hội. Trong đó, lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác
động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động ngược lại lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
hoặc ngược lại thì sẽ gây kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Đây là quy luật cơ
bản nhất của sự vận động và phát triển của xã hội.
2.2.1 Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì
lực lượng sản xuất mang vai trò quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ
tác động trở lại lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất giống giữa vật chất và ý thức.
Trong đó, khi lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính
năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển còn quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. khi lực lượng sản
xuất vận động, phát triển thì mâu thuẫn với tính ‘’đứng im’’ tương đối của quan hệ
sản xuất, từ chỗ “phù hợp’’ trở thành ‘’xiềng xích’’ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất . như một tính hệ quả tất yếu, xã hội đòi hỏi xóa bỏ quan hệ sản xuất
cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất phát triển.
lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch
sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. lOMoAR cPSD| 44985297
2.2.2 Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
mạnh mẽ nên quan hệ sản xuất sẽ tác động trở lại đối với lực lượng xã hội theo hai
chiều hướng: Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì sẽ tạo đà cho lực lượng sản xuất phát triển, tuy nhiên nếu quan hệ sản xuất
không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ cản trở lực lượng sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất muốn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì cần có sự kết
hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành của: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
và mối quan hệ hài hòa giữa hai bộ phận này nhằm tạo điều kiện tối ưu sử dụng kết
hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Hơn nữa, việc quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất còn đóng vai trò vô cùng thiết yếu trong việc xây dựng
và phát triển xã hội do nó tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản
xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần lao động. Trong một phương thức sản
xuất, quan hệ sản xuất lúc nào cũng cần phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Yếu tố con người luôn giữ vai trò chủ thể nhận thức trong việc giải
quyết mâu thuẫn và từ đó thiết lập nên sự phù hợp, hài hòa giữa hai yếu tố.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mỗi xã hội trong lịch sử loài người đều là một tổng thể các quan hệ xã hội, bao
gồm quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động qua lại lẫn
nhau giữa quan hệ vật chất với quan hệ tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy
luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là quy luật
cơ bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
3.1 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội
đó. Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
Cơ sở hạ tầng bao gồm ba bộ phận chính: quan hệ sản xuất tàn dư - quan hệ
sản xuất của xã hội cũ; quan hệ sản xuất thống trị - giữ vai trò chủ đạo, quyết định xu
hướng chung của cơ sở hạ tầng; quan hệ sản xuất mầm mống - quan hệ sản xuất của xã hội tương lai. lOMoAR cPSD| 44985297
3.2 Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ các hệ tư tưởng xã hội cùng các thiết chế xã
hội tương ứng được xác lập trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm tư tưởng: Chính
trị, pháp quyền, triết học, đạo đức và các thiết chế xã hội tương ứng: nhà nước, đảng
phái, giáo hội,... Trong các thiết chế xã hội, nhà nước là yếu tố quan trọng nhất, vì nhà
nước có thể ban hành pháp luật. Từ đó, nhà nước có thể cưỡng chế sự phát triển của
kiến trúc thượng tầng. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có một quy luật phát
triển riêng biệt nhưng lại có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.
3.3 Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và Kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ giữa biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
một trong hai quy luật cơ bản của sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Trong đó, cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng cũng có sự tác
động mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Mối quan hệ biện chứng này thực chất là
sự hình thành, vận động và phát triển của các quan điểm tư tưởng với những thể chế
chính trị - xã hội tương ứng.
3.3.1 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Sở dĩ cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng do quan hệ vật chất quyết
định quan hệ tinh thần. Từ tính tất yếu kinh tế (cơ sở hạ tầng) xét đến cùng quyết định
tính tất yếu chính trị - xã hội (kiến trúc thượng tầng).
Vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng cũng giống như quan hệ
giữa vật chất và ý thức. cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế
đó, quan hệ sản xuất nào là thống trị thì nó sẽ tạo ra một kiến trúc thượng tầng như thế
ấy, giai cấp nào mà thống trị trong xã hội thì toàn bộ tư tưởng của giai cấp đó sẽ là tư
tưởng thống trị trong xã hội. nếu như cơ sở hạ tầng mà mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra
đời thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng mất đi để ra một kiến trúc thượng
tầng mới. nội dung của kiến trúc thượng tầng đều do cơ sở hạ tầng quy định.
3.3.2 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh của cơ sở hạ tầng trong một thể chế xã
hội nhất định. Như đã được đề cập trước, cơ sở hạ tầng có sự ảnh hưởng mạnh mẽ và
mang vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, sự tác động trở lại
của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng vẫn xuất hiện là do tính độc lập tương
đối của kiến trúc thượng tầng cùng với đó là tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh
thần và vai trò sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế.
Kiến trúc thượng tầng mang vai trò củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng
sinh ra nó. Xét về mặt bản chất, kiến trúc thượng tầng còn mang vai trò bảo vệ lợi ích
kinh tế của giai cấp thống trị. lOMoAR cPSD| 44985297
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra
thông qua hai chiều hướng: Nếu kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với sự phát
triển của cơ sở hạ tầng thì sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng và xã hội phát triển hoặc ngược
lại. Kiến trúc thượng tầng chính trị có vai trò lớn nhất do phản ánh trực tiếp cơ sở hạ
tầng, là biểu hiện tập trung của kinh tế. Trong đó, nhà nước có vai trò vai trò thiết yếu
đối với cơ sở hạ tầng do nhà nước là tổ chức đặc biệt với quyền lực chính trị, không
chỉ dựa trên cả hệ tư tưởng mà còn dựa trên những hình thức nhất định của sự kiểm soát xã hội.
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
4.1 Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Trên lập trường duy vật lịch sử, các nhà kinh điển Marx khẳng định, những quan hệ
vật chất của xã hội là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ xã hội khác và chỉ ra cấu trúc
hiện thực của một xã hội cụ thể thông qua phạm trù hình thái kinh tế xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng dựa trên quan hệ sản xuất đặc trưng ấy.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu trong xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định bao gồm 3 yếu tố cơ bản, bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Trong đó, lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự
vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan,
cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các
mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần
của đời sống xã hội.
Phạm trù hình thái kinh tế- xã hội là sự trừu tượng hóa, khái quát hóa những mặt,
những yếu tố chung nhất, phổ biến nhất của mọi xã hội ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào.
Phạm trù này cho phép xem xét xã hội ở từng quốc gia, dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử
cụ thể với các tiêu chí như sau: quan hệ sản xuất đặc trưng, một trình độ phát triển lực
lượng sản xuất nhất định, một kiến trúc thượng tầng tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của xã
hội đó. Từ đó đem lại nhận thức sâu sắc cho con người, đem lại tính cụ thể trong tư duy về
lịch sử xã hội. Sau khi trừu tượng hóa từng mặt, từng yếu tố cơ bản của lịch sử xã hội,
phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đem lại sự nhận thức tổng hợp và sâu sắc về xã hội loài
người ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. lOMoAR cPSD| 44985297
4.2 Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội
4.2.1 Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan
Ba yếu tố cơ bản bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và
kiến trúc thượng tầng đều có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, tạo nên sự vận
động, phát triển của lịch sử xã hội. Sự vận động và phát triển của xã hội được thể hiện
thông qua hai quy luật cơ bản là quy luật mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất và mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
4.2.2. Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội (công cụ lao động)
Đầu tiên là sự biến đổi, phát triển của công cụ sản xuất và sự phát triển về tri thức
kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo
ra khả năng, điều kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới về chất.
Sự phát triển về chất của quan hệ sản xuất sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ sở
hạ tầng xã hội. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn
bản (nhanh hay chậm, ít hay nhiều) của kiến trúc thượng tầng xã hội
Lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao của các hình
thái kinh tế - xã hội : Cộng sản nguyên thủy – chiếm hữu nô lệ - phong kiến – tư bản chủ
nghĩa – xã hội chủ nghĩa.
Tiến trình lịch sử tự nhiên của xã hội được ví như đời người lOMoAR cPSD| 44985297
4.2.3. Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội còn chịu sự tác động của
các nhân tố chủ quan khác
Xu hướng chung, cơ bản của toàn bộ lịch sử xã hội loài người là phát triển tuần tự
qua các hình thái kinh tế - xã hội, phát triển từ thấp đến cao. Tuy nhiên, ngoài việc phát
triển tuần tự thì các quốc gia có lựa chọn để nhảy vọt qua các hình thái kinh tế - xã hội.
Quốc gia nào chọn con đường nào thì phải xét tới điều kiện lịch sử của quốc gia đó bao
gồm nhân tố khách quan và chủ quan.
Tính đặc thù của sự phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội :Do đặc
điểm về lịch sử, về không gian, thời gian có quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình
thái kinh tế - xã hội. Bản chất của sự phát triển rút ngắn đó là rút ngắn các giai đoạn, bước
đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm cả phát triển tuần tự và phát triển “bỏ qua”.
4.3 Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng:
Thứ nhất, lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã đem lại một cuộc cách mạng trong quan
niệm về lịch sử xã hội vì đây là đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương pháp luận khoa
học và cách mạng cho sự phân tích lịch sử, xã hội. Hơn nữa, lý luận hình thái kinh tế - xã
hội giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử.
Đồng thời chỉ ra động lực phát triển của lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh
thần hoặc lực lượng siêu nhiên thần bí nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con người –
trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan
Thứ hai, hình thái kinh tế - xã hội là phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và
cải tạo xã hội. Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận thức và
tác động cả ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng.
Thứ ba, đây còn là cơ sở khoa học quán triệt quan điểm của Đảng ta về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, có khả năng và
điều kiện để thực hiện. Đồng thời đây là con đường phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ
qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử.
Thứ tư, hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học trong đấu tranh tư tưởng, lý luận
do nó đã phê phán thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ đã tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật, xóa
nhòa sự khác nhau về bản chất của các chế độ xã hội nhằm chứng minh cho sự tồn tại vĩnh
viễn của chế độ tư bản.
Phần B: SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
I.VẤN ĐỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM lOMoAR cPSD| 44985297
1. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Như đã đề cập, lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối tiếp nhau từ thấp
đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thủy – chiếm hữu nô lệ -
phong kiến – tư bản chủ nghĩa – xã hội chủ nghĩa. Các đất nước, quốc gia có quyền
được phát triển theo tuần tự hoặc có những bước nhảy vọt qua một hoặc một vài hình
thái kinh tế xã hội tùy thuộc vào hoàn cảnh (khách quan và chủ quan) của đất nước,
quốc gia đó. Đối với Việt Nam, ngay từ khi chưa thống nhất đất nước - bắt đầu từ năm
1954 thì miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ. Đến năm 1975, đất nước hoàn toàn
độc lập và hai miền Nam - Bắc được thống nhất thì Đảng ta đã bắt đầu đặt ra mục tiêu
để phát triển đất nước: trước tiên là khôi phục kinh tế, xã hội và đi lên chủ nghĩa xã
hội. Như vậy đến năm 1975, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Diễn ra với
các chính sách cần thiết dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đối với những quốc gia phát triển tuần tự theo các hình thái kinh tế - xã hội kể trên,
thì những quốc gia đó sẽ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa tư bản trước. Đây được xem là giai
đoạn với hướng đi và bước chuyển mình thông thường. Sau đó, áp dụng những thành tựu và
điểm mạnh về kinh tế của chủ nghĩa tư bản để đi lên xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Việt Nam
lại thực hiện bước chuyển mình đi lên xã hội chủ nghĩa bằng cách bỏ qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa. Việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa được
coi là một tất yếu lịch sử đối với nước ta - một đất nước nông nghiệp lạc hậu thời đấy là do:
Thứ nhất, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
và hình thái kinh tế – xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế – xã hội trước nó. Sự
biến đổi của các hình thái kinh tế – xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cho dù ngày nay,
chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ và thị trường, nhưng
chủ nghĩa tư bản lại chưa vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Hơn nữa, xét về mặt tiến trình phát triển, chủ
nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của
thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam. Cách mạng dân tộc, dân
chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là
để giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ… đồng thời nó là tiền đề để “làm cho
nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp logic
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt
để. Trước đây, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ với đặc điểm lớn nhất là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải thông qua giai đoạn lOMoAR cPSD| 44985297
phát triển tư bản chủ nghĩa. Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc
điểm trên vẫn còn tồn tại. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề.
Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách
phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta”. Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao
trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Ngay từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, là một tất yếu khách quan; thời kỳ quá độ ở nước
ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên càng phải lâu dài
và khó khăn hơn. Các Đại hội X, XI, XII tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện về nhận
thức thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đồng thời có
những đóng góp vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, Đại
hội XIII của Đảng (2021) đã đề ra định hướng phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ là:
“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền
vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn
vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển
nhanh và bền vững đất nước”
Hơn nữa, vào Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta đã có bước phát triển mới về nhận thức
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa: việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là phủ
định hoàn toàn những giá trị của chế độ tư bản chủ nghĩa mà phủ định một cách có chọn
lọc. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản
chủ nghĩa; bỏ qua những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ
nghĩa; tiếp thu, kế thừa những thành tựu đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại...
Tóm lại, việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
là phù hợp với quy luật phát triển rút ngắn trong lịch sử loài người. Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu của nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại.
2. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được nêu ra rất rõ trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được
thông qua lần đầu tiên tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII- 1991 với 6 đặc
trưng và vào Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI- 2011 với 8 đặc trưng như sau: lOMoAR cPSD| 44985297
1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 2. Do nhân dân làm chủ.
3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân
dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Bên cạnh những đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (được bổ sung vào
năm 2011) cũng đã xác định những phương hướng phát triển, xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam:
1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
2. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
4. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia trật tự, an toàn xã hội.
5. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
6. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong đại hội XIII vừa được tổ chức vào ngày 25/1 - 2/2/2021, Đảng và Nhà nước
ta đã xác định những mục tiêu phát triển cụ thể như sau:
Đến năm 2025, nhân dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. lOMoAR cPSD| 44985297
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII được tổ chức với những định hướng,
tầm nhìn cho tương lai.
3. Những thành tựu đã đạt được
Trong suốt giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tuy ban đầu có chút khó khăn
trong việc thích nghi và vượt qua những rào cản trong nước và quốc tế nhưng nhờ có
những chính sách, nghị định đúng đắn và phù hợp từ Đảng và Nhà nước Việt Nam thì
đã đem lại những thành tích vô cùng nổi bật.Theo lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng trong Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nhấn mạnh “Với tất cả sự
khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Về kinh tế, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như
trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm
chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020,
kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của
Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Vào năm
2020, bình quân thu nhập đầu người đã đạt khoảng 2750 USD/năm so với năm 1985 với 159 USD/năm.