Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay | Bài tiểu luận môn triết học mác - lênin

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI KINH TẾ QUỐC TẾ
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận
dụng của Đảng taViệt Nam hiện nay.
Mã sinh viên: 11225536
Học phần: Triết học Mác – Lênin
Lớp học phần: LLNL1105(122)_20
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Thuân
Hà Nội, tháng 1 năm 2023
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
3
PHẦN I – HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI MÁC – LÊNIN
4
1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ CỐT LÕI CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
LỊCH SỬ 4
2. SẢN XUẤT VẬT CHẤT SỞ TỒN TẠI PHÁT TRIỂN HỘI 5 3.
BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT QUAN HỆ SẢN XUẤT 6
A. PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT 6
B. QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 7
4. BIỆN CHỨNG GIỮA SỞ HẠ TẦNG KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 9
A. KHÁI NIỆM SỞ HẠ TẦNG KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 9 B. QUY
LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA SỞ HẠ TẦNG
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 10
5. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - HỘI MỘT QUÁ
TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN 11
A. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - HỘI 11
B. TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN CỦA HỘI LOÀI NGƯỜI 12
C. GIÁ TRỊ KHOA HỌC BỀN VỮNG Ý NGHĨA CÁCH MẠNG 12
PHẦN II – QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM
12
1. CÁC NỘI DUNG ĐÃ ÁP DỤNG 12
A. LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA HỘI BỎ QUA CHẾ
ĐỘ BẢN CHỦ NGHĨA 12
B. HƯỚNG ĐI XÂY DỰNG HỘI 13
2. CÁC THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC 14
3. CÁC HẠN CHẾ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT 15
KẾT LUẬN 18
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người
trong thế giới đó, với lĩnh vực nghiên cứu cơ bản là mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. Ở Ấn Độ, triết học là “chiêm nghiệm”, là sự
suy tưởng về vũ trụ, nhân sinh để tìm ra con đường giải thoát cho con người.
Với người Trung Quốc, triết học lại là “triết lý về cuc sống và con người”. Còn
ở thời Hy Lạp c đại, người ta quan niệm triết học chính là “yêu mến sự thông
thái”. Mặc dù ở mỗi nơi trên thế giới, triết học lại mang một màu sắc khác nhau,
nhưng chung quy lại, triết học chính là sự hiểu biết sâu và rộng của con người
về thế giới, là đnh cao của trí thức nhân loại.
Các-Mác và Ăng-Ghen đã kế thừa phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen và
những lý luận của nhà duy vật Phoi-ơ-Bắc để xây dựng nên phép biện chứng
duy vật. Bỏ đi lớp vỏ mang tính siêu hình, chủ nghĩa duy vật đã trở nên hoàn bị,
học thuyết được chứng minh bởi các ông được mở rộng từ chỗ nhận thức thế
giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
chính là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng nhân loại, thừa kế trực tiếp những
học thuyết của những đại biểu xuất sắc trong triết học, trong kinh tế chính trị
học và trong chủ nghĩa xã hội. Trong đó, sự ra đời của học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội đã đưa lại cho khoa hc xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự
khoa học. Kể từ đó, loài người đã có những bước phát triển vượt bậc về mọi
mặt.
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, nước ta có lúc đã mắc phải
những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc đ
công nghiệp hóa, nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành
phần kinh tế tư nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp,... Từ Đại hội Đảng lần thVI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi
mới, và từ đó đến nay đường lối đổi mới đó đã từng bước đi vào hiện thực và
đạt được nhiều kết quả to lớn nhất định.
Trong bài tiểu luận cá nhân này, em sẽ trình bày chi tiết hơn về học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội và ứng dụng học thuyết vào thực tiễn của Đảng Cộng
Sản Việt Nam ta. Đây là một vấn đề khá phức tạp và rộng lớn, mà trình độ và
vốn hiểu biết của em vẫn còn hạn hẹp nên có thể không tránh khi những thiếu
sót trong quá trình làm bài, rất mong những lời góp ý từ Thầy!
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
4
PHẦN I – Hình thái kinh tế - xã hội Mác – Lênin
1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử và cốt lõi của chủ nghĩa
duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về
xã hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc
nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
là một trong ba bộ phận hợp thành triết học Marxist. Ch nghĩa duy vật lịch
sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát triển của trình đ
sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay đổi
dẫn đến những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó
cùng với những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay
đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp lý và chính trị. Sự ra đời của chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã đem lại cho triết hc một quan niệm vừa duy vật,
vừa biện chứng về lịch sử; đã kết hợp một cách hữu cơ chủ nghĩa duy vật
với phép biện chứng; và đã tạo nên một bước ngoặt căn bản trong sự phát
triển tư tưởng xã hội.
Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sửhọc thuyết hình thái kinh tế - xã
hội, theo đó, trong các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất là cơ sở hiện
thực của mỗi xã hội nhất đnh, cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến
trúc thượng tầng: chính trị, pháp luật và các hình thái ý thức xã hội khác,
với những thiết chế của chúng. Mỗi hệ thống quan hệ sản xuất ca một xã
hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển ca các lực
lượng sản xuất. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã phê phán những
quan điểm duy tâm – siêu hình về lịch sử; cũng như cung cấp những tiêu
chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho sự phân kỳ lch sử, trong đó có sự
phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cuối cùng, học thuyết
này chính là cơ sở khoa học của việc xác định con đường phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam hiện
nay.
"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ quá độ, chính trị và nhà nước của thời kỳ y không thể là cái gì
khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản." (C. Mác và Ph.
Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, tập 19, tr.47)
- Các Mác –
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác – Lênin
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
bao gồm một hệ thống các quan điểm cơ bản:
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động, phát triển của xã
hội.
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. - Sự
phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
2. Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển xã hội
Để tồn tại và phát triển được, con người phải tiến hành sản xuất, đó là
hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao
gồm ba phương diện: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, và sản xuất chính
bản thân con người. Trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở tồn tại
và phát triển của xã hội loài người; cũng như quyết định toàn bộ sự vận
động và phát triển của đời sng xã hội. Sản xuất vật chất là quá trình con
người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, khai thác hoặc cải
biến các dạng vật chất của tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Hoạt động sản xuất vật chất có ba đặc trưng cơ bản như sau:
- Sản xuất vật chất là hoạt động mang tính mục đích của con người nhằm
tạo ra những tư liệu sinh hoạt cho mình.
- Sản xuất vật chất gắn liền với việc chế tạo và sử dụng công cụ lao động. -
Sản xuất vật chất gắn với việc biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Sản xuất vật chất có sự tham gia của ba yếu tố cơ bản là: sức lao động,
đối tượng lao động, liệu lao động. Sự kết hợp của ba yếu tố này quá
trình sản xuất không ngừng tạo ra của cải vật chất nhằm phục vụ cho đời
sống con người, giúp con người ta đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu
của bản thân và nâng cao mức sống. C. Mác viết: “Việc sản xuất ra những
liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp chính mỗi một giai đoạn phát triển
kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một sở, từ đó
người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền,
nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệmn giáo của con người ta” (C.
Mác Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 19, tr. 500). Theo đó, ta thể thấy sản xuất
vật chất đóng vai trò hết sức to lớn trong đời sống con người và xã hội loài
người. Sản xuất của cải vật chất càng phát triển thì mức tiêu dùng của con
người hội càng cao ngược lại. Bất cứ hội nào cũng không thể
tồn tại được nếu không tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. Ba vai trò
chính của sản xuất vật chất như sau:
- Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn và phát triển
của con người và xã hội.
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
6
- Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những
mối quan hệ xã hội của con người.
- Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tiến bộ của xã hội loài người.
Ví dụ 1: Thông qua sản xuất vật chất, con người mới có cái ăn, cái mặc. Tất
cả những hoạt động như ăn, uống, mặc, giải trí, du lch,... đều là những nhu
cầu thiết yếu hoặc sở thích của con người. Cũng chính vì đó mà con người
cần phấn đấu tích lũy nhiều của cải vật chất hơn để đáp ứng, thỏa mãn nhu
cầu và mức sống riêng của từng người.
Ví dụ 2: Suốt chiều dài lch sử xã hội, loài người đã có tiến bộợt bậc về
trí tuệ, minh chứng nằm ở những phát minh cổ đại và các thành tựu khoa
học ra đời trong từng giai đoạn lịch sử. Ở thời kì đồ đá, xã hội nguyên thủy
lúc bấy giờ đã biết chế tạo các công cụ bằng đá để săn bắt, hái lượm nhằm
sinh tồn trong tự nhiên. Bước sang thời kì đồ đồng ở xã hội cổ đại, các công
cụ làm bằng đồng dần được ứng dụng thay cho đồ đá trong nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ. Từ thời cổ đại đến trung đại, con người đã chế tạo ra các
phương tiện và công cụ lao động bằng sắt, nâng cao hiệu quả và chất lượng
sản xuất. Cuối cùng, ở thời cận đại và hiện đại, nhờ cuộc cách mạng
công nghiệp mà con người đạt được bước tiến lớn trong hoạt động sản xuất
công nghiệp. Hàng loạt các phát minh hiện đại ra đời, đem lại lợi ích và
hiệu quả sản xuất caon hẳn. Từ đó, công nghiệp và dịch vụ được thúc
đẩy phát triển, khẳng định giá trị to lớn của sản xuất vật chất trong mọi thời
đại.
3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
a. Phương thức sản xuất
Phương thức sn xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó, lực lượng
sản xuất thể hiện nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản
xuất thể hiện hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong quá trình sản
xuất, con người đồng thời có quan hệ với tự nhiên và với chính con người, mà
C. Mác gọi đó là mối quan hệ “song trùng” của nền sản xuất vật chất. Mỗi xã
hội ở một giai đoạn phát triển nhất định có thể đan xen tồn tại một số phương
thức sản xuất, nhưng thường có một phương thức sản xuất chiếm địa vị phổ
biến và mang ý nghĩa quyết định, đặc trưng cho xã hội đó.
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất
của tự nhiên theo nhu cầu của con người. Lực lượng sản xuất gồm 2 bộ phận:
người lao động và tư liệu sản xuất.
- Người lao động là những người có tri thức, trình đ, có kinh nghiệm sản
xuất, kĩ năng lao động và năng lực sáng tạo trong quá trình sản xuất xã hội.
Đồng thời, bộ phận này cũng là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất trong
xã hội.
- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao
gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó, đối tượng lao động là
những thứ mà người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động lên, nhằm tạo
ra những thành phẩm phù hợp với nhu cầu của con người.
- Đối tượng lao động được chia thành 2 loại: có sẵn trong tự nhiên và qua
chế biến (nguyên liệu).
- Tư liệu lao động được phân ra thành 2 nhóm: công cụ lao động và
phương tiện lao động (gồm có hệ thống bình chứa và hệ thống kết cấu hạ tầng
sản xuất).
- Xã hội loài người ngày càng phát triển làm cho công cụ lao động ngày
càng tân tiến hơn. Công cụ lao động ngày nay được tin học hóa, hiện đại hóa,
giúp cho quá trình sản xuất vật chất thuận lợi hơn, hiệu quả sản xuất cũng
được nâng cao, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Sự phát triển ca lực lượng sản xuất được thể hiện trên 2 góc độ: tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính
chất cá nhân hoặc tính chất xã hội trong việc sử dụng tư liệu sản xuất. Trong
xã hội hiện đại ngày nay, lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng
cao. Còn trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở nhiều khía cạnh
khác nhau:
- Trình độ của công cụ lao động
- Trình độ tổ chức lao động xã hội
- Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
- Trình độ kinh nghiệm, kĩ năng của người lao động
- Trình độ phân công lao động xã hội
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, bởi lẽ, khoa
học chính là nguyên nhân ca mọi sự biến đổi trong lực lượng sản xuất. Nh
có khoa học phát triển, khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào
sản xuất đã được rút ngắn, làm cho năng suất lao động, của cải xã hội không
ngừng tăng lên với tốc độ nhanh chóng. Khoa học cũng kịp thời giải quyết
những mâu thuẫn, những yêu cầu mà sản xuất đặt ra. Nó thâm nhập vào các
yếu tố, trở thành mắt khâu bên trong quá trình sản xuất. Chính vì thế, mọi quá
trình sản xuất vật chất ngày nay đều có sự tham gia của yếu tố khoa học kĩ
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
8
thuật. Cuối cùng, khoa học là nhân tố kích thích sự phát triển năng lực làm
chủ sản xuất của con người. Trong thời đại công nghệ 4.0, cả người lao động
và công cụ lao động đều được trí tuệ hóa. Nhờ đó, nền kinh tế của nhiều quốc
gia trên thế giới hiện nay đã phát triển thành nền kinh tế tri thức, mà trong đó
sự sản sinh, ph cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết
định đối với sự phát triển kinh tế và tạo ra của cải vật chất để nâng cao cả
chất lượng sống lẫn mức sống của công dân.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất là một khái niệm được C. Mác và Ph. Ăngghen sử
dụng trong lý thuyết của họ về chủ nghĩa duy vật lịch sử để ch mối quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã
hội). Đây là mt trong những biểu hiện của quan hệ xã hội, giữ vai trò
xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan hệ đầu tiên,
quyết định những quan hệ khác. Quan hệ sản xuất được thể hiện qua 3 khía
cạnh như sau:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
- Quan hệ tổ chức, quản lý lao động sản xuất
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động
Trong đó, quan hệ giữa người với người về việc sở hữu đối với tư liệu
sản xuất quy định địa vị kinh tế của con người trong quá trình sản xuất, và
từ đó, nó cũng quy định cả quan hệ quản lý và phân phi. Do đó, quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất được coi là xuất phát cơ bản, trung tâm của
quan hệ sản xuất và giữ vai trò quyết định các quan hệ khác.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Trong đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất thay đi
thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo Nội dung của quan hệ sản xuất là
do lực lượng sản xuất quyết định.
Ví dụ: Nhân công trình độ không cao, khi áp dụng công nghệ cao và mới
mẻ vào trong sản xuất thí thời gian để có thể thích nghi rất lâu, có thể làm trì
trệ công việc và giảm năng suất của lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, và ngược lại, nếu không p
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất được thể hiện trên các khía cạnh như sau:
- Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
- Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
- Sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Tạo điều kiện tối ưu sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất
- Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng
thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
quy luật quyết định sự vận động, phát triển nội tại của bản thân phương thức
sản xuất và là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại. Trong một phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất bao giờ cũng phải
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; con người chính là
chủ thể giữ vai trò nhận thức giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp đó.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp; được giải
quyết thông qua đấu tranh giai cấp, mà đnh cao là cách mạng xã hội.
Như vậy, nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất
lớn đối với mỗi cá nhân và với Việt Nam ta trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Học thuyết này chỉ ra rằng, muốn phát triển kinh tế thì phải
phát triển lực lượng sản xuất trước; cũng như là muốn xóa bỏ quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới phải xuất phát từ trình độ của lực
lượng sản xuất, bởi lẽ lực lượng sản xuất là yếu tố đóng vai trò quyết định.
Tuy nhiên, lực lượng sản xuất nước ta trình độ còn thấp và phân bổcác
trình độ khác nhau. Với lực lượng sản xuất dồi dào đa dạng sẵn có, các nhà
lãnh đạo nước ta đã nhận thức được sự cần thiết của việc phát triển quan hệ
sản xuất phù hợp. Chính vì đó, vào năm 1986, trên tinh thần nhìn thẳng vào
sự thật để đưa ra quan điểm đổi mới, Đảng ta đã xác định đất nước Việt Nam
sẽ tiến hành công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần.
Trong đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là nhiệm vụ trọng tâm để
phát triển lực lượng sản xuất của nước ta.
Ví dụ: Chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế và cho đến nay đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Người lao động nước ta đến năm 2005 là
44,3 triệu người, trong đó lao động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống
trường dạy nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh
chóng, năm 2007-2008, cả nước có 1 603 484 sinh viên, 160 trường đại học,
209 trường cao đẳng và 275 trường trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được
phần nào nhu cầu đào tạo lao động cho đất nước. (Nguồn: luatduonggia.vn)
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
10
4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự
vận động hiện thực của chúng, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất vật chất và xã hội; và là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế,
mà trong quá trình vận động của nó hợp thành cơ cấu kinh tế hiện thực. Các
quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu , quyết định mi
quan hệ xã hội khác.
Ví dụ: Trong nền kinh tế của Việt Nam hiện nay có 4 thành phần kinh tế, đó
là: kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế Nhà nước, và kinh tế có 100% vốn
Nước ngoài. 4 quan hệ sản xuất này hợp thành cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng có cấu trúc gồm:
- Quan hệ sản xuất tàn dư QHSX của xã hội cũ
- Quan hệ sản xuất thống trị QHSX của xã hội đương thời, giữ vai trò chủ
đạo, quyết định xu hướng chung
- Quan hệ sản xuất mầm mống QHSX của xã hội tương lai
Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với
những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng
xác lập trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư
tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết hc... cùng
những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng tồn tại trong
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, đều được nảy sinh trên cơ sở của hạ
tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng nhất định. Trong xã hội có đối kháng giai cấp
thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đi kháng giai cấp. Tính chất
này cũng đồng thời phản ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng, được biểu
hiện qua sự xung đột, đấu tranh về tư tưởng giữa các giai cấp đối kháng.
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
Trong tất cả các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, Nhà nước chính là yếu tố
quan trọng nhất, do Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp
luật, và tất cả các bộ phận còn lại phải chịu sự cưỡng chế của pháp luật. Nhờ
có Nhà nước, tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành sức mạnh thống trị
toàn bộ đời sống xã hội.
b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội là 1 trong 2 quy luật cơ bản của sự vận động và phát
triển lịch sử xã hội loài người. Trong mối quan hệ này, cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng
tầng cũng thay đổi. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần;
tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội.
Nội dung của kiến trúc thượng tầng chịu sự tác động từ quy định của cơ sở
hạ tầng. Quan hệ sản xuất nàothống trị thì nó sẽ tạo ra một kiến trúc
thượng tầng như thế ấy, giai cấp nào mà thống trị trong xã hội thì toàn bộ tư
tưởng của giai cấp đó sẽ là tư tưởng thống trị trong xã hội. Cơ sở hạ tầng
mà mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng
cũng mất đi để ra đời một kiến trúc thượng tầng mới.
Ví dụ: Trong xã hội tư bản quan hệ sở hữu là tư hữu thì kiến trúc thượng tầng
là nhà nước tư sản ban hành pháp luật bảo vệ chế độ tư hữu, khi xã hội tư hữu
chuyển thành công hữu, nhà nước tư sản thành nhà nước xã hội chủ nghĩa ban
hành pháp luật bảo vệ chế độ công hữu.
Kiến trúc thượng tầng cũng tác đng ngược trở lại cơ sở hạ tầng, do
tính độc lập tương đối của nó, tính năng động, sáng tạo, sáng tạo của ý
thức, tinh thần; và do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức – thể chế. Kiến
trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng của nó, thực
chất là bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị; đồng thời ngăn chặn cơ
sở hạ tầng mới, xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây
dựng chế độ kinh tế.
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng cùng chiều với
quy luật kinh tế thì sẽ đẩy xã hội phát triển, hoặc ngược lại. Kiến trúc
thượng tầng chính trị có vai trò lớn nhất do phản ánh trực tiếp cơ sở hạ tầng,
là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Trong đời sống xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của xã hội có 2 ý nghĩa to lớn:
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
12
- Giúp nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
- Giúp Đảng ta xác định được chủ trương đổi mới: đổi mới toàn diện trong
mọi lĩnh vực, trong đó lấy đổi mới chính trị làm trọng tâm, đồng thời đổi
mới các lĩnh vực khác.
5. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên
a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan h
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên kiểu quan hệ sản xuất đó.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng), kiến trúc thượng tầng. Trong đó, lực
lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn để phân biệt các
thời đại kinh tế khác nhau. Yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động phát
triển kinh tế - xã hội cũng chính là lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng
thời cũng là tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt các chế độ xã hội với nhau.
Kiến trúc thượng tầng là sự biểu hiện quan hệ giữa người với người trong lĩnh
vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.
b. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội:
Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện
tại là đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển này là một quá trình lịch sử
- tự nhiên do các lý do sau:
- Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan.
- Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội đều có nguyên
nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
- Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội còn chịu sự tác động
của các nhân t chủ quan khác nên xu hướng chung của các hình thái kinh
tế - xã hội là sự phát triển từ thấp lên cao. Nhưng sự phát triển đó có thể là
phát triển tuần tự, hoặc cũngthể là phát triển nhảy vọt.
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
- Điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và ch
quan).
Để phát triển lên đến chủ nghĩa xã hội, mỗi quốc gia, dù có quá tnh phát
triển nhảy vọt hay không nhảy vọt, đều phải trải qua một thời kì mà C. Mác
gọi đó là thời kì quá độ.
c. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
Với việc xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã đem lại cho xã hội loài người những giá tr to lớn:
- Một cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội.
- Phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
- Cơ sở khoa học quán triệt quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta quá độ bỏ qua chế đ tư bản chủ nghĩa. -
sở khoa học trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.
PHẦN II – Quá trình vận dụng học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội của Đảng ta ở Việt Nam
1. Các nội dung đã áp dụng
a. Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa
Theo quan điểm của C. Mác: “giữa xã hội bản chủ nghĩa... nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp sản” (C. Mác Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG,
H.1983, tập 19, tr.47). V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga viết cũng khẳng
định: “Về luận, không thể nghi ngờ được rằng giữa chủ nghĩa bản
chủ nghĩa cộng sản, có một thời kì quá độ nhất định” (V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến
bộ, Matxcơva, 1977, tập 39, tr.309-310). Thời kì quá độ được ông phân biệt thành 2
loại: qđộ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Ông cũng cho rằng, các nước chế
độ tư bản chủ nghĩa đã phát triển thì có thể đi lên chủ nghĩa hội bằng quá đ
trực tiếp; còn những nước lạc hậu thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ
gián tiếp. Cho tới nay, Đảng Nnước Việt Nam ta vẫn đang theo đúng
luận Mác Lênin và trải qua thời kì quá độ gián tiếp, bỏ qua chế đtư bản chủ
nghĩa.
Trải qua thời kì phong kiến dài hàng nghìn năm, lại bị đế quốc thực dân
thống trị một thời gian dài, nền kinh tế của nước ta chưa thể phát triển n
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
14
các cường quốc khác, cơ sở vật chất và kĩ thuật còn nghèo và lạc hậu hơn rất
nhiều. Để xây dựng và phát triển đất nước lớn mạnh, đi lên chủ nghĩa xã hội
là lực chọn duy nhất, đúng đắn nhất của Đảng và dân tộc ta, dựa trên 2 căn
cứ:
- Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được nhân dân lao động thoát
khỏi áp bức, bóc lột bất công; đem lại cuc sống ấm lo hạnh phúc cho
nhân dân.
- Thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời
đại mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường
chủ nghĩa xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng
là phù hợp với quy luật phát triển của lch sử loài người, không phải là “dị
biệt”. Đồng thời, con đường này cũng cho phép chúng ta phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại, nhờ vào việc tiếp thu các thành
tựu, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, và những giá trị văn minh mà loài
người đã đạt được trong thời kì phát triển chủ nghĩa tư bản.
Với tất cả những lí do trên, có thể khẳng định, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội gián tiếp chính là khát
vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
b. Hướng đi xây dựng xã hội
Xã hội mà Đảng và nhân dân ta khao khát, quyết tâm xây dựng là một
hội chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân. Chúng ta hướng đến một xã hội có
nền kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường, kiêm thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
trong thời đại giao thoa giữa các nền kinh tế trên thế giới. Chúng ta mong
muốn một đất nước có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, thực hiện đại đoàn kết dân tc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất. Ngoài những mục tiêu nêu trên, nước ta còn đề cao xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nhằm bảo đảm vững chắc quc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, từng bước thực hiện hóa mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) xác định, “mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp sở
vật chất - kỹ thuật hiện đại, cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, hội
công bằng, văn minh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Nội, 1996, tr. 80). Với 6 quan điểm những nội dung bản của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, những thành tựu dần gặt hái được đã đưa đất nước
tiến lên theo các kỳ đại hội tiếp theo của Đảng.
2. Các thành tựu đạt được
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 2016 – 2019 GDP bình quân
đã đạt mức 6,8%/năm, đưa nước ta vào tốp 10 nước tăng trưởng cao nhất thế
giới suốt 4 năm này, đồng thời cũng là mt trong 16 nền kinh tế mới nổi
thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có
mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%. Quy mô, trình
độ nền kinh tế lúc này được nâng lên mức khoảng 268,4 tỷ USD/năm, bình
quân thu nhập đầu người đạt khoảng 2750 USD/năm, tỉ lệ nghèo giảm mạnh
từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 3% trong năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa
chiều).
Trên chặng đường 35 năm đổi mới, Việt Nam đã thiết lập được nhiều
quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, từng bước hội nhập quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Tính đến năm 2019, nước ta đã có
quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, thiết lập
quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước; 9/10 đối tác
kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn
nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Cho đến hiện tại, đã có 71 quốc
gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Về phương diện văn hóa – xã hội, Việt Nam cũng đã đạt được một số
thành tựu nhất định. Quy mô giáo dục không ngừng phát triển, cơ sở vật chất
được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực. Theo bảng xếp hạng QS World University Rankings năm 2023, Việt Nam
có tới 5 trường đại học được vào tốp 1500 trường đại học tốt nhất thế giới,
giúp nước ta trở thành điểm đến được lựa chọn bởi nhiều du học sinh trong
những năm gần đây. Bên cạnh đó, nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của
Việt Nam cũng được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6
tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN, sau Singapore); tỷ
lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%,
đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
16
Tiềm lực về ngành y tế của nước ta đang dần được chứng tỏ. Các hệ
thống cơ sở y tế được củng c và phát triển, giúp người dân dễ dàng tiếp cận
với dịch vụ y tế hơn. Các trang thiết bị, cơ sở vật chất cũng được nâng cấp,
nhằm đáp ứng nhu cầu chữa bệnh và ng cao hiệu quả chữa bệnh. Việt Nam
là một trong s ít các nước có kĩ thuật, công nghệ chữa bệnh mang tầm thế
giới như: cấy ghép tim, gan, thận,...; chủ động sản xuất vắc-xin phòng bệnh,
kiểm soát tốt các loại bệnh dịch, nhất là đại dịch Covid-19 vừa qua.
3. Các hạn chế và biện pháp giải quyết
Hạn chế đầu tiên phải kể đến trình độ công nhân ở nước ta không đồng
đều, phần đông có trình độ thấp; năng lực sáng tạo cũng chưa cao, số bằng
sáng chế của Việt Nam do các cơ quan uy tín trên thế giới cấp phép cũng chỉ
bằng một phần nhỏ những quốc gia khác. Theo kết quả phân tích cấu trúc liên
ngành I-O, nền kinh tế Việt Nam cơ bản là một nền kinh tế thâm dụng vốn và
gia công, lắp ráp là chủ yếu; trong đó, vai trò của khoa học công nghệ cũng
chỉ đóng góp ở mức khiêm tốn là gần 30%. Năng lực tự ch của ngành công
nghiệp nước ta còn ở mức thấp, hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị, phụ
tùng, nguyên liệu chính cho sản xuất công nghiệp đều phải nhập khẩu từ nước
ngoài.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các công cụ cơ khí, hiện đại, tự động hóa
đang dần được ứng dụng nhiều hơn, nhưng cũng chưa phổ biến rộng khắp,
dẫn đến năng suất lao động chưa cao. Đầu vào của sản xuất vật chất cũng có
sự pha trộn giữa hiện đại và thô sơ, vật thể và phi vật thể. Các điều kiện xây
dựng công trình lớn như sân bay, cảng biển, đường xá, cầu cống cũng tương
tự, vừa hiện đại, vừa bán hiện đại và có khi còn thô sơ. Từ đây, ta cũng thấy
được trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là không đồng đều, muốn nền
kinh tế nước ta thịnh vượng hơn thì lực lượng sản xuất phải có trình độ cao
như nhau, không đan xen, kết hợp.
Các thiết chế ca kiến trúc thượng tầng của chúng ta như Nhà nước,
Đảng, quân đội, tòa án, v.v.. vẫn còn những hạn chế yếu kém nhất định.
Theo C. Mác, kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau,
ông viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết đnh các quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn
tâp, Sđd, t. 13, tr. 15) . Để giải quyết các mặt hạn chế nói trên, Đảng và Nhà nước
ta phải kiên định trên con đường kết hợp đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị, trên
cơ sở nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và quan điểm của C.
Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng.
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
Về lĩnh vực kinh tế, chúng ta cần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
trong đó, thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế lãnh đạo. Cần ra
sức củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tạo nền tảng cho phát
triển kinh tế bền vững; huy động, sửu dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát huy vai trò của các vùng kinh tế
trọng điểm, các đô thị lớn. Với vấn đề trình độ không đồng đều của lực lượng
sản xuất, nước ta cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại; đảm bảo số lượng cơ cấu ngành, nghề hợp lý, có cơ chế phù hợp thu hút,
trọng dụng nhân tài.
Về chính trị, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục chú trọng nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy chính
quyền theo hướng tinh gọn, văn minh, gắn với đi mới kinh tế, văn hóa, xã
hội. Ngoài ra, nước ta còn cần phải chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
phòng, chống thiên tai; củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu
quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
lOMoARcPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
18
KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học, cung cấp
cho chúng ta một phương pháp hữu hiệu để phân tích các hiện tượng xã hội
trong cuộc sống, từ đó đưa ra đường lối và giải pháp đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn. Cho đến nay, học thuyết vẫn còn giữ được giá trị nguyên sơ của nó.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội điều tất yếu chính đã đề ra những hướng đi đúng đắn. Dựa vào đó,
Nhà nước ta đã vạch ra những giải pháp đưa đất nước phát triển lên tầm cao mới.
Học thuyết còn cung cấp phương pháp luận khoa hc để chúng ta phân tích
công cuộc đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, phân tích những nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng
của xã hội vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại, vừa phù hợp với điều
kiện cụ thể ca Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin
2. Bài giảng LMS của thầy Nguyễn Văn Thuân
3. Nhiều nguồn trên Internet
| 1/18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận
dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Ánh Quỳnh
Mã sinh viên: 11225536
Học phần: Triết học Mác – Lênin
Lớp học phần: LLNL1105(122)_20
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Thuân
Hà Nội, tháng 1 năm 2023 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3
PHẦN I – HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI MÁC – LÊNIN 4
1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VÀ CỐT LÕI CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ 4
2. SẢN XUẤT VẬT CHẤT LÀ CƠ SỞ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 5 3.
BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT 6
A. PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT 6
B. QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 7
4. BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 9
A. KHÁI NIỆM CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 9 B. QUY
LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 10
5. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ MỘT QUÁ
TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN 11
A. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI 11
B. TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI 12
C. GIÁ TRỊ KHOA HỌC BỀN VỮNG VÀ Ý NGHĨA CÁCH MẠNG 12
PHẦN II – QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM 12
1. CÁC NỘI DUNG ĐÃ ÁP DỤNG 12
A. LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ
ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA 12
B. HƯỚNG ĐI XÂY DỰNG XÃ HỘI 13
2. CÁC THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC 14
3. CÁC HẠN CHẾ VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT 15 KẾT LUẬN 18 2 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18 LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người
trong thế giới đó, với lĩnh vực nghiên cứu cơ bản là mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. Ở Ấn Độ, triết học là “chiêm nghiệm”, là sự
suy tưởng về vũ trụ, nhân sinh để tìm ra con đường giải thoát cho con người.
Với người Trung Quốc, triết học lại là “triết lý về cuộc sống và con người”. Còn
ở thời Hy Lạp cổ đại, người ta quan niệm triết học chính là “yêu mến sự thông
thái”. Mặc dù ở mỗi nơi trên thế giới, triết học lại mang một màu sắc khác nhau,
nhưng chung quy lại, triết học chính là sự hiểu biết sâu và rộng của con người
về thế giới, là đỉnh cao của trí thức nhân loại.
Các-Mác và Ăng-Ghen đã kế thừa phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen và
những lý luận của nhà duy vật Phoi-ơ-Bắc để xây dựng nên phép biện chứng
duy vật. Bỏ đi lớp vỏ mang tính siêu hình, chủ nghĩa duy vật đã trở nên hoàn bị,
học thuyết được chứng minh bởi các ông được mở rộng từ chỗ nhận thức thế
giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
chính là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng nhân loại, thừa kế trực tiếp những
học thuyết của những đại biểu xuất sắc trong triết học, trong kinh tế chính trị
học và trong chủ nghĩa xã hội. Trong đó, sự ra đời của học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội
đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự
khoa học. Kể từ đó, loài người đã có những bước phát triển vượt bậc về mọi mặt.
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, nước ta có lúc đã mắc phải
những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc độ
công nghiệp hóa, nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành
phần kinh tế tư nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp,... Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi
mới, và từ đó đến nay đường lối đổi mới đó đã từng bước đi vào hiện thực và
đạt được nhiều kết quả to lớn nhất định.
Trong bài tiểu luận cá nhân này, em sẽ trình bày chi tiết hơn về học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội và ứng dụng học thuyết vào thực tiễn của Đảng Cộng
Sản Việt Nam ta. Đây là một vấn đề khá phức tạp và rộng lớn, mà trình độ và
vốn hiểu biết của em vẫn còn hạn hẹp nên có thể không tránh khỏi những thiếu
sót trong quá trình làm bài, rất mong những lời góp ý từ Thầy! lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
PHẦN I – Hình thái kinh tế - xã hội Mác – Lênin
1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử và cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về
xã hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc
nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
là một trong ba bộ phận hợp thành triết học Marxist. Chủ nghĩa duy vật lịch
sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát triển của trình độ
sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay đổi
dẫn đến những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó
cùng với những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay
đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp lý và chính trị. Sự ra đời của chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã đem lại cho triết học một quan niệm vừa duy vật,
vừa biện chứng về lịch sử; đã kết hợp một cách hữu cơ chủ nghĩa duy vật
với phép biện chứng; và đã tạo nên một bước ngoặt căn bản trong sự phát
triển tư tưởng xã hội.
Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sửhọc thuyết hình thái kinh tế - xã
hội, theo đó, trong các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất là cơ sở hiện
thực của mỗi xã hội nhất định, cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến
trúc thượng tầng: chính trị, pháp luật và các hình thái ý thức xã hội khác,
với những thiết chế của chúng. Mỗi hệ thống quan hệ sản xuất của một xã
hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của các lực
lượng sản xuất. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã phê phán những
quan điểm duy tâm – siêu hình về lịch sử; cũng như cung cấp những tiêu
chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho sự phân kỳ lịch sử, trong đó có sự
phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cuối cùng, học thuyết
này chính là cơ sở khoa học của việc xác định con đường phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay.
"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ quá độ, chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản." (C. Mác và Ph.

Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, tập 19, tr.47) - Các Mác –
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác – Lênin 4 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
bao gồm một hệ thống các quan điểm cơ bản:
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động, phát triển của xã hội.
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. - Sự
phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
2. Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển xã hội
Để tồn tại và phát triển được, con người phải tiến hành sản xuất, đó là
hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao
gồm ba phương diện: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, và sản xuất chính
bản thân con người. Trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở tồn tại
và phát triển của xã hội loài người; cũng như quyết định toàn bộ sự vận
động và phát triển của đời sống xã hội. Sản xuất vật chất là quá trình con
người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, khai thác hoặc cải
biến các dạng vật chất của tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Hoạt động sản xuất vật chất có ba đặc trưng cơ bản như sau:
- Sản xuất vật chất là hoạt động mang tính mục đích của con người nhằm
tạo ra những tư liệu sinh hoạt cho mình.
- Sản xuất vật chất gắn liền với việc chế tạo và sử dụng công cụ lao động. -
Sản xuất vật chất gắn với việc biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Sản xuất vật chất có sự tham gia của ba yếu tố cơ bản là: sức lao động,
đối tượng lao động, tư liệu lao động. Sự kết hợp của ba yếu tố này là quá
trình sản xuất không ngừng tạo ra của cải vật chất nhằm phục vụ cho đời
sống con người, giúp con người ta đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu
của bản thân và nâng cao mức sống. C. Mác viết: “Việc sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính mỗi một giai đoạn phát triển
kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó
mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền,
nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”
(C.
Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 19, tr. 500). Theo đó, ta có thể thấy sản xuất
vật chất đóng vai trò hết sức to lớn trong đời sống con người và xã hội loài
người. Sản xuất của cải vật chất càng phát triển thì mức tiêu dùng của con
người và xã hội càng cao và ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể
tồn tại được nếu không tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. Ba vai trò
chính của sản xuất vật chất như sau:
- Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn và phát triển
của con người và xã hội. lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
- Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những
mối quan hệ xã hội của con người.
- Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tiến bộ của xã hội loài người.
Ví dụ 1: Thông qua sản xuất vật chất, con người mới có cái ăn, cái mặc. Tất
cả những hoạt động như ăn, uống, mặc, giải trí, du lịch,... đều là những nhu
cầu thiết yếu hoặc sở thích của con người. Cũng chính vì đó mà con người
cần phấn đấu tích lũy nhiều của cải vật chất hơn để đáp ứng, thỏa mãn nhu
cầu và mức sống riêng của từng người.
Ví dụ 2: Suốt chiều dài lịch sử xã hội, loài người đã có tiến bộ vượt bậc về
trí tuệ, minh chứng nằm ở những phát minh cổ đại và các thành tựu khoa
học ra đời trong từng giai đoạn lịch sử. Ở thời kì đồ đá, xã hội nguyên thủy
lúc bấy giờ đã biết chế tạo các công cụ bằng đá để săn bắt, hái lượm nhằm
sinh tồn trong tự nhiên. Bước sang thời kì đồ đồng ở xã hội cổ đại, các công
cụ làm bằng đồng dần được ứng dụng thay cho đồ đá trong nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ. Từ thời cổ đại đến trung đại, con người đã chế tạo ra các
phương tiện và công cụ lao động bằng sắt, nâng cao hiệu quả và chất lượng
sản xuất. Cuối cùng, ở thời kì cận đại và hiện đại, nhờ cuộc cách mạng
công nghiệp mà con người đạt được bước tiến lớn trong hoạt động sản xuất
công nghiệp. Hàng loạt các phát minh hiện đại ra đời, đem lại lợi ích và
hiệu quả sản xuất cao hơn hẳn. Từ đó, công nghiệp và dịch vụ được thúc
đẩy phát triển, khẳng định giá trị to lớn của sản xuất vật chất trong mọi thời đại.
3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó, lực lượng
sản xuất thể hiện nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản
xuất thể hiện hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong quá trình sản
xuất, con người đồng thời có quan hệ với tự nhiên và với chính con người, mà
C. Mác gọi đó là mối quan hệ “song trùng” của nền sản xuất vật chất. Mỗi xã
hội ở một giai đoạn phát triển nhất định có thể đan xen tồn tại một số phương
thức sản xuất, nhưng thường có một phương thức sản xuất chiếm địa vị phổ
biến và mang ý nghĩa quyết định, đặc trưng cho xã hội đó. 6 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất
của tự nhiên theo nhu cầu của con người. Lực lượng sản xuất gồm 2 bộ phận:
người lao động và tư liệu sản xuất.
- Người lao động là những người có tri thức, trình độ, có kinh nghiệm sản
xuất, kĩ năng lao động và năng lực sáng tạo trong quá trình sản xuất xã hội.
Đồng thời, bộ phận này cũng là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất trong xã hội.
- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao
gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó, đối tượng lao động là
những thứ mà người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động lên, nhằm tạo
ra những thành phẩm phù hợp với nhu cầu của con người.
- Đối tượng lao động được chia thành 2 loại: có sẵn trong tự nhiên và qua
chế biến (nguyên liệu).
- Tư liệu lao động được phân ra thành 2 nhóm: công cụ lao động và
phương tiện lao động (gồm có hệ thống bình chứa và hệ thống kết cấu hạ tầng sản xuất).
- Xã hội loài người ngày càng phát triển làm cho công cụ lao động ngày
càng tân tiến hơn. Công cụ lao động ngày nay được tin học hóa, hiện đại hóa,
giúp cho quá trình sản xuất vật chất thuận lợi hơn, hiệu quả sản xuất cũng
được nâng cao, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện trên 2 góc độ: tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính
chất cá nhân hoặc tính chất xã hội trong việc sử dụng tư liệu sản xuất. Trong
xã hội hiện đại ngày nay, lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng
cao. Còn trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:
- Trình độ của công cụ lao động
- Trình độ tổ chức lao động xã hội
- Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
- Trình độ kinh nghiệm, kĩ năng của người lao động
- Trình độ phân công lao động xã hội
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, bởi lẽ, khoa
học chính là nguyên nhân của mọi sự biến đổi trong lực lượng sản xuất. Nhờ
có khoa học phát triển, khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào
sản xuất đã được rút ngắn, làm cho năng suất lao động, của cải xã hội không
ngừng tăng lên với tốc độ nhanh chóng. Khoa học cũng kịp thời giải quyết
những mâu thuẫn, những yêu cầu mà sản xuất đặt ra. Nó thâm nhập vào các
yếu tố, trở thành mắt khâu bên trong quá trình sản xuất. Chính vì thế, mọi quá
trình sản xuất vật chất ngày nay đều có sự tham gia của yếu tố khoa học kĩ lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
thuật. Cuối cùng, khoa học là nhân tố kích thích sự phát triển năng lực làm
chủ sản xuất của con người. Trong thời đại công nghệ 4.0, cả người lao động
và công cụ lao động đều được trí tuệ hóa. Nhờ đó, nền kinh tế của nhiều quốc
gia trên thế giới hiện nay đã phát triển thành nền kinh tế tri thức, mà trong đó
sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết
định đối với sự phát triển kinh tế và tạo ra của cải vật chất để nâng cao cả
chất lượng sống lẫn mức sống của công dân.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất là một khái niệm được C. Mác và Ph. Ăngghen sử
dụng trong lý thuyết của họ về chủ nghĩa duy vật lịch sử để chỉ mối quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã
hội). Đây là một trong những biểu hiện của quan hệ xã hội, giữ vai trò
xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan hệ đầu tiên,
quyết định những quan hệ khác. Quan hệ sản xuất được thể hiện qua 3 khía cạnh như sau:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
- Quan hệ tổ chức, quản lý lao động sản xuất
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động
Trong đó, quan hệ giữa người với người về việc sở hữu đối với tư liệu
sản xuất quy định địa vị kinh tế của con người trong quá trình sản xuất, và
từ đó, nó cũng quy định cả quan hệ quản lý và phân phối. Do đó, quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất được coi là xuất phát cơ bản, trung tâm của
quan hệ sản xuất và giữ vai trò quyết định các quan hệ khác.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Trong đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất thay đổi
thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo Nội dung của quan hệ sản xuất là
do lực lượng sản xuất quyết định.
Ví dụ: Nhân công trình độ không cao, khi áp dụng công nghệ cao và mới
mẻ vào trong sản xuất thí thời gian để có thể thích nghi rất lâu, có thể làm trì
trệ công việc và giảm năng suất của lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, và ngược lại, nếu không phù 8 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất được thể hiện trên các khía cạnh như sau:
- Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
- Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
- Sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Tạo điều kiện tối ưu sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất
- Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng
thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là
quy luật quyết định sự vận động, phát triển nội tại của bản thân phương thức
sản xuất và là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại. Trong một phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất bao giờ cũng phải
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; con người chính là
chủ thể giữ vai trò nhận thức giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp đó.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp; được giải
quyết thông qua đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Như vậy, nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất
lớn đối với mỗi cá nhân và với Việt Nam ta trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Học thuyết này chỉ ra rằng, muốn phát triển kinh tế thì phải
phát triển lực lượng sản xuất trước; cũng như là muốn xóa bỏ quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới phải xuất phát từ trình độ của lực
lượng sản xuất, bởi lẽ lực lượng sản xuất là yếu tố đóng vai trò quyết định.
Tuy nhiên, lực lượng sản xuất nước ta trình độ còn thấp và phân bổ ở các
trình độ khác nhau. Với lực lượng sản xuất dồi dào đa dạng sẵn có, các nhà
lãnh đạo nước ta đã nhận thức được sự cần thiết của việc phát triển quan hệ
sản xuất phù hợp. Chính vì đó, vào năm 1986, trên tinh thần nhìn thẳng vào
sự thật để đưa ra quan điểm đổi mới, Đảng ta đã xác định đất nước Việt Nam
sẽ tiến hành công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần.
Trong đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là nhiệm vụ trọng tâm để
phát triển lực lượng sản xuất của nước ta.
Ví dụ: Chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế và cho đến nay đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Người lao động nước ta đến năm 2005 là
44,3 triệu người, trong đó lao động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống
trường dạy nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh
chóng, năm 2007-2008, cả nước có 1 603 484 sinh viên, 160 trường đại học,
209 trường cao đẳng và 275 trường trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được
phần nào nhu cầu đào tạo lao động cho đất nước. (Nguồn: luatduonggia.vn) lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự
vận động hiện thực của chúng, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất vật chất và xã hội; và là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế,
mà trong quá trình vận động của nó hợp thành cơ cấu kinh tế hiện thực. Các
quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu , quyết định mọi quan hệ xã hội khác.
Ví dụ: Trong nền kinh tế của Việt Nam hiện nay có 4 thành phần kinh tế, đó
là: kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế Nhà nước, và kinh tế có 100% vốn
Nước ngoài. 4 quan hệ sản xuất này hợp thành cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng có cấu trúc gồm:
- Quan hệ sản xuất tàn dư QHSX của xã hội cũ
- Quan hệ sản xuất thống trị QHSX của xã hội đương thời, giữ vai trò chủ
đạo, quyết định xu hướng chung
- Quan hệ sản xuất mầm mống QHSX của xã hội tương lai
Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với
những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng
xác lập trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư
tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học... cùng
những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng tồn tại trong
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, đều được nảy sinh trên cơ sở của hạ
tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng nhất định. Trong xã hội có đối kháng giai cấp
thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối kháng giai cấp. Tính chất
này cũng đồng thời phản ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng, được biểu
hiện qua sự xung đột, đấu tranh về tư tưởng giữa các giai cấp đối kháng. 10 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
Trong tất cả các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, Nhà nước chính là yếu tố
quan trọng nhất, do Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp
luật, và tất cả các bộ phận còn lại phải chịu sự cưỡng chế của pháp luật. Nhờ
có Nhà nước, tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành sức mạnh thống trị
toàn bộ đời sống xã hội.
b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội là 1 trong 2 quy luật cơ bản của sự vận động và phát
triển lịch sử xã hội loài người. Trong mối quan hệ này, cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng
tầng cũng thay đổi. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần;
tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội.
Nội dung của kiến trúc thượng tầng chịu sự tác động từ quy định của cơ sở
hạ tầng. Quan hệ sản xuất nào là thống trị thì nó sẽ tạo ra một kiến trúc
thượng tầng như thế ấy, giai cấp nào mà thống trị trong xã hội thì toàn bộ tư
tưởng của giai cấp đó sẽ là tư tưởng thống trị trong xã hội. Cơ sở hạ tầng
mà mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng
cũng mất đi để ra đời một kiến trúc thượng tầng mới.
Ví dụ: Trong xã hội tư bản quan hệ sở hữu là tư hữu thì kiến trúc thượng tầng
là nhà nước tư sản ban hành pháp luật bảo vệ chế độ tư hữu, khi xã hội tư hữu
chuyển thành công hữu, nhà nước tư sản thành nhà nước xã hội chủ nghĩa ban
hành pháp luật bảo vệ chế độ công hữu.
Kiến trúc thượng tầng cũng tác động ngược trở lại cơ sở hạ tầng, do
tính độc lập tương đối của nó, tính năng động, sáng tạo, sáng tạo của ý
thức, tinh thần; và do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức – thể chế. Kiến
trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng của nó, thực
chất là bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị; đồng thời ngăn chặn cơ
sở hạ tầng mới, xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế.
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng cùng chiều với
quy luật kinh tế thì sẽ đẩy xã hội phát triển, hoặc ngược lại. Kiến trúc
thượng tầng chính trị có vai trò lớn nhất do phản ánh trực tiếp cơ sở hạ tầng,
là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Trong đời sống xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của xã hội có 2 ý nghĩa to lớn: lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
- Giúp nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
- Giúp Đảng ta xác định được chủ trương đổi mới: đổi mới toàn diện trong
mọi lĩnh vực, trong đó lấy đổi mới chính trị làm trọng tâm, đồng thời đổi mới các lĩnh vực khác.
5. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên
a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên kiểu quan hệ sản xuất đó.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng), kiến trúc thượng tầng. Trong đó, lực
lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn để phân biệt các
thời đại kinh tế khác nhau. Yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động phát
triển kinh tế - xã hội cũng chính là lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là
quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng
thời cũng là tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt các chế độ xã hội với nhau.
Kiến trúc thượng tầng là sự biểu hiện quan hệ giữa người với người trong lĩnh
vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.
b. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội:
Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện
tại là đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển này là một quá trình lịch sử
- tự nhiên do các lý do sau:
- Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan.
- Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội đều có nguyên
nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
- Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội còn chịu sự tác động
của các nhân tố chủ quan khác nên xu hướng chung của các hình thái kinh
tế - xã hội là sự phát triển từ thấp lên cao. Nhưng sự phát triển đó có thể là
phát triển tuần tự, hoặc cũng có thể là phát triển nhảy vọt. 12 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
- Điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và chủ quan).
Để phát triển lên đến chủ nghĩa xã hội, mỗi quốc gia, dù có quá trình phát
triển nhảy vọt hay không nhảy vọt, đều phải trải qua một thời kì mà C. Mác
gọi đó là thời kì quá độ.
c. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
Với việc xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã đem lại cho xã hội loài người những giá trị to lớn:
- Một cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội.
- Phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Cơ sở khoa học quán triệt quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. - Cơ
sở khoa học trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.
PHẦN II – Quá trình vận dụng học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội của Đảng ta ở Việt Nam
1. Các nội dung đã áp dụng
a. Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa
Theo quan điểm của C. Mác: “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa... là nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG,
H.1983, tập 19, tr.47)
. V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga xô – viết cũng khẳng
định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa cộng sản, có một thời kì quá độ nhất định” (V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến
bộ, Matxcơva, 1977, tập 39, tr.309-310)
. Thời kì quá độ được ông phân biệt thành 2
loại: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Ông cũng cho rằng, các nước mà chế
độ tư bản chủ nghĩa đã phát triển thì có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ
trực tiếp; còn những nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ
gián tiếp. Cho tới nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam ta vẫn đang theo đúng lý
luận Mác – Lênin và trải qua thời kì quá độ gián tiếp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trải qua thời kì phong kiến dài hàng nghìn năm, lại bị đế quốc thực dân
thống trị một thời gian dài, nền kinh tế của nước ta chưa thể phát triển như lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
các cường quốc khác, cơ sở vật chất và kĩ thuật còn nghèo và lạc hậu hơn rất
nhiều. Để xây dựng và phát triển đất nước lớn mạnh, đi lên chủ nghĩa xã hội
là lực chọn duy nhất, đúng đắn nhất của Đảng và dân tộc ta, dựa trên 2 căn cứ:
- Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được nhân dân lao động thoát
khỏi áp bức, bóc lột bất công; đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân.
- Thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời
đại mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng
là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử loài người, không phải là “dị
biệt”. Đồng thời, con đường này cũng cho phép chúng ta phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại, nhờ vào việc tiếp thu các thành
tựu, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, và những giá trị văn minh mà loài
người đã đạt được trong thời kì phát triển chủ nghĩa tư bản.
Với tất cả những lí do trên, có thể khẳng định, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội gián tiếp chính là khát
vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
b. Hướng đi xây dựng xã hội
Xã hội mà Đảng và nhân dân ta khao khát, quyết tâm xây dựng là một xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân. Chúng ta hướng đến một xã hội có
nền kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường, kiêm thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
trong thời đại giao thoa giữa các nền kinh tế trên thế giới. Chúng ta mong
muốn một đất nước có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất. Ngoài những mục tiêu nêu trên, nước ta còn đề cao xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nhằm bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, từng bước thực hiện hóa mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) xác định, “mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở
vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, 14 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, tr. 80)
. Với 6 quan điểm và những nội dung cơ bản của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, những thành tựu dần gặt hái được đã đưa đất nước
tiến lên theo các kỳ đại hội tiếp theo của Đảng.
2. Các thành tựu đạt được
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 2016 – 2019 GDP bình quân
đã đạt mức 6,8%/năm, đưa nước ta vào tốp 10 nước tăng trưởng cao nhất thế
giới suốt 4 năm này, đồng thời cũng là một trong 16 nền kinh tế mới nổi
thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có
mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%. Quy mô, trình
độ nền kinh tế lúc này được nâng lên mức khoảng 268,4 tỷ USD/năm, bình
quân thu nhập đầu người đạt khoảng 2750 USD/năm, tỉ lệ nghèo giảm mạnh
từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 3% trong năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Trên chặng đường 35 năm đổi mới, Việt Nam đã thiết lập được nhiều
quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, từng bước hội nhập quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Tính đến năm 2019, nước ta đã có
quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, thiết lập
quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước; 9/10 đối tác
kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn
nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Cho đến hiện tại, đã có 71 quốc
gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Về phương diện văn hóa – xã hội, Việt Nam cũng đã đạt được một số
thành tựu nhất định. Quy mô giáo dục không ngừng phát triển, cơ sở vật chất
được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực. Theo bảng xếp hạng QS World University Rankings năm 2023, Việt Nam
có tới 5 trường đại học được vào tốp 1500 trường đại học tốt nhất thế giới,
giúp nước ta trở thành điểm đến được lựa chọn bởi nhiều du học sinh trong
những năm gần đây. Bên cạnh đó, nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của
Việt Nam cũng được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6
tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN, sau Singapore); tỷ
lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%,
đứng ở tốp đầu của khối ASEAN. lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
Tiềm lực về ngành y tế của nước ta đang dần được chứng tỏ. Các hệ
thống cơ sở y tế được củng cố và phát triển, giúp người dân dễ dàng tiếp cận
với dịch vụ y tế hơn. Các trang thiết bị, cơ sở vật chất cũng được nâng cấp,
nhằm đáp ứng nhu cầu chữa bệnh và nâng cao hiệu quả chữa bệnh. Việt Nam
là một trong số ít các nước có kĩ thuật, công nghệ chữa bệnh mang tầm thế
giới như: cấy ghép tim, gan, thận,...; chủ động sản xuất vắc-xin phòng bệnh,
kiểm soát tốt các loại bệnh dịch, nhất là đại dịch Covid-19 vừa qua.
3. Các hạn chế và biện pháp giải quyết
Hạn chế đầu tiên phải kể đến trình độ công nhân ở nước ta không đồng
đều, phần đông có trình độ thấp; năng lực sáng tạo cũng chưa cao, số bằng
sáng chế của Việt Nam do các cơ quan uy tín trên thế giới cấp phép cũng chỉ
bằng một phần nhỏ những quốc gia khác. Theo kết quả phân tích cấu trúc liên
ngành I-O, nền kinh tế Việt Nam cơ bản là một nền kinh tế thâm dụng vốn và
gia công, lắp ráp là chủ yếu; trong đó, vai trò của khoa học công nghệ cũng
chỉ đóng góp ở mức khiêm tốn là gần 30%. Năng lực tự chủ của ngành công
nghiệp nước ta còn ở mức thấp, hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị, phụ
tùng, nguyên liệu chính cho sản xuất công nghiệp đều phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các công cụ cơ khí, hiện đại, tự động hóa
đang dần được ứng dụng nhiều hơn, nhưng cũng chưa phổ biến rộng khắp,
dẫn đến năng suất lao động chưa cao. Đầu vào của sản xuất vật chất cũng có
sự pha trộn giữa hiện đại và thô sơ, vật thể và phi vật thể. Các điều kiện xây
dựng công trình lớn như sân bay, cảng biển, đường xá, cầu cống cũng tương
tự, vừa hiện đại, vừa bán hiện đại và có khi còn thô sơ. Từ đây, ta cũng thấy
được trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là không đồng đều, muốn nền
kinh tế nước ta thịnh vượng hơn thì lực lượng sản xuất phải có trình độ cao
như nhau, không đan xen, kết hợp.
Các thiết chế của kiến trúc thượng tầng của chúng ta như Nhà nước,
Đảng, quân đội, tòa án, v.v.. vẫn còn những hạn chế yếu kém nhất định.
Theo C. Mác, kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau,
ông viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn
tâp, Sđd, t. 13, tr. 15)̣
. Để giải quyết các mặt hạn chế nói trên, Đảng và Nhà nước
ta phải kiên định trên con đường kết hợp đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị, trên
cơ sở nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và quan điểm của C.
Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng. 16 lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin
Về lĩnh vực kinh tế, chúng ta cần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
trong đó, thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế lãnh đạo. Cần ra
sức củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tạo nền tảng cho phát
triển kinh tế bền vững; huy động, sửu dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát huy vai trò của các vùng kinh tế
trọng điểm, các đô thị lớn. Với vấn đề trình độ không đồng đều của lực lượng
sản xuất, nước ta cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại; đảm bảo số lượng cơ cấu ngành, nghề hợp lý, có cơ chế phù hợp thu hút, trọng dụng nhân tài.
Về chính trị, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục chú trọng nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy chính
quyền theo hướng tinh gọn, văn minh, gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã
hội. Ngoài ra, nước ta còn cần phải chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
phòng, chống thiên tai; củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu
quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. lOMoAR cPSD| 23022540
Nguyễn Ánh Quỳnh – 11225536 Bài Tiểu luận Triết học Mác – Lênin KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học, cung cấp
cho chúng ta một phương pháp hữu hiệu để phân tích các hiện tượng xã hội
trong cuộc sống, từ đó đưa ra đường lối và giải pháp đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn. Cho đến nay, học thuyết vẫn còn giữ được giá trị nguyên sơ của nó.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội là điều tất yếu và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn. Dựa vào đó,
Nhà nước ta đã vạch ra những giải pháp đưa đất nước phát triển lên tầm cao mới.
Học thuyết còn cung cấp phương pháp luận khoa học để chúng ta phân tích
công cuộc đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, phân tích những nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng
của xã hội vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại, vừa phù hợp với điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin
2. Bài giảng LMS của thầy Nguyễn Văn Thuân
3. Nhiều nguồn trên Internet 18