Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG _____ _____ BÀI TẬP LỚN
Học phần: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội và
sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay
Họ và tên : Vũ Thị Hạnh Mã sinh viên : 11222174
Lớp học phần : LLNL1105(122)_40 Mục lục MỞ ĐẦU NỘI DUNG lOMoAR cPSD| 23022540 I.
Vấn đề lý luận về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội
1. Khái quát về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội
2. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
3.1. Phương thức sản xuất
3.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất
4.Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội 4.1. Khái niệm
4.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúcthượng tầng của xã hội
5. Sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên
5.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
5.2. Tiến trình lịch sử- tự nhiên của xã hội loài người 5.3.
Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng II.
Quá trình vận dụng học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của Đảng ta ở Việt Nam
1. Các nội dung đã áp dụng
2. Các thành tựu đạt được 3. Các hạn chế
4. Biện pháp giải quyết KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo MỞ ĐẦU
Lý luận về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy
vật do C.Mác xây dựng nên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác và đã
được thừa nhận lý luận khoa học , là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên lOMoAR cPSD| 23022540
cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế- xã hội, lần đầu tiên trong
lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự
phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất cả từng chế độ xã hội. Giúp chúng ta nghiên
cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát
triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử chung của xã hội loài người.
Trong thực tiễn Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo hướng
xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở bám sát tư tưởng Mác- Leenin và đặc biệt là việc vận
dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào công cuộc xây dựng đất nước, việc
vạch ra những mối lien hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực
hiện thành công công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó
lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan
xen với những khó khan, thách thức gay gắt. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đặt
nhiều kì vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để
phát huy lợi thế, vượt qua mọi khó khan, tiếp tục đưa Đất nước ta phát triển nhanh,
bền vững. Phát huy sức mạnh dân tộc , bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Chính vì những lý do trên bản thân chọn đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế- xã
hội và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay. NỘI DUNG I.
Vấn đề lý luận về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội
1. Khái quát về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội
Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức
tạp. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào phân tích đời sống xã
hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê – nin đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế - xã hội. lOMoAR cPSD| 23022540
Theo Mác- Lênin, hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử dung để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy. Như vậy, kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội
theo khái niệm trên bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Với khái niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy đã đem lại
phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu cấu trúc cơ bản của xã hội, cho
phép phân tích đời sống hết sực phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ
biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát triển
của nó như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao
gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có những thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những
thế mạnh đó để nghiên cứu, tìm tòi và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Xã hội loài người đã biết đến năm hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với năm
phương thức sản xuất: hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái
kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
2. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Để tồn tại và phát triển con người phải tiến hành sản xuất. Sản xuất là hoạt động
không ngừng sáng tạp ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người. Sản xuất là hoạt động đặc trưng của xã hội
loài người mà không một loài nào khác có được. Ví dụ các loài vật khác mặc dù
cũng có những hoạt động tạo ra giá trị vật chất như con ong xây tổ nhưng hành
động “xây tổ” của con ong lại hoàn toàn dựa vào bản năng giống loài, nó khác với
hoạt động “xây dựng” của con người đòi hỏi có sự sáng tạo. Quá trình sản xuất
diễn ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội – sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống hiện thực. Ph.Ăngghen từng khẳng định: “Theo quan điểm duy lOMoAR cPSD| 23022540
vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái
sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác và tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn.
Nếu như có ai xuyên tạc khiến cho câu trên có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là
nhân tố duy nhất quyết định, thì họ đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, vô nghĩa”.
Sự sản xuất xã hội, nghĩa là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao
gồm ba phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần
và sản xuất ra bản thân con người. Mỗi phương diện có vị trí, vai trò khác nhau.
Sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống
xã hội. Bên cạnh đó, con người còn tiến hành sản xuất tinh thần. Sản xuất tinh
thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn các nhu cầu tồn
tại và phát triển của con người và xã hội. Đồng thời con người còn sản xuất ra ra
bản thân con người. Sản xuất ra bản thân con người trong phạm vi cá nhân, gia
đình là việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Còn trong phạm vi xã hội là sự tăng
trưởng dân số, phát triển con người với tính cách là thực thể sinh học – xã hội.
Trong các loại sản xuất trên, theo em, sản xuất vật chất là loại sản xuất quan trọng
nhất trong suốt tiến trình phát triển của con người từ thời nguyên thủy đến nay.
Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới
tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển
của con người. Thuở sơ khai, hoạt động sản xuất vật chất của con người dừng lại
ở những việc vô cùng đơn giản như nhóm lửa, hái lượm, săn thú, chặt cây,… thế
nhưng thời điểm hiện tại hoạt động này đã phức tạp hơn, mang nhiều sức sáng
tạo hơn rất nhiều ví dụ như sản xuất thiết bị điện tử thông minh, xây nhà, làm đường,…
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Vai trò
của sản xuất vật chất được thể hiện, trước tiên, sản xuất vật chất là tiền đề trực
tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người” nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển lOMoAR cPSD| 23022540
của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói riêng. Nhờ có sản xuất
vật chất nên con người tạo ra giá trị thặng dư là tiền đề để phân chia giai cấp từ
đó hình thành nên các cấu trúc xã hội, điều mà không hề có ở các loài khác.
Sản xuất vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho hoạt động
tinh thần của con người và duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh thần của
xã hội. C.Mác chi rõ : “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp
tạo ra một cơ sở từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước , các quan
điểm pháp quyền , nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con
người ta " . Nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toản bộ đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú , phức tạp của nó.
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người. Nhờ hoạt
động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư
duy, tình cảm, đạo đức, phẩm chất xã hội của con người. Ph.Ăngghen khẳng
định rằng, “lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”. Nhờ lao động sản xuất
mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập với tự nhiên, cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời sáng tạo ra chính bản thân con người.
Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần, để phát
triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế -vật chất.
3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
3.1 Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động
giữa con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra
của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai đoạn lịch sử
nhất định. “Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo
một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn lOMoAR cPSD| 23022540
sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau, và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất.” (C.Mác và
Ph.Ăngghen Toàn tập 1993, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội).
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng
lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Đây là nguồn lực cơ
bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. ngày nay, trong nền sản xuất xã hội, tỷ
trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật
chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên,
nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Đối
tượng lao động gồm 2 loại là: có sẵn trong tự nhiên và qua chế biến(nguyên
liệu). Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa
vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm
công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu
tố vật chất của sản xuất cùng với công cụ lao động tác động lên đối tượng lao
động. Công cụ lao động là phương tiện con người dùng trực tiếp tác động lên
đối tượng lao động, là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn giữa người lao
động và đối tượng lao động. Người xưa dùng công cụ lao động “rìu đá” để tác
động lên đối tượng lao động “thân cây” để biến đổi chúng thành những thanh gỗ
nhỏ đáp ứng nhu cầu làm nhà. Ngày nay thì công cụ lao động “rìu đá” đã biến
thành “cưa máy” tác động vào đối tượng lao động “thân cây” cũng để lấy gỗ làm
nhà giống người thời tiền sử thế nhưng với năng suất và chất lượng gỗ thu được
vượt trội hơn nhiều. Thế nên C.Mác từng khẳng định: “Những thời đại kinh tế
khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”. lOMoAR cPSD| 23022540 Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới
tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng
sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế -kỹ thuật (tư liệu sản
xuất) và mặt kinh tế -xã hội (người lao động) . Lực lượng sản xuất chính là sự
kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất. Như
vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố “người lao động” và “tư
liệu sản xuất” cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc
biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo
mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất -năng
lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và
công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu
giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì người lao động là chủ thể sáng tạo và
sử dụng công cụ lao động. Người lao động tạo ra tư liệu sản xuất chứ tư liệu sản
xuất ko thể tạo ra người lao động được. Trình độ của tư liệu sản xuất được quyết
định bởi người lao động tạo ra chúng. Năng suất của tư liệu sản xuất cũng được
quyết định bởi người lao động sử dụng chúng.
Cùng với sự phát triển của xã hội, lực lượng sản xuất cũng không ngừng phát
triển theo. Sự phát triển này thể hiện ở 2 tính chất là tính chất cá nhân và tính
chất xã hội trong sử dụng tư liệu sản xuất. Trong thời điểm hiện tại lực lượng
sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
cũng được thể hiện trên khia cạnh trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện
ở trình độ của người lao động, công cụ lao động, ứng dụng lao động vào sản xuất,...
Ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học trở thành
nguyên nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất, làm cho năng suất lOMoAR cPSD| 23022540
không ngừng gia tăng. Khoa học cũng đã giải quyết các mâu thuẫn lực lượng
sản xuất đặt ra nó thâm nhập vào mọi yếu tố và các khâu quan trọng của quá
trình sản xuất, ngày nay không có quá trình sản xuất nào không nhờ đến khoa học. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế -vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất thể hiện trong 3 khía cạnh:
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ giữa người với người trong tổ chức
quản lý sản xuất, quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị
kinh tế-xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ
quản lý và phân phối. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát,
cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ
khác. Bởi vì, lực lượng xã hội nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá
trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm.
Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người việc tổ
chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này có vai trò quyết định trực
tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc
kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngày nay, khoa học tổ chức quản
lý sản xuất hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất .
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của
cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng. Quan hệ này có vai trò đặc biệt
quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người, là “chất xúc tác” kinh tế thúc lOMoAR cPSD| 23022540
đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, làm năng động hoá toàn bộ đời sống kinh tế xã
hội. Hoặc ngược lại, nó có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
3.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất thể hiện ở 3 khía cạnh: Lực
lượng sản xuất nào quan hệ sản xuất đó, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan
hệ sản xuất cũng thay đổi, nội dung quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất
quyết định. Ví dụ khi lực lượng sản xuất dựa vào công cụ thô sơ thì các quan hệ
sản xuất đi kèm cũng chủ yếu chỉ là quản lý nhỏ, phân tán, hình thức phân phối
chủ yếu theo hiện vật. Còn khi lực lượng sản xuất dựa vào công cụ lao động
hiện đại thì các quan hệ sản xuất cũng lớn hơn đa dạng hơn như sở hữu lớn,
quản lý theo phong cách hiện đại, hình thức phân phối đa dạng.
Quan hệ sản xuất lại tác động ngược lại lực lượng sản xuất theo 2 chiều hướng:
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì
sẽ tạo đà phát triển cho lực lượng sản xuất, ngược lại nếu quan hệ sản xuất
không phù hợp với rình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ cản trở lực
lượng sản xuất phát triển.
Để xét sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ta xét các khía cạnh sau:
-Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
-Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất.
-Sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
-Tạo điều kiện tối ưu sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất.
-Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và
hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động. lOMoAR cPSD| 23022540
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy
luật quyết định sự vận động, phát triển nội tại của bản thân phương thức sản xuất
và là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
4.Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội 4.1. Khái niệm Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong Sự vận
động hiện thực của chúng, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật
chất của xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong
quá trình vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. Các quan hệ
sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu , quyết định mọi quan hệ xã
hội khác. Ví dụ nền kinh tế Việt Nam hiện nay có 4 thành phần kinh tế là: Kinh
tế tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế 100% vốn nước ngoài, kinh tế tập thể. Các
quan hệ sản xuất này hợp thành cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
Cấu trúc cơ sở hạ tầng bao gồm: quan hệ sản xuất tàn dư,quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất mầm mống. Trong đó quan hệ sản xuất tàn dư là quan hệ
sản xuất của xã hội cũ, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo quyết định
xu hướng chung của cơ sở hạ tầng, quan hệ sản xuất mầm mống là quan hệ sản
xuất của xã hội tương lai.
Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng
về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học... cùng những
thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ lOMoAR cPSD| 23022540
chức xã hội khác. Các yếu tố về điểm tư tưởng và thiết chế xã hội có quan hệ với
nhau, cùng với những quan hệ nội tại trong các yếu tố đó hợp thành kiến trúc
thượng tầng của xã hội quan. Trong đó thì nhà nước là quan trọng nhất vì nhà
nước là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật cái mà có sự cưỡng chế
các bộ phận còn lại. Chính nhờ nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị trở
thành thống trị trong xã hội.
4.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội là 1 trong 2 quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển lịch sử xã
hội loài người. Trong mối quan hệ này cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét
đến cùng tính tất yếu chính trị -xã hội. Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc
thượng tầng như thế đó, quan hệ sản xuất nào là thống trị thì nó sẽ tạo ra một kiến
trúc thượng tầng như thế ấy , giai cấp nào mà thống trị trong xã hội thì toàn bộ tư
tưởng của giai cấp đó sẽ là tư tưởng thống trị trong xã hội. Cơ sở hạ tầng mà mất
đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng mất đi
để ra đời một kiến trúc thượng tầng mới. Nội dung của kiến trúc thượng tầng do
cơ sở hạ tầng quy định. Ví dụ trong xã hội tư bản quan hệ sở hữu là tư hữu thì
kiến trúc thượng tầng là nhà nước tư sản ban hành pháp luật bảo vệ chế độ tư hữu,
khi xã hội tư hữu chuyển thành công hữu, nhà nước tư sản thành nhà nước xã hội
chủ nghĩa ban hành pháp luật bảo vệ chế độ công hữu.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Suy cho cùng vẫn là bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, ngăn chặn cơ sở hạ
tầng mới, xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế. lOMoAR cPSD| 23022540
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng cùng chiều với quy luật
kinh tế thì sẽ đẩy xã hội phát triển, hoặc ngược lại. Kiến trúc thượng tầng chính
trị có vai trò lớn nhất do phản ánh trực tiếp cơ sở hạ tầng, là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Ý nghĩa trong đời sống xã hội
- Giúp nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
- Giúp Đảng ta xác định được những chủ trương đổi mới
5. Sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên
5.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên kiểu quan hệ sản xuất đó.
Phạm trù hình thái kinh tế -xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất (cơ sở hạ tầng), kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất là nền tảng
vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác
nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh
tế -xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết
định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt
bản chất các chế độ xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các
mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt
tinh thần của đời sống xã hội.
5.2. Tiến trình lịch sử- tự nhiên của xã hội loài người
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội: Cộng
sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện tại là lOMoAR cPSD| 23022540
đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển này là 1 quá trình lịch sử tự nhiên do các lý do sau:
-Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan
-Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
-Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội còn chịu sự tác động của
các nhân tố chủ quan khác nên xu hướng chung của các hình thái kinh tế – xẫ
hội là sự phát triển từ thấp lên cao. Nhưng sự phát triển đó được diễn ra bằng nhiều cách.
-Điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và chủ quan).
II. Quá trình vận dụng học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của Đảng ta ở Việt Nam
1. Các nội dung đã áp dụng
1.1. Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ
nghĩa xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Muốn
làm được điều đó thì cách mạng vô sản phải thành công, nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã tiến hành cách mạng giành được
chính quyền từ tay giai cấp thống trị và các nước đó đã giành được sự giúp
đỡ từ các nước phương Tây. Hơn thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình
thái kinh tế -xã hội đã khẳng định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển
tuần tự theo những bước quá độ của các hình thái kinh tế -xã hội nối tiếp
nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều
kiện lịch sự cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội. lOMoAR cPSD| 23022540
Theo Lênin, có 2 hình thức quá độ; quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp.
Lênin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển thì có thể đi
lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua
tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời
gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu .
Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách màng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua
chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2 căn cứ sau đây.
-Một là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được nhân dân lao động thoát
khỏi áp bức, bóc lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân.
-Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một
thời đại mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã
hội chủ nghĩa, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác
Lê-nin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường
rút ngắn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Con đường chủ nghĩa xã hội cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực
lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề
xã hội phát triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và
nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết là
chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với người…
Từ tất cả những lí do trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân số trên 80% sống bằng nông nghiệp, lOMoAR cPSD| 23022540
cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội hầu như không có. Vận dụng chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên
định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của
lịch sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước.
1.2. Hướng đi xây dựng xã hội
Xã hội mà nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân,
có một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được
giải phóng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc anh
em chung sống hòa bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước
trên thế giới. Đây là chính là nội dung “sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và
phát triển của xã hội” và “vai trò quyết đinh của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) của Đảng ta đã khẳng định:
“Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh”. Mục tiêu đó chính là sự cụ thể hóa từ nội dung “biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội”.
2. Các thành tựu đạt được
Nếu như giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm chỉ đạt 4,4% thì đến năm 2022 con số này đã đạt 8,02%, GDP quý IV
tăng 5,92% so với cùng kỳ năm trước, quy mô nền kinh tế đạt hơn 409 tỷ USD;
thu nhập bình quân đầu người đã lên gần 4.110 USD, tăng 393USD so với năm 2021. lOMoAR cPSD| 23022540
Việt Nam đã tham gia thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và
hiện đại, đáp ứng yêu cầu của hội nhập; xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều
kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế cũng đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong
mạng lưới liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, tính đến năm 2022, Việt Nam đã có
quan hệ chính thức với 190/193 quốc gia của Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế
-thương mại và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh thổ; có 16 đối tác chiến
lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; 71 nước đã công nhận Việt Nam là một
nền kinh tế thị trường. 3. Các hạn chế
Trình độ lực lượng sản xuất của Việt Nam hiện nay rất không đồng đều. Đây là
đặc trưng rất rõ nét. Sự không đồng đều của trình độ lực lượng sản xuất thể hiện
ở cả hai yếu tố cấu thành là người lao động và công cụ lao động. Về trình độ của
người lao động ở nước ta rất rõ là vừa có người lao động với trình độ cao ở cấp
độ quốc tế vừa có người lao động với trình độ lao động giản đơn bằng chân tay,
vừa có người lao động vừa có trình độ tay nghề cao ở lĩnh vực này nhưng lại có
tay nghề thủ công ở công đoạn khác của chuỗi sản xuất.
Đối với công cụ lao động cũng tương tự, có sự đan xen của công cụ lao động thủ
công, cơ khí, hiện đại, tự động hóa. Đầu vào của sản xuất vật chất cũng vậy, vừa
hiện đại, vừa không hiện đại, vừa có đầu vào vật thể, vừa có đầu vào phi vật thể.
Các điều kiện của sản xuất vật chất như sân bay, bến cảng, đường xá, cầu cống
cũng tương tự vừa hiện đại vừa bán hiện đại và có khi còn thô sơ. Từ đây cho
thấy đặc trưng về trình độ lực lượng sản xuất ở Việt Nam là không đồng đều;
hiện đại, bán hiện đại và thô sơ đan xen, kết hợp lOMoAR cPSD| 23022540
Đối với quan hệ trao đổi. Một hạn chế là chúng ta dường như không để ý tới
quan hệ trao đổi trong nền kinh tế thị trường -điều mà các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác-Lênin luôn đề cập. Cũng giống như quan hệ sản xuất, quan hệ trao
đổi của Việt Nam hiện nay cũng không thuần nhất, chúng không hoàn toàn là
tuân theo quy luật của thị trường và cũng không hoàn toàn là tuân theo những
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.
Các thiết chế của kiến trúc thượng tầng của chúng ta như Nhà nước, Đảng, quân
đội, tòa án, v.v.. vẫn còn những hạn chế yếu kém nhất định.
4. Biện pháp giải quyết
Với tình trạng không đồng đều trong lực lượng lao động ta nên thực hiện nền kinh
tế nhiều thành phần, chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu, đa dạng hóa hình
thức phân phối, tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi. Từ quan hệ sản xuất đa dạng
nhiều thành phần cũng như quan hệ trao đổi đan xen như vậy chúng ta phải chấp
nhận kiến trúc thượng tầng của chúng ta cũng chưa thể có đặc trưng thuần nhất xã
hội chủ nghĩa ngay được. Nếu không nhận rõ điều này sẽ làm cho chúng ta chủ
quan, nóng vội, duy ý chí. Chúng ta phải chấp nhận kiến trúc thượng tầng của
chúng ta cũng có sự không thuần nhất cả về các yếu tố cấu thành, cả về các khía
cạnh trong nội bộ từng yếu tố.
Để hoàn thiện quan hệ trao đổi, trước hết chúng ta phải hoàn thiện cơ sở pháp lý
của trao đổi để giải quyết hài hòa các bên của quan hệ trao đổi. Trên cơ sở đó
hình thành cơ chế vận hành cho quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế thị trường,
quan hệ trao đổi phải dựa trên quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật thị
trường nói chung. Nhưng nền kinh tế thị trường của chúng ta là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa -một mô hình kinh tế thị trường mới đặc
biệt, khác với các mô hình kinh tế thị trường đã có. Do vậy, đối với Việt Nam,
một trong những biện pháp quan trọng để hoàn thiện quan hệ trao đổi là giải
quyết tốt quan hệ: nhà nước -thị trường -xã hội và quan hệ giữa tuân theo các
quy luật của kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa mà lOMoAR cPSD| 23022540
Đảng Cộng sản sản Việt Nam đã nhận thức rõ. Đồng thời phải hoàn thiện đồng
bộ các loại thị trường.
chúng ta phải chủ động xây dựng kiến trúc thượng tầng của chúng ta theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, nhà nước bằng các chính sách của mình có thể
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, trên cơ sở đó hậu thuẫn, hỗ trợ, thúc đẩy
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ trao đổi xã hội chủ nghĩa được hoàn
thiện. Theo đó, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hoàn thiện, củng cố. KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là nền tảng chính của mọi quốc gia trên thế
giới vì nó chính là nền tảng kinh tế - xã hội của mọi nước, mà trong đó những
yếu tố để hình thành nên hình thái kinh tế - xã hội bao gồm lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng,… là những nhân tố chính của hình thái kinh tế - xã hội .
Như vậy, để xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở nước ta một cách có hiệu quả
thì nhất thiết phải biết gắn kết các yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
cấu trúc thượng tầng một cách đúng đắn. Biết tìm ra những phương pháp hiệu
quả phù hợp với đất nước như xây dựng nền sản xuất hàng hoá nhiều thành
phần, xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân lao động, mở rộng
giao lưu quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... sẽ làm cho
hình thái kinh tế nước ta phát triển hơn. Chính những điều đó sẽ có ý nghĩa rất
tốt đối với các mặt trong tổng thể hình thái kinh tế xã hội với con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế lực lượng lao động
sẽ có việc làm và không bị dư thừa, đời sống văn minh lịch sự, thu nhập quốc
dân tăng thì tổng thể hình thái kinh tế - xã hội của nước ta sẽ phát triển, nó sẽ
thúc đẩy nền kinh tế của nước ta đi lên.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoAR cPSD| 23022540
1. Giáo trình Triết học Mác- Lênin ( Dành cho bậc đại học hệ thống chuyên lý luận chính trị)
2. Bài giảng lms của thầy Nguyễn Văn Thuân
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia4.
Nhiều nguồn trên Internet