



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206417
TRƯ Ờ NG Đ Ạ I H Ọ C THƯƠNG M Ạ I
KHOA MARKETING BÀI TH
Ả O LU Ậ N:
H Ọ C PH Ầ N: L Ị CH S Ử Đ Ả NG
Đ ề tài :
TÌM HIỂU VỀ HỘI NGHỊ VÀ HIỆP ĐỊNH GIƠ - NE - VƠ NĂM 1954 Gi
ả ng viên: Nguy ễ n Th ị Lan Phương L
ớ p h ọ c ph ầ n : 242 _HCMI0131_ 02
Nhóm 8
H à N ộ i , tháng 3 năm 202 5 . lOMoAR cPSD| 47206417 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1: HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ .................................................................... 4
1.1. Hoàn cảnh lịch sử ............................................................................................ 4
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới ........................................................................ 4
1.1.2. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam ..................................................................... 5
1.2. Thành phần và mục đích của các bên tham gia ............................................. 6
1.3. Diễn biến của hội nghị Giơ-ne-vơ ................................................................... 8
1.4. Kết quả của hội nghị Giơ-ne-vơ.................................................................... 10
CHƯƠNG 2: HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ ................................................................. 11
2.1. Nội dung của hiệp định Giơ-ne-vơ ............................................................... 11
2.2. Ý nghĩa của hiệp định Giơ-ne-vơ .................................................................. 14
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .................. 16
3.1. Thành công .................................................................................................... 16
3.2. Hạn chế của hiệp định genève....................................................................... 17
3.3. Bài học kinh nghiệm...................................................................................... 18
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 23 LỜI MỞ ĐẦU
Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử thế giới nói chung
và lịch sử Việt Nam nói riêng, khi đánh dấu bước chuyển mình lớn trong tiến trình đấu tranh
giành độc lập của các dân tộc bị áp bức. Đặc biệt, với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội, quân
và dân Việt Nam đã buộc thực dân Pháp phải chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương và ngồi
vào bàn đàm phán, dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ. Đây không chỉ là một thắng lợi
ngoại giao quan trọng của Việt Nam mà còn là sự kiện có tác động sâu rộng đến cục diện chính
trị khu vực và thế giới trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh.
Việc nghiên cứu về Hội nghị Giơ-ne-vơ và Hiệp định Giơ-ne-vơ có ý nghĩa sâu sắc trong
việc làm rõ bối cảnh lịch sử, diễn biến, kết quả và tác động của sự kiện này đối với Việt Nam
và thế giới. Đồng thời, việc phân tích những thành công và hạn chế của Hiệp định sẽ giúp rút ra
những bài học quý giá trong công tác ngoại giao, chiến lược quân sự và chính trị. Trên cơ sở đó,
bài thảo luận sẽ đi sâu vào phân tích hoàn cảnh lịch sử, các bên tham gia đàm phán, nội dung
hiệp định, cũng như những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ sự kiện trọng đại này. 2 lOMoAR cPSD| 47206417 3 lOMoAR cPSD| 47206417
CHƯƠNG 1: HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới
Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc vào năm 1945, thế giới rơi vào một trạng thái
đối đầu giữa hai siêu cường: Mỹ và các nước phương Tây (khối Tư bản) với Liên Xô và
các nước Cộng sản (khối Xã hội chủ nghĩa). Cuộc chiến tranh Lạnh không chỉ là cuộc
cạnh tranh về kinh tế, chính trị và quân sự, mà còn là cuộc đấu tranh về ý thức hệ giữa
chủ nghĩa Tư bản và chủ nghĩa Cộng sản. Mỗi bên tìm cách mở rộng ảnh hưởng của
mình ra các khu vực trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia mới giành được độc lập
hoặc các khu vực đang bị xung đột.
Việt Nam trở thành một trong những điểm nóng trong chiến tranh Lạnh. Bởi vì,
Mỹ đặt Đông Dương trong phòng tuyến chống cộng của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình Dương,
như ngoại trưởng Dulles tuyên bố ngày 13/01/1954: "Đứng về chiến lược, quyền lợi của
Mỹ ở vùng viễn đông gắn chặt với các đảo ở bờ biển vùng đó. Các đảo đó có hai cứ
điểm ở trên lục địa: phía bắc là Triều Tiên và phía nam là Đông Dương". Vì vậy, Mỹ
tăng cường can thiệp và dính líu sâu vào Đông Dương, tiếp tục viện trợ cho Pháp và
không muốn Pháp đàm phán với Việt Minh. Đầu tháng 10/1953, Phó Tổng thống Mỹ
Níchxơn sang thăm Việt Nam để nắm bắt tình hình có tuyên bố “cuộc chiến chống lại
Việt Minh có tầm quan trọng vượt qua khỏi biên giới Việt Nam” và hứa với thực dân
Pháp ở Đông Dương là “các bạn sẽ không phải chiến đấu mà thiếu sự giúp đỡ”. Có thể
nói, Mỹ lo ngại rằng sự thắng lợi của lực lượng cộng sản tại Đông Dương sẽ tạo ra một
hiệu ứng domino, khiến các quốc gia Đông Nam Á khác rơi vào tay Cộng sản. Chính vì
thế, Mỹ không chỉ hỗ trợ Pháp về mặt tài chính và quân sự trong suốt chiến tranh Đông
Dương, mà còn tích cực tham gia vào các cuộc đàm phán quốc tế nhằm ngăn chặn sự
lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở khu vực này.
Mặt khác, Liên Xô và Trung Quốc đã ủng hộ Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống
lại Pháp. Liên Xô muốn thực hiện chính sách ngoại giao hòa hoãn đi đến một giải pháp
hòa bình cho vấn đề Đông Dương để ngăn chặn Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ở Đông
Dương. Đây là khu vực chưa phải là quyền lợi sát sườn của Liên Xô và ảnh hưởng của
Liên Xô cũng chưa mạnh. Hơn nữa, Liên Xô còn nhiều việc phải làm sau khi Stalin mất
(3/1953) và có sự thay đổi trong Ban lãnh đạo cấp cao. Báo Sao đỏ của Liên Xô ra ngày
03/08/1953 viết “Đình chiến ở Triều Tiên cần thúc đẩy việc chấm dứt chiến tranh ở Đông
Dương”. Còn về phía Trung Quốc thì đang muốn tập trung vào khôi phục kinh tế, thực
hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, cũng chủ trương
sớm giải quyết lập lại hòa bình ở Đông Dương, ngăn chặn đế quốc Mỹ mở rộng chiến
tranh, bảo đảm hòa bình và an ninh cho Trung Quốc ở phía Đông Nam. Do đó, dưới sự
lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã cung cấp hỗ trợ quân sự và chính trị cho 4 lOMoAR cPSD| 47206417
Việt Minh. Việc này càng làm gia tăng sự căng thẳng giữa các cường quốc lớn, đẩy khu
vực Đông Dương trở thành một chiến trường của Chiến tranh Lạnh.
Vào cuối năm 1953 và đầu 1954 khi chiến tranh lạnh đã đi đến đỉnh cao thì thế giới
đã xuất hiện xu thế các nước lớn bắt đầu đi vào hòa hoãn, chủ trương giải quyết hòa bình
các cuộc chiến tranh khu vực. Biểu hiện rõ nhất của xu thế hòa hoãn này là các nước lớn
Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô đi đến triệu tập Hội nghị ngoại trưởng bốn nước tại Berlin
tháng 2/1954 bàn về vấn đề Đức - Áo. Do bất đồng quá lớn trong việc giải quyết các vấn
đề chính trị tồn tại sau chiến tranh lạnh, Hội nghị thất bại nên chuyển sang bàn vấn đề
Biển Đông. Ngày 18/2/1954, Hội nghị Ngoại trưởng bốn nước ra tuyên bố cuối cùng,
trong đó Hội nghị sẽ xem xét vấn đề Đông Dương. Điều này đã mở ra một con đường
mới cho khả năng kết thúc chiến tranh ở Việt Nam, Đông Dương thông qua biện pháp thương lượng hòa bình.
Sau nhiều năm chiến đấu, một bước ngoặt lớn trong chiến tranh Đông Dương đã
xảy ra vào năm ngày 7/5/1954 khi quân đội Việt Minh giành chiến thắng quyết định
trong trận Điện Biên Phủ. Đồng thời việc Hiệp định đình chiến ở Triều tiên ngày
27/3/1953 được ký kết kèm theo những sự chuyển hóa trong Chính phủ và Quốc hội
Pháp đã thúc đẩy việc khởi động quá trình các nước lớn tìm cách giải quyết vấn đề Đông
Dương bằng thương lượng thông qua các cuộc đàm phán quốc tế.
1.1.2. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp với dã tâm dùng vũ lực hòng
đặt lại ách thống trị trên đất nước ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, chúng nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn, khơi mào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Bất chấp mọi
nỗ lực ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực dân Pháp từng bước
mở rộng chiến tranh, đẩy dân tộc ta vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
Dù chính quyền cách mạng còn non trẻ, đời sống người dân còn muôn vàn khó
khăn, nhưng với lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, toàn
dân tộc đã đoàn kết một lòng, nhất tề đứng lên hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính, quân và dân ta đã phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ. Bằng vũ khí thô sơ và lòng dũng cảm, chúng ta đã lần lượt đánh
bại các kế hoạch quân sự của thực dân Pháp, làm nên những chiến thắng lịch sử như
Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947), Chiến dịch Biên giới (1950), chiến dịch Hòa
Bình (1951 - 1952), chiến dịch Tây Bắc (1952), và chiến dịch Thượng Lào (1953). Các
cuộc chiến thắng vang dội đã góp phần mở rộng vùng giải phóng, củng cố chính quyền
dân chủ nhân dân, tạo bước trưởng thành vượt bậc cho lực lượng vũ trang cách mạng,
làm thay đổi cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương theo hướng có lợi cho quân và dân ta. 5 lOMoAR cPSD| 47206417
Liên tiếp hứng chịu những thất bại nặng nề trên các chiến trường, quân Pháp rơi
vào thế bị động, nguy khốn cùng cực. Trong cơn tuyệt vọng, Chính phủ Pháp vội vã cầu
viện Mỹ, đồng thời thay đổi chỉ huy, tìm cách xoay chuyển tình thế bằng một thắng lợi
quân sự. Để thực hiện mưu đồ đó, Kế hoạch Na-va (7/1953) ra đời, với tham vọng giành
chiến thắng quyết định trong vòng 18 tháng, buộc Việt Nam phải đàm phán theo điều
kiện của chúng. Tuy nhiên, mọi toan tính của thực dân Pháp đều bị phá sản trước sức
mạnh quật cường của quân và dân ta. Sau những thất bại liên tiếp, Pháp buộc phải thay
đổi kế hoạch, xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một "pháo đài bất khả xâm
phạm" ở Tây Bắc Việt Nam, với hy vọng "nghiền nát" quân chủ lực của ta.
Với tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo tài tình, đầu tháng 12/1953, Đảng ta đã
quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, một chiến dịch có ý nghĩa lịch sử to lớn. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không
những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc
tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được". Quyết
định này thể hiện sự đánh giá chính xác tình hình và quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng của dân tộc ta.
Ngày 13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức bắt đầu. Trải qua 56 ngày
đêm chiến đấu vô cùng gian khổ và ác liệt, đến ngày 7/5/1954, quân và dân ta đã giành
thắng lợi. Chiến thắng này đã đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Kế hoạch Na-va, đồng
thời làm phá sản âm mưu xoay chuyển cục diện chiến tranh của thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ. Tiếng vang của Điện Biên Phủ đã làm rung chuyển chính trường Pháp, thúc
đẩy phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Pháp, và nhận được sự ủng hộ mạnh
mẽ từ nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử, là cơ sở vững chắc
cho thắng lợi của nền ngoại giao Việt Nam. Chỉ một ngày sau chiến thắng đó, Hội nghị
Giơ-ne-vơ đã bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Dù gặp nhiều
khó khăn, nhưng với thế thắng trên chiến trường và xu thế chung của thế giới là giải
quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải
ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/07/1954).
1.2. Thành phần và mục đích của các bên tham gia
Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương được tổ chức theo quyết
nghị của Hội nghị ngoại trưởng bốn nước lớn gồm Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp tại Berlin
tháng 2/1954 để giải quyết vấn đề Triều Tiên và chiến tranh tại Đông Dương. Hội nghị
khai mạc ngày 8/5/1954 và kết thúc vào ngày 21/7/1954.
Thành phần tham dự Hội nghị: Có 9 bên tham dự (không phải là 9 quốc gia): Liên
Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, 6 lOMoAR cPSD| 47206417
Vương Quốc Lào và Vương Quốc Campuchia. Đại diện lực lượng kháng chiến Pathet
Lào và Khmer Itsarak tuy đã có mặt ở Giơ-ne-vơ cùng với Đoàn ta nhưng không được
các đoàn phương Tây chấp nhận tham dự Hội nghị.
Các nước đến dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương có
những lợi ích, chiến lược và với những mục tiêu khác nhau.
Liên Xô sau khi Stalin mất, Khơ-rut-sốp lên cầm quyền, chủ trương hòa hoãn với
Mỹ và Tây Âu, làm dịu tình hình quốc tế. Liên Xô tập trung giải quyết vấn đề Berlin và
nước Đức, đối phó với mối đe dọa của Mỹ và NATO, quan tâm đến châu Á có mức độ.
Do đó, tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Liên Xô chỉ xử lý những vấn đề chung, tích cực đấu
tranh bảo vệ quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thúc đẩy để đạt được những thỏa
thuận mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể chấp nhận được. Bên cạnh đó, tại Hội
nghị, Liên Xô tranh thủ Pháp trong các vấn đề châu Âu và vận động Pháp không tham
gia Cộng đồng Phòng thủ châu Âu (CDE) do Mỹ chủ xướng.
Trung Quốc đến Hội nghị với mục tiêu hàng đầu là sớm đạt được một giải pháp
hòa bình ở Đông Dương nhằm tránh mọi sự can thiệp của Mỹ, tránh quốc tế hóa cuộc
chiến tranh Đông Dương và đẩy chiến tranh xa biên giới bảo đảm an ninh phía nam
Trung Quốc. Tại Giơ-ne-vơ, Trung Quốc còn có mục tiêu khác quan trọng hơn đó là
bình thường hóa quan hệ với các nước Tây Âu, trước hết là về kinh tế - thương mại và
ngoại giao để phá bao vây, cấm vận của Mỹ, vào Liên Hợp quốc, thúc đẩy giải quyết vấn đề Đài Loan.
Pháp được Anh ủng hộ, muốn đạt được một giải pháp đình chiến ít có hại nhất, làm
sao không lập Chính phủ liên hợp, chia cắt Việt Nam, giữa Lào và Campuchia càng
nguyên vẹn càng tốt, trong khi hạn chế đến mức tối đa thắng lợi của cách mạng Việt
Nam và Đông Dương. Pháp còn có hai mục tiêu quan trọng là bảo toàn quân đội viễn
chinh để tiếp tục giữ các thuộc địa còn lại, trấn an dư luận trong nước.
Anh muốn giải quyết hòa bình cuộc chiến tranh Đông Dương, làm dịu tình hình
căng thẳng ở Viễn Đông vì như vậy có lợi cho việc củng cố "Khối thịnh vượng chung"
ở châu Á, nhất là trong lúc Anh phải đối phó với phong trào du kích ở Malaysia.
Mỹ chống Liên Xô quyết liệt ở châu Âu, bao vây cấm vận Trung Quốc ở châu Á.
Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Mỹ luôn tìm cách phá Hội nghị, chống bất cứ giải pháp nào nếu
không cải thiện rõ rệt tương quan lực lượng quân sự có lợi cho Pháp nhằm tạo cho Pháp
và phương Tây thế mạnh trên bàn đàm phán. Do phải tranh thủ Pháp tham gia Cộng
đồng Phòng thủ châu Âu, Mỹ không thể ngăn cản Pháp đi vào giải pháp ở Đông Dương,
không thể can thiệp trực tiếp vào Đông Dương vì Quốc hội Mỹ phản đối. Mỹ tìm mọi
cách ngăn cản Pháp không được thỏa hiệp quá mức hoặc ký hiệp định bất lợi cho ý đồ
của Mỹ thay chân Pháp ở Đông Dương. 7 lOMoAR cPSD| 47206417
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ với lập trường cơ bản
là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết trên cơ sở
lập trường cơ bản đó của Việt Nam. Thi hành các điều khoản quân sự, chính trị của Hiệp
định Giơ-ne-vơ là nhằm củng cố hòa bình, miền Bắc vừa giành được độc lập cần phải
có hòa bình để xây dựng đất nước. Hòa bình phải được bảo vệ trên toàn cõi Đông Dương.
Mặc dù đến Hội nghị với mục tiêu và lợi ích khác nhau nhưng do tương quan lực
lượng quốc tế lúc đó, Hội nghị đã bị các nước lớn chi phối. Hội nghị Giơ-ne-vơ trải qua
75 ngày với 31 phiên họp, trong đó có 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp Trưởng đoàn.
1.3. Diễn biến của hội nghị Giơ-ne-vơ
Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương diễn ra từ ngày 8/5/1954 đến ngày
21/7/1954, trải qua 75 ngày với 31 phiên họp, bao gồm 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp
cấp trưởng đoàn. Diễn biến của Hội nghị có thể được chia thành ba giai đoạn chính.
❖ Giai đoạn 1 (8/5/1954 - 19/6/1954)
Trong giai đoạn này, các đoàn tham dự Hội nghị trình bày lập trường của mình về
giải pháp cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Đoàn Pháp, do Ngoại trưởng Georges
Bidault dẫn đầu, đề xuất chỉ giải quyết vấn đề quân sự, không đề cập đến vấn đề chính
trị và tách biệt vấn đề Lào, Campuchia khỏi Việt Nam. Lập trường này nhận được sự
ủng hộ từ phía Hoa Kỳ vì họ muốn duy trì ảnh hưởng tại Đông Nam Á, đồng thời hạn
chế sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Ngược lại, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(VNDCCH), do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu,
yêu cầu phải có sự tham gia của đại diện Chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia.
Ngày 10/5/1954, Trưởng đoàn Việt Nam trình bày lập trường, nhấn mạnh việc đình
chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với giải pháp chính trị cho Việt Nam,
Lào và Campuchia, dựa trên tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của mỗi nước. Lập trường này nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Liên Xô và Trung Quốc.
Trung Quốc, thông qua Trưởng đoàn Chu Ân Lai, đưa ra hai điều kiện để lập lại
hòa bình tại Đông Dương: thứ nhất, Pháp chấm dứt chiến tranh và thứ hai, Mỹ không
can thiệp vào Đông Dương.
Trưởng đoàn Liên Xô, Ngoại trưởng Molotov, với vai trò tích cực trong đàm phán,
đề xuất thành lập một Ủy ban giám sát quốc tế gồm các nước trung lập để bảo đảm việc
thực thi các thỏa thuận ngừng bắn.
Sau 4 phiên họp toàn thể, Chủ tịch Hội nghị, Ngoại trưởng Anh Anthony Eden, đề
nghị tổ chức họp hẹp để thúc đẩy đàm phán. Liên Xô đề xuất bàn song song cả ba vấn 8 lOMoAR cPSD| 47206417
đề: quân sự, chính trị và tương lai của ba nước Đông Dương. Pháp và Anh đồng ý, buộc
Hoa Kỳ cũng phải chấp nhận phương thức đàm phán này.
Tại phiên họp ngày 25/5/1954, Trưởng đoàn VNDCCH Phạm Văn Đồng đưa ra hai
nguyên tắc quan trọng về đình chiến:
(1) Ngừng bắn hoàn toàn trên toàn Đông Dương.
(2) Điều chỉnh vùng kiểm soát theo nguyên tắc "đất đổi đất", nhằm đảm bảo mỗi
bên có những khu vực hoàn chỉnh, thuận lợi cho quản lý hành chính và kinh tế.
Ngày 27/5/1954, đoàn Pháp chấp nhận lấy đề nghị của VNDCCH làm cơ sở thảo
luận và đồng ý tổ chức cuộc gặp giữa đại diện hai bên tại Giơ-ne-vơ để bàn về ranh giới
khu vực tập trung quân. Trong khi đó, đoàn Trung Quốc đưa ra 6 điểm về vấn đề quân
sự, trong đó nhấn mạnh việc ngừng bắn toàn diện và lập Ủy ban Giám sát Quốc tế, nhưng
chưa đề cập đến giải pháp chính trị.
Sau nhiều phiên họp, đến ngày 29/5/1954, Hội nghị đạt được quyết định quan trọng:
(1) Ngừng bắn toàn diện và đồng thời trên toàn Đông Dương
(2) Hai bên gặp nhau tại Giơ-ne-vơ để bàn về bố trí lực lượng, phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam.
Mặc dù đạt được một số thỏa thuận sơ bộ, tiến trình đàm phán vẫn diễn ra rất chậm
do lập trường khác biệt giữa các bên, đặc biệt là giữa các nước phương Tây và phía VNDCCH.
Ngày 12/6/1954, nội các Thủ tướng Pháp Joseph Laniel, vốn bị phe chủ chiến chi
phối, bị Quốc hội Pháp đánh đổ. Pierre Mendès France lên cầm quyền vào ngày
19/6/1954, cam kết trong vòng một tháng sẽ giải quyết xong vấn đề Đông Dương. Đây
là một bước ngoặt quan trọng, tạo động lực cho quá trình đàm phán chuyển sang giai đoạn tiếp theo.
❖ Giai đoạn 2 (20/6/1954 - 10/7/1954)
Trong giai đoạn này, hầu hết các trưởng đoàn về nước để báo cáo tình hình, chỉ có
trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở lại để tiếp tục thúc đẩy đàm phán. Các quyền
trưởng đoàn tổ chức các cuộc họp hẹp, tập trung vào các vấn đề quân sự như tập kết,
chuyển quân, trao trả tù binh, đảm bảo an toàn cho người dân di chuyển giữa hai miền.
Vấn đề lớn nhất trong giai đoạn này là việc phân định ranh giới tạm thời giữa hai
miền Nam - Bắc Việt Nam. Tranh luận chủ yếu xoay quanh vĩ tuyến nào sẽ được chọn
làm ranh giới. Đoàn Pháp mong muốn giữ vĩ tuyến 18 để duy trì quyền kiểm soát một 9 lOMoAR cPSD| 47206417
phần lớn lãnh thổ Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu vĩ tuyến
16 để bảo đảm vùng kiểm soát rộng hơn cho lực lượng kháng chiến.
Mặc dù có nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa các bên, nhưng do sự bất đồng sâu sắc
về lợi ích và chiến lược, giai đoạn này không đạt được tiến triển đáng kể, khiến Hội nghị rơi vào bế tắc.
❖ Giai đoạn 3 (11/7/1954 - 21/7/1954)
Giai đoạn cuối cùng của Hội nghị diễn ra với các cuộc đàm phán căng thẳng. Các
trưởng đoàn quay trở lại Giơ-ne-vơ và tham gia nhiều cuộc gặp song phương, tay ba
hoặc đa phương để giải quyết những vướng mắc còn lại. Nội dung chính của các phiên
họp xoay quanh việc phân chia vĩ tuyến làm ranh giới tạm thời giữa hai miền Việt Nam.
Quá trình đàm phán diễn ra rất gay gắt. Pháp kiên quyết giữ vĩ tuyến 18, trong khi
Việt Nam kiên trì yêu cầu vĩ tuyến 16. Cuối cùng, vào chiều tối ngày 20/7/1954, các bên
thống nhất chọn vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, đồng thời quy định thời
hạn 2 năm để tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Ngày 21/7/1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ chính thức kết thúc với việc ký kết các văn
bản quan trọng, bao gồm:
(1) Ba hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia.
(2) Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị (do Anh soạn thảo).
(3) Hai bản tuyên bố riêng của đoàn Mỹ và đoàn Pháp, trong đó Mỹ không ký
vào hiệp định nhưng tuyên bố sẽ "tôn trọng" các điều khoản của Hội nghị.
(4) Các công hàm trao đổi giữa Việt Nam và Pháp về việc thực thi hiệp định.
1.4. Kết quả của hội nghị Giơ-ne-vơ
Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương kết thúc vào ngày 21/7/1954, sau
75 ngày làm việc căng thẳng với nhiều vòng đàm phán song phương, đa phương và
những cuộc thương lượng kéo dài giữa các bên liên quan.
Kết quả quan trọng nhất của Hội nghị là việc ký kết các hiệp định đình chỉ chiến
sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia, cùng với một bản tuyên bố chung, tạo nên cơ sở
pháp lý cho việc chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. 10 lOMoAR cPSD| 47206417
CHƯƠNG 2: HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ
2.1. Nội dung của hiệp định Giơ-ne-vơ
Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam
Hiệp định Giơ-ne-vơ có nội dung cơ bản như sau:
(1) Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ 3 nước.
(2) Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương.
(3) Các bên tham chiến thực hiện cam kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh.
(4) Dân chúng mỗi bên có quyền di cư sang lãnh thổ do bên kia kiểm soát trong
thời gian quân đội hai bên đang tập kết.
(5) Cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào Đông Dương.
Nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự tại Đông Dương.
(6) Thành lập Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương (tiếng Anh:
International Control Commission, ICC; tiếng Pháp: Commission
Internationale pour la Surveillance et le Contrôle, CISC) gồm Ấn Độ, Ba Lan
và Canada, với Ấn Độ làm chủ tịch.
(7) Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia
Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Quân đội Nhân dân Việt
Nam tập trung về phía Bắc; Quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả Quân đội
Quốc gia Việt Nam) tập trung về phía Nam, tập kết chính trị tại chỗ, tập kết
dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Khoản a, điều 14 ghi rõ: "Trong khi đợi
tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở
vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý
hành chính ở vùng ấy." Hiệp định thừa nhận chủ quyền của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tại cả hai miền Bắc và Nam vỹ tuyến 17.
Điều 6 Bản Tuyên bố chung ghi rõ: "Đường ranh giới quân sự tạm thời này không
thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ."
Hiệp định Giơ-ne-vơ không có điều khoản nào quy định chi tiết về thời điểm cũng
như cách thức tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Nhưng 11 lOMoAR cPSD| 47206417
Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ ghi rõ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956.
Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Lào
Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Campuchia
Tuyên bố cuối cùng ngày 21/7/1954 có nội dung như sau:
(1) Hội nghị chứng nhận những bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao Miên, Lào
và Việt Nam, và tổ chức sự kiểm soát quốc tế và sự giám sát việc thi hành những
điều khoản của các Hiệp định đó. (2) Hội nghị hài lòng về việc chấm dứt chiến
sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam. Hội nghị tỏ lòng tin tưởng rằng việc thi hành
những điều khoản ghi trong bản tuyên bố này và trong những Hiệp định đình chỉ
chiến sự sẽ làm cho ba nước Cao Miên, Lào và Việt Nam từ nay có thể đảm nhận
với độc lập và chủ quyền hoàn toàn vai trò của mình trong tập thể hoà bình của các nước.
(3) Hội nghị chứng nhận những lời tuyên bố của hai Chính phủ Cao Miên và Lào
về việc hai Chính phủ đó nguyện thi hành những biện pháp để cho tất cả mọi
người công dân đều có được địa vị của mình trong tập thể dân tộc, nhất là
bằng cách tham gia cuộc tổng tuyển cử sắp tới. Cuộc tổng tuyển cử này sẽ
tiến hành trong năm 1955 căn cứ vào hiến pháp của mỗi nước, theo phương
pháp bỏ phiếu kín và trong sự tôn trọng những quyền tự do căn bản.
(4) Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam về việc cấm đem vào Việt Nam quân đội và nhân viên quân sự
ngoại quốc, cũng như tất cả các thứ vũ khí, đạn dược. Hội nghị cũng chứng
nhận những lời tuyên bố của hai Chính phủ Cao Miên và Lào tỏ lòng kiên
quyết sẽ chỉ yêu cầu viện trợ của nước ngoài về trang bị quân sự, nhân viên
hoặc huấn luyện viên trong phạm vi cần thiết để bảo vệ lãnh thổ một cách có
hiệu quả, và đối với nước Lào, thì chỉ đến mức độ đã quy định trong Hiệp
định đình chỉ chiến sự ở Lào.
(5) Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam định rằng không được thành lập một căn cứ quân sự nào của một
nước ngoài trong những vùng tập hợp của đôi bên. Đôi bên có nhiệm vụ
không để những vùng được trao cho mình tham gia bất cứ một khối liên minh
quân sự nào và dùng vào việc gây lại chiến sự hoặc phục vụ cho một chính
sách xâm lược. Hội nghị cũng chứng nhận những lời tuyên bố của hai chính
phủ Cao Miên và Lào nói rằng hai Chính phủ đó sẽ không ký kết bất cứ một
Hiệp định nào với nước khác nếu Hiệp định đó buộc họ phải tham gia vào
một khối liên minh quân sự không phù hợp với những nguyên tắc của Hiến
chương Liên hợp quốc, hoặc, riêng đối với nước Lào, không phù hợp với 12 lOMoAR cPSD| 47206417
những nguyên tắc của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào, hoặc nếu Hiệp định
đó buộc họ phải lập những căn cứ cho những lực lượng quân sự của nước
ngoài trên lãnh thổ Cao Miên hoặc Lào, khi mà an ninh của hai nước không bị đe doạ.
(6) Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là
giải quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự, và giới tuyến quân sự chỉ
có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị
hay về lãnh thổ. Hội nghị tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản định
trong bản tuyên bố này và trong những Hiệp định đình chỉ chiến sự tạo ra cơ
sở cần thiết để giải quyết vấn đề chính trị ở Việt Nam trong một thời gian ngắn.
(7) Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính
trị, thực hiện lên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những tự do căn bản,
bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ
phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết, và để
thực hiện tất cả những điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự
do bày tỏ ý muốn, cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7/1956, dưới sự
kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban
Giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể
từ ngày 20/7/1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ
có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.
(8) Phải triệt để thi hành những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự
nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để
cho tất cả mọi người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống.
(9) Những nhà đương cục có thẩm quyền ở vùng Bắc và vùng Nam Việt Nam,
cũng như ở Lào và Cao Miên không được dung thứ những hành động báo thù
cá nhân hoặc tập thể đối với những người đã hợp tác, bất cứ dưới hình thức
nào, với một trong hai bên trong thời gian chiến tranh, hoặc đối với gia đình những người đó.
(10) Hội nghị chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng Chính phủ
Pháp sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt Nam
theo lời yêu cầu của những chính phủ có liên quan và trong một thời hạn do
các bên thỏa thuận, trừ trường hợp mà do sự thỏa thuận giữa hai bên, một số
quân đội Pháp có thể ở lại những điểm nhất định, trong một thời gian nhất định.
(11) Hội nghị chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng Chính phủ
Pháp, trong sự giải quyết tất cả những vấn đề có liên quan đến việc lập lại và 13 lOMoAR cPSD| 47206417
củng cố hòa bình ở Cao Miên, Lào và Việt Nam, sẽ căn cứ trên sự tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Cao Miên, Lào và Việt Nam.
(12) Trong quan hệ với Cao Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia Hội
nghị Giơ-ne-vơ cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của những nước trên và tuyệt đối không can thiệp vào nội trị của những nước đó.
(13) Các nước tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ thỏa thuận sẽ hỏi ý kiến nhau về
mọi vấn đề do Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế chuyển tới, nhằm nghiên
cứu những biện pháp tỏ ra cần thiết để bảo đảm sự tôn trọng những Hiệp định
đình chỉ chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam.
Bản tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương không có chữ ký
của bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị và các bên tham gia cũng không đưa ra tuyên
bố phản đối đối với bản tuyên bố cuối cùng. Tuy nhiên, giáo trình Đại cương Lịch sử
Việt Nam cho rằng văn bản này đã được các nước dự hội nghị chấp thuận là cam kết
chính thức và có giá trị ràng buộc các bên liên quan. Đại diện Mỹ ra tuyên bố riêng trong
đó thừa nhận tôn trọng Hiệp định Genève và ủng hộ thống nhất Việt Nam thông qua các giải pháp chính trị.
Theo Thủ tướng Pháp, Mendes-France, phía Pháp biết là Mỹ sẽ không chấp nhận
ký vào bất kỳ văn bản nào có sự tham gia của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vì khi đó
Mỹ công nhận Đài Loan chứ không công nhận Trung Quốc. Điều này buộc Pháp và các
bên khác phải tạo ra một văn kiện đủ sức ràng buộc Mỹ vào Hiệp định Geneve. Theo
đó, các bên tham gia sẽ có những tuyên bố về đánh giá của mình đối với văn kiện chung
chung nhưng bao hàm những vấn đề còn nhiều khác biệt giữa các bên cũng như các bên
sẽ có cam kết không lật lại kết quả cuối cùng của cuộc đàm phán. Và cuối cùng, phía
Mỹ đã cam kết sẽ không sử dụng vũ lực để lật lại những gì đã được Hội nghị Geneve
quyết định và coi bất cứ nước nào sử dụng vũ lực hay đe đọa sử dụng vũ lực để phá vỡ
Hiệp định là kẻ xâm lược. Theo Mendes-France, mặc dù Mỹ đã không ký Hiệp định
nhưng với những tuyên bố của mình, Mỹ đã thừa nhận và bị ràng buộc bởi Hiệp định.
2.2. Ý nghĩa của hiệp định Giơ-ne-vơ
Trước hết, Hiệp định Giơ-ne-vơ có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng ba nước Đông
Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng và ý nghĩa của nó được thể hiện dưới nhiều góc độ.
Thứ nhất, Hiệp định Giơ-ne-vơ đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hành trình
đấu tranh lâu dài và gian khổ để đi tới độc lập tự do của dân tộc. Việc ký kết dựa trên
căn cứ và phần nào phản ánh đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến 14 lOMoAR cPSD| 47206417
trường, song “ký Hiệp định Giơ-ne-vơ là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp là
phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế lúc
bấy giờ”. Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chấm dứt cuộc
kháng chiến lâu dài và anh dũng của Nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược
và can thiệp Mỹ, giải phóng miền Bắc nước ta, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc trở
thành hậu phương lớn, vững mạnh cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước năm 1975.
Thứ hai, Hiệp định Giơ-ne-vơ là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Lần đầu tiên
các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị
đa phương. Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của
Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp buộc phải đình chỉ chiến sự và rút hoàn toàn quân
đội khỏi lãnh thổ 3 nước Đông Dương. Gần 20 năm sau, Hiệp định Paris năm 1973 đã
khẳng định lại những cơ sở pháp lý quan trọng này: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
Thứ ba, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã thể hiện bản lĩnh của nền ngoại giao Cách mạng
Việt Nam. Lần đầu tiên tham gia vào một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình
thế giới diễn biến phức tạp, các nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và lợi ích
riêng nhưng đoàn đàm phán của ta đã phát huy chiến thắng trên chiến trường, phát huy
sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược
để giành được những kết quả quan trọng trên bàn Hội nghị.
Bên cạnh đó, Hiệp định Giơ-ne-vơ còn có ý nghĩa quốc tế to lớn và mang tính thời
đại sâu sắc; mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới,
làm thay đổi cục diện thế giới và khu vực, thúc đẩy phong trào đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, đòi độc lập dân tộc. Nhấn mạnh về ý nghĩa quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định, Hội nghị Giơ-ne-vơ “ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và
tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi
hoàn toàn”. Hội nghị là cơ sở chính trị - pháp lý quốc tế quan trọng để nhân dân Việt
Nam đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao, củng cố hòa bình, thực hiện thống
nhất, độc lập và dân chủ trong toàn quốc.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 3.1. Thành công 15 lOMoAR cPSD| 47206417
Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương
Hiệp định Giơ-ne-vơ chính thức khép lại cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ
nhất (1946 - 1954), vốn đã kéo dài suốt 8 năm với nhiều tổn thất lớn. Thắng lợi của quân
đội Việt Nam tại Điện Biên Phủ đã tạo ra bước ngoặt quyết định, buộc Pháp phải ngồi
vào bàn đàm phán. Việc ký kết Hiệp định vào ngày 21/7/1954 đã chấm dứt xung đột
quân sự, tạo điều kiện để nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia tập trung khôi phục
đất nước sau chiến tranh.
Dù nền hòa bình này chưa thực sự vững chắc, đây vẫn là một cột mốc quan trọng,
thể hiện sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân Đông Dương. Đây cũng là lần đầu tiên một hội nghị quốc tế quy mô lớn công
nhận sự tồn tại và quyền tự quyết của các quốc gia Đông Dương trước sự chứng kiến của các cường quốc.
Công nhận quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào và Campuchia
Một trong những thành công quan trọng nhất của Hiệp định Giơ-ne-vơ là việc các
cường quốc tham gia hội nghị buộc phải thừa nhận các quyền cơ bản của Việt Nam, Lào
và Campuchia, bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Hiệp định quy định việc rút quân đội nước ngoài khỏi Đông Dương và cam kết
không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước này. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
cận đại, các quốc gia Đông Dương được công nhận vị thế quốc tế thông qua một văn
kiện chính thức. Điều này không chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển độc lập của Việt Nam,
Lào và Campuchia mà còn góp phần thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Thể hiện ý chí và năng lực ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hội nghị
Giơ-ne-vơ cũng là minh chứng cho bản lĩnh và năng lực ngoại giao của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Dù phải đối mặt với sức ép từ nhiều cường quốc, đoàn đại biểu VNDCCH
do Phạm Văn Đồng dẫn đầu vẫn kiên trì bảo vệ quyền lợi dân tộc, đưa ra các đề xuất như:
- Xác định giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 13 hoặc 16 (thay vì vĩ tuyến 17 như sau này).
- Tổ chức tổng tuyển cử trong vòng 6 tháng để thống nhất đất nước.
Dù không đạt được tất cả các mục tiêu, việc Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết vẫn
cho thấy khả năng đàm phán linh hoạt của Việt Nam, biến chiến thắng quân sự thành lợi
thế chính trị trên bàn hội nghị.
3.2. Hạn chế của hiệp định Giơ-ne-vơ 16 lOMoAR cPSD| 47206417
Sự chi phối của trật tự thế giới lưỡng cực và lợi ích các cường quốc
Hiệp định Genève không hoàn toàn phản ánh nguyện vọng của các nước Đông
Dương mà chịu sự chi phối lớn của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ, Liên Xô và Trung
Quốc. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, các nước lớn tham gia đàm phán không chỉ để
giải quyết vấn đề Đông Dương mà còn để bảo vệ lợi ích chiến lược của mình.
Nữ luật gia người Pháp Laury Anne Bellessa từng nhận xét: "Các điều khoản của
Hiệp định Genève không phải là sự phản ánh trung thực của thực tế chiến trường, mà là
kết quả của sự thỏa hiệp giữa các cường quốc với mục tiêu phục vụ lợi ích của họ."
Điều này khiến cho các quốc gia Đông Dương, dù là chủ thể trực tiếp của cuộc
chiến, vẫn bị đặt vào thế bị động và phải chấp nhận nhiều nhượng bộ.
Quyền tự quyết của Lào và Campuchia bị xem nhẹ
Một trong những điểm hạn chế lớn nhất của Hiệp định Genève là việc lực lượng
kháng chiến của Lào và Campuchia không được tham gia trực tiếp vào quá trình đàm
phán. Điều này dẫn đến những quyết định bất lợi:
- Lực lượng kháng chiến Lào chỉ được tập kết tại hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxalỳ, thay vì có một vùng kiểm soát rộng hơn.
- Lực lượng kháng chiến Campuchia không có vùng tập kết riêng, bị buộc phải giải giáp tại chỗ.
Điều này cho thấy quyền lợi của hai nước này chưa được đảm bảo đầy đủ và họ
vẫn chịu sự can thiệp lớn từ các cường quốc.
Kết quả không tương xứng với thắng lợi quân sự của Việt Nam
Dù giành thắng lợi vang dội tại Điện Biên Phủ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không
thể chuyển hóa toàn bộ lợi thế quân sự thành thắng lợi chính trị tại Genève. Minh chứng rõ nhất là:
- Giới tuyến quân sự tạm thời được đặt ở vĩ tuyến 17, thay vì vĩ tuyến 13 hoặc
16 như Việt Nam đề xuất.
- Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước bị kéo dài thành 2 năm (1956) thay vì
6 tháng, và cuối cùng không được thực hiện do sự can thiệp của Mỹ.
Học giả Hugues Tertrais (Đại học Panthéon-Sorbonne, Paris) từng nhận định:
"Năm 1954, chiến thắng quân sự của Việt Nam đã không được chuyển hóa hoàn toàn
thành lợi thế chính trị. Sự chia cắt đất nước là một hệ quả đáng tiếc của sự can thiệp từ các cường quốc." 17 lOMoAR cPSD| 47206417
Hiệp định Genève 1954 là một cột mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam và Đông
Dương. Nó đã giúp chấm dứt chiến tranh, thiết lập nền hòa bình tạm thời và công nhận
quyền tự quyết của các dân tộc Đông Dương. Tuy nhiên, do sự chi phối của các cường
quốc và sự bất lợi trong bối cảnh quốc tế, Hiệp định cũng để lại nhiều hạn chế, trong đó
đáng chú ý nhất là sự chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17.
3.3. Bài học kinh nghiệm
Bài học kinh nghiệm từ đàm phán tại Hội nghị Giơ-ne-vơ
Hội nghị Giơ-ne-vơ là cuộc thương lượng đa phương lớn đầu tiên mà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia, đã để lại nhiều bài học vô giá cho nền ngoại giao Việt Nam.
Thứ nhất, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Mặc dù chiến thắng
Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế
quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm
dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam, song khi Việt
Nam tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Hội nghị chịu
sự chi phối của năm nước lớn tham gia đàm phán và mỗi nước lớn tham gia hội nghị đều
có mục tiêu và lợi ích riêng. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn và phức tạp đó, Đoàn
Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc
trên cơ sở phát huy chiến thắng trên chiến trường, kiên định về nguyên tắc, nhưng mềm
dẻo về sách lược để giành được những kết quả quan trọng. Sau hội nghị, vị thế của Việt
Nam được củng cố và nâng cao đáng kể. Trong giai đoạn từ sau Hội nghị Giơ-ne-vơ đến
năm 1973, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 36
quốc gia, trong khi trước đó mới thiết lập quan hệ ngoại giao với 9 nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, chấp nhận tham gia cuộc thương lượng nhiều bên do các nước lớn triệu
tập, chi phối. Trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Expressen (Thụy Điển) liên quan đến
vấn đề thương lượng tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu
có những nước trung lập nào muốn cố gắng để xúc tiến việc chấm dứt cuộc chiến tranh
ở Việt Nam bằng cách thương lượng, thì sẽ được hoan nghênh, nhưng việc thương lượng
đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính
phủ Pháp”. Bài học kinh nghiệm từ Hội nghị Giơ-ne-vơ giúp Đảng, Chính phủ và nhân
dân Việt Nam vững vàng hơn, độc lập, tự chủ hơn, để đến Hội nghị Pari năm 1973, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành đàm phán trực diện với Mỹ. Tại Hội nghị Pa-ri, sự
độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện rõ, từ thành phần, nội dung, thời gian đàm phán
đến hình thức đàm phán...; không để bất kỳ nước nào can thiệp vào cuộc đàm phán.
Thứ ba, độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đây là tư tưởng lớn, quan
trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều 18 lOMoAR cPSD| 47206417
khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”. Nói chuyện
với các nhà ngoại giao (tháng 1/1964), Người nhấn mạnh: cái gốc, cái điểm mấu chốt về
chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh. Tuy nhiên,
độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, cô lập, trái lại gắn liền với đoàn kết và hợp
tác quốc tế. Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, do lần đầu tham gia đàm phán đa phương, đoàn đại
biểu Việt Nam chưa có chiến lược, sách lược đàm phán rõ ràng, mà chỉ tập trung vào
mục tiêu đàm phán. Các bước cụ thể liên quan đến phương án đàm phán, thời điểm mở
đầu và kết thúc đàm phán, phân công phối hợp các lực lượng trong đàm phán... luôn bị
các nước lớn can thiệp và tác động. Trong khi đó, đoàn Việt Nam còn thiếu nhiều phương
tiện vật chất cần thiết, nhất là thông tin. Khi đưa ra các quyết sách, nhiều khi phải dựa
vào đánh giá tình hình của các nước bạn bè. Những điều đó ảnh hưởng rất lớn tới nỗ lực
làm chủ tiến trình đàm phán, giữ vững thế chủ động tiến công trong quá trình hội nghị.
Chính vì vậy, hoạt động ngoại giao phải nhất quán nguyên tắc độc lập, tự chủ, bởi mỗi
quốc gia, kể cả quốc gia đồng minh thân cận cũng đều xử lý vấn đề quốc tế trên cơ sở
lợi ích quốc gia của họ. Thứ tư, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị - ngoại giao.
Sức mạnh của ngoại giao phụ thuộc vào sức mạnh tổng hợp quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà
ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” nên “muốn ngoại giao được thắng
lợi là phải biểu dương thực lực”. Về quan hệ biện chứng giữa ngoại giao và quốc phòng
- an ninh, kinh tế - xã hội: Thắng lợi quân sự ảnh hưởng quyết định đối với ngoại giao,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều. Không cứ
gì ở ta mà ở nước nào cũng vậy. Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng nhưng cái chính
là mình phải đánh thắng”. Ngược lại, thắng lợi ngoại giao tác động đến chiến trường.
Qua mấy năm kháng chiến, Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ mới đã thừa nhận
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chắc chắn cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà
cho những thắng lợi quân sự sau này.
Thứ năm, coi trọng nghiên cứu chiến lược. Nghiên cứu chiến lược là nghiên cứu
một cách tổng thể, toàn diện, sâu xa về lịch sử và dự báo triển vọng. Do nhiều nguyên
nhân, nên việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ với những điều khoản được nhiều ý kiến
đánh giá là không hoàn toàn thỏa đáng về phía Việt Nam, chưa ngang tầm với thắng lợi
của Việt Nam trên chiến trường. Rút kinh nghiệm thương lượng tại Hội nghị Giơ-nevơ,
trong đàm phán với Mỹ tại Thủ đô Pari (Pháp) về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa
bình ở Việt Nam, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặc biệt coi trọng nghiên cứu chiến
lược và đã xây dựng được cơ quan nghiên cứu chiến lược hiệu quả phục vụ “đánh” và “đàm”.
Bài học kinh nghiệm từ hiệp định Giơ-ne-vơ
Tính đến nay, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã đi vào lịch sử 70 năm. Việc nhìn nhận lại
những thành công, hạn chế, cho phép ta rút ra những bài học, kinh nghiệm quý báu làm
hành trang cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. 19 lOMoAR cPSD| 47206417
Thứ nhất, ngoại giao chỉ phát huy vai trò và công dụng trên nền tảng sức mạnh
tổng hợp của đất nước được thể hiện trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, quân sự...
Thực sự, chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán khi chúng ta giành
được chiến thắng trên chiến trường. Thắng lợi về quân sự ở Điện Biên Phủ góp phần
quyết định vào thắng lợi về ngoại giao ở Giơ-ne-vơ.
Thứ hai, trong quá trình đàm phán, chúng ta phải quán triệt quan điểm nhân nhượng
có nguyên tắc. Rõ ràng, khi chấp nhận cùng nhau đàm phán tức là mỗi bên đều có điểm
mạnh, yếu của mình; trên bàn đàm phán, bên nào cũng cố gắng giành phần có thể và
nhân nhượng cho đối phương những điều mình chưa thể. Vì vậy, trong quá trình đàm
phán, sự nhân nhượng lẫn nhau là điều tất yếu nhưng điều không bao giờ được phép
nhân nhượng là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Hiệp định Giơ-ne-vơ là ví dụ điển
hình của việc thực hiện nguyên tắc đó. Mặc dù Hiệp định có những điều khoản chưa
hoàn toàn thỏa nguyện đối với phía ta nhưng vấn đề cốt tử là độc lập dân tộc và toàn vẹn
lãnh thổ thì ta kiên quyết bảo vệ và đã được các nước thừa nhận. Đúng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ dẫn: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược của ta phải linh
hoạt”. Vì thế, trong quá trình đàm phán, nhà ngoại giao phải biết nhân nhượng đúng
mức, không quá tả để phá vỡ đàm phán, không quá hữu để tổn hại đến lợi ích cơ bản của
dân tộc. Nguyên tắc đó của Hội nghị Giơ-ne-vơ cho đến nay vẫn nguyên vẹn giá trị thời
sự: không bao giờ vì một tình hữu nghị viển vông, mơ hồ nào mà nhân nhượng lợi ích
cốt lõi của dân tộc, đó là chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng.
Thứ ba, hoạt động ngoại giao phải nhất quán nguyên tắc độc lập, tự chủ, bởi mỗi
quốc gia, kể cả quốc gia đồng minh thân cận cũng đều xử lý vấn đề quốc tế trên cơ sở lợi ích quốc gia.
Thứ tư, sự duy lợi trong quan hệ quốc tế là một thực tế hiển nhiên. Nếu trong đấu
tranh cách mạng, phải “mang sức ta mà giải phóng cho ta” thì trong đấu tranh ngoại
giao, số phận của dân tộc mình phải do chính mình tự định đoạt. Bài học kinh nghiệm
từ Hội nghị Giơ-ne-vơ giúp chúng ta vững vàng hơn, độc lập, tự chủ hơn, để đến Hội
nghị Pari năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành đàm phán trực diện với Mỹ.
Tại Hội nghị Pa-ri, sự độc lập, tự chủ của ta thể hiện rõ, từ thành phần, nội dung, thời
gian đàm phán đến hình thức đàm phán...
Nhìn lại chặng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, có thể thấy rõ, con
đường đi đến độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam không phải là
con đường thẳng tắp, mà phải trải qua những chặng đường, khúc quanh lịch sử. Tình
hình thế giới, khu vực cũng như vị thế của Việt Nam hiện nay đã nhiều đổi thay. Chiến
tranh lạnh đã chấm dứt hơn 30 năm, tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
càng gia tăng, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng cao; hòa bình, hợp tác
và phát triển đã trở thành xu thế và khát vọng to lớn của các quốc gia, dân tộc trên thế 20