SEMINAR
Môn: Địa lý kinh tế thế giới
Nhóm 3: Trần Thị Phương ( Nhóm trưởng )
Nguyễn Hoàng Lê Na
Hà Khánh Huyền
Mẫn Hạnh Dung
Đào Hồng Phúc
Đoàn Thị Hoa
Lê Thị Tươi
Vũ Thị Uyển Nhi
Chủ đề 4: Trình bày quan hệ thương mại Việt – Trung từ năm 1991 tới
nay. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
*****
I, Quan hệ thương mại Việt-Trung ( Phúc_Nhi)
1.1.Bối cảnh ảnh hưởng đến quan hệ thương mại Việt-Trung
-Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng.
- 50 năm trước đây, ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam,
Trung Quốc là nước đầu ên thiết lập ngoại giao với Việt Nam.
-Sau một thời gian dài gián đoạn từ năm 1991, Việt Nam - Trung Quốc chính thức
bình thường hóa quan hệ, mở cửa biên giới cho nhân dân và các doanh nghiệp hai
ớc thông thương.
1.2.Tiềm năng xuất phát từ 2 bên
a,Về phía Việt Nam
, than đá ( đứng thứ 2 với khoảng 36 tỷ tấn và mức khai thác xp xỉ 10 triệu tấn/
năm), khoáng sản kim loại ( quặng sắt, vàng, chì, kẽm, thiếc, đồng…,VN được đánh
giá là 1trong 6 qg có trữ ợng boxit lớn nhất thế gii)
b,Về phía Trung Quốc
Tiềm năng của Trung Quốc trong quan hệ thương mại Việt-Trung rất lớn nhờ sự
phát triển kinh tế ổn định và quan hệ hai bên ngày càng chặt chẽ. Dưới đây là mt
số điểm quan trng:
1.Thị trường êu thụ lớn: Trung Quốc là một trong những thị trường êu thụ hàng
hóa lớn nhất thế giới và đang tăng trưởng nhanh chóng. Điềuy tạo ra môi
trường thun lợi cho hàng hóa và dịch vụ từ Việt Nam ếp cận một thị trường
ềm năng
2.Hợp tác đa ngành:Trung Quốc và Việt Nam có thể hợp tác trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như chế biến nông sản,sản xuất và công nghiệp,công nghệ thông n,du
lịch,và nghành công nghiệp dược phẩm.
3.Hạ tầng giao thông và logisc:TQ đã đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông
logisc ,tạo điều kiện thuậ lợi cho chuyển hóa hàng hóa giữa hai nước.
4.Thỏa thuận thương mại:VN và TQ đã ký kết các hoạt động thương mại và hợp
tác đầu tư thúc đẩy quan hệ hai nước.
Tuy nhiên, việc đảm bảo quan hệ thương mại l;à cân bằng và mang lại lợi ích lâu
dài cho cả hai bên là điều cần quan tâm .VN cũng cần đm bảo rằng quan hệ
thướng mại Vn và TQ ko giảm đi nh tự ch và cạnh tranh của nền kinh tế c
y
1.3.Các hiệp định và thỏa thuận
- Một số hip định và thỏa thuận quan trọng trong quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Trung Quốc bao gồm:
1.Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA): Đây là một hiệp đnh
thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc, mà cả Việt Nam và Trung Quốc là
thành viên. Hiệp định này đã góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai
quốc gia.
2.Hiệp đnh tự do thương mại khu vực ASEAN-Trung Quốc(RCEP):RCEP là hiệp
định khu vực mong muốn giúp tạo ra một thị trường lớn và cung cấp nhiều cơ hội
hơn cho doanh nghiệp và người êu dùng.VN và TQ cùng tham gia RCEP và hiện
din của cả hai quốc gia trong hiệp định này có thể tạo ra cơ hội hợp tác thương
mại mới.
3.Thỏa thuận hợp tác dầu tư:Các thoae thuận hợp tác đầu tư giữa VN TQ đã
mở ra cơ hội hợp tác hai bên hợp tác trong lĩnh vực đầu tư đặc biệt là đối với các
dự án hạ tằng và công nghệ chế biến sản xuất
4.Các thỏa thuậ về quy tác nhập khẩu và hải quan:VN vàTQ cũng đã ký kết thỏa
thuận về quy tắc xuất nhập khẩu,hải quan nhằm tạo điều kiện thuậ lợi cho hoạt
động thương mại 2 bên.
Các hiệp định thảo thuận này đầu đánh dấu sự cam kết mạnh mẽ của cả hai quốc
gia trong việc mở rộng và phát triển quan hệ thương mại tạo cơ hội hợp tác toàn
diện giữa Vn và TQ
II,Tình hình mậu dịch Việt-Trung trước năm 1991( Huyền_Dung)
- Năm 1952, quan hệ thương mại VN-TQ chính thức được xác lập. Năm 1960,
Kim ngạch buôn bán hai chiều VN-TQ đạt 5,4 triệu USD, tăng gấp 34 lần so
với năm 1954. Nhìn chung, kim ngạch buôn bán song phương VN – TQ trong
thời kì này chưa nhiều và cán cân thương mại nghiêng về phía TQ.
- Trong những năm từ 1960 đến 1975, là thời kỳ nhân dân VN thực hiện hai
nhim vchiến lược quan trọng: xây dựng chủ nghĩa xã hội min Bắc,
thực hiện thống nhất đất nước. Trong thời kỳ lịch sử này, mối quan hệ kinh
tế thương mại giữa VN và TQ vẫn được duy trì và phát triển bình thường.
Bên cạnh đó, Đảng, Chính Phủ và nhân dân TQ cũng đã dành cho nhân dân
VN nguồn viện trợ to lớn có hiệu quả, góp phần đưa đến thắng lợi cuối
cùng của nhân dân Việt Nam vào tháng 4/1975.
- Thời kỳ từ năm 1978 đến 1990, mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai
c hầu như bị gián đoạn.
+ Cả hai nước VN và TQ thấy rằng bình thường hóa về chính trị, khôi phục
phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước là có lợi cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của mỗi nước. Do sự cố gắng chung
của hai nước, mối quan hệ VN-TQ xuất hiện những nét hòa dịu vào nửa sau
những năm 80. Mậu dịch ểu ngạch qua biên giới ban đầu chgiới hạn
trong cư dân vùng biên giới, nhưng từ cuối năm 1989 sang 1990 trở đi, mậu
dịch qua biên giới đã thu hút sự tham gia của nhiều nơi trong nước. Kim
ngch mậu dịch biên giới hai chiều năm 1988 là 5 triệu USD, năm 1989 tăng
gấp 10 lần năm 1988,đạt 50,85 triệu USD; năm 1990 tăng gấp khoảng 3 lần
so với năm 1989, đạt 152,24 triệu USD; năm 1991 con số đó lên đến 290,48
triệu USD.
+ Trước tháng 11/1991, mậu dịch qua biên giới VN-TQ là mậu dịch phi
Chính Phủ, diễn ra theo quy luật cung cần của kinh tế thị trường, mang nh
tự phát, vượt qua cả sự khống chế và kiểm soát của chính quyền, cán cân
thương mại thường nghiêng về phía TQ, phía VN bị thua thiệt nhiều. Hàng
hóa êu dùng, nhất là hàng giả, hàng hóa kém chất lượng,… của TQ ồ ạt
nhập vào VN đã gây ra một số hậu quả không tốt đối với đời sống và sản
xuất của VN. Chính vì vậy, tháng 6/1991, Chính Phủ VN đã ra chỉ thnhn
mạnh những việc cần làm để quản lý việc qua lại và buôn bán qua biên giới
Việt-Trung.
III,Quan hệ thương mại Việt- Trung sau năm 1991( Phương_Na)
3.1.Đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt-Trung
Sau khi 2 nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao từ năm 1991 đến nay Quan
hệ thương mại của hai nước dần dần được khôi phục và phát triển. Các đặc điểm
nổi bật trong quan hệ thương mại Việt-Trung : a,Phát triển nhanh nhưng tốc độ
có giảm đi
Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch thương mại chính ngạch giữa Việt Nam và Trung
Quốc đã tăng 50 lần, từ 32 triệu đôla Mỹ lên đến hơn 1,5 tỷ đôla Mỹ (năm 1998).
Trong những năm đầu thập kỷ 90 kim ngch giữa 2 nước phát triển mạnh tuy có
chm lại trong những năm sau này nhưng nhìn chung vẫn tăng với tốc độ cao.
b,Cơ cấu hàng hóa vừa có nh chất bổ sung cho nhau vừa có nh cạnh tranh
nhau
+ Tính bổ sung : Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp,
nguyên nhiên liệu đáp ứng nhu cầu của Trung Quốc. Ngược lại hàng hóa máy móc
của Trung Quốc phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam.
+ Tính cạnh tranh : Một điều rõ ràng là Việt Nam và Trung Quốc đều là những
ớc đang phát triển về kinh tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng gia
công, sản phẩm sơ chế, tỷ lệ khoa học kỹ thuật trong mỗi giá trị sản phẩm thấp,
dựa vào sức lao động rẻ, do đó không thể không dẫn đến hiện tượng cạnh tranh
với nhau. Đây là một điều bình thường trong quan hệ kinh tế quc tế. Sự cnh
tranh này không gây nhiều cản trở đối với sự phát triển thương mại Việt – Trung.
c,Thương mại ểu ngạch (buôn bán biên giới) đóng góp một phần đáng kể vào
tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước.
Thương mại ểu ngạch Việt-Trung phát triển mạnh kể từ năm 1989 khi Chính phủ
hai nước cho phép nhân dân qua lại trao đổi hàng hóa thiết yếu. Sau khi hai nước
chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1991, thương mại ểu ngạch
phát triển mnh mẽ với quy mô và số ợng ngày càng lớn. Tuy các nhà nghiên
cứu đưa ra con số khác nhau về tổng giá trị hàng hóa buôn bán qua biên giới giữa
hai nước nhưng có thể thy tổng giá trị thương mại ểu ngạch là một con số
không nhỏ so với tổng giá trị thương mại chính ngạch.
d,Cán cân thương mại không cân bằng
Có thể thy cùng với đà tăng của kim ngạch thương mại Việt-Trung, thâm hụt
thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng tăng. Đặc biệt là năm
1998 con số thâm hụt thương mại Việt-Trung đối với Việt Nam tăng trong khi tổng
nhập siêu của Việt Nam đã giảm bớt 400 triệu đôla Mỹ. Tính trung bình, giá trị
nhập khẩu của Việt Nam gấp 2,4 lần xuất khẩu. Trên thực tế hiện tượng nhập siêu
của Việt Nam là hiên tượng thông thường trong quan hệ thương mại Việt-Trung
từ thập kỷ 50 đến nay.
e,Ttrọng trong tổng kim ngạch ngoại thương mỗi nước còn thấp
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm qua phát
triển nhanh chóng, nhưng tổng giá trị thương mại chính ngạch và ểu ngạch ch
chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của mỗi nước. Theo nh
toán, tng giá trị thương mại chính ngạch hai chiều chỉ chiếm 7% tổng kim ngch
thương mại của Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc.
Việt Nam chỉ là bạn hàng thứ 27 của Trung Quốc. Sự đóng góp của Việt Nam trong
thương mại ASEAN - Trung Quốc cũng là rất nhỏ bé. ASEAN là bạn hàng lớn thứ
sáu sau Trung Quốc với tổng giá trị thương mại chiếm 13% tổng kim ngạch ngoại
thương của Trung Quốc lớn hơn nhiều lần so với tổng giá rị thương mại Việt -
Trung.
3.2.Cơ sở phát triển quan hệ thương mại Việt-Trung
Một là, ý chí chính trị của hai nước. Lãnh đạo cao cấp nht của hai nước đã thỏa
thuận vnhững nguyên tắc chỉ đạo trong quan hệ Vit - Trung trong thời gian tới:
láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.
Hai là, đã tạo dựng được cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa hai nước.
Như trên đã trình bày, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp đnh về hợp tác
kinh tế thương mại giữa hai nước. Đặc biệt là, hai nước đã ký Hiệp đnh về buôn
bán ở vùng biên giới, nhằm chấn chỉnh những hiện tượng không lành mạnh: trốn
thuế, lậu thuế ở vùng biên giới giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho thương
mại chính ngạch phát triển
Ba là, phát triển quan hệ thương mại Việt- Trung là phù hợp với chiến lược kinh tế
đối ngoại của cả hai nước. Việc phát triển quan hệ kinh tế với các nước láng giềng,
trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những
hoạt động kinh tế quc tế, thể hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương
mại với các nước phát triển về kinh tế. Đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ
kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại
"là bạn đối với tất cả các nước", mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế
của đất nước
Bốn là, phát triển quan hệ thương mại là phù hợp với nhu cầu khách quan của cả
hai bên. Như đã phân ch ở trên, cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Việt - Trung có
nh chất bổ sung cho nhau. Là một nước có kỹ thuật ên ến hơn và bắt đầu ch
lũy dự trữ ngoại tệ lớn, Trung Quốc có thể giúp Việt Nam nhiều mặt về kinh tế, kỹ
thuật. Vphần mình, Việt Nam tạo ra một thị trường đáng kể cho nhiều mặt hàng,
nhất là máy móc nhỏ phục vụ cho nông nghiệp Trung Quốc.
Năm là, bên cạnh hợp tác song phương, hai bên còn có thể đẩy mạnh quan hệ
thương mại qua các kênh đa phương, thông qua quan hệ kinh tế và thương mại
ASEAN - Trung Quốc, tchức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), và
trong tương lai thông qua tổ chức thương mại thế giới (WTO) khi hai nước tr
thành thành viên.
Trong những nhân tố trên, nhân tố khách quan là nhu cầu của cả hai bên; nhân t
ý chí chính trị là nhân tchủ quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của quan
hệ thương mại Việt - Trung trong thời gian tới.
3.3.Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam
Kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt
Nam –Trung Quốc đã có bước phát triển trên nhiều góc độ khác nhau, trong đó
bao gồm cả quan hệ đầu tư. Đây được coi là một nội dung mới trong hợp tác kinh
tế Việt Nam –Trung Quốc. Bởi trước khi bình thường hoá, hai nước chưa có quan
hệ đầu tư với nhau. Các công trình của Trung Quốc Việt Nam trong giai đoạn
những năm 50-70 thế kỷXX, chủ yếu là dưới hình thức viện tr kinh tế, giúp Việt
Nam xây dựng công trình, nhà máy thiết yếu phc vụcho sản xuất min Bắc.
Nhưng kể từ sau năm 1991, quan hệ đầu tư giữa hai nước đã thực sự bắt đầu. Dự
án đầu tư đầu ên của Trung Quốc vào Việt Nam là dự án Nhà hàng “Hoa Long
tại phố Hàng Trống, Đây là dự án đánh dấu sự hợp tác kinh tế mới giữa hai nước,
đồng thời nó cũng là cơ sở vững chắc để thúc đẩy quan hệ đầu tư nói riêng và
quan hệ kinh tế nói chung giữa hai nước ngày một “đơm hoa kết trái. a, Quy mô
dự ám tăng chậm:
Giai đoạn đầu sau khi bình thường hoá, với chính sách “thực hiện “đi ra bên
ngoài” là một phương pháp quan trọng trong giai đoạn mở cửa, thúc đẩy và
nâng đỡ các xí nghiệp có ưu thế nhất định đầu tư ra nước ngoài..., các doanh
nghiệp Trung Quốc đã ch cực đầu tư vào Việt Nam song quy mô dự án cũng như
vốn đầu tư còn tương đối nhỏ, chưa tương xứng với ềm năng phát triển của hai
ớc. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều theo mô hình quản lý kinh tế cũ, mới
chuyn hướng sang nền kinh tế thtrường. Do vậy, nhiều doanh nghiệp của hai
ớc còn gặp khó khăn về vốn, thiếu kinh nghiệm đầu tư ở ớc ngoài. Hơn thế,
do Trung Quốc cũng là một nước đang phát triển như Việt Nam, mức sống, thu
nhp đầu người không cao, cũng là một nước cần thu hút nhiều nguồn vn đầu tư
từbên ngoài đểxây dựng phát triển đất nước nên làm sao có thể đủ ềm lc
đầu tư nhiều, nhanh và mạnh cho Việt Nam. Bên cạnh đó, sự liên tục thay đổi các
chính sách đầu tư, luật đầu tư của Việt Nam khiến cho các nhà đầu tư Trung Quốc
chưa thực sự yên tâm khi đầu tư vào đây. Nói tóm lại, các doanh nghiệp Trung
Quốc đã quán triệt chính sách đối ngoại của Đảng khi từng bước mở rộng đầu tư
vào Việt Nam song quy mô của những dự án đầu tư vẫn tăng chậm so với nhịp đ
chung b, Tốc độ vốn đầu tư tăng nhưng không có nhiều đột phá
Đặc điểm đầu tư này của Trung Quốc thể hin dòng chày vốn đầu tư vào Việt
Nam. Sang đến giai đoạn những năm đầu thế kỷ21, đầu tư của các doanh nghiệp
Trung Quốc đã bắt đầu có những nét khởi sắc.
Tốc độ đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn này đã tăng nhanh, trong
vòng ba năm vn đầu tư đã tăng gấp đôi. Có thểthấy, tốc độ tăng vốn đầu tư của
Trung Quốc đã có sự chuyn biến đáng kểvào giai đoạn sau. Tuy nhiên, nếu so
sánh với các nước và khu vực khác đầu tư vào Việt Nam thì ta có thể dễ dàng
nhận ra, quy mô đầu tư của Trung Quốc vẫn còn khiêm tốn, chưa cho thấy hết
khả năng, ềm lực của các doanh nghiệp Trung Quốc. c, Cơ cấu đầu tư chuyn
dần sang công nghiệp nặng:
Nếu trong 10 năm đầu sau khi bình thường hoá, đầu tư của Trung Quốc vào Việt
Nam đa số là các sản phẩm êu dùng công nghiệp nhẹ như: khách sạn, nhà hàng,
in ấn mác bao bì,.....thì bước vào thế kỷ 21 cơ cấu đầu tư của Trung Quốc đã có
sự chuyển dịch dần sang đầu tư vào lĩnh vực thăm dò, khai thác mỏ,y dựng
nhà máy luyện mangan, nhôm, gang thép, lĩnh vực công nghiệp, cơ sở hạ tầng... d,
Cơ cấu theo hình thức đầu tư:
Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam chủyếu theo ba hình thức: đầu tư 100% vốn,
liên doanh và kinh doanh hợp tác. Một sự chuyn biến ch cực, một dấu hiu
đáng mừng trong hoạt động đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam, đó là nhiều
doanh nghiệp đã ến hành hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trong những
năm đầu của thế kỷ 21.Vì đến giai đoạn này, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã
muốn đi sâu m hiểu, nghiên cứu thị trường Việt Nam, qua đó muốn mở rộng
doanh nghiệp và uy n của mình tại Việt Nam. Phải nói rằng, đây là bước phát
triển phù hp với bước đi đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài ởViệt Nam,
đồng thời nó cũng cho thấy đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã có những
ớc chuyển biến mới. e, Địa bàn đầu tư từng bước được mở rộng:
Việc phân bổ vốn đầu tư tới các địa phương ởViệt Nam cũng có sự khác biệt
giữa hai giai đoạn.
+) Những năm 90 của thế kỷ20, các dự án của Trung Quốc chủyếu tp trung
ởcác tỉnh, thành phốtương đối phát triển, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng
hoá và có nhiều người Hoa sinh sống như: Hà Nội, Hải Phòng, HCM, ....
+) giai đoạn những năm đầu thế kỷ21, Trung Quốc đã đầu từ vào 49/64 tỉnh,
thành của Việt Nam, đã chủ động đầu tư vào những khu vực có điều kiện,
khảnăng phát triển như các tỉnh biên giới phía Bắc: Lào Cai, Quảng Ninh.
Nhìn chung, số dự án, số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn đang ếp
tục tăng nhưng chỉ giữ ở trạng thái bình ổn, không có sựđột phá, chuyển ngoặt.
Tuy nhiên, ta không thểnào phủ nhận hoàn toàn những ích lợi mà đầu tư
từ“người bạn láng giềng” Trung Quốc đã mang đến cho Việt Nam trong ến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.4.Thành tựu
- Tc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước không ngừng
tăng nhanh, cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của hai bên ngày càng phù hợp với ềm
năng và mang nh bổ sung lẫn nhau của hai nước.
- Ttrọng kim ngạch thuộc mậu dịch "chính ngạch" tăng nhanh, dần chiếm
ưu thế trong kim ngạch xuất nhập khẩu ca hai nước (nếu giai đoạn 1991-1993
kim ngạch mậu dịch ểu ngạch là chủ yếu thì từ 1994 - 1998 kim ngạch buôn bán
chính ngạch vươn lên giữ vị trí áp đảo).
- Phương thức mậu dịch ngày càng phong phú và đa dạng, phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của hai bên và ngày càng tuân theo các luật lệ tập quán buôn bán
quc tế. Giai đoạn 1991-1992 hai bên chủ yếu áp dụng phương thức mậu dch
hàng đổi hàng hoặc phương thức "ền trao, cháo múc" tại các cửa khẩu biên giới.
Từ sau năm 1992, cùng việc ký kết Hiệp đnh hợp tác nghiệp vụ ngân hàng hai
ớc, hai bên đã triển khai các phương thức mậu dịch theo L/C 28 hoặc các hình
thức mậu dịch thanh toán qua ngân hàng. Từ năm 1994 hai bên mở rộng sang các
phương thức mậu dịch gia công, mậu dịch chuyển khẩu "tạm nhập tái xuất", góp
phần nâng cao kim ngạch hai chiều của các bên.
- Tỷ lệ các vụ tranh cấp, khiếu nại trong quan hệ buôn bán hai nước ngày
càng giảm. Cùng với việc hai nước công bố hàng loạt các biện pháp quản lý và hỗ
trợ các loại hình mậu dịch đi vào nề nếp, các đối tác tham gia trao đổi mậu dịch
giữa hai nước cũng thay đổi về thành phần. Tỷ lệ các tư thương, công ty tư nhân
ngày càng giảm, nhường chỗ cho các đơn vị ngoại thương Nhà nước có ềm lực,
có kiến thức kinh nghiệm buôn bán quốc tế và các xí nghiệp, đơn vị sản xuất lớn
trc ếp tham gia trao đổi hàng hóa giữa hai nước.
IV, Cơ hội và thách thức ( Tươi )
4.1.Cơ hội
Thị trường xuất khẩu lớn và ềm năng: Trung Quốc là quốc gia có dân số đông
nhất thế giới, với hơn 1,4 tỷ người. Đây là một thị trường êu thụ khổng lồ, mang
lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Nguồn cung nguyên liệu giá rẻ: Trung Quốc là một nền kinh tế công nghiệp phát
triển, với nguồn nguyên liệu phong phú và giá cả cạnh tranh. Đây là nguồn cung
nguyên liệu quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình sản xuất
chế biến
Lợi ích từ hợp tác kinh tế với Trung Quốc: Hợp tác kinh tế với Trung Quốc giúp Việt
Nam ếp cn với công nghệ, kỹ thuật ên ến, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Về chính trị: Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc n định, hòa bình, hữu nghị là cơ sở
quan trọng để Việt Nam phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc
chquyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Về văn hóa: Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đã góp phần tăng
ờng hiểu biết, gắn kết giữa hai dân tộc.
4.2.Thách thức
Cạnh tranh gay gắt: Trung Quốc là một nền kinh tế lớn, với nền công nghiệp phát
triển mạnh. Các doanh nghiệp Trung Quốc có lợi thế về quy mô, nguồn vốn, công
nghệ,... Đây là một thách thức ln đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc
Về vấn đề kinh tế: Thặng dư thương mại nghiêng lệch về phía Trung Quốc, khiến
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc.
Tỷ lệ nhập siêu cao: Trong những năm gần đây, tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam từ
Trung Quốc ngày càng tăng. Điều này y ra áp lực đối với cán cân thương mại và
kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Về vn đề biên giới, lãnh thổ: Vấn đề Biển Đông là thách thức lớn nhất đối vi
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Trung Quốc có những yêu sách chủ quyền phi lý
Biển Đông, gây ra nhiều căng thẳng, bất ổn trong khu vực.
Rủi ro từ các tranh chấp thương mại: Trung Quốc là một quốc gia có chủ quyn
lãnh thổ rộng lớn, với nhiều tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng. Các
tranh chấp này có thể ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
Về vn đề an ninh, quốc phòng: Sự trỗi dậy của Trung Quốc với tham vọng vươn
lên thành cường quốc hàng đầu thế giới đặt ra những thách thức van ninh, quốc
phòng đối với Việt Nam.
V, Triển vọng quan hệ thương mại Việt-Trung trong thời gian tới (Hoa)
Việt Nam nhiều năm liền là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN với Trung
Quốc và là đối tác thương mại thứ 6 của đất nước tỷ dân. Có nhiều yếu t
khiến cho mối quan hệ kinh tế ngày càng phát triển, đó không chỉ là láng
giềng, mà quan trọng là môi trường đầu tư tại 2 nước đang có nhiều thun li.
Trong quan hệ thương mại, nh bổ sung lẫn nhau trong cơ cấu xuất nhập khẩu
hàng hóa giữa hai nước vn rất lớn.Theo Bộ Công Thương, năm 2018, kim
ngạch thương mại Việt Nam-Trung Quốc đạt gần 107 tỷ USD, tăng 13,5% so
với năm 2017; trong đó Việt Nam xuất khu đạt kim ngạch hơn 41 tỷ USD,
tăng gần 17%; nhập khẩu đạt kim ngạch trên 65 tỷ USD, tăng gần 12%. Vxut
khẩu, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chính các mặt hàng nông, thủy sản
của Việt Nam. Vnhập khẩu, đây cũng là thị trường cung cấp nhiều các mt
hàng nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất và xuất khu của Việt Nam.
Đáng lưu ý ,tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc
năm 2022 đạt 175,6 tỷ USD, chiếm khoảng 24% tổng kim ngạch xuất nhập
khu của Việt Nam trong năm 2022.
Riêng 9 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc là thị trường xuất khu lớn thứ hai
của nước ta với kim ngạch ưc đạt 42,2 tỷ USD, tăng 2,1%. Đây là thị trường
xuất khẩu duy nhất trong số các thị trường xuất khẩu ln của Việt Nam đạt
mức tăng trưởng dương (tăng 2,1%), trong khi các thị trường lớn khác đều
giảm. Ở chiều ngược lại, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu ln nhất của
Việt Nam với kim ngạch ưc đạt 79 tỷ USD . Như vậy, thương mại Việt Nam –
Trung Quốc đã chính thức vượt mốc 120 tỷ USD sau 9 tháng đầu năm. Bên
cạnh đó , Trung Quốc cũng đã mở nhiều tuyến đường sắt từ nhiều tỉnh thành
. Đầu tư xây dựng nhiều trung tâm logisc, mở rộng, nâng cấp các cửa khẩu đi
Việt Nam để tăng cường trao đổi hàng hóa, giảm chi phí vận chuyển giữa hai
ớc. Đây là một trong nhiều nền tảng để thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác
thương mại, mang lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp hai nước. Như
vậy có thể thy rằng : Quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc ngày
càng phát triển n định và đi vào chiều sâu.
VI,Tổng kết ( Phương)
Trong những năm qua, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển
mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục với nhiều hình
thức hợp tác phong phú. Cùng với đà phát triển đó, quan hệ thương mại giữa hai
ớc đã phát triển vượt bc với tổng kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng
tăng.
Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn đề cần phải giải quyết trong quan hệ
thương mại: trốn thuế, lậu thuế, cán cân thương mại không cân bằng... Nhìn
chung, tỷ trọng giá trị thương mại Việt - Trung còn thấp, chưa thể hiện hết ềm
năng của cả hai bên, chưa tương xứng với quan hệ chính trị giữa Việt Nam và
Trung Quốc.

Preview text:

SEMINAR
Môn: Địa lý kinh tế thế giới
Nhóm 3: Trần Thị Phương ( Nhóm trưởng )
Nguyễn Hoàng Lê Na Hà Khánh Huyền Mẫn Hạnh Dung Đào Hồng Phúc Đoàn Thị Hoa Lê Thị Tươi Vũ Thị Uyển Nhi
Chủ đề 4: Trình bày quan hệ thương mại Việt – Trung từ năm 1991 tới
nay. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
*****
I, Quan hệ thương mại Việt-Trung ( Phúc_Nhi)
1.1.Bối cảnh ảnh hưởng đến quan hệ thương mại Việt-Trung
-Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng.
- 50 năm trước đây, ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam,
Trung Quốc là nước đầu tiên thiết lập ngoại giao với Việt Nam.
-Sau một thời gian dài gián đoạn từ năm 1991, Việt Nam - Trung Quốc chính thức
bình thường hóa quan hệ, mở cửa biên giới cho nhân dân và các doanh nghiệp hai nước thông thương.
1.2.Tiềm năng xuất phát từ 2 bên
a,Về phía Việt Nam
, than đá ( đứng thứ 2 với khoảng 36 tỷ tấn và mức khai thác xấp xỉ 10 triệu tấn/
năm), khoáng sản kim loại ( quặng sắt, vàng, chì, kẽm, thiếc, đồng…,VN được đánh
giá là 1trong 6 qg có trữ lượng boxit lớn nhất thế giới)
b,Về phía Trung Quốc
Tiềm năng của Trung Quốc trong quan hệ thương mại Việt-Trung rất lớn nhờ sự
phát triển kinh tế ổn định và quan hệ hai bên ngày càng chặt chẽ. Dưới đây là một số điểm quan trọng:
1.Thị trường tiêu thụ lớn: Trung Quốc là một trong những thị trường tiêu thụ hàng
hóa lớn nhất thế giới và đang tăng trưởng nhanh chóng. Điều này tạo ra môi
trường thuận lợi cho hàng hóa và dịch vụ từ Việt Nam tiếp cận một thị trường tiềm năng
2.Hợp tác đa ngành:Trung Quốc và Việt Nam có thể hợp tác trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như chế biến nông sản,sản xuất và công nghiệp,công nghệ thông tin,du
lịch,và nghành công nghiệp dược phẩm.
3.Hạ tầng giao thông và logistic:TQ đã đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông và
logistic ,tạo điều kiện thuậ lợi cho chuyển hóa hàng hóa giữa hai nước.
4.Thỏa thuận thương mại:VN và TQ đã ký kết các hoạt động thương mại và hợp
tác đầu tư thúc đẩy quan hệ hai nước.
Tuy nhiên, việc đảm bảo quan hệ thương mại l;à cân bằng và mang lại lợi ích lâu
dài cho cả hai bên là điều cần quan tâm .VN cũng cần đảm bảo rằng quan hệ
thướng mại Vn và TQ ko giảm đi tính tự chủ và cạnh tranh của nền kinh tế nước này
1.3.Các hiệp định và thỏa thuận
- Một số hiệp định và thỏa thuận quan trọng trong quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Trung Quốc bao gồm:
1.Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA): Đây là một hiệp định
thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc, mà cả Việt Nam và Trung Quốc là
thành viên. Hiệp định này đã góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai quốc gia.
2.Hiệp định tự do thương mại khu vực ASEAN-Trung Quốc(RCEP):RCEP là hiệp
định khu vực mong muốn giúp tạo ra một thị trường lớn và cung cấp nhiều cơ hội
hơn cho doanh nghiệp và người tiêu dùng.VN và TQ cùng tham gia RCEP và hiện
diện của cả hai quốc gia trong hiệp định này có thể tạo ra cơ hội hợp tác thương mại mới.
3.Thỏa thuận hợp tác dầu tư:Các thoae thuận hợp tác đầu tư giữa VN và TQ đã
mở ra cơ hội hợp tác hai bên hợp tác trong lĩnh vực đầu tư đặc biệt là đối với các
dự án hạ tằng và công nghệ chế biến sản xuất
4.Các thỏa thuậ về quy tác nhập khẩu và hải quan:VN vàTQ cũng đã ký kết thỏa
thuận về quy tắc xuất nhập khẩu,hải quan nhằm tạo điều kiện thuậ lợi cho hoạt
động thương mại 2 bên.
Các hiệp định thảo thuận này đầu đánh dấu sự cam kết mạnh mẽ của cả hai quốc
gia trong việc mở rộng và phát triển quan hệ thương mại tạo cơ hội hợp tác toàn diện giữa Vn và TQ
II,Tình hình mậu dịch Việt-Trung trước năm 1991( Huyền_Dung)
- Năm 1952, quan hệ thương mại VN-TQ chính thức được xác lập. Năm 1960,
Kim ngạch buôn bán hai chiều VN-TQ đạt 5,4 triệu USD, tăng gấp 34 lần so
với năm 1954. Nhìn chung, kim ngạch buôn bán song phương VN – TQ trong
thời kì này chưa nhiều và cán cân thương mại nghiêng về phía TQ.
- Trong những năm từ 1960 đến 1975, là thời kỳ nhân dân VN thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược quan trọng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
thực hiện thống nhất đất nước. Trong thời kỳ lịch sử này, mối quan hệ kinh
tế thương mại giữa VN và TQ vẫn được duy trì và phát triển bình thường.
Bên cạnh đó, Đảng, Chính Phủ và nhân dân TQ cũng đã dành cho nhân dân
VN nguồn viện trợ to lớn và có hiệu quả, góp phần đưa đến thắng lợi cuối
cùng của nhân dân Việt Nam vào tháng 4/1975.
- Thời kỳ từ năm 1978 đến 1990, mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai
nước hầu như bị gián đoạn.
+ Cả hai nước VN và TQ thấy rằng bình thường hóa về chính trị, khôi phục
và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước là có lợi cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của mỗi nước. Do sự cố gắng chung
của hai nước, mối quan hệ VN-TQ xuất hiện những nét hòa dịu vào nửa sau
những năm 80. Mậu dịch tiểu ngạch qua biên giới ban đầu chỉ giới hạn
trong cư dân vùng biên giới, nhưng từ cuối năm 1989 sang 1990 trở đi, mậu
dịch qua biên giới đã thu hút sự tham gia của nhiều nơi trong nước. Kim
ngạch mậu dịch biên giới hai chiều năm 1988 là 5 triệu USD, năm 1989 tăng
gấp 10 lần năm 1988,đạt 50,85 triệu USD; năm 1990 tăng gấp khoảng 3 lần
so với năm 1989, đạt 152,24 triệu USD; năm 1991 con số đó lên đến 290,48 triệu USD.
+ Trước tháng 11/1991, mậu dịch qua biên giới VN-TQ là mậu dịch phi
Chính Phủ, diễn ra theo quy luật cung cần của kinh tế thị trường, mang tính
tự phát, vượt qua cả sự khống chế và kiểm soát của chính quyền, cán cân
thương mại thường nghiêng về phía TQ, phía VN bị thua thiệt nhiều. Hàng
hóa tiêu dùng, nhất là hàng giả, hàng hóa kém chất lượng,… của TQ ồ ạt
nhập vào VN đã gây ra một số hậu quả không tốt đối với đời sống và sản
xuất của VN. Chính vì vậy, tháng 6/1991, Chính Phủ VN đã ra chỉ thị nhấn
mạnh những việc cần làm để quản lý việc qua lại và buôn bán qua biên giới Việt-Trung.
III,Quan hệ thương mại Việt- Trung sau năm 1991( Phương_Na)
3.1.Đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt-Trung
Sau khi 2 nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao từ năm 1991 đến nay Quan
hệ thương mại của hai nước dần dần được khôi phục và phát triển. Các đặc điểm
nổi bật trong quan hệ thương mại Việt-Trung : a,Phát triển nhanh nhưng tốc độ có giảm đi
Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch thương mại chính ngạch giữa Việt Nam và Trung
Quốc đã tăng 50 lần, từ 32 triệu đôla Mỹ lên đến hơn 1,5 tỷ đôla Mỹ (năm 1998).
Trong những năm đầu thập kỷ 90 kim ngạch giữa 2 nước phát triển mạnh tuy có
chậm lại trong những năm sau này nhưng nhìn chung vẫn tăng với tốc độ cao.
b,Cơ cấu hàng hóa vừa có tính chất bổ sung cho nhau vừa có tính cạnh tranh nhau
+ Tính bổ sung : Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp,
nguyên nhiên liệu đáp ứng nhu cầu của Trung Quốc. Ngược lại hàng hóa máy móc
của Trung Quốc phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam.
+ Tính cạnh tranh : Một điều rõ ràng là Việt Nam và Trung Quốc đều là những
nước đang phát triển về kinh tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng gia
công, sản phẩm sơ chế, tỷ lệ khoa học kỹ thuật trong mỗi giá trị sản phẩm thấp,
dựa vào sức lao động rẻ, do đó không thể không dẫn đến hiện tượng cạnh tranh
với nhau. Đây là một điều bình thường trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự cạnh
tranh này không gây nhiều cản trở đối với sự phát triển thương mại Việt – Trung.
c,Thương mại tiểu ngạch (buôn bán biên giới) đóng góp một phần đáng kể vào
tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước.
Thương mại tiểu ngạch Việt-Trung phát triển mạnh kể từ năm 1989 khi Chính phủ
hai nước cho phép nhân dân qua lại trao đổi hàng hóa thiết yếu. Sau khi hai nước
chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1991, thương mại tiểu ngạch
phát triển mạnh mẽ với quy mô và số lượng ngày càng lớn. Tuy các nhà nghiên
cứu đưa ra con số khác nhau về tổng giá trị hàng hóa buôn bán qua biên giới giữa
hai nước nhưng có thể thấy tổng giá trị thương mại tiểu ngạch là một con số
không nhỏ so với tổng giá trị thương mại chính ngạch.
d,Cán cân thương mại không cân bằng
Có thể thấy cùng với đà tăng của kim ngạch thương mại Việt-Trung, thâm hụt
thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng tăng. Đặc biệt là năm
1998 con số thâm hụt thương mại Việt-Trung đối với Việt Nam tăng trong khi tổng
nhập siêu của Việt Nam đã giảm bớt 400 triệu đôla Mỹ. Tính trung bình, giá trị
nhập khẩu của Việt Nam gấp 2,4 lần xuất khẩu. Trên thực tế hiện tượng nhập siêu
của Việt Nam là hiên tượng thông thường trong quan hệ thương mại Việt-Trung
từ thập kỷ 50 đến nay.
e,Tỷ trọng trong tổng kim ngạch ngoại thương mỗi nước còn thấp
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm qua phát
triển nhanh chóng, nhưng tổng giá trị thương mại chính ngạch và tiểu ngạch chỉ
chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của mỗi nước. Theo tính
toán, tổng giá trị thương mại chính ngạch hai chiều chỉ chiếm 7% tổng kim ngạch
thương mại của Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc.
Việt Nam chỉ là bạn hàng thứ 27 của Trung Quốc. Sự đóng góp của Việt Nam trong
thương mại ASEAN - Trung Quốc cũng là rất nhỏ bé. ASEAN là bạn hàng lớn thứ
sáu sau Trung Quốc với tổng giá trị thương mại chiếm 13% tổng kim ngạch ngoại
thương của Trung Quốc lớn hơn nhiều lần so với tổng giá rị thương mại Việt - Trung.
3.2.Cơ sở phát triển quan hệ thương mại Việt-Trung
Một là, ý chí chính trị của hai nước. Lãnh đạo cao cấp nhất của hai nước đã thỏa
thuận về những nguyên tắc chỉ đạo trong quan hệ Việt - Trung trong thời gian tới:
láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.
Hai là, đã tạo dựng được cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa hai nước.
Như trên đã trình bày, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp định về hợp tác
kinh tế thương mại giữa hai nước. Đặc biệt là, hai nước đã ký Hiệp định về buôn
bán ở vùng biên giới, nhằm chấn chỉnh những hiện tượng không lành mạnh: trốn
thuế, lậu thuế ở vùng biên giới giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho thương
mại chính ngạch phát triển
Ba là, phát triển quan hệ thương mại Việt- Trung là phù hợp với chiến lược kinh tế
đối ngoại của cả hai nước. Việc phát triển quan hệ kinh tế với các nước láng giềng,
trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những
hoạt động kinh tế quốc tế, thể hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương
mại với các nước phát triển về kinh tế. Đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ
kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại
"là bạn đối với tất cả các nước", mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước
Bốn là, phát triển quan hệ thương mại là phù hợp với nhu cầu khách quan của cả
hai bên. Như đã phân tích ở trên, cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Việt - Trung có
tính chất bổ sung cho nhau. Là một nước có kỹ thuật tiên tiến hơn và bắt đầu tích
lũy dự trữ ngoại tệ lớn, Trung Quốc có thể giúp Việt Nam nhiều mặt về kinh tế, kỹ
thuật. Về phần mình, Việt Nam tạo ra một thị trường đáng kể cho nhiều mặt hàng,
nhất là máy móc nhỏ phục vụ cho nông nghiệp Trung Quốc.
Năm là, bên cạnh hợp tác song phương, hai bên còn có thể đẩy mạnh quan hệ
thương mại qua các kênh đa phương, thông qua quan hệ kinh tế và thương mại
ASEAN - Trung Quốc, tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), và
trong tương lai thông qua tổ chức thương mại thế giới (WTO) khi hai nước trở thành thành viên.
Trong những nhân tố trên, nhân tố khách quan là nhu cầu của cả hai bên; nhân tố
ý chí chính trị là nhân tố chủ quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của quan
hệ thương mại Việt - Trung trong thời gian tới.
3.3.Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam
Kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt
Nam –Trung Quốc đã có bước phát triển trên nhiều góc độ khác nhau, trong đó
bao gồm cả quan hệ đầu tư. Đây được coi là một nội dung mới trong hợp tác kinh
tế Việt Nam –Trung Quốc. Bởi trước khi bình thường hoá, hai nước chưa có quan
hệ đầu tư với nhau. Các công trình của Trung Quốc ở Việt Nam trong giai đoạn
những năm 50-70 thế kỷXX, chủ yếu là dưới hình thức viện trợ kinh tế, giúp Việt
Nam xây dựng công trình, nhà máy thiết yếu phục vụcho sản xuất ở miền Bắc.
Nhưng kể từ sau năm 1991, quan hệ đầu tư giữa hai nước đã thực sự bắt đầu. Dự
án đầu tư đầu tiên của Trung Quốc vào Việt Nam là dự án Nhà hàng “Hoa Long”
tại phố Hàng Trống, Đây là dự án đánh dấu sự hợp tác kinh tế mới giữa hai nước,
đồng thời nó cũng là cơ sở vững chắc để thúc đẩy quan hệ đầu tư nói riêng và
quan hệ kinh tế nói chung giữa hai nước ngày một “đơm hoa kết trái”. a, Quy mô dự ám tăng chậm:
Giai đoạn đầu sau khi bình thường hoá, với chính sách “thực hiện “đi ra bên
ngoài” là một phương pháp quan trọng trong giai đoạn mở cửa, thúc đẩy và
nâng đỡ các xí nghiệp có ưu thế nhất định đầu tư ra nước ngoài...”, các doanh
nghiệp Trung Quốc đã tích cực đầu tư vào Việt Nam song quy mô dự án cũng như
vốn đầu tư còn tương đối nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của hai
nước. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều theo mô hình quản lý kinh tế cũ, mới
chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường.
Do vậy, nhiều doanh nghiệp của hai
nước còn gặp khó khăn về vốn, thiếu kinh nghiệm đầu tư ở nước ngoài. Hơn thế,
do Trung Quốc cũng là một nước đang phát triển như Việt Nam, mức sống, thu
nhập đầu người không cao, cũng là một nước cần thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư
từbên ngoài đểxây dựng và phát triển đất nước nên làm sao có thể đủ tiềm lực
đầu tư nhiều, nhanh và mạnh cho Việt Nam. Bên cạnh đó, sự liên tục thay đổi các
chính sách đầu tư, luật đầu tư của Việt Nam khiến cho các nhà đầu tư Trung Quốc
chưa thực sự yên tâm khi đầu tư vào đây. Nói tóm lại, các doanh nghiệp Trung
Quốc đã quán triệt chính sách đối ngoại của Đảng khi từng bước mở rộng đầu tư
vào Việt Nam song quy mô của những dự án đầu tư vẫn tăng chậm so với nhịp độ
chung b, Tốc độ vốn đầu tư tăng nhưng không có nhiều đột phá
Đặc điểm đầu tư này của Trung Quốc thể hiện ở dòng chày vốn đầu tư vào Việt
Nam. Sang đến giai đoạn những năm đầu thế kỷ21, đầu tư của các doanh nghiệp
Trung Quốc đã bắt đầu có những nét khởi sắc.
Tốc độ đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn này đã tăng nhanh, trong
vòng ba năm vốn đầu tư đã tăng gấp đôi. Có thểthấy, tốc độ tăng vốn đầu tư của
Trung Quốc đã có sự chuyển biến đáng kểvào giai đoạn sau. Tuy nhiên, nếu so
sánh với các nước và khu vực khác đầu tư vào Việt Nam thì ta có thể dễ dàng
nhận ra, quy mô đầu tư của Trung Quốc vẫn còn khiêm tốn, chưa cho thấy hết
khả năng, tiềm lực của các doanh nghiệp Trung Quốc. c, Cơ cấu đầu tư chuyển
dần sang công nghiệp nặng:

Nếu trong 10 năm đầu sau khi bình thường hoá, đầu tư của Trung Quốc vào Việt
Nam đa số là các sản phẩm tiêu dùng công nghiệp nhẹ như: khách sạn, nhà hàng,
in ấn mác bao bì,.....thì bước vào thế kỷ 21 cơ cấu đầu tư của Trung Quốc đã có
sự chuyển dịch dần sang đầu tư vào lĩnh vực thăm dò, khai thác mỏ,
xây dựng
nhà máy luyện mangan, nhôm, gang thép, lĩnh vực công nghiệp, cơ sở hạ tầng... d,
Cơ cấu theo hình thức đầu tư:

Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam chủyếu theo ba hình thức: đầu tư 100% vốn,
liên doanh và kinh doanh hợp tác. Một sự chuyển biến tích cực, một dấu hiệu
đáng mừng trong hoạt động đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam, đó là nhiều
doanh nghiệp đã tiến hành hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trong những
năm đầu của thế kỷ 21.Vì đến giai đoạn này, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã
muốn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thị trường Việt Nam, qua đó muốn mở rộng
doanh nghiệp và uy tín của mình tại Việt Nam
. Phải nói rằng, đây là bước phát
triển phù hợp với bước đi đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài ởViệt Nam,
đồng thời nó cũng cho thấy đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã có những
bước chuyển biến mới. e, Địa bàn đầu tư từng bước được mở rộng:
Việc phân bổ vốn đầu tư tới các địa phương ởViệt Nam cũng có sự khác biệt
giữa hai giai đoạn.
+) Những năm 90 của thế kỷ20, các dự án của Trung Quốc chủyếu tập trung
ởcác tỉnh, thành phốtương đối phát triển, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng
hoá và có nhiều người Hoa
sinh sống như: Hà Nội, Hải Phòng, HCM, ....
+) giai đoạn những năm đầu thế kỷ21, Trung Quốc đã đầu từ vào 49/64 tỉnh,
thành của Việt Nam, đã chủ động đầu tư vào những khu vực có điều kiện,
khảnăng phát triển
như các tỉnh biên giới phía Bắc: Lào Cai, Quảng Ninh.
Nhìn chung, số dự án, số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn đang tiếp
tục tăng nhưng chỉ giữ ở trạng thái bình ổn, không có sựđột phá, chuyển ngoặt.
Tuy nhiên, ta không thểnào phủ nhận hoàn toàn những ích lợi mà đầu tư
từ“người bạn láng giềng” Trung Quốc đã mang đến cho Việt Nam trong tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.4.Thành tựu -
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước không ngừng
tăng nhanh, cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của hai bên ngày càng phù hợp với tiềm
năng và mang tính bổ sung lẫn nhau của hai nước. -
Tỷ trọng kim ngạch thuộc mậu dịch "chính ngạch" tăng nhanh, dần chiếm
ưu thế trong kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước (nếu giai đoạn 1991-1993
kim ngạch mậu dịch tiểu ngạch là chủ yếu thì từ 1994 - 1998 kim ngạch buôn bán
chính ngạch vươn lên giữ vị trí áp đảo). -
Phương thức mậu dịch ngày càng phong phú và đa dạng, phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của hai bên và ngày càng tuân theo các luật lệ tập quán buôn bán
quốc tế. Giai đoạn 1991-1992 hai bên chủ yếu áp dụng phương thức mậu dịch
hàng đổi hàng hoặc phương thức "tiền trao, cháo múc" tại các cửa khẩu biên giới.
Từ sau năm 1992, cùng việc ký kết Hiệp định hợp tác nghiệp vụ ngân hàng hai
nước, hai bên đã triển khai các phương thức mậu dịch theo L/C 28 hoặc các hình
thức mậu dịch thanh toán qua ngân hàng. Từ năm 1994 hai bên mở rộng sang các
phương thức mậu dịch gia công, mậu dịch chuyển khẩu "tạm nhập tái xuất", góp
phần nâng cao kim ngạch hai chiều của các bên. -
Tỷ lệ các vụ tranh cấp, khiếu nại trong quan hệ buôn bán hai nước ngày
càng giảm. Cùng với việc hai nước công bố hàng loạt các biện pháp quản lý và hỗ
trợ các loại hình mậu dịch đi vào nề nếp, các đối tác tham gia trao đổi mậu dịch
giữa hai nước cũng thay đổi về thành phần. Tỷ lệ các tư thương, công ty tư nhân
ngày càng giảm, nhường chỗ cho các đơn vị ngoại thương Nhà nước có tiềm lực,
có kiến thức kinh nghiệm buôn bán quốc tế và các xí nghiệp, đơn vị sản xuất lớn
trực tiếp tham gia trao đổi hàng hóa giữa hai nước.
IV, Cơ hội và thách thức ( Tươi ) 4.1.Cơ hội
Thị trường xuất khẩu lớn và tiềm năng: Trung Quốc là quốc gia có dân số đông
nhất thế giới, với hơn 1,4 tỷ người. Đây là một thị trường tiêu thụ khổng lồ, mang
lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Nguồn cung nguyên liệu giá rẻ: Trung Quốc là một nền kinh tế công nghiệp phát
triển, với nguồn nguyên liệu phong phú và giá cả cạnh tranh. Đây là nguồn cung
nguyên liệu quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình sản xuất và chế biến
Lợi ích từ hợp tác kinh tế với Trung Quốc: Hợp tác kinh tế với Trung Quốc giúp Việt
Nam tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Về chính trị: Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ổn định, hòa bình, hữu nghị là cơ sở
quan trọng để Việt Nam phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
• Về văn hóa: Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đã góp phần tăng
cường hiểu biết, gắn kết giữa hai dân tộc. 4.2.Thách thức
Cạnh tranh gay gắt: Trung Quốc là một nền kinh tế lớn, với nền công nghiệp phát
triển mạnh. Các doanh nghiệp Trung Quốc có lợi thế về quy mô, nguồn vốn, công
nghệ,... Đây là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc
Về vấn đề kinh tế: Thặng dư thương mại nghiêng lệch về phía Trung Quốc, khiến
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc.
Tỷ lệ nhập siêu cao: Trong những năm gần đây, tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam từ
Trung Quốc ngày càng tăng. Điều này gây ra áp lực đối với cán cân thương mại và
kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Về vấn đề biên giới, lãnh thổ: Vấn đề Biển Đông là thách thức lớn nhất đối với
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Trung Quốc có những yêu sách chủ quyền phi lý
ở Biển Đông, gây ra nhiều căng thẳng, bất ổn trong khu vực.
Rủi ro từ các tranh chấp thương mại: Trung Quốc là một quốc gia có chủ quyền
lãnh thổ rộng lớn, với nhiều tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng. Các
tranh chấp này có thể ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Về vấn đề an ninh, quốc phòng: Sự trỗi dậy của Trung Quốc với tham vọng vươn
lên thành cường quốc hàng đầu thế giới đặt ra những thách thức về an ninh, quốc
phòng đối với Việt Nam.
V, Triển vọng quan hệ thương mại Việt-Trung trong thời gian tới (Hoa)
• Việt Nam nhiều năm liền là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN với Trung
Quốc và là đối tác thương mại thứ 6 của đất nước tỷ dân. Có nhiều yếu tố
khiến cho mối quan hệ kinh tế ngày càng phát triển, đó không chỉ là láng
giềng, mà quan trọng là môi trường đầu tư tại 2 nước đang có nhiều thuận lợi.
• Trong quan hệ thương mại, tính bổ sung lẫn nhau trong cơ cấu xuất nhập khẩu
hàng hóa giữa hai nước vẫn rất lớn.Theo Bộ Công Thương, năm 2018, kim
ngạch thương mại Việt Nam-Trung Quốc đạt gần 107 tỷ USD, tăng 13,5% so
với năm 2017; trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt kim ngạch hơn 41 tỷ USD,
tăng gần 17%; nhập khẩu đạt kim ngạch trên 65 tỷ USD, tăng gần 12%. Về xuất
khẩu, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chính các mặt hàng nông, thủy sản
của Việt Nam. Về nhập khẩu, đây cũng là thị trường cung cấp nhiều các mặt
hàng nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam.
• Đáng lưu ý ,tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc
năm 2022 đạt 175,6 tỷ USD, chiếm khoảng 24% tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam trong năm 2022.
• Riêng 9 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai
của nước ta với kim ngạch ước đạt 42,2 tỷ USD, tăng 2,1%. Đây là thị trường
xuất khẩu duy nhất trong số các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam đạt
mức tăng trưởng dương (tăng 2,1%), trong khi các thị trường lớn khác đều
giảm. Ở chiều ngược lại, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của
Việt Nam với kim ngạch ước đạt 79 tỷ USD . Như vậy, thương mại Việt Nam –
Trung Quốc đã chính thức vượt mốc 120 tỷ USD sau 9 tháng đầu năm. Bên
cạnh đó , Trung Quốc cũng đã mở nhiều tuyến đường sắt từ nhiều tỉnh thành
. Đầu tư xây dựng nhiều trung tâm logistic, mở rộng, nâng cấp các cửa khẩu đi
Việt Nam để tăng cường trao đổi hàng hóa, giảm chi phí vận chuyển giữa hai
nước. Đây là một trong nhiều nền tảng để thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác
thương mại, mang lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp hai nước. Như
vậy có thể thấy rằng : Quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc ngày
càng phát triển ổn định và đi vào chiều sâu.

VI,Tổng kết ( Phương)
Trong những năm qua, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển
mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục với nhiều hình
thức hợp tác phong phú. Cùng với đà phát triển đó, quan hệ thương mại giữa hai
nước đã phát triển vượt bậc với tổng kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng.
Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn đề cần phải giải quyết trong quan hệ
thương mại: trốn thuế, lậu thuế, cán cân thương mại không cân bằng... Nhìn
chung, tỷ trọng giá trị thương mại Việt - Trung còn thấp, chưa thể hiện hết tiềm
năng của cả hai bên, chưa tương xứng với quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc.