lOMoARcPSD| 59092960
TIỂU LUẬN MÔN: ĐỊA LÝ KINH TẾ VIỆT
NAM THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI: Hãy phân tích tác động của Chiến lược “miền
Đông đi trước” vào những năm đầu cải cách đất nước (từ
1978), tiếp theo là “khai thác miền Tây” những năm cuối thế
kỉ XX và “miền Trung trỗi dậy” bắt đầu từ 2004, cùng với
chính sách xây dựng các đặc khu kinh tế và phát triển công
nghiệp “Hương trấn” đến sự phát triển kinh tế Trung Quốc.
Giáo viên giảng dạy : Th.s Trần Văn Kết
Tên sinh viên : Hoàng Văn Sơn
Mã sinh viên : 2520221083
Lớp : Ql25.30
lOMoARcPSD| 59092960
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
B. NỘI DUNG .......................................................................................................... 5
1. Khái quát về Trung Quốc .................................................................................... 5
1.1 Đặc điểm ........................................................................................................ 5
1.1.1 Diện tích ............................................................................................... 5
1.1.2 Khí hậu ................................................................................................. 5
1.1.3 Văn hóa ................................................................................................. 5
1.1.4 Dân tộc và con người ........................................................................... 5
1.1.5 Ẩm thực ................................................................................................ 6
1.1.6 Kinh tế .................................................................................................. 6
1.1.7 Khoa học kỹ thuật ................................................................................ 6
1.2 Mục tiêu của Trung Quốc .............................................................................. 6
2. Phân tích tác động của các chiến lược đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung
Quốc ........................................................................................................................ 8
2.1 Lý do sự xuất hiện của các chiến lược .......................................................... 8
2.2 Chiến lược “ miền Đông đi trước” vào những năm đầu cải cách đất nước
(1978) .................................................................................................................. 9
2.2.1 Đặc điểm miền Đông ............................................................................ 9
2.2.2 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 10
2.2.3 Tác động tới nền kinh tế Trung Quốc ................................................ 11
2.3 Chiến lược “Khai thác miền Tây” ............................................................... 12
2.3.1 Đặc điểm miền Tây của Trung Quốc ................................................. 12
2.3.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “Khai thác
miềnTây” vào cuối thế kỷ XX .................................................................... 12
2.3.3 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 13
a, Trong quá khứ .......................................................................................... 13
b, Hiện nay .................................................................................................. 14
2.3.4 Tác động tới nền kinh tế trung quốc .................................................. 15
2.4 Chiến lược “miền Trung trỗi dậy” ............................................................... 16
lOMoARcPSD| 59092960
2.4.1 Đặc điểm miền Trung của Trung Quốc .............................................. 16
2.4.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “miền Trung
trỗi dậy” bắt đầu vào năm 2004 .................................................................. 16
2.4.3 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 17
3. Phân tích tác động của các chính sách đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung
Quốc ...................................................................................................................... 17
3.1 Lý do và mục đích Trung Quốc xây dựng các đặc khu kinh tế ................... 17
3.1.2 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 18
3.1.3 Tác động với nền kinh tế Trung Quốc................................................ 18
3.2 Chính sách Hương Trấn ............................................................................... 19
3.2.1 Khái quát ............................................................................................ 19
3.2.2 Qúa trình phát triển ........................................................................... 20
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 21
lOMoARcPSD| 59092960
A. MỞ ĐẦU
Trong tất cả các quốc gia trên thế giới, hiếm có quốc gia nào luôn tồn tại một tinh
thần dân tộc và tham vọng mãnh liệt qua mọi thời kì như trung Quốc. Kể cả vào
thời kỳ khó khăn và nghèo khổ nhất,khi đất nước Trung Quốc bị các nước phương
Tây xâu xé,tham vọng ấy vẫn luôn hiện hữu trong con người Trung Quốc. Đây
cũng là điều mà bấy lâu nay em luôn muốn đào sâu tìm hiểu, về con người Trung
Quốc, về nền kinh tế hùng mạnh của Trung Quốc. Cùng với các chiến lược và
chính sách đúng đắn mà Trung Quốc đã quyết m theo đuổi trong 40 năm vừa
qua. Trung Quốc đã có thể vực dậy nền kinh tế đã bị thuốc phiện và các cuộc nội
chiến tàn phá. Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài 3 để phân tích. Vì các chính
sách này tạo nên nền tảng của nền kinh tế Trung Quốc hiện đại. Mặc dù dịch bệnh
COVID 19 đã tàn phá thế giới, làm suy thoái các nền kinh tế lớn trên thế giới thì
Trung Quốc được coi là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới vẫn tăng trưởng mạnh mẽ, có
thể nhìn thấy viễn cảnh Trung Quốc vượt qua Mỹ và lấy lại vị trí siêu cường số 1
thế giới. Đây cũng có thể sẽ là hình mẫu đáng tham khảo cho Việt Nam ta phát
triển về sau.
lOMoARcPSD| 59092960
B. NỘI DUNG
1. Khái quát về Trung Quốc
Nói đến quốc gia có nền kinh tế hùng mạnh, diện tích rộng lớn là đông dân nhất thế
giới với bề dày lịch sử và văn hóa đa dạng, cũng như cảnh quan thiên nhiên xinh
đẹp lạ kỳ, thì chỉ có thể là Trung Quốc mà thôi.
Trung Quốc là tên gọi đã được sử dụng từ khoảng 1000 năm TCN. Thời đó người
Trung Quốc coi nước mình là trung tâm của thế giới, Trung Quốc có nghĩa là nước
nằm giữa thiên hạ.
1.1 Đặc điểm
1.1.1 Diện tích
Trung Quốc là nước lớn thứ 3 trên thế giới (9.596.960 km2)chỉ sau Nga và
Canada.Đây là nước đông dân nhất thế giới,dân số hơn 1 tỷ người.địa hình tương
đối đa dạng với sa mạc,cao nguyên,núi non,và các đồng bằng màu mỡ được bồi
đắp bởi phù sa các con sông Hoàng Hà,Dương Tử,Hắc Long Giang,Mê Kông …
1.1.2 Khí hậu
Trung Quốc nằm trong khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khô. Do đất
nước rộng lớn, địa hình rất đa dạng, độ cao chênh lệch lớn nên khí hậu từ đó cũng
đa dạng theo. Trừ vùng cao nguyên Thanh Tạng có địa hình quá cao ra, cả nước
đều thường xuyên nóng quanh năm.
1.1.3 Văn hóa
Văn hóa Trung Quốc từ thời cổ đại đã chịu ảnh hưởng mạnh từ Nho giáo và các
triết học bảo thủ. Ở đa số các triều đại , muốn được cơ hội thăng tiến xã hội thì
phải phấn đấu đạt thành tích cao trong các kỳ khoa cử. Việc chú trọng văn chương
trong các kỳ thi tác động đến nhận thức chung về văn hóa, như niềm tin rằng t
pháp, thi họa là các loại hình nghệ thuật đứng trên các loại hình khác. Văn hóa
Trung Quốc từ lâu đã tập trung vào ý thức lịch sử sâu sắc và phần lớn là hướng nội.
Hiện nay, chính phủ dần chấp thuận nhiều yếu tố của văn hóa Trung Hoa truyền
thống có tính nguyên đối với xã hội Trung Quốc. Nhiều hình thức nghệ thuật, văn
chương, âm nhạc, điện ảnh, thời trang và kiến trúc về Trung Hoa truyền thống
chứng kiến một sự phục hưng mạnh mẽ.
1.1.4 Dân tộc và con người
Tại Trung Quốc có khoảng hơn 100 dân tộc, trong đó đông nhất là người
Hán( chiếm khoảng 93% dân số), là dân tộc với sắc thái ngôn ngữ và văn hóa có
nhiều khác biệt. Trong lịch sử Trung Quốc, nhiều dân tộc bị các dân tộc xung
lOMoARcPSD| 59092960
quanh đồng hóa hoặc biến mất không để lại dấu tích.Một số dân tộc khác lọt vào
trong vùng sinh sống của dân tộc Hán đã bị Hán hóa, khiến cho dân tộc này trở nên
đông một cách đáng kể, thực ra có nhiều người được coi là người Hán nhưng có
truyền thống văn hóa và đặc điểm ngôn ngữ khác hẳn.
1.1.5 Ẩm thực
Đất nước Trung Quốc sở hữu một nền ẩm thực đa dạng, có nền tảng là lịch sử ẩm
thực hàng ngàn năm. Các quân chủ Trung Hoa cổ đại được biết là có nhiều phòng
ăn trong cung, mỗi phòng lại chia thành vài gian, mỗi gian phục vụ một loại món
ăn đặc trưng. Lúa gạo là cây lương thực phổ biến nhất, kế đến là lúa mì - loại cây
trồng tập trung tại đồng bằng miền Bắc. Thịt lợn là loại thịt phổ biến nhất tại Trung
Quốc và là gia vị trọng tâm trong ẩm thực Trung Hoa.
1.1.6 Kinh tế
Đât là nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới nếu tính theo sản phẩm quốc nội GDP. Giao
dịch thương mại giữa các nước Châu Á và Trung Quốc ngày càng phát triển, đóng
vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở khu vực.
Trong xu hướng hội nhập quốc tế ngày nay, văn hóa phương Đông lại càng được
nghiên cứu nhiều hơn và việc học tiếng Trung là công cụ tốt nhất để bắt đầu tìm
hiểu về văn hóa phương Đông. Trung Quốc còn là nơi bạn đến để du học bằng
tiếng Trung với chất lượng giáo dục cao, ngành nghề đào tạo rất đa dạng và phù
hợp với nhiều trình độ, chi phí thấp.
1.1.7 Khoa học kỹ thuật
Trong số những thành tựu về khoa học của Trung Quốc phải kể đến tứ đại phát
minh: la bàn, thuốc súng, kỹ thuật làm giấy và thuật in ấn. Ngoài ra cũng phải kể
đến các phát minh nổi trội như bàn tính, cung tên, bàn đạp ngựa, sơn mài, bánh lái,
địa chấn ký, sành sứ, tiền giấy,…
1.2 Mục tiêu của Trung Quốc
Trong khoảng 100 năm qua, các chính trị gia hàng đầu của Trung Quốc đã nhiều
lần nhắc tới việc Trung Quốc phải đứng đầu thế giới. Trong chủ nghĩa tam dân,
Tôn Trung Sơn nêu rõ:
Dân tộc Trung Hoa là dân tộc lâu đời nhất thế giới, là dân tộc lớn nhất thế giới,
là dân tộc văn minh nhất thế giới, là dân tộc có khả năng đại đồng hóa nhất thế
giới …So với các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc chúng ta vẫn đông nhất và lớn
nhất. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến nay vẫn là dân tộc ưu tú nhất trên
thế giới”. Trong cuốn “ Phương lược kiến quốc”, ông nhắc lại: “Đất đai của
Trung Quốc rộng lớn hơn Mỹ. Tài nguyên khoáng sản phong phú, đứng đầu thế
lOMoARcPSD| 59092960
giới. Dân số có tới 400 triệu người, cũng đứng đầu thế giới. Tài trí thông minh của
người Trung Quốc cũng nổi tiếng từ thời xa xưa. Việc kế thừa nền văn hóa 5.000
năm cũng là điều thế giới chưa từng có. Hàng nghìn năm trước cũng đã từng
quốc gia hùng mnh trên thế giới”.
Sau đó, Mao Trạch Đông cũng cho rằng vượt qua Mỹ là trách nhiệm ca Trung
Quốc. Ngày 29 tháng 10 năm 1955, trong bài phát biểu tại cuộc hội đàm về cải tạo
công thương nghiệp, Mao Trạch Đông từng nói:
Mục tiêu của chúng ta là phải đuổi kịp và vượt Mỹ. Nước Mỹ chỉ có hơn 100
triệu dân, còn chúng ta có hơn 600 triệu dân, do đó chúng ta phải đuổi kịp Mỹ…
Ngày nào đuổi kịp Mỹ, vượt qua Mỹ chúng ta mới mở mày mở mặt. Hiện chúng ta
vẫn chưa là gì, bị các nước khác chèn ép… Chúng ta cần phải lãnh trách nhiệm
này. Trên thế giới, cứ bốn người chúng ta có một người, do đó không phấn đấu
vươn lên là điều không thể chấp nhận được, chúng ta nhất định cần phải phấn đấu
vươn lên không chịu thua kém”.
Tới thời Đặng Tiểu Bình trong thập niêm 1980, Đặng Tiểu Bình từng đề xuất thực
hiện “chiến lược ba bước” với thời gian 70 năm, đến khi kỷ niệm 100 năm dựng
nước (năm 2049) sẽ đưa Trung Quốc trở thành siêu cường đứng đầu thế giới. Bước
thứ nhất, cần 10 năm để đạt được mức sống ăn no mặc ấm; bước thứ hai, cần 10
năm để đạt được mức sống khấm khá, bước thứ ba, cần 50 năm trong thế kỷ 21 để
thực hiện mục tiêu vĩ dại chấn hưng dân tộc. Ngày 15 tháng 4 năm 1985, Đặng
Tiểu Bình nhấn mạnh: “Nay chúng ta thực hiện việc mà Trung Quốc vài nghìn năm
chưa từng làm. Cuộc cải cách này không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc, mà còn
tác động tới thế giới”.
Theo báo Bưu điện Huffington (Mỹ) ngày 30 tháng 5 năm 2012, hơn 20 năm kể từ
khi Liên Xô tan rã và thế giới trải qua giai đoạn “đơn cực” do Mỹ đứng đầu,
Trung Quốc đang dần nổi lên thành siêu cường mới nhất. Báo này nhận xét rằng
Trung Quốc không nôn nóng mà chấp nhận sự phát triển dài hơi.
Đầu năm 2010, tại Trung Quốc xuất bản cuốn sách “Trung Quốc mộng” của Đại
Lưu Minh Phúc, giảng viên Đại học Quốc phòng Bắc Kinh, gây tiếng vang trong
và ngoài nước. Tác giả đã có những so sánh, phân tích và những bước đi dể Trung
Quốc thực hiện Giấc mộng Trung Hoa – siêu cường số một thế giới. Tác giả phân
tích: muốn đấth nước trỗi dậy tất cả phải có “chí lớn”, nước lớn không có chí lớn
tất sẽ suy thoái, nước nhỏ mà có chí lớn cũng có thể trỗi dậy. Sự chuẩn bị về “c
hướng” là không thể thiếu được đối với người Trung Quốc. Trong Chương IV, tác
giả cho rằng cần phải xây dựng “Trung Quốc vương đạo” kế thừa truyền thống
Trung Hoa, lấy đó làm nguồn sức mạnh cho văn hóa, đạo đức và “ảnh hưởng
mềm” của Trung Quốc trên thế giới. Văn minh Trung Hoa có bề dày lịch sử lâu đời
lOMoARcPSD| 59092960
bậc nhất trên thế giới, cần phải phân tích những bài học trị quốc trong lịch sử, đồng
thời phải luôn tâm niệm “vương đạo” là: “không chèn ép bốn bể, không ức hiếp lân
bang, hùng cường nhưng không ngang ngược, lớn mạnh nhưng không xưng bá”.
Trong tháng 11 năm 2012, Tập Cận Bình kế nhiệm Hồ Cẩm Đào trong vai trị Tổng
bí thư của Đảng Cộng sản. Năm 2013, Tập Cận Bình đã nêu ra học thuyết Giấc
mộng Trung Quốc tại kỳ họp Đại hội Đại biểu Nhân dân Tồn Quốc. Sau đó được
sử dụng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Tập Cận Bình mơ
tả rằng "Sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa là giấc mơ lớn nhất của Trung
Quốc", mục tiêu là trở thành siêu cường số một thế giới, giành lại địa vị mà 5.000
năm văn minh Trung Hoa từng có được trong quá khứ. Theo tạp chí lý luận của
đảng Cầu Thị, giấc mộng Trung Quốc là sự thịnh vượng của Trung Quốc với nỗ
lực tập thể, chủ nghĩa xã hội và vinh quang quốc gia.
Tuy vậy, tiến sĩ kinh tế Trương Duy Nghênh của trường đại học Bắc Kinh cho rằng
các thành tựu khoa học kỹ thuật của Trung Quốc hiện vẫn chưa tương xứng để
được coi là siêu cường: “Trong hơn 30 năm qua, kinh tế Trung Quốc giành được
những thành tựu đáng kể. Thế nhưng những thành tựu ấy được xây dựng trên cơ sở
khoa học kỹ thuật mà thế giới phương Tây tích lũy được trong 300 năm phát minh
sáng tạo của họ. Mỗi một kỹ thuật và sản phẩm quan trọng giúp cho kinh tế Trung
Quốc tăng trưởng nhanh đều do phương Tây phát minh chứ không phải do chúng
ta phát minh. Chúng ta chỉ là kẻ ăn theo chứ không phải là kẻ sáng tạo đổi mới.
Chúng ta chỉ dựng một căn gác nhỏ trên tòa dinh thự lớn do người khác xây dựng.
Chúng ta không có lý do để tự cao tự đại!. Trong 50 - 100 năm nữa, để có thể thay
đổi điều này thì cần phải phát huy hết tinh thần kinh doanh và sức sáng tạo để biến
Trung Quốc thành mt quốc gia đổi mới.”
2. Phân tích tác động của các chiến lược đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung
Quốc.
2.1 Lý do sự xuất hiện của các chiến lược
Ngay khi tiến hành cải cách ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã khẳng định chủ
nghĩa Mác gắn liền với tầm quan trọng cao độ của việc phát triển các lực lượng sản
xuất. Để thực hiện được nguyên tắc làm theo năng lực,hưởng theo nhu cầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn đầu (CNXH) là phát triển
các lực lượng sản xuất. Tính ưu việt của chế độ XHCN được chứng tỏ chỉ khi lực
lượng sản xuất phát triển nhanh hơn và mạnh mẽ hơn so với chế độ tư bản chủ
nghĩa. Khi đó, đời sống văn hóa và vật chất của nhân dân sẽ được cải thiện. CNXH
có nghĩa là xóa bỏ nghèo khó. Sự bần cùng không phải là CNXH, càng không phải
là chủ nghĩa cộng sản. Từ đó, Đặng Tiểu Bình đã nêu chủ trương “lấy xây dựng
kinh tế làm trung tâm”, “bốn nguyên tắc cơ bản”, “cải cách mở cửa”... mở ra con
lOMoARcPSD| 59092960
đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc. Bước vào cải cách năm 1978, Đảng
Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “Phải kiên trì giải phóng và phát triển lực lượng
sản xuất xã hội. Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất xã hội là nhiệm vụ căn
bản của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Cần kiên trì lấy xây dựng kinh tế
làm trung tâm...”. Đến những năm đầu thế kỷ XXI, Giang Trạch Dân đưa ra
thuyết “ba đại diện”, theo đó, lần đầu tiên đặt vấn đề thay quan điểm “Đảng Cộng
sản Trung Quốc đại diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến” trước đây bằng quan điểm
“đại diện cho yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến”. Từ đó, Đảng Cộng
sản Trung Quốc chủ trương mở rộng cơ sở xã hội của Đảng bằng cách kết nạp
những cá nhân tiên tiến trong các “giai tầng xã hội mới” (trong đó có tầng lớp ch
doanh nghiệp tư nhân)vào Đảng.
Với quan điểm đó, Trung Quốc luôn ưu tiên phát triển kinh tế, thực hiện chiến lược
phát triển các vùng duyên hải, trọng điểm chiến lược dịch chuyển về phía Đông.
Đặng Tiểu Bình đã nêu ra chủ trương “cho phép cho một bộ phận người giàu lên
trước, cho phép một số vùng phát triển lên trước, giàu có lên trước, giàu có trước
lơi kéo giàu có sau, thực hiện sự giàu có chung”. Đặng Tiểu Bình đưa ra chủ
trương chuyển dịch trọng điểm chiến lược từ miền Tây sang miền duyên hải phía
Đông, bắt đầu thực hiện chính sách đặc biệt tại Quảng Đơng, Phúc Kiến, xây dựng
5 đặc khu kinh tế, sau đó là mở cửa 14 thành phố ven biển, tiếp đó thực hiện khai
phát Phố Đơng Thượng Hải, hình thành lên cục diện mở cửa đối ngoại nhiều tầng
nấc, hình thành lên điểm-tuyến-diện, hình thành hai vành đai, hai cực tăng trưởng
của Trung Quốc, đó là Quảng Đông và Thượng Hải. Năm 2003, ĐCS Trung Quốc
đưa ra “Quyết định về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN”, trong đó nhấn
mạnh “5 tính tốn chung”: Quy hoạch tính tốn chung giữa phát triển kinh tế và xã
hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền, giữa con người với thiên
nhiên, giữa cải cách và mở đối ngoại. “5 tính tốn chung” nhấn mạnh sự phát triển
nhịp nhàng, cân đối. Cương yếu Quy hoạch 5 năm lần thứ 11 đã chỉ rõ chiến lược
phát triển vùng của Trung Quốc: Kiên trì thúc đẩy đại khai phá miền Tây, chấn
hưng các cơ sở công nghiệp vùng Đông Bắc, thúc đẩy miền Trung trỗi dậy, khuyến
khích miền Đông đi trước phát triển, đẩy mạnh sự tương tác tốt giữa miền
Đôngmiền Trung-miền Tây”. Đây chính là bố cục tổng thể của chiến lược phát
triển vùng miền của Trung Quốc.
2.2 Chiến lược “ miền Đông đi trước” vào những năm đầu cải cách đất nước
(1978).
2.2.1 Đặc điểm miền Đông
Hơn 20 năm trước, khi bắt đầu thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc chủ trương
để các tỉnh miền đơng có điều kiện thuận lợi phát triển trước. Sau đó, dùng nhân
lOMoARcPSD| 59092960
tài, vật lực của miền đông chi viện cho sự nghiệp khai thác miền tây và các tỉnh
còn khó khăn. Kế hoạch này đang biến thành hiện thực và hàng trăm nghìn trí thức
trẻ Trung Quốc đã, đang và sẽ có mặt ở khắp các vùng sâu, vùng xa để phục vụ sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh. Trung Quốc được chia thành 2 phần miền Đông và
Miền Tây: Miền Đông đất hẹp, nhưng dân cư rất đông đúc. Địa hình chủ yếu là
đồng bằng và đồi núi thấp, đồng bằng kéo dài suốt từ vùng Đông Bắc cho tới
Quảng Đông. Có các đồng bằng lớn như: Đông Bắc, Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa
Nam.Sông ngòi chằng chịt. Đất đai màu mỡ. Lại có bờ biển thuận lợi cho giao
thơng vận tải. Đặc biết biển đã đem lại gió mùa và độ ẩm thích hợp cho nơng
nghiệp và đời sống dân cư.
Ở Miền Đông tập trung nhiều khống sản có trữ lương lớn. Ở Miền Đông nằm ở hạ
lưu sông Hồng Hà là nơi có lượng phù sa lớn nhất thế giới thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế-xã hội. Vậy nên Trung Quốc đã dùng chiến lược “ miền Đông đi
trước” vào những năm đầu cải cách đất nước (1978).
Ở Miền Tây: chiếm 4/5 diện tích nhưng chủ yếu là những vùng núi non trùng điệp,
hiểm trở. Xen kẽ với những dãy núi trùng điệp đó là những cao, khô cằn,giá lạnh,
không thuận lợi cả cho nông nghiệp,công nghiệp và giao thông vận tải. Vậy nên
Trung Quốc khai thác và phát triển miền Đông trước.
2.2.2 Kế hoạch thực hiện
Trong thời kỳ đầu của cải cách mở cửa, Trung Quốc thực hiện những thử nghiệm
kinh tế ở quy mô nhỏ, khi thành công được áp dụng rộng ra toàn quốc. Bắt đầu là
việc để các thành phố và đặc khu kinh tế ven biển miền đông, nơi có ưu thế địa lý,
tiến hành cải cách mở cửa, tạo ra các nhân tố và điều kiện đầu tư tốt, như xây dựng
cơ sở hạ tầng, hậu cần và quy chế quản lý... Miền đông trở thành đầu tàu lôi kéo
kinh tế của cả nước; Trung Quốc cơ bản hình thành cục diện phát triển kinh tế theo
khu vực, mở rộng quy mô ngành nghề với trình độ hiện đại hóa cao. Các vùng kinh
tế lớn là các vùng dọc theo miền duyên hải phía Đông của Trung Quốc: Đông Bắc,
Hoa Bắc, Hoa Trung , Hoa Nam. Dân cư tập trung đông đúc.
Vùng Đông Bắc: Là vùng công nghiệp hình thành sớm nhất Trung Quốc và hiện
nay vẫn là trái tim của ngành công nghiệp nặng. Đây là vùng giàu tài nguyên
khoáng sản nên được khai thác tương đối sớm. Vùng này ở vị trí thuận lợi cho sự
giao lưu kinh tế với các nước láng giềng như: Nga,Triều Tiên,Nhật Bản. Ngành
cơng nghiệp nổi bật: khai khoáng (than,dầu mỏ,quặng sắt..),luyện kim, cơ khí, hóa
học, dệt. Về nông nghiệp, điều kiện tự nhiên trong vùng thích hợp trồng: lúa
mì,cao lương,ngơ,củ cải đường,khoai tây. Vì có mùa đông rất lạnh nên sản xuất
nông nghiệp chỉ làm một vụ. Là vùng cịn nhiều rừng, có nhiều động vật hoang dã
quý hiếm.
lOMoARcPSD| 59092960
Vùng Hoa Bắc: Nằm ở hạ lưu sơng Hồng Hà, có tiềm năng đáng kể về công nghiệp
lẫn nông nghiệp. Các ngành công nghiệp chính: than,dầu mỏ,điện lực,cơ khí,hóa
học... Là một trong những vùng sản xuất lương thực quan trọng nhất của Trung
Quốc. Là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng thế giới. Những địa điểm nổi
tiếng từ lâu đời: Bắc Kinh, Tây An, Vạn Lý Trường Thành... hàng năm thu hút
hàng chục triệu khách du lịch trong và ngoài nước. Vùng Hoa Trung: Là một vùng
trù phú, dân cư đông đúc, có điều kiện thuận lợi đối với sự phát triển công nghiệp
và nông nghiệp. Thành phố lớn nhất Trung Quốc là Thượng Hải nằm trong vùng
này. Đó không chỉ là một trung tâm công nghiệp quan trọng bậc nhất mà còn là
trung tâm tài chính của đất nước. Đất đai và khí hậu của vùng thích hợp cho trồng
lúa mì, lúa nước, bông, chè, lạc. Hoa Trung cũng có những trung tâm du lịch nổi
tiếng như: Hàng Châu,Tô Châu,Thái Hồ. Đó cũng là cái nơi của ngành dệt c
truyền của Trung Quốc mà từ hàng ngàn năm trước đã từng là điểm xuất phát của “
con đường tơ lụa” xuyên Châu Á sang tận Châu Âu và Châu Phi.
Vùng Hoa Nam, nhất là các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, trong những năm gần
đây nổi lên như khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất nước. Công nghiệp hiện
đại và dịch vụ phát triển mạnh ở các thành phố ven biển ( Quảng Châu, Thẩm
Quyến...).Vùng Hoa Nam có tương đối nhiều mỏ quặng nên có điều kiện thuận lợi
để phát triển công nghiệp luyện kim,...Sản phẩm nông nghiệp phong phú: lúa gạo,
chè, mía, lạc...Đảo Hải Nam là nơi sản xuất dừa và cao su. Có các cảng lớn
như:Quảng Châu, Hồng Phố,Trạm Giang. Là vùng có ngành đánh cá rất phát triển.
2.2.3 Tác động tới nền kinh tế Trung Quốc
Nhờ chính sách “Miền Đông đi trước” mà nền kinh tế khu vực này phát triển vượt
trội so với khu vực khác trong nền kinh tế. Đặc biệt, vào thập niên 80 của thế kỷ
20, chính phủ Trung Quốc thiết lập 4 đặc khu kinh tế ở hai tỉnh duyên hải là Quảng
Đông và Phúc Kiến khiến cho khu vực này càng trở thành vùng trũng phát triển.
Trong khoảng thời gian từ năm 1999-2005, khu vực duyên hải không chỉ thu hút
lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà đầu tư của chính phủ Trung Quốc cho
khu vực này cũng cao nhất trong cả nước (khu vực duyên hải: 53%; miền trung:
25%; miền tây: 21%).
Hiện nay khu vực duyên hải đông nam Trung Quốc vẫn là trung tâm kinh tế chính
của Trung Quốc, mặc dù dân số chỉ chiếm 1/3 dân số cả nước nhưng đóng góp trên
50% GDP và 84% xuất khẩu của cả nước. 15 năm qua Đảng Cộng Sản và chính
phủ Trung Quốc đã thực thi nhiều biện pháp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các địa phương miền dun hải phía đông Trung Quốc với khu vực kém phát triển
sâu trong lục địa phía tây, giữa khu vực thành thị và nông thôn, nhưng hiệu quả
chưa thực sự nổi bật.
lOMoARcPSD| 59092960
Tuy nhiên, Trung Quốc còn đối mặt nhiều thách thức, như khoảng cách giàu nghèo
ngày càng lớn, tốc độ mở rộng sản xuất và đô thị hóa tăng nhanh kéo theo những
vấn đề về môi trường và xã hội khác. Hàng loạt yếu tố trong nước và quốc tế tạo ra
thách thức mới đối với tiến trình phát triển của nước này. Cuộc khủng hoảng kinh
tế tài chính tồn cầu làm xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc
chậm lại. Nhập khẩu cũng giảm 17,9% tháng 11 vừa qua.
2.3 Chiến lược “Khai thác miền Tây”
2.3.1 Đặc điểm miền Tây của Trung Quốc
Miền Tây chiếm 4/5 diện tích, chạy dài suốt từ Tân Cương xuống tới Tây Tạng và
Vân Nam. Đó là những vùng núi non trùng điệp, hiểm trở. Có những độ cao từ
1000 tới 4000m, trong đó có những đỉnh núi cáo nhất thế giới như Chumulungma
(8.847m), mà theo tiếng địa phương có nghĩa là “ Bà chúa thượng ngàn”. Xen kẽ
với những dãy núi trùng điệp đó là những cao nguyên khô cằn, giá lạnh, không
thuận lợi cả cho nông nghiệp, công nghiệp và giao thông vận tải. Chính vì vậy,
vùng chiếm phần lớn nhất về diện tích này lại là vùng chỉ chiếm 1/10 dân cư của cả
nước. Xét về phương diện kinh tế thì miền Tây rộng lớn của Trung Quốc khác hẳn
với miền Tây của nước Mỹ, nó chưa đóng góp được bao nhiêu cho sự phát triển
kinh tế của Trung Quốc. Ngược lại, xét trên nhiều phương diện thì đó cũng là một
gánh nặng của nền kinh tế Trung Quốc: giải quyết vấn đề đời sống cho các vùng
dân tộc đang gặp rất nhiều khó khăn, giải quyết vấn đề giao thông vận tải rất tốn
kém, giải quyết những vấn đề biên phòng v.v...
2.3.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “Khai thác miền
Tây” vào cuối thế kỷ XX
Nhờ chiến lược “miền Đông đi trước” đạt được những thành công nhất định giúp
quá trình cải cách và phát triển những thập niên cuối của thế kỷ 20 diễn ra thuận
lợi, kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên bên cạnh đó làm nảy
sinh một vấn đề về sự chênh lệch về phát triển giữa miền Đông (Hoa Trung và Hoa
Đông) và miền Tây, miền Nam và miền Bắc ngày càng lớn. Nguy cơ dẫn đến sự cơ
lập về chính trị. Bên cạnh đó khi quan hệ Xô-Trung xấu đi vào những năm 1950,
nhà lãnh đạo Mao Trạch Đông cũng đã có những ý tưởng về dịch chuyển nhiều dự
án công nghiệp quốc gia lên khu vực miền núi, để bảo đảm an trường hợp nổ ra
một cuộc chiến tranh.
Nhận thấy lợi ích cho Trung Quốc khi có một miền Tây phát triển trong tương lai,
thu hẹp chênh lệch về phát triển giữa hai miền Đông và Tây, giữa các sắc tộc thiểu
số với người Hán. Năm 1999, nhà lãnh đạo quốc gia tối cao của Trung Quốc lúc đó
là Giang Trạch Dân (bính âm: Jiāng Zémín) đã đề xuất việc cần thiết phải triển
lOMoARcPSD| 59092960
khai một chiến lược phát triển miền Tây. Cuối năm 1999, Hội nghị công tác kinh tế
Trung ương tuyên bố mục đích ca chiến lược phát triển miền Tây gồm có: tăng
tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của cả nước, đoàn kết dân tộc, ổn định xã
hội, củng cố phòng thủ biên giới.
2.3.3 Kế hoạch thực hiện
a, Trong quá khứ
Kế hoạch “Khai thác miền Tây”, bao trùm hơn 10 tỉnh, chiếm 3/4 diện tích và 1/4
dân số Trung Quốc. Trung Quốc đã cố gắng xây dựng những con đường xuyên
sang phía Tây, nhằm phát triển kinh tế văn hóa ở miền Tây, khắc phục bớt chênh
lệch quá đáng giữa Đông và Tây. Nhưng việc đó vẫn đang gặp khó khăn. Biển và
các sân bay đã cạnh tranh một cách thắng lợi với những con đường xuyên núi và sa
mạc. Những khoảng cách quá xa và đại hình hiểm trở khiến cho việc làm những
con đường xe lửa sang miền Tây là quá tốn kém và ít có khả năng thu hồi vốn đầu
tư. Tuy khó khăn nhưng Trung Quốc đã xây dựng đường sắt lên Tây Tạng. Tháng 1
năm 2000, Chính phủ Trung Quốc đã quyết định thành lập một tổ chỉ đạo phát
triển miền Tây do đích thân thủ tướng Chu Dung Cơ (Zhū Róngjì) làm tổ trưởng,
phó thủ tướng Ôn Gia Bảo làm tổ phố, và các thành viên khác đều là những quan
chức cấp cao hàng bộ trưởng. Tháng 3 năm 2001, kế hoạch 5 năm phát triển kinh
tế xã hội lần thứ 11 của Trung Quốc đã phê phán sự chênh lệch về thu nhập giữa
các miền của Trung Quốc và tuyên bố chính phủ Trung Quốc sẽ lấy thời kỳ 5 năm
từ 2001 đến 2005 làm thời gian thật trọng tâm để đầu tư xây dựng công trình hạ
tầng xã hội cho miền Tây nhằm giúp khu vực này trong vòng từ 5 đến 10 năm sẽ
phát triển nhanh chóng.
Năm 2003, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh đại khai phát miền Tây. Năm 2003,
Trung Quốc nêu chủ trương chấn hưng các cơ sở công nghiệp vùng Đông Bắc.
Năm 2003, Quảng Đông đưa ra chủ trương Hợp tác vùng Chu Giang mở rộng
(9+2). Hợp tác vùng Chu Giang kết nối giữa các tỉnh thuộc miền duyên hải phía
Đông với các tỉnh miền Trung (Hồ Nam, Giang Tây) và các tỉnh phía Tây (Tứ
Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây). Năm 2004, Trung Quốc nêu ra ch
trương “miền Trung trỗi dậy”. Tháng 1-2008, Trung Quốc công bố “Quy hoạch
phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây”, đưa hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở
rộng lên tầm chiến lược quốc gia, phấn đấu xây dựng cực tăng trưởng mới giữa
Trung Quốc và ASEAN. Tháng 10-2008, Trung Quốc công bố “Cương yếu quy
hoạch cải cách và phát triển vùng Chu Giang”, khuyến khích Quảng Đơng tiếp tục
đi đầu cải cách mở cửa. Tháng 2-2009, Trung Quốc công bố “ý kiến về cải cách và
phát triển phối hợp thành thị nông thôn của Trùng Khánh”, đưa hình phát triển
phối hợp thành thị nông thôn. Trùng Khánh trở thành chiến lược quốc gia, phấn
lOMoARcPSD| 59092960
đấu xây dựng cực tăng trưởng mới ở miền Tây Trung Quốc. Ngày 14-5-2009,
Quốc vụ viện Trung Quốc công bố “Mấy ý kiến về khuyến khích tỉnh Phúc Kiến
đẩy nhanh xây dựng Khu kinh tế bờ Tây hai bờ eo biển”(5). Ngày 10-6-2009,
Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Quy hoạch phát triển vùng ven biển Giang
Tô”. Ngày 25-6-2009, Quốc vụ viện Trung Quốc công bố “Quy hoạch phát triển
Khu kinh tế Quan Trung-Thiên Thủy” giữa hai tỉnh miền Tây là Thiểm Tây và
Cam Túc. Ngày 1-7-2009, Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Quy hoạch phát
triển vành đai kinh tế ven biển Liêu Ninh”. Ngày 14-8-2009, Quốc vụ viện Trung
Quốc phê chuẩn “Quy hoạch phát triển tổng thể khu Hoàng Cầm” (khu kết nối
giữa Chu Hải –Ma Cao và Hồng Kông). Ngày 30-8-2009, Quốc vụ viện Trung
Quốc thông qua “Cương yếu Quy hoạch phát triển hợp tác khu vực Đồ Môn
Giang” (tỉnh Cát Lâm). Ngày 23-9-2009, Quốc vụ viện thông qua “Quy hoạch thúc
đẩy miền Trung trỗi dậy”. Ngày 2-12-2009, Quốc vụ viện thông qua “Quy hoạch
phát triển khu kinh tế sinh thái cao lưu vực Hoàng Hà”.
b, Hiện nay
Tại thời điểm hiện nay Trung Quốc vẫn đang tìm kiếm động lực tăng trưởng mới từ
khu vực miền Tây giàu năng lượng, trong bối cảnh xuất khẩu – vốn chủ yếu dựa
vào các tỉnh duyên hải miền Đông, chịu tác động tiêu cực từ đại dịch, đối diện với
sức ép ngày một lớn trong bối cảnh Mỹ đe dọa phân tách kinh tế. Chiến lược
“Hướng Tây” được Bắc Kinh công bố ngày 17/5 xuất hiện tại thời điểm chính
quyền hoạch định chiến lược một thế giới hậu COVID-19 ít hữu nghị hơn, dễ đốn
định hơn đối với Trung Quốc. Trong khi lãnh đạo chính phủ Trung Quốc cam kết
sẽ tiếp tục mở cửa, chiến lược mới hướng đến mc tiêu đưa nền kinh tế lớn thứ hai
thế giới hướng nội và tập trung vào thị trường nội địa rộng lớn.
“Tăng cường nỗ lực để thúc đẩy khu vực miền Tây là một quyết định quan trọng,
để xử lý yêu cầu cân bằng phát triển vùng miền, điều phối các lợi ích tổng thể, cả
đối nội và đối ngoại”, tài liệu mới được Chính phủ và Ủy ban Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc đồng công bố.
Trong kế hoạch này, Trung Quốc nêu ra nhiều dự án hạ tầng giao thông mới cho
miền Tây, trong đó có tuyến đường sắt Tứ Xuyên-Tây Tạng, đường sắt cao tốc
chạy dọc theo song Dương Tử, cùng với đó là một loạt sân bay, đập chứa nước,
thủy lợi. Chính phủ cũng sẽ phát triển các dự án năng lượng mới, như các cơ sở trữ
dầu mỏ, khí đốt, khuyến khích các dự án công nghiệp dịch chuyển sản xuất về phía
Tây thay vì tái bố trí ở ngồi nước.
Chiến lược mới thừa nhận tầm quan trọng của khu vực miền Tây trong việc thực
hiện các mục tiêu của chính phủ Trung Quốc về xóa nghèo vào cuối năm nay. Nó
cũng tạo ra cho Trung Quốc dư địa để điều chỉnh chiến lược.
lOMoARcPSD| 59092960
Trung Quốc đang phải đối mặt với thách thức lớn trong duy trì vai trị đối với chuỗi
giá trị toàn cầu. Xuất khẩu của Trung Quốc trong 4 tháng đầu năm giảm 9%, trong
khi vị thế của Bắc Kinh trong chuỗi cung ứng Trung Quốc đang bị đe dọa khi
chính quyền Tổng thống Trump tìm cách đổ tội cho Trung Quốc vì để bùng phát
đại dịch.
Kế hoạch mới cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy sáng kiến Vành đai và
Con đường (BRI), một chiến lược do ông Tập Cận Bình khởi xướng để mở rộng
ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế thông qua một mạng lưới các dự án
hạ tầng và kế nối thương mại giữa các quốc gia châu Á, châu Âu và châu Phi. Các
tỉnh cực Tây nằm ở rìa Đông của Con đường Tơ lụa hiện đại. Kế hoạch “Hướng
Tây” kêu gọi mở rộng kết nối giao thông giữa châu Âu với Đông Nam Á.
“Môi trường quốc tế đang trải qua những thay đổi rõ nét ngay cả trước khi dịch
bệnh bùng phát, ví như cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung mà chúng ta được chứng
kiến. Trung Quốc sẽ dựa nhiều hơn vào nhu cầu trong nước để duy trì tăng trưởng
trong tương lai. Suy đến cùng, Trung Quốc là thị trường lớn nhất thế giới”, ông
Tang Jianwei, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại Ngân hàng Viễn Thông
Trung Quốc đánh giá.
2.3.4 Tác động tới nền kinh tế trung quốc
Sáu năm liên tục gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của miền
Tây Trung Quốc là 10,6%. Tổng GDP của miền Tây năm 2005 đã lên tới 3,33
nghìn tỷ yuan, trong khi năm 2000 thì mới chỉ đạt 1,66 nghìn tỷ yuan. Thu nhập
ròng ở khu vực thành thị tăng với tốc độ bình quân 10% mỗi năm và ở khu vực
nông thôn là 6,8%.
Tính đến năm 2006, đã có hàng loạt dự án tổng trị giá tới 1 nghìn tỷ yuan để phát
triển cơng trình hạ tầng xã hội. Trong 500 công ty lớn nhất của thế giới đã có 100
công ty đầu tư vào miền Tây.
Các tỉnh miền Tây đã chứng tỏ được khả năng trụ vững về kinh tế tốt hơn trong đại
dịch COVID-19 vừa qua. GDP của Trung Quốc trong quý 1 năm nay giảm 6,8%,
với mức giảm sâu đến từ các trung tâm sản xuất miền Đông như Quảng Đông hay
Chiết Giang. Các tỉnh miền Tây, nổi bật là Tân Cương, duy trì được sức đề kháng
áp đảo so với miền Đông, với GDP giảm nhẹ.
Tuy nhiên theo số liệu đến cuối năm 2018, tức sau gần 20 năm thực hiện “Khai
thác miền Tây” đã giúp nâng cao mức đóng góp về sản lượng kinh tế của khu vực
này từ 1,8% lên 20,5% tổng GDP quốc gia. Cùng với đó, chênh lệch phát triển
vùng miền xét trên tổng GDP, doanh thu, thương mại giữa miền Đông với miền
Tây vẫn cách xa.
lOMoARcPSD| 59092960
2.4 Chiến lược “miền Trung trỗi dậy”
2.4.1 Đặc điểm miền Trung của Trung Quốc
Miền Trung Trung Quốc gồm 6 tỉnh: Sơn Tây, An Huy, Giang Tây, Hà Nam, Hồ
Bắc và Hồ Nam. Đây là trung tâm sản xuất lương thực, trung tâm nguyên vật liệu
và năng lượng, trung tâm ngành chế tạo thiết bị và đầu mối giao thông quan trọng
của Trung Quốc.
2.4.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “miền Trung trỗi
dậy” bắt đầu vào năm 2004.
Với tổng diện tích chỉ bằng 1/10 diện tích Trung Quốc nhưng chiếm 31,2% s
nơng dân trong cả nước. Cuối thế kỷ 20 sang tới đầu thế kỷ 21, vai trị của miền
Trung trong cơng cuộc cải cách kinh tế ngày càng giảm. Chênh lệch Tổng giá sản
phẩm quốc nội (GDP) của miền Trung chỉ bằng 1/6 miền Đông. Thu nhập bình
quân đầu người của miền Trung cũng thấp hơn so với cả nước. Trong khi xu thế và
tốc độ phát triển không chỉ thấp hơn nhiều so với khu vực ven biển miền Đông, mà
cũng thấp hơn cả khu vực miền Tây. Từ khi Trung Quốc thực hiện chiến lược “Đại
khai phá miền Tây”, đầu tư của Nhà nước vào miền Trung vốn đã ít nay càng ít
hơn. Thêm vào đó, tiến trình công nghiệp hóa, đơ thị hóa của khu vực miền Trung
cũng thấp hơn mức bình quân của cả nước. Theo các chuyên gia kinh tế, có nhiều
nguyên nhân khiến miền Trung tụt hậu. Cụ thể, khu vực miền Trung đang dần mất
đi ưu thế phát triển sẵn có do tác động của công cuộc cải cách mở cửa; chiến lược
phát triển đất nước của Trung Quốc thay đổi trong thời gian dài. Trung Quốc tập
trung phát triển khu vực ven biển miền Đơng bằng nhiều chính sách ưu đãi. Khu
vực miền Trung không chỉ bất lợi về phân công kinh tế khu vực mà cũng rơi vào
thế bị động, mất đi ưu thế về nhân tài, vốn và tài nguyên. Chỉ dựa vào nội lực thì
không đủ sức tạo nên ưu thế phát triển kinh tế của khu vực miền Trung. Thêm vào
đó, tiến trình đơ thị hóa chậm chạp ở khu vực miền Trung đã gây khó khăn trong
giải quyết việc làm cho nông dân, nhất là những người sống ở những khu vực nửa
thành thị, nửa nông thôn.
Chiến lược “miền Trung trỗi dậy” lần đầu tiên được các nhà lãnh đạo Trung Quốc
chính thức đề cập tại Hội nghị T.W về công tác kinh tế của Trung Quốc tháng
122004. Mục đích là nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền,
thực hiện phát triển cân bằng, bền vững trên phạm vi toàn Trung Quốc.Đây được
coi là một trong những nhiệm vụ kinh tế quan trọng của Trung Quốc trong tương
lai. Trong một cuộc thị sát ở Vũ Hán, (Hồ Bắc) Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo
nhấn mạnh: miền Trung phải phát huy ưu thế về địa lý, tài nguyên và khoa học k
thuật, xây dựng miền Trung thành khu vực sản xuất lương thực, cung cấp năng
lượng và phát triển khoa học kỹ thuật của Trung Quốc. Tuy nhiên, không giống với
lOMoARcPSD| 59092960
miền Đông, Đông-Bắc và miền Tây, miền Trung không phải là khu vực nhất thể
hóa kinh tế mà là một khu vực lớn với những yếu tố về địa hình phức tạp. Chính vì
vậy, trong hai năm đầu kể từ khi thủ tướng đề cập tới, mọi biện pháp nhằm phát
triển 6 tỉnh miền Trung trong chiến lược “miền Trung trỗi dậy” vẫn dừng lại ở
những cuộc điều tra, nghiên cứu của chính phủ Trung Quốc.
2.4.3 Kế hoạch thực hiện
Các chuyên gia kinh tế Trung Quốc cho rằng, để thực hiện tốt chiến lược “miền
Trung trỗi dậy”, cần phải có sự giúp đỡ mạnh mẽ từ bên ngồi. Trong đó, chính phủ
Trung Quốc cần có nhiều ưu đãi hơn nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đầu tư vào khu vực này. Bên cạnh đó, chính phủ cần có biện pháp chuyển
dịch ngành nghề từ miền Đông sang miền Trung; chuyển các dự án xây dựng trọng
điểm quốc gia từ khu vực ven biển hoặc những nơi kinh tế phát triển khác sang
miền Trung nhằm tạo động lực phát triển kinh tế. Song, trước mắt khu vực này
phải dựa vào thế mạnh tài nguyên thiên nhiên, thế mạnh trong việc đi tắt đón đầu
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại. Một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh
tế miền Trung là dựa vào cải cách mở cửa nhằm tạo động lực mới thúc đẩy kinh tế
miền Trung phát triển, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa vùng
này với các vùng khác ở đất nước 1,3 tỷ dân này.
3. Phân tích tác động của các chính sách đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung
Quốc
3.1 Lý do và mục đích Trung Quốc xây dựng các đặc khu kinh tế
Vào thời điểm cuối những năm 1970 của thế kỷ XX, trước hiện trạng một nền kinh
tế quốc dân lâm vào suy thoái, trào lưu kinh tế mới đang xuất hiện trên thế giới,
Chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng nhìn nhận lại con đường phát triển của
mình. Hiểu rõ xu thế vận động quốc tế, một chiến lược mở cửa với nhiều biện pháp
khác nhau đã được các nhà lãnh đạo Trung Quốc đề ra. Trong đó, Chính phủ Trung
Quốc đã sử dụng một mô hình kinh tế hoàn toàn mới để kết hợp tiềm năng trong
nước và xu thế quốc tế, đó là mơ hình đặc khu kinh tế (ĐKKT).
Các ĐKKT xuất hiện ở Trung Quốc trong những năm đầu thập kỷ 80 và nhanh
chóng trở thành chiếc cầu nối những luồng tư bản khổng lồ từ các nước tư bản và
các nước công nghiệp mới, với một thị trường lao động và tiêu thụ hàng hoá 1,2 t
người. Mặc dù ĐKKT ban đầu chỉ được Trung Quốc triển khai với tư cách là một
mô hình thử nghiệm nhưng mô hình này đã gặt hái được khá nhiều thành tựu.
Với mục tiêu xây dựng các ĐKKT thành những “Hồng Kông xã hội chủ nghĩa”,
Trung Quốc đặc biệt chú trọng tới việc lựa chọn địa điểm xây dựng đặc khu. Các
lOMoARcPSD| 59092960
khu vực được chọn đều ở gần các tuyến giao thông đường bộ, đường biển, đường
hàng không, tạo nên cửa ngõ hữu hiệu nối liền kinh tế nội địa với kinh tế thế giới.
3.1.2 Kế hoạch thực hiện
Năm 1978, bốn đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc đã được thành lập tại
Phúc Kiến và Thâm Quyến trong hai năm tiếp theo với mục tiêu tạo một khu vực
mở với thế giới và thử nghiệm các chính sách đặc biệt. Sau khi thử nghiệm thành
công, mô hình này đã được nhân rộng tới hơn 191 khu vực. Chính phủ Trung Quốc
đã mạnh dạn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chấp nhận chi phí và rủi ro. Điển hình từ
năm 1980 - 1983, Trung Quốc đã đầu tư khoảng 1,9 tỷ NDT (tương đương khoảng
980 triệu USD) vào việc xây dựng các công trình ở Thâm Quyến.
Để đẩy nhanh quá trình xây dựng ĐKKT trong giai đoạn đầu thành lập, chính
quyền các đặc khu đã nghĩ ra nhiều cách thức huy động vốn bên cạnh nguồn kinh
phí từ ngân sách nhà nước. Các ngân hàng được khuyến khích tối đa trong việc
huy động các nguồn vốn trong và ngoài đặc khu, để tạo nguồn cho đặc khu vay.
Các công ty xây dựng cũng ra sức huy động vốn qua các hình thức tín dụng tài trợ
dự án, hoặc yêu cầu người có nhu cầu sử dụng cơ sở hạ tầng ứng trước một phần
vốn để xây dựng.
Đặc biệt, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào đặc khu, Trung Quốc đã đưa ra một
loạt các chính sách ưu đãi hấp dẫn các nhà đầu tư, tạo nên mơi trường kinh doanh
thông thoáng và thuận lợi.
Các chính sách ưu đãi của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở các ưu đãi về thuế, mà
còn ưu tiên về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về sử dụng đất, phân chia thu nhập tài
chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với việc xuất nhập cảnh của nhà đầu
nước ngoài …
Cụ thể, các khoản đầu tư này sẽ khơng phải nộp thuế nếu chưa thu về lợi nhuận.
Các doanh nghiệp (DN) sẽ được miễn thuế trong 2 năm đầu tiên. Trong năm thứ 3
và thứ 4, DN sẽ chỉ phải trả 50% sắc thuế thông thường. Chỉ tới năm thứ 5, DN
mới phải trả thuế đầy đủ.
3.1.3 Tác động với nền kinh tế Trung Quốc
Năm 1992, Thâm Quyến thu hút 14% tổng vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc
(4,3 tỷ USD). Hiện tại, Thâm Quyến trở thành một trong những trung tâm xuất,
nhập khẩu chính với một nền tảng sản xuất tiên tiến. Theo Wikipedia, với vốn hóa
thị trường của các DN niêm yết khoảng 2.285 tỷ USD vào năm 2015, Thâm Quyến
là sàn giao dịch chứng khoán lớn thứ 8 trên thế giới và lớn thứ 4 tại Đông Á và
châu Á...
lOMoARcPSD| 59092960
Đặc khu kinh tế đã thể hiện vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Trung Quốc,
đóng góp từ 50% tới 80-90% tăng trưởng GDP tại một số khu vực; nâng cao chất
lượng công nghệ tại nhiều địa phương.
Các yếu tố thành công của đặc khu bao gồm:
Sự cam kết và hỗ trợ của Chính phủ trong việc đẩy mạnh các cải cách kinh tế theo
hướng thị trường: Chính quyết tâm tạo ra sự khác biệt thơng qua những cải cách
liên tục đã dẫn tới sự tin tưởng vào một môi trường kinh tế vĩ mô cởi mở và ổn
định. Khối trung ương cố gắng phân quyền, giúp tạo ra một hệ thống pháp lý m
và hiệu quả cho các đặc khu. Chính quyền cấp địa phương cố gắng xây dựng cơ
chế hành chính thơng thống, minh bạch (cơ chế một cửa) cho các nhà đầu tư và tạo
cơ sở vật chất tốt cho khu vực.
Dù đã có hơn 4.000 đặc khu kinh tế trên tồn thế giới nhưng những mơ hình thành
cơng như Thâm Quyến của Trung Quốc là rất ít, chưa nói đến cái giá phải trả cũng
không nhỏ.
3.2 Chính sách Hương Trấn
Một trong những đặc điểm và cũng là một sáng tạo lớn của Trung Quốc là sự phát
triển “Công nghiệp Hương Trấn”. Đó là khu vực tư nhân ở nông thôn kinh doanh
công nghiệp bằng cách khai thác những tiềm năng của địa phương, một phần tham
gia vào thị trường trong nước và thị trường thế giới.
3.2.1 Khái quát
Đây là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc rất nhỏ. Có tới 99% xí nghiệp hương
trấn có không quá 50 lao động. Chính quyền Trung Quốc xếp các doanh nghiệp
này vào một khu vực riêng. Năm 1977, Trung Quốc ban hành Luật Xí nghiệp
hương trấn để điều chỉnh khu vực này.
Trong suốt hai mươi năm đầu tiên từ khi mở cửa, các xí nghiệp hương trấn là một
trong những khu vực năng động nhất trong nền kinh tế Trung Quốc và có tốc độ
tăng trưởng rất nhanh
Mặc dù đóng tại khu vực nông thôn, song hầu hết các xí nghiệp hương hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp, ngoài ra còn trong lĩnh vực nông nghiệp, thương
nghiệp, vận tải, xây dựng.
Xí nghiệp hương trấn có thể do chính quyền các hương và trấn thành lập. Giang
là nơi tiêu biểu cho kiểu xí nghiệp hương trấn này.
Xí nghiệp hương trấn cũng có thể do tập nông dân thành lập. Ôn Châu là nơi tiêu
biểu cho kiểu này
lOMoARcPSD| 59092960
3.2.2 Qúa trình phát triển
Loại hình xí nghiệp này nở rộ ngay khi Trung Quốc tiến hành mở cửa. Vì khu vực
này đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương, nên
nó được các chính quyền địa phương hậu thuẫn. Mặt khác, các xí nghiệp hương
trấn hoạt động trong những thị trường ngách, nên ít chịu sự cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước độc quyền.
Tuy nhiên trong những năm 1984- 1985, loại hình này gặp phải đợt suy thoái thứ
nhất, do chính quyền Trung Quốc thắt chặt tín dụng.
Trong các năm 1996 và 1997, khu vực xí nghiệp hương trấn gặp phải đợt suy thoái
thứ hai do kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại và khu vực Đông Á bị khủng
hoảng kinh tế.
Năm 1997, Trung Quốc có luật về xí nghiệp hương trấn, và khu vực này có sự
chuyển biến. Nhiều xí nghiệp hương trấn đã chuyển đổi thành các doanh nghiệp
nhân hoặc doanh nghiệp cổ phần.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59092960
TIỂU LUẬN MÔN: ĐỊA LÝ KINH TẾ VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI: Hãy phân tích tác động của Chiến lược “miền
Đông đi trước” vào những năm đầu cải cách đất nước (từ
1978), tiếp theo là “khai thác miền Tây” những năm cuối thế
kỉ XX và “miền Trung trỗi dậy” bắt đầu từ 2004, cùng với
chính sách xây dựng các đặc khu kinh tế và phát triển công
nghiệp “Hương trấn” đến sự phát triển kinh tế Trung Quốc.
Giáo viên giảng dạy
: Th.s Trần Văn Kết Tên sinh viên : Hoàng Văn Sơn Mã sinh viên : 2520221083 Lớp : Ql25.30 lOMoAR cPSD| 59092960 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
B. NỘI DUNG .......................................................................................................... 5
1. Khái quát về Trung Quốc .................................................................................... 5
1.1 Đặc điểm ........................................................................................................ 5
1.1.1 Diện tích ............................................................................................... 5
1.1.2 Khí hậu ................................................................................................. 5
1.1.3 Văn hóa ................................................................................................. 5
1.1.4 Dân tộc và con người ........................................................................... 5
1.1.5 Ẩm thực ................................................................................................ 6
1.1.6 Kinh tế .................................................................................................. 6
1.1.7 Khoa học kỹ thuật ................................................................................ 6
1.2 Mục tiêu của Trung Quốc .............................................................................. 6
2. Phân tích tác động của các chiến lược đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung
Quốc ........................................................................................................................ 8
2.1 Lý do sự xuất hiện của các chiến lược .......................................................... 8
2.2 Chiến lược “ miền Đông đi trước” vào những năm đầu cải cách đất nước
(1978) .................................................................................................................. 9
2.2.1 Đặc điểm miền Đông ............................................................................ 9
2.2.2 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 10
2.2.3 Tác động tới nền kinh tế Trung Quốc ................................................ 11
2.3 Chiến lược “Khai thác miền Tây” ............................................................... 12
2.3.1 Đặc điểm miền Tây của Trung Quốc ................................................. 12
2.3.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “Khai thác
miềnTây” vào cuối thế kỷ XX .................................................................... 12
2.3.3 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 13
a, Trong quá khứ .......................................................................................... 13
b, Hiện nay .................................................................................................. 14
2.3.4 Tác động tới nền kinh tế trung quốc .................................................. 15
2.4 Chiến lược “miền Trung trỗi dậy” ............................................................... 16 lOMoAR cPSD| 59092960
2.4.1 Đặc điểm miền Trung của Trung Quốc .............................................. 16
2.4.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “miền Trung
trỗi dậy” bắt đầu vào năm 2004 .................................................................. 16
2.4.3 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 17
3. Phân tích tác động của các chính sách đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung
Quốc ...................................................................................................................... 17
3.1 Lý do và mục đích Trung Quốc xây dựng các đặc khu kinh tế ................... 17
3.1.2 Kế hoạch thực hiện ............................................................................. 18
3.1.3 Tác động với nền kinh tế Trung Quốc................................................ 18
3.2 Chính sách Hương Trấn ............................................................................... 19
3.2.1 Khái quát ............................................................................................ 19
3.2.2 Qúa trình phát triển ........................................................................... 20
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 21 lOMoAR cPSD| 59092960 A. MỞ ĐẦU
Trong tất cả các quốc gia trên thế giới, hiếm có quốc gia nào luôn tồn tại một tinh
thần dân tộc và tham vọng mãnh liệt qua mọi thời kì như trung Quốc. Kể cả vào
thời kỳ khó khăn và nghèo khổ nhất,khi đất nước Trung Quốc bị các nước phương
Tây xâu xé,tham vọng ấy vẫn luôn hiện hữu trong con người Trung Quốc. Đây
cũng là điều mà bấy lâu nay em luôn muốn đào sâu tìm hiểu, về con người Trung
Quốc, về nền kinh tế hùng mạnh của Trung Quốc. Cùng với các chiến lược và
chính sách đúng đắn mà Trung Quốc đã quyết tâm theo đuổi trong 40 năm vừa
qua. Trung Quốc đã có thể vực dậy nền kinh tế đã bị thuốc phiện và các cuộc nội
chiến tàn phá. Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài 3 để phân tích. Vì các chính
sách này tạo nên nền tảng của nền kinh tế Trung Quốc hiện đại. Mặc dù dịch bệnh
COVID 19 đã tàn phá thế giới, làm suy thoái các nền kinh tế lớn trên thế giới thì
Trung Quốc được coi là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới vẫn tăng trưởng mạnh mẽ, có
thể nhìn thấy viễn cảnh Trung Quốc vượt qua Mỹ và lấy lại vị trí siêu cường số 1
thế giới. Đây cũng có thể sẽ là hình mẫu đáng tham khảo cho Việt Nam ta phát triển về sau. lOMoAR cPSD| 59092960 B. NỘI DUNG
1. Khái quát về Trung Quốc
Nói đến quốc gia có nền kinh tế hùng mạnh, diện tích rộng lớn là đông dân nhất thế
giới với bề dày lịch sử và văn hóa đa dạng, cũng như cảnh quan thiên nhiên xinh
đẹp lạ kỳ, thì chỉ có thể là Trung Quốc mà thôi.
Trung Quốc là tên gọi đã được sử dụng từ khoảng 1000 năm TCN. Thời đó người
Trung Quốc coi nước mình là trung tâm của thế giới, Trung Quốc có nghĩa là nước nằm giữa thiên hạ. 1.1 Đặc điểm 1.1.1 Diện tích
Trung Quốc là nước lớn thứ 3 trên thế giới (9.596.960 km2)chỉ sau Nga và
Canada.Đây là nước đông dân nhất thế giới,dân số hơn 1 tỷ người.địa hình tương
đối đa dạng với sa mạc,cao nguyên,núi non,và các đồng bằng màu mỡ được bồi
đắp bởi phù sa các con sông Hoàng Hà,Dương Tử,Hắc Long Giang,Mê Kông … 1.1.2 Khí hậu
Trung Quốc nằm trong khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khô. Do đất
nước rộng lớn, địa hình rất đa dạng, độ cao chênh lệch lớn nên khí hậu từ đó cũng
đa dạng theo. Trừ vùng cao nguyên Thanh Tạng có địa hình quá cao ra, cả nước
đều thường xuyên nóng quanh năm. 1.1.3 Văn hóa
Văn hóa Trung Quốc từ thời cổ đại đã chịu ảnh hưởng mạnh từ Nho giáo và các
triết học bảo thủ. Ở đa số các triều đại , muốn được cơ hội thăng tiến xã hội thì
phải phấn đấu đạt thành tích cao trong các kỳ khoa cử. Việc chú trọng văn chương
trong các kỳ thi tác động đến nhận thức chung về văn hóa, như niềm tin rằng thư
pháp, thi họa là các loại hình nghệ thuật đứng trên các loại hình khác. Văn hóa
Trung Quốc từ lâu đã tập trung vào ý thức lịch sử sâu sắc và phần lớn là hướng nội.
Hiện nay, chính phủ dần chấp thuận nhiều yếu tố của văn hóa Trung Hoa truyền
thống có tính nguyên đối với xã hội Trung Quốc. Nhiều hình thức nghệ thuật, văn
chương, âm nhạc, điện ảnh, thời trang và kiến trúc về Trung Hoa truyền thống
chứng kiến một sự phục hưng mạnh mẽ.
1.1.4 Dân tộc và con người
Tại Trung Quốc có khoảng hơn 100 dân tộc, trong đó đông nhất là người
Hán( chiếm khoảng 93% dân số), là dân tộc với sắc thái ngôn ngữ và văn hóa có
nhiều khác biệt. Trong lịch sử Trung Quốc, nhiều dân tộc bị các dân tộc xung lOMoAR cPSD| 59092960
quanh đồng hóa hoặc biến mất không để lại dấu tích.Một số dân tộc khác lọt vào
trong vùng sinh sống của dân tộc Hán đã bị Hán hóa, khiến cho dân tộc này trở nên
đông một cách đáng kể, thực ra có nhiều người được coi là người Hán nhưng có
truyền thống văn hóa và đặc điểm ngôn ngữ khác hẳn. 1.1.5 Ẩm thực
Đất nước Trung Quốc sở hữu một nền ẩm thực đa dạng, có nền tảng là lịch sử ẩm
thực hàng ngàn năm. Các quân chủ Trung Hoa cổ đại được biết là có nhiều phòng
ăn trong cung, mỗi phòng lại chia thành vài gian, mỗi gian phục vụ một loại món
ăn đặc trưng. Lúa gạo là cây lương thực phổ biến nhất, kế đến là lúa mì - loại cây
trồng tập trung tại đồng bằng miền Bắc. Thịt lợn là loại thịt phổ biến nhất tại Trung
Quốc và là gia vị trọng tâm trong ẩm thực Trung Hoa. 1.1.6 Kinh tế
Đât là nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới nếu tính theo sản phẩm quốc nội GDP. Giao
dịch thương mại giữa các nước Châu Á và Trung Quốc ngày càng phát triển, đóng
vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở khu vực.
Trong xu hướng hội nhập quốc tế ngày nay, văn hóa phương Đông lại càng được
nghiên cứu nhiều hơn và việc học tiếng Trung là công cụ tốt nhất để bắt đầu tìm
hiểu về văn hóa phương Đông. Trung Quốc còn là nơi bạn đến để du học bằng
tiếng Trung với chất lượng giáo dục cao, ngành nghề đào tạo rất đa dạng và phù
hợp với nhiều trình độ, chi phí thấp.
1.1.7 Khoa học kỹ thuật
Trong số những thành tựu về khoa học của Trung Quốc phải kể đến tứ đại phát
minh: la bàn, thuốc súng, kỹ thuật làm giấy và thuật in ấn. Ngoài ra cũng phải kể
đến các phát minh nổi trội như bàn tính, cung tên, bàn đạp ngựa, sơn mài, bánh lái,
địa chấn ký, sành sứ, tiền giấy,…
1.2 Mục tiêu của Trung Quốc
Trong khoảng 100 năm qua, các chính trị gia hàng đầu của Trung Quốc đã nhiều
lần nhắc tới việc Trung Quốc phải đứng đầu thế giới. Trong chủ nghĩa tam dân, Tôn Trung Sơn nêu rõ:
Dân tộc Trung Hoa là dân tộc lâu đời nhất thế giới, là dân tộc lớn nhất thế giới,
là dân tộc văn minh nhất thế giới, là dân tộc có khả năng đại đồng hóa nhất thế
giới …So với các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc chúng ta vẫn đông nhất và lớn
nhất. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến nay vẫn là dân tộc ưu tú nhất trên
thế giới”. Trong cuốn “ Phương lược kiến quốc”, ông nhắc lại: “Đất đai của
Trung Quốc rộng lớn hơn Mỹ. Tài nguyên khoáng sản phong phú, đứng đầu thế
lOMoAR cPSD| 59092960
giới. Dân số có tới 400 triệu người, cũng đứng đầu thế giới. Tài trí thông minh của
người Trung Quốc cũng nổi tiếng từ thời xa xưa. Việc kế thừa nền văn hóa 5.000
năm cũng là điều thế giới chưa từng có. Hàng nghìn năm trước cũng đã từng là
quốc gia hùng mạnh trên thế giới”
.
Sau đó, Mao Trạch Đông cũng cho rằng vượt qua Mỹ là trách nhiệm của Trung
Quốc. Ngày 29 tháng 10 năm 1955, trong bài phát biểu tại cuộc hội đàm về cải tạo
công thương nghiệp, Mao Trạch Đông từng nói:
Mục tiêu của chúng ta là phải đuổi kịp và vượt Mỹ. Nước Mỹ chỉ có hơn 100
triệu dân, còn chúng ta có hơn 600 triệu dân, do đó chúng ta phải đuổi kịp Mỹ…
Ngày nào đuổi kịp Mỹ, vượt qua Mỹ chúng ta mới mở mày mở mặt. Hiện chúng ta
vẫn chưa là gì, bị các nước khác chèn ép… Chúng ta cần phải lãnh trách nhiệm
này. Trên thế giới, cứ bốn người chúng ta có một người, do đó không phấn đấu
vươn lên là điều không thể chấp nhận được, chúng ta nhất định cần phải phấn đấu
vươn lên không chịu thua kém”
.
Tới thời Đặng Tiểu Bình trong thập niêm 1980, Đặng Tiểu Bình từng đề xuất thực
hiện “chiến lược ba bước” với thời gian 70 năm, đến khi kỷ niệm 100 năm dựng
nước (năm 2049) sẽ đưa Trung Quốc trở thành siêu cường đứng đầu thế giới. Bước
thứ nhất, cần 10 năm để đạt được mức sống ăn no mặc ấm; bước thứ hai, cần 10
năm để đạt được mức sống khấm khá, bước thứ ba, cần 50 năm trong thế kỷ 21 để
thực hiện mục tiêu vĩ dại chấn hưng dân tộc. Ngày 15 tháng 4 năm 1985, Đặng
Tiểu Bình nhấn mạnh: “Nay chúng ta thực hiện việc mà Trung Quốc vài nghìn năm
chưa từng làm. Cuộc cải cách này không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc, mà còn
tác động tới thế giới”.
Theo báo Bưu điện Huffington (Mỹ) ngày 30 tháng 5 năm 2012, hơn 20 năm kể từ
khi Liên Xô tan rã và thế giới trải qua giai đoạn “đơn cực” do Mỹ đứng đầu,
Trung Quốc đang dần nổi lên thành siêu cường mới nhất. Báo này nhận xét rằng
Trung Quốc không nôn nóng mà chấp nhận sự phát triển dài hơi.
Đầu năm 2010, tại Trung Quốc xuất bản cuốn sách “Trung Quốc mộng” của Đại tá
Lưu Minh Phúc, giảng viên Đại học Quốc phòng Bắc Kinh, gây tiếng vang trong
và ngoài nước. Tác giả đã có những so sánh, phân tích và những bước đi dể Trung
Quốc thực hiện Giấc mộng Trung Hoa – siêu cường số một thế giới. Tác giả phân
tích: muốn đấth nước trỗi dậy tất cả phải có “chí lớn”, nước lớn không có chí lớn
tất sẽ suy thoái, nước nhỏ mà có chí lớn cũng có thể trỗi dậy. Sự chuẩn bị về “chí
hướng” là không thể thiếu được đối với người Trung Quốc. Trong Chương IV, tác
giả cho rằng cần phải xây dựng “Trung Quốc vương đạo” kế thừa truyền thống
Trung Hoa, lấy đó làm nguồn sức mạnh cho văn hóa, đạo đức và “ảnh hưởng
mềm” của Trung Quốc trên thế giới. Văn minh Trung Hoa có bề dày lịch sử lâu đời lOMoAR cPSD| 59092960
bậc nhất trên thế giới, cần phải phân tích những bài học trị quốc trong lịch sử, đồng
thời phải luôn tâm niệm “vương đạo” là: “không chèn ép bốn bể, không ức hiếp lân
bang, hùng cường nhưng không ngang ngược, lớn mạnh nhưng không xưng bá”.
Trong tháng 11 năm 2012, Tập Cận Bình kế nhiệm Hồ Cẩm Đào trong vai trị Tổng
bí thư của Đảng Cộng sản. Năm 2013, Tập Cận Bình đã nêu ra học thuyết Giấc
mộng Trung Quốc tại kỳ họp Đại hội Đại biểu Nhân dân Tồn Quốc. Sau đó được
sử dụng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Tập Cận Bình mơ
tả rằng "Sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa là giấc mơ lớn nhất của Trung
Quốc", mục tiêu là trở thành siêu cường số một thế giới, giành lại địa vị mà 5.000
năm văn minh Trung Hoa từng có được trong quá khứ. Theo tạp chí lý luận của
đảng Cầu Thị, giấc mộng Trung Quốc là sự thịnh vượng của Trung Quốc với nỗ
lực tập thể, chủ nghĩa xã hội và vinh quang quốc gia.
Tuy vậy, tiến sĩ kinh tế Trương Duy Nghênh của trường đại học Bắc Kinh cho rằng
các thành tựu khoa học kỹ thuật của Trung Quốc hiện vẫn chưa tương xứng để
được coi là siêu cường: “Trong hơn 30 năm qua, kinh tế Trung Quốc giành được
những thành tựu đáng kể. Thế nhưng những thành tựu ấy được xây dựng trên cơ sở
khoa học kỹ thuật mà thế giới phương Tây tích lũy được trong 300 năm phát minh
sáng tạo của họ. Mỗi một kỹ thuật và sản phẩm quan trọng giúp cho kinh tế Trung
Quốc tăng trưởng nhanh đều do phương Tây phát minh chứ không phải do chúng
ta phát minh. Chúng ta chỉ là kẻ ăn theo chứ không phải là kẻ sáng tạo đổi mới.
Chúng ta chỉ dựng một căn gác nhỏ trên tòa dinh thự lớn do người khác xây dựng.
Chúng ta không có lý do để tự cao tự đại!. Trong 50 - 100 năm nữa, để có thể thay
đổi điều này thì cần phải phát huy hết tinh thần kinh doanh và sức sáng tạo để biến
Trung Quốc thành một quốc gia đổi mới.”
2. Phân tích tác động của các chiến lược đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc.
2.1 Lý do sự xuất hiện của các chiến lược
Ngay khi tiến hành cải cách ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã khẳng định chủ
nghĩa Mác gắn liền với tầm quan trọng cao độ của việc phát triển các lực lượng sản
xuất. Để thực hiện được nguyên tắc làm theo năng lực,hưởng theo nhu cầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn đầu (CNXH) là phát triển
các lực lượng sản xuất. Tính ưu việt của chế độ XHCN được chứng tỏ chỉ khi lực
lượng sản xuất phát triển nhanh hơn và mạnh mẽ hơn so với chế độ tư bản chủ
nghĩa. Khi đó, đời sống văn hóa và vật chất của nhân dân sẽ được cải thiện. CNXH
có nghĩa là xóa bỏ nghèo khó. Sự bần cùng không phải là CNXH, càng không phải
là chủ nghĩa cộng sản. Từ đó, Đặng Tiểu Bình đã nêu chủ trương “lấy xây dựng
kinh tế làm trung tâm”, “bốn nguyên tắc cơ bản”, “cải cách mở cửa”... mở ra con lOMoAR cPSD| 59092960
đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc. Bước vào cải cách năm 1978, Đảng
Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “Phải kiên trì giải phóng và phát triển lực lượng
sản xuất xã hội. Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất xã hội là nhiệm vụ căn
bản của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Cần kiên trì lấy xây dựng kinh tế
làm trung tâm...”. Đến những năm đầu thế kỷ XXI, Giang Trạch Dân đưa ra lý
thuyết “ba đại diện”, theo đó, lần đầu tiên đặt vấn đề thay quan điểm “Đảng Cộng
sản Trung Quốc đại diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến” trước đây bằng quan điểm
“đại diện cho yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến”. Từ đó, Đảng Cộng
sản Trung Quốc chủ trương mở rộng cơ sở xã hội của Đảng bằng cách kết nạp
những cá nhân tiên tiến trong các “giai tầng xã hội mới” (trong đó có tầng lớp chủ
doanh nghiệp tư nhân)vào Đảng.
Với quan điểm đó, Trung Quốc luôn ưu tiên phát triển kinh tế, thực hiện chiến lược
phát triển các vùng duyên hải, trọng điểm chiến lược dịch chuyển về phía Đông.
Đặng Tiểu Bình đã nêu ra chủ trương “cho phép cho một bộ phận người giàu lên
trước, cho phép một số vùng phát triển lên trước, giàu có lên trước, giàu có trước
lơi kéo giàu có sau, thực hiện sự giàu có chung”. Đặng Tiểu Bình đưa ra chủ
trương chuyển dịch trọng điểm chiến lược từ miền Tây sang miền duyên hải phía
Đông, bắt đầu thực hiện chính sách đặc biệt tại Quảng Đơng, Phúc Kiến, xây dựng
5 đặc khu kinh tế, sau đó là mở cửa 14 thành phố ven biển, tiếp đó thực hiện khai
phát Phố Đơng Thượng Hải, hình thành lên cục diện mở cửa đối ngoại nhiều tầng
nấc, hình thành lên điểm-tuyến-diện, hình thành hai vành đai, hai cực tăng trưởng
của Trung Quốc, đó là Quảng Đông và Thượng Hải. Năm 2003, ĐCS Trung Quốc
đưa ra “Quyết định về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN”, trong đó nhấn
mạnh “5 tính tốn chung”: Quy hoạch tính tốn chung giữa phát triển kinh tế và xã
hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền, giữa con người với thiên
nhiên, giữa cải cách và mở đối ngoại. “5 tính tốn chung” nhấn mạnh sự phát triển
nhịp nhàng, cân đối. Cương yếu Quy hoạch 5 năm lần thứ 11 đã chỉ rõ chiến lược
phát triển vùng của Trung Quốc: Kiên trì thúc đẩy đại khai phá miền Tây, chấn
hưng các cơ sở công nghiệp vùng Đông Bắc, thúc đẩy miền Trung trỗi dậy, khuyến
khích miền Đông đi trước phát triển, đẩy mạnh sự tương tác tốt giữa miền
Đôngmiền Trung-miền Tây”. Đây chính là bố cục tổng thể của chiến lược phát
triển vùng miền của Trung Quốc.
2.2 Chiến lược “ miền Đông đi trước” vào những năm đầu cải cách đất nước (1978).
2.2.1 Đặc điểm miền Đông
Hơn 20 năm trước, khi bắt đầu thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc chủ trương
để các tỉnh miền đơng có điều kiện thuận lợi phát triển trước. Sau đó, dùng nhân lOMoAR cPSD| 59092960
tài, vật lực của miền đông chi viện cho sự nghiệp khai thác miền tây và các tỉnh
còn khó khăn. Kế hoạch này đang biến thành hiện thực và hàng trăm nghìn trí thức
trẻ Trung Quốc đã, đang và sẽ có mặt ở khắp các vùng sâu, vùng xa để phục vụ sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh. Trung Quốc được chia thành 2 phần miền Đông và
Miền Tây: Miền Đông đất hẹp, nhưng dân cư rất đông đúc. Địa hình chủ yếu là
đồng bằng và đồi núi thấp, đồng bằng kéo dài suốt từ vùng Đông Bắc cho tới
Quảng Đông. Có các đồng bằng lớn như: Đông Bắc, Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa
Nam.Sông ngòi chằng chịt. Đất đai màu mỡ. Lại có bờ biển thuận lợi cho giao
thơng vận tải. Đặc biết biển đã đem lại gió mùa và độ ẩm thích hợp cho nơng
nghiệp và đời sống dân cư.
Ở Miền Đông tập trung nhiều khống sản có trữ lương lớn. Ở Miền Đông nằm ở hạ
lưu sông Hồng Hà là nơi có lượng phù sa lớn nhất thế giới thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế-xã hội. Vậy nên Trung Quốc đã dùng chiến lược “ miền Đông đi
trước” vào những năm đầu cải cách đất nước (1978).
Ở Miền Tây: chiếm 4/5 diện tích nhưng chủ yếu là những vùng núi non trùng điệp,
hiểm trở. Xen kẽ với những dãy núi trùng điệp đó là những cao, khô cằn,giá lạnh,
không thuận lợi cả cho nông nghiệp,công nghiệp và giao thông vận tải. Vậy nên
Trung Quốc khai thác và phát triển miền Đông trước.
2.2.2 Kế hoạch thực hiện
Trong thời kỳ đầu của cải cách mở cửa, Trung Quốc thực hiện những thử nghiệm
kinh tế ở quy mô nhỏ, khi thành công được áp dụng rộng ra toàn quốc. Bắt đầu là
việc để các thành phố và đặc khu kinh tế ven biển miền đông, nơi có ưu thế địa lý,
tiến hành cải cách mở cửa, tạo ra các nhân tố và điều kiện đầu tư tốt, như xây dựng
cơ sở hạ tầng, hậu cần và quy chế quản lý... Miền đông trở thành đầu tàu lôi kéo
kinh tế của cả nước; Trung Quốc cơ bản hình thành cục diện phát triển kinh tế theo
khu vực, mở rộng quy mô ngành nghề với trình độ hiện đại hóa cao. Các vùng kinh
tế lớn là các vùng dọc theo miền duyên hải phía Đông của Trung Quốc: Đông Bắc,
Hoa Bắc, Hoa Trung , Hoa Nam. Dân cư tập trung đông đúc.
Vùng Đông Bắc: Là vùng công nghiệp hình thành sớm nhất Trung Quốc và hiện
nay vẫn là trái tim của ngành công nghiệp nặng. Đây là vùng giàu tài nguyên
khoáng sản nên được khai thác tương đối sớm. Vùng này ở vị trí thuận lợi cho sự
giao lưu kinh tế với các nước láng giềng như: Nga,Triều Tiên,Nhật Bản. Ngành
cơng nghiệp nổi bật: khai khoáng (than,dầu mỏ,quặng sắt..),luyện kim, cơ khí, hóa
học, dệt. Về nông nghiệp, điều kiện tự nhiên trong vùng thích hợp trồng: lúa
mì,cao lương,ngơ,củ cải đường,khoai tây. Vì có mùa đông rất lạnh nên sản xuất
nông nghiệp chỉ làm một vụ. Là vùng cịn nhiều rừng, có nhiều động vật hoang dã quý hiếm. lOMoAR cPSD| 59092960
Vùng Hoa Bắc: Nằm ở hạ lưu sơng Hồng Hà, có tiềm năng đáng kể về công nghiệp
lẫn nông nghiệp. Các ngành công nghiệp chính: than,dầu mỏ,điện lực,cơ khí,hóa
học... Là một trong những vùng sản xuất lương thực quan trọng nhất của Trung
Quốc. Là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng thế giới. Những địa điểm nổi
tiếng từ lâu đời: Bắc Kinh, Tây An, Vạn Lý Trường Thành... hàng năm thu hút
hàng chục triệu khách du lịch trong và ngoài nước. Vùng Hoa Trung: Là một vùng
trù phú, dân cư đông đúc, có điều kiện thuận lợi đối với sự phát triển công nghiệp
và nông nghiệp. Thành phố lớn nhất Trung Quốc là Thượng Hải nằm trong vùng
này. Đó không chỉ là một trung tâm công nghiệp quan trọng bậc nhất mà còn là
trung tâm tài chính của đất nước. Đất đai và khí hậu của vùng thích hợp cho trồng
lúa mì, lúa nước, bông, chè, lạc. Hoa Trung cũng có những trung tâm du lịch nổi
tiếng như: Hàng Châu,Tô Châu,Thái Hồ. Đó cũng là cái nơi của ngành dệt cổ
truyền của Trung Quốc mà từ hàng ngàn năm trước đã từng là điểm xuất phát của “
con đường tơ lụa” xuyên Châu Á sang tận Châu Âu và Châu Phi.
Vùng Hoa Nam, nhất là các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, trong những năm gần
đây nổi lên như khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất nước. Công nghiệp hiện
đại và dịch vụ phát triển mạnh ở các thành phố ven biển ( Quảng Châu, Thẩm
Quyến...).Vùng Hoa Nam có tương đối nhiều mỏ quặng nên có điều kiện thuận lợi
để phát triển công nghiệp luyện kim,...Sản phẩm nông nghiệp phong phú: lúa gạo,
chè, mía, lạc...Đảo Hải Nam là nơi sản xuất dừa và cao su. Có các cảng lớn
như:Quảng Châu, Hồng Phố,Trạm Giang. Là vùng có ngành đánh cá rất phát triển.
2.2.3 Tác động tới nền kinh tế Trung Quốc
Nhờ chính sách “Miền Đông đi trước” mà nền kinh tế khu vực này phát triển vượt
trội so với khu vực khác trong nền kinh tế. Đặc biệt, vào thập niên 80 của thế kỷ
20, chính phủ Trung Quốc thiết lập 4 đặc khu kinh tế ở hai tỉnh duyên hải là Quảng
Đông và Phúc Kiến khiến cho khu vực này càng trở thành vùng trũng phát triển.
Trong khoảng thời gian từ năm 1999-2005, khu vực duyên hải không chỉ thu hút
lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà đầu tư của chính phủ Trung Quốc cho
khu vực này cũng cao nhất trong cả nước (khu vực duyên hải: 53%; miền trung: 25%; miền tây: 21%).
Hiện nay khu vực duyên hải đông nam Trung Quốc vẫn là trung tâm kinh tế chính
của Trung Quốc, mặc dù dân số chỉ chiếm 1/3 dân số cả nước nhưng đóng góp trên
50% GDP và 84% xuất khẩu của cả nước. 15 năm qua Đảng Cộng Sản và chính
phủ Trung Quốc đã thực thi nhiều biện pháp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các địa phương miền dun hải phía đông Trung Quốc với khu vực kém phát triển
sâu trong lục địa phía tây, giữa khu vực thành thị và nông thôn, nhưng hiệu quả
chưa thực sự nổi bật. lOMoAR cPSD| 59092960
Tuy nhiên, Trung Quốc còn đối mặt nhiều thách thức, như khoảng cách giàu nghèo
ngày càng lớn, tốc độ mở rộng sản xuất và đô thị hóa tăng nhanh kéo theo những
vấn đề về môi trường và xã hội khác. Hàng loạt yếu tố trong nước và quốc tế tạo ra
thách thức mới đối với tiến trình phát triển của nước này. Cuộc khủng hoảng kinh
tế tài chính tồn cầu làm xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc
chậm lại. Nhập khẩu cũng giảm 17,9% tháng 11 vừa qua.
2.3 Chiến lược “Khai thác miền Tây”
2.3.1 Đặc điểm miền Tây của Trung Quốc
Miền Tây chiếm 4/5 diện tích, chạy dài suốt từ Tân Cương xuống tới Tây Tạng và
Vân Nam. Đó là những vùng núi non trùng điệp, hiểm trở. Có những độ cao từ
1000 tới 4000m, trong đó có những đỉnh núi cáo nhất thế giới như Chumulungma
(8.847m), mà theo tiếng địa phương có nghĩa là “ Bà chúa thượng ngàn”. Xen kẽ
với những dãy núi trùng điệp đó là những cao nguyên khô cằn, giá lạnh, không
thuận lợi cả cho nông nghiệp, công nghiệp và giao thông vận tải. Chính vì vậy,
vùng chiếm phần lớn nhất về diện tích này lại là vùng chỉ chiếm 1/10 dân cư của cả
nước. Xét về phương diện kinh tế thì miền Tây rộng lớn của Trung Quốc khác hẳn
với miền Tây của nước Mỹ, nó chưa đóng góp được bao nhiêu cho sự phát triển
kinh tế của Trung Quốc. Ngược lại, xét trên nhiều phương diện thì đó cũng là một
gánh nặng của nền kinh tế Trung Quốc: giải quyết vấn đề đời sống cho các vùng
dân tộc đang gặp rất nhiều khó khăn, giải quyết vấn đề giao thông vận tải rất tốn
kém, giải quyết những vấn đề biên phòng v.v...
2.3.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “Khai thác miền
Tây” vào cuối thế kỷ XX
Nhờ chiến lược “miền Đông đi trước” đạt được những thành công nhất định giúp
quá trình cải cách và phát triển những thập niên cuối của thế kỷ 20 diễn ra thuận
lợi, kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên bên cạnh đó làm nảy
sinh một vấn đề về sự chênh lệch về phát triển giữa miền Đông (Hoa Trung và Hoa
Đông) và miền Tây, miền Nam và miền Bắc ngày càng lớn. Nguy cơ dẫn đến sự cơ
lập về chính trị. Bên cạnh đó khi quan hệ Xô-Trung xấu đi vào những năm 1950,
nhà lãnh đạo Mao Trạch Đông cũng đã có những ý tưởng về dịch chuyển nhiều dự
án công nghiệp quốc gia lên khu vực miền núi, để bảo đảm an trường hợp nổ ra một cuộc chiến tranh.
Nhận thấy lợi ích cho Trung Quốc khi có một miền Tây phát triển trong tương lai,
thu hẹp chênh lệch về phát triển giữa hai miền Đông và Tây, giữa các sắc tộc thiểu
số với người Hán. Năm 1999, nhà lãnh đạo quốc gia tối cao của Trung Quốc lúc đó
là Giang Trạch Dân (bính âm: Jiāng Zémín) đã đề xuất việc cần thiết phải triển lOMoAR cPSD| 59092960
khai một chiến lược phát triển miền Tây. Cuối năm 1999, Hội nghị công tác kinh tế
Trung ương tuyên bố mục đích của chiến lược phát triển miền Tây gồm có: tăng
tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của cả nước, đoàn kết dân tộc, ổn định xã
hội, củng cố phòng thủ biên giới.
2.3.3 Kế hoạch thực hiện a, Trong quá khứ
Kế hoạch “Khai thác miền Tây”, bao trùm hơn 10 tỉnh, chiếm 3/4 diện tích và 1/4
dân số Trung Quốc. Trung Quốc đã cố gắng xây dựng những con đường xuyên
sang phía Tây, nhằm phát triển kinh tế văn hóa ở miền Tây, khắc phục bớt chênh
lệch quá đáng giữa Đông và Tây. Nhưng việc đó vẫn đang gặp khó khăn. Biển và
các sân bay đã cạnh tranh một cách thắng lợi với những con đường xuyên núi và sa
mạc. Những khoảng cách quá xa và đại hình hiểm trở khiến cho việc làm những
con đường xe lửa sang miền Tây là quá tốn kém và ít có khả năng thu hồi vốn đầu
tư. Tuy khó khăn nhưng Trung Quốc đã xây dựng đường sắt lên Tây Tạng. Tháng 1
năm 2000, Chính phủ Trung Quốc đã quyết định thành lập một tổ chỉ đạo phát
triển miền Tây do đích thân thủ tướng Chu Dung Cơ (Zhū Róngjì) làm tổ trưởng,
phó thủ tướng Ôn Gia Bảo làm tổ phố, và các thành viên khác đều là những quan
chức cấp cao hàng bộ trưởng. Tháng 3 năm 2001, kế hoạch 5 năm phát triển kinh
tế xã hội lần thứ 11 của Trung Quốc đã phê phán sự chênh lệch về thu nhập giữa
các miền của Trung Quốc và tuyên bố chính phủ Trung Quốc sẽ lấy thời kỳ 5 năm
từ 2001 đến 2005 làm thời gian thật trọng tâm để đầu tư xây dựng công trình hạ
tầng xã hội cho miền Tây nhằm giúp khu vực này trong vòng từ 5 đến 10 năm sẽ phát triển nhanh chóng.
Năm 2003, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh đại khai phát miền Tây. Năm 2003,
Trung Quốc nêu chủ trương chấn hưng các cơ sở công nghiệp vùng Đông Bắc.
Năm 2003, Quảng Đông đưa ra chủ trương Hợp tác vùng Chu Giang mở rộng
(9+2). Hợp tác vùng Chu Giang kết nối giữa các tỉnh thuộc miền duyên hải phía
Đông với các tỉnh miền Trung (Hồ Nam, Giang Tây) và các tỉnh phía Tây (Tứ
Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây). Năm 2004, Trung Quốc nêu ra chủ
trương “miền Trung trỗi dậy”. Tháng 1-2008, Trung Quốc công bố “Quy hoạch
phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây”, đưa hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở
rộng lên tầm chiến lược quốc gia, phấn đấu xây dựng cực tăng trưởng mới giữa
Trung Quốc và ASEAN. Tháng 10-2008, Trung Quốc công bố “Cương yếu quy
hoạch cải cách và phát triển vùng Chu Giang”, khuyến khích Quảng Đơng tiếp tục
đi đầu cải cách mở cửa. Tháng 2-2009, Trung Quốc công bố “ý kiến về cải cách và
phát triển phối hợp thành thị nông thôn của Trùng Khánh”, đưa mô hình phát triển
phối hợp thành thị nông thôn. Trùng Khánh trở thành chiến lược quốc gia, phấn lOMoAR cPSD| 59092960
đấu xây dựng cực tăng trưởng mới ở miền Tây Trung Quốc. Ngày 14-5-2009,
Quốc vụ viện Trung Quốc công bố “Mấy ý kiến về khuyến khích tỉnh Phúc Kiến
đẩy nhanh xây dựng Khu kinh tế bờ Tây hai bờ eo biển”(5). Ngày 10-6-2009,
Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Quy hoạch phát triển vùng ven biển Giang
Tô”. Ngày 25-6-2009, Quốc vụ viện Trung Quốc công bố “Quy hoạch phát triển
Khu kinh tế Quan Trung-Thiên Thủy” giữa hai tỉnh miền Tây là Thiểm Tây và
Cam Túc. Ngày 1-7-2009, Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Quy hoạch phát
triển vành đai kinh tế ven biển Liêu Ninh”. Ngày 14-8-2009, Quốc vụ viện Trung
Quốc phê chuẩn “Quy hoạch phát triển tổng thể khu Hoàng Cầm” (khu kết nối
giữa Chu Hải –Ma Cao và Hồng Kông). Ngày 30-8-2009, Quốc vụ viện Trung
Quốc thông qua “Cương yếu Quy hoạch phát triển hợp tác khu vực Đồ Môn
Giang” (tỉnh Cát Lâm). Ngày 23-9-2009, Quốc vụ viện thông qua “Quy hoạch thúc
đẩy miền Trung trỗi dậy”. Ngày 2-12-2009, Quốc vụ viện thông qua “Quy hoạch
phát triển khu kinh tế sinh thái cao lưu vực Hoàng Hà”. b, Hiện nay
Tại thời điểm hiện nay Trung Quốc vẫn đang tìm kiếm động lực tăng trưởng mới từ
khu vực miền Tây giàu năng lượng, trong bối cảnh xuất khẩu – vốn chủ yếu dựa
vào các tỉnh duyên hải miền Đông, chịu tác động tiêu cực từ đại dịch, đối diện với
sức ép ngày một lớn trong bối cảnh Mỹ đe dọa phân tách kinh tế. Chiến lược
“Hướng Tây” được Bắc Kinh công bố ngày 17/5 xuất hiện tại thời điểm chính
quyền hoạch định chiến lược một thế giới hậu COVID-19 ít hữu nghị hơn, dễ đốn
định hơn đối với Trung Quốc. Trong khi lãnh đạo chính phủ Trung Quốc cam kết
sẽ tiếp tục mở cửa, chiến lược mới hướng đến mục tiêu đưa nền kinh tế lớn thứ hai
thế giới hướng nội và tập trung vào thị trường nội địa rộng lớn.
“Tăng cường nỗ lực để thúc đẩy khu vực miền Tây là một quyết định quan trọng,
để xử lý yêu cầu cân bằng phát triển vùng miền, điều phối các lợi ích tổng thể, cả
đối nội và đối ngoại”, tài liệu mới được Chính phủ và Ủy ban Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc đồng công bố.
Trong kế hoạch này, Trung Quốc nêu ra nhiều dự án hạ tầng giao thông mới cho
miền Tây, trong đó có tuyến đường sắt Tứ Xuyên-Tây Tạng, đường sắt cao tốc
chạy dọc theo song Dương Tử, cùng với đó là một loạt sân bay, đập chứa nước,
thủy lợi. Chính phủ cũng sẽ phát triển các dự án năng lượng mới, như các cơ sở trữ
dầu mỏ, khí đốt, khuyến khích các dự án công nghiệp dịch chuyển sản xuất về phía
Tây thay vì tái bố trí ở ngồi nước.
Chiến lược mới thừa nhận tầm quan trọng của khu vực miền Tây trong việc thực
hiện các mục tiêu của chính phủ Trung Quốc về xóa nghèo vào cuối năm nay. Nó
cũng tạo ra cho Trung Quốc dư địa để điều chỉnh chiến lược. lOMoAR cPSD| 59092960
Trung Quốc đang phải đối mặt với thách thức lớn trong duy trì vai trị đối với chuỗi
giá trị toàn cầu. Xuất khẩu của Trung Quốc trong 4 tháng đầu năm giảm 9%, trong
khi vị thế của Bắc Kinh trong chuỗi cung ứng Trung Quốc đang bị đe dọa khi
chính quyền Tổng thống Trump tìm cách đổ tội cho Trung Quốc vì để bùng phát đại dịch.
Kế hoạch mới cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy sáng kiến Vành đai và
Con đường (BRI), một chiến lược do ông Tập Cận Bình khởi xướng để mở rộng
ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế thông qua một mạng lưới các dự án
hạ tầng và kế nối thương mại giữa các quốc gia châu Á, châu Âu và châu Phi. Các
tỉnh cực Tây nằm ở rìa Đông của Con đường Tơ lụa hiện đại. Kế hoạch “Hướng
Tây” kêu gọi mở rộng kết nối giao thông giữa châu Âu với Đông Nam Á.
“Môi trường quốc tế đang trải qua những thay đổi rõ nét ngay cả trước khi dịch
bệnh bùng phát, ví như cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung mà chúng ta được chứng
kiến. Trung Quốc sẽ dựa nhiều hơn vào nhu cầu trong nước để duy trì tăng trưởng
trong tương lai. Suy đến cùng, Trung Quốc là thị trường lớn nhất thế giới”, ông
Tang Jianwei, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại Ngân hàng Viễn Thông Trung Quốc đánh giá.
2.3.4 Tác động tới nền kinh tế trung quốc
Sáu năm liên tục gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của miền
Tây Trung Quốc là 10,6%. Tổng GDP của miền Tây năm 2005 đã lên tới 3,33
nghìn tỷ yuan, trong khi năm 2000 thì mới chỉ đạt 1,66 nghìn tỷ yuan. Thu nhập
ròng ở khu vực thành thị tăng với tốc độ bình quân 10% mỗi năm và ở khu vực nông thôn là 6,8%.
Tính đến năm 2006, đã có hàng loạt dự án tổng trị giá tới 1 nghìn tỷ yuan để phát
triển cơng trình hạ tầng xã hội. Trong 500 công ty lớn nhất của thế giới đã có 100
công ty đầu tư vào miền Tây.
Các tỉnh miền Tây đã chứng tỏ được khả năng trụ vững về kinh tế tốt hơn trong đại
dịch COVID-19 vừa qua. GDP của Trung Quốc trong quý 1 năm nay giảm 6,8%,
với mức giảm sâu đến từ các trung tâm sản xuất miền Đông như Quảng Đông hay
Chiết Giang. Các tỉnh miền Tây, nổi bật là Tân Cương, duy trì được sức đề kháng
áp đảo so với miền Đông, với GDP giảm nhẹ.
Tuy nhiên theo số liệu đến cuối năm 2018, tức sau gần 20 năm thực hiện “Khai
thác miền Tây” đã giúp nâng cao mức đóng góp về sản lượng kinh tế của khu vực
này từ 1,8% lên 20,5% tổng GDP quốc gia. Cùng với đó, chênh lệch phát triển
vùng miền xét trên tổng GDP, doanh thu, thương mại giữa miền Đông với miền Tây vẫn cách xa. lOMoAR cPSD| 59092960
2.4 Chiến lược “miền Trung trỗi dậy”
2.4.1 Đặc điểm miền Trung của Trung Quốc
Miền Trung Trung Quốc gồm 6 tỉnh: Sơn Tây, An Huy, Giang Tây, Hà Nam, Hồ
Bắc và Hồ Nam. Đây là trung tâm sản xuất lương thực, trung tâm nguyên vật liệu
và năng lượng, trung tâm ngành chế tạo thiết bị và đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc.
2.4.2 Lý do và mục đích Trung Quốc thực hiện chiến lược “miền Trung trỗi
dậy” bắt đầu vào năm 2004.
Với tổng diện tích chỉ bằng 1/10 diện tích Trung Quốc nhưng chiếm 31,2% số
nơng dân trong cả nước. Cuối thế kỷ 20 sang tới đầu thế kỷ 21, vai trị của miền
Trung trong cơng cuộc cải cách kinh tế ngày càng giảm. Chênh lệch Tổng giá sản
phẩm quốc nội (GDP) của miền Trung chỉ bằng 1/6 miền Đông. Thu nhập bình
quân đầu người của miền Trung cũng thấp hơn so với cả nước. Trong khi xu thế và
tốc độ phát triển không chỉ thấp hơn nhiều so với khu vực ven biển miền Đông, mà
cũng thấp hơn cả khu vực miền Tây. Từ khi Trung Quốc thực hiện chiến lược “Đại
khai phá miền Tây”, đầu tư của Nhà nước vào miền Trung vốn đã ít nay càng ít
hơn. Thêm vào đó, tiến trình công nghiệp hóa, đơ thị hóa của khu vực miền Trung
cũng thấp hơn mức bình quân của cả nước. Theo các chuyên gia kinh tế, có nhiều
nguyên nhân khiến miền Trung tụt hậu. Cụ thể, khu vực miền Trung đang dần mất
đi ưu thế phát triển sẵn có do tác động của công cuộc cải cách mở cửa; chiến lược
phát triển đất nước của Trung Quốc thay đổi trong thời gian dài. Trung Quốc tập
trung phát triển khu vực ven biển miền Đơng bằng nhiều chính sách ưu đãi. Khu
vực miền Trung không chỉ bất lợi về phân công kinh tế khu vực mà cũng rơi vào
thế bị động, mất đi ưu thế về nhân tài, vốn và tài nguyên. Chỉ dựa vào nội lực thì
không đủ sức tạo nên ưu thế phát triển kinh tế của khu vực miền Trung. Thêm vào
đó, tiến trình đơ thị hóa chậm chạp ở khu vực miền Trung đã gây khó khăn trong
giải quyết việc làm cho nông dân, nhất là những người sống ở những khu vực nửa
thành thị, nửa nông thôn.
Chiến lược “miền Trung trỗi dậy” lần đầu tiên được các nhà lãnh đạo Trung Quốc
chính thức đề cập tại Hội nghị T.W về công tác kinh tế của Trung Quốc tháng
122004. Mục đích là nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền,
thực hiện phát triển cân bằng, bền vững trên phạm vi toàn Trung Quốc.Đây được
coi là một trong những nhiệm vụ kinh tế quan trọng của Trung Quốc trong tương
lai. Trong một cuộc thị sát ở Vũ Hán, (Hồ Bắc) Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo
nhấn mạnh: miền Trung phải phát huy ưu thế về địa lý, tài nguyên và khoa học kỹ
thuật, xây dựng miền Trung thành khu vực sản xuất lương thực, cung cấp năng
lượng và phát triển khoa học kỹ thuật của Trung Quốc. Tuy nhiên, không giống với lOMoAR cPSD| 59092960
miền Đông, Đông-Bắc và miền Tây, miền Trung không phải là khu vực nhất thể
hóa kinh tế mà là một khu vực lớn với những yếu tố về địa hình phức tạp. Chính vì
vậy, trong hai năm đầu kể từ khi thủ tướng đề cập tới, mọi biện pháp nhằm phát
triển 6 tỉnh miền Trung trong chiến lược “miền Trung trỗi dậy” vẫn dừng lại ở
những cuộc điều tra, nghiên cứu của chính phủ Trung Quốc.
2.4.3 Kế hoạch thực hiện
Các chuyên gia kinh tế Trung Quốc cho rằng, để thực hiện tốt chiến lược “miền
Trung trỗi dậy”, cần phải có sự giúp đỡ mạnh mẽ từ bên ngồi. Trong đó, chính phủ
Trung Quốc cần có nhiều ưu đãi hơn nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đầu tư vào khu vực này. Bên cạnh đó, chính phủ cần có biện pháp chuyển
dịch ngành nghề từ miền Đông sang miền Trung; chuyển các dự án xây dựng trọng
điểm quốc gia từ khu vực ven biển hoặc những nơi kinh tế phát triển khác sang
miền Trung nhằm tạo động lực phát triển kinh tế. Song, trước mắt khu vực này
phải dựa vào thế mạnh tài nguyên thiên nhiên, thế mạnh trong việc đi tắt đón đầu
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại. Một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh
tế miền Trung là dựa vào cải cách mở cửa nhằm tạo động lực mới thúc đẩy kinh tế
miền Trung phát triển, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa vùng
này với các vùng khác ở đất nước 1,3 tỷ dân này.
3. Phân tích tác động của các chính sách đến sự phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc
3.1 Lý do và mục đích Trung Quốc xây dựng các đặc khu kinh tế
Vào thời điểm cuối những năm 1970 của thế kỷ XX, trước hiện trạng một nền kinh
tế quốc dân lâm vào suy thoái, trào lưu kinh tế mới đang xuất hiện trên thế giới,
Chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng nhìn nhận lại con đường phát triển của
mình. Hiểu rõ xu thế vận động quốc tế, một chiến lược mở cửa với nhiều biện pháp
khác nhau đã được các nhà lãnh đạo Trung Quốc đề ra. Trong đó, Chính phủ Trung
Quốc đã sử dụng một mô hình kinh tế hoàn toàn mới để kết hợp tiềm năng trong
nước và xu thế quốc tế, đó là mơ hình đặc khu kinh tế (ĐKKT).
Các ĐKKT xuất hiện ở Trung Quốc trong những năm đầu thập kỷ 80 và nhanh
chóng trở thành chiếc cầu nối những luồng tư bản khổng lồ từ các nước tư bản và
các nước công nghiệp mới, với một thị trường lao động và tiêu thụ hàng hoá 1,2 tỷ
người. Mặc dù ĐKKT ban đầu chỉ được Trung Quốc triển khai với tư cách là một
mô hình thử nghiệm nhưng mô hình này đã gặt hái được khá nhiều thành tựu.
Với mục tiêu xây dựng các ĐKKT thành những “Hồng Kông xã hội chủ nghĩa”,
Trung Quốc đặc biệt chú trọng tới việc lựa chọn địa điểm xây dựng đặc khu. Các lOMoAR cPSD| 59092960
khu vực được chọn đều ở gần các tuyến giao thông đường bộ, đường biển, đường
hàng không, tạo nên cửa ngõ hữu hiệu nối liền kinh tế nội địa với kinh tế thế giới.
3.1.2 Kế hoạch thực hiện
Năm 1978, bốn đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc đã được thành lập tại
Phúc Kiến và Thâm Quyến trong hai năm tiếp theo với mục tiêu tạo một khu vực
mở với thế giới và thử nghiệm các chính sách đặc biệt. Sau khi thử nghiệm thành
công, mô hình này đã được nhân rộng tới hơn 191 khu vực. Chính phủ Trung Quốc
đã mạnh dạn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chấp nhận chi phí và rủi ro. Điển hình từ
năm 1980 - 1983, Trung Quốc đã đầu tư khoảng 1,9 tỷ NDT (tương đương khoảng
980 triệu USD) vào việc xây dựng các công trình ở Thâm Quyến.
Để đẩy nhanh quá trình xây dựng ĐKKT trong giai đoạn đầu thành lập, chính
quyền các đặc khu đã nghĩ ra nhiều cách thức huy động vốn bên cạnh nguồn kinh
phí từ ngân sách nhà nước. Các ngân hàng được khuyến khích tối đa trong việc
huy động các nguồn vốn trong và ngoài đặc khu, để tạo nguồn cho đặc khu vay.
Các công ty xây dựng cũng ra sức huy động vốn qua các hình thức tín dụng tài trợ
dự án, hoặc yêu cầu người có nhu cầu sử dụng cơ sở hạ tầng ứng trước một phần vốn để xây dựng.
Đặc biệt, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào đặc khu, Trung Quốc đã đưa ra một
loạt các chính sách ưu đãi hấp dẫn các nhà đầu tư, tạo nên mơi trường kinh doanh
thông thoáng và thuận lợi.
Các chính sách ưu đãi của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở các ưu đãi về thuế, mà
còn ưu tiên về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về sử dụng đất, phân chia thu nhập tài
chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với việc xuất nhập cảnh của nhà đầu tư nước ngoài …
Cụ thể, các khoản đầu tư này sẽ khơng phải nộp thuế nếu chưa thu về lợi nhuận.
Các doanh nghiệp (DN) sẽ được miễn thuế trong 2 năm đầu tiên. Trong năm thứ 3
và thứ 4, DN sẽ chỉ phải trả 50% sắc thuế thông thường. Chỉ tới năm thứ 5, DN
mới phải trả thuế đầy đủ.
3.1.3 Tác động với nền kinh tế Trung Quốc
Năm 1992, Thâm Quyến thu hút 14% tổng vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc
(4,3 tỷ USD). Hiện tại, Thâm Quyến trở thành một trong những trung tâm xuất,
nhập khẩu chính với một nền tảng sản xuất tiên tiến. Theo Wikipedia, với vốn hóa
thị trường của các DN niêm yết khoảng 2.285 tỷ USD vào năm 2015, Thâm Quyến
là sàn giao dịch chứng khoán lớn thứ 8 trên thế giới và lớn thứ 4 tại Đông Á và châu Á... lOMoAR cPSD| 59092960
Đặc khu kinh tế đã thể hiện vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Trung Quốc,
đóng góp từ 50% tới 80-90% tăng trưởng GDP tại một số khu vực; nâng cao chất
lượng công nghệ tại nhiều địa phương.
Các yếu tố thành công của đặc khu bao gồm:
Sự cam kết và hỗ trợ của Chính phủ trong việc đẩy mạnh các cải cách kinh tế theo
hướng thị trường: Chính quyết tâm tạo ra sự khác biệt thơng qua những cải cách
liên tục đã dẫn tới sự tin tưởng vào một môi trường kinh tế vĩ mô cởi mở và ổn
định. Khối trung ương cố gắng phân quyền, giúp tạo ra một hệ thống pháp lý mở
và hiệu quả cho các đặc khu. Chính quyền cấp địa phương cố gắng xây dựng cơ
chế hành chính thơng thống, minh bạch (cơ chế một cửa) cho các nhà đầu tư và tạo
cơ sở vật chất tốt cho khu vực.
Dù đã có hơn 4.000 đặc khu kinh tế trên tồn thế giới nhưng những mơ hình thành
cơng như Thâm Quyến của Trung Quốc là rất ít, chưa nói đến cái giá phải trả cũng không nhỏ.
3.2 Chính sách Hương Trấn
Một trong những đặc điểm và cũng là một sáng tạo lớn của Trung Quốc là sự phát
triển “Công nghiệp Hương Trấn”. Đó là khu vực tư nhân ở nông thôn kinh doanh
công nghiệp bằng cách khai thác những tiềm năng của địa phương, một phần tham
gia vào thị trường trong nước và thị trường thế giới. 3.2.1 Khái quát
Đây là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc rất nhỏ. Có tới 99% xí nghiệp hương
trấn có không quá 50 lao động. Chính quyền Trung Quốc xếp các doanh nghiệp
này vào một khu vực riêng. Năm 1977, Trung Quốc ban hành Luật Xí nghiệp
hương trấn để điều chỉnh khu vực này.
Trong suốt hai mươi năm đầu tiên từ khi mở cửa, các xí nghiệp hương trấn là một
trong những khu vực năng động nhất trong nền kinh tế Trung Quốc và có tốc độ tăng trưởng rất nhanh
Mặc dù đóng tại khu vực nông thôn, song hầu hết các xí nghiệp hương hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp, ngoài ra còn trong lĩnh vực nông nghiệp, thương
nghiệp, vận tải, xây dựng.
Xí nghiệp hương trấn có thể do chính quyền các hương và trấn thành lập. Giang Tô
là nơi tiêu biểu cho kiểu xí nghiệp hương trấn này.
Xí nghiệp hương trấn cũng có thể do tập nông dân thành lập. Ôn Châu là nơi tiêu biểu cho kiểu này lOMoAR cPSD| 59092960
3.2.2 Qúa trình phát triển
Loại hình xí nghiệp này nở rộ ngay khi Trung Quốc tiến hành mở cửa. Vì khu vực
này đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương, nên
nó được các chính quyền địa phương hậu thuẫn. Mặt khác, các xí nghiệp hương
trấn hoạt động trong những thị trường ngách, nên ít chịu sự cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước độc quyền.
Tuy nhiên trong những năm 1984- 1985, loại hình này gặp phải đợt suy thoái thứ
nhất, do chính quyền Trung Quốc thắt chặt tín dụng.
Trong các năm 1996 và 1997, khu vực xí nghiệp hương trấn gặp phải đợt suy thoái
thứ hai do kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại và khu vực Đông Á bị khủng hoảng kinh tế.
Năm 1997, Trung Quốc có luật về xí nghiệp hương trấn, và khu vực này có sự
chuyển biến. Nhiều xí nghiệp hương trấn đã chuyển đổi thành các doanh nghiệp tư
nhân hoặc doanh nghiệp cổ phần.